gốc cây khổng lồ trong Sequoia National Park ở CANhững cây cảnh "đại khủng triệu đô" đã làm nên một triển lãm cây cảnh độc nhất vô nhị từ trước đến nay. Lần đầu tiên trong lịch sử làng chơi cây cảnh Việt Nam, những cây cảnh “chỉ có trong huyền thoại” đã quần tụ tại Triển lãm cây cảnh chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Những tuyệt phẩm chỉ để... ngắm!
Hàng ngàn cây cảnh nghệ thuật từ khắp các mọi miền đất nước đã có mặt trong Đại lễ ngàn năm. Ngày hôm nay, 06/10, mới là ngày BTC mở cửa đón khách tham quan, thế nhưng, hàng ngàn lượt người đã “tranh thủ” tìm mọi cách để… ghé mắt dòm từ ngày 5/10.
Những cây cảnh “siêu khủng” được giới chơi cây định giá nhiều triệu đô khiến người xem phải… choáng. Đương nhiên, với giá trị tài chính tầm đó, những “tuyệt tác” trên, chỉ để… ngắm, và các chủ sở hữu, có lẽ phải dùng… bao tải để đựng tiền, nếu như có ý định chuyển nhượng.
|   "Chung một cội nguồn"  |  
|   "Cửu long tranh châu".  |  
|   "Long cuốn thủy"  |  
|   Người xem ngợp giữa vườn cây độc nhất vô nhị.  |  |
|   "Cổ - kỳ - mĩ - văn".  |  
|   Siêu cây "Mâm xôi con gà"  |  
|   Những tác phẩm chỉ có từ ý tưởng sáng tạo.  |  |
|   Phối cảnh Khuê Văn Các dưới gốc cây đại thụ.  |  
|   Cổng trời?  |  
|   "Rồng thời Lý"  - tác phẩm gỗ lũa của Bà Rịa - Vũng Tàu.  |  
|   Lũa hình Rồng.  |  |
|   Tác phẩm đá "Chim Việt"  |  
|   Bộ lũa hình... nấm hay hình cây cổ thụ?!.  | 
Không như những cây đu đủ bình thường, cây đu đủ có một không hai này ra trái từ những... sợi dây treo lủng lẳng, rất đẹp mắt.
Cây đu đủ lạ mắt ra trái rất nhiều và trông rất ngộ nghĩnh.
Cả   tháng nay, cây đu đủ trồng trong vườn nhà anh Ngô Việt và chị Nguyễn   Thị Bồng (thôn 2, xã Bình Định Bắc, Thăng Bình, Quảng Nam) ra những quả   trông khá lạ mắt và ngộ nghĩnh. Không như những cây đu đủ bình thường  ra  quả trực tiếp từ nách lá, quả của cây đu đủ này được treo lủng lẳng  bởi  những sợ dây dài thòng có khi cả mét.
Cây   đu đủ kỳ lạ này đã kéo hàng trăm người dân địa phương tới nhà anh Việt   chiêm ngưỡng khiến nhà anh náo nhiệt suốt cả tháng nay. Nhiều người  còn  xin giống cây lạ này về trồng trong vườn nhà.
Anh   Ngô Việt cho biết: “Khi mới trồng, cây đu đủ này cũng giống như những   cây đu đủ bình thường khác. Tuy nhiên khi lớn, thân cây chia làm 2   nhánh; đặc biệt hơn là trái không gắn liền với thân mà vươn ra một dây   dài từ 0,5-1m, rất lạ mắt. Cây đu đủ này được tôi gieo hạt từ một quả đu   đủ mua ở chợ về ăn và đã trồng hơn 2 năm nay”.
Hiện   cây đu đủ ra trái đều đặn, mỗi mùa gần 100 trái và ra thường xuyên,   trái chín và ngọt hơn so với các cây đu đủ khác trong vườn nhà nhưng bé   hơn. 
Cây dừa độc nhất vô nhị Việt Nam 
(Dân  trí) - Cây dừa một thân mà có tới ba  nhánh, mỗi năm “sản xuất”  hàng trăm trái. Đặc biệt hơn là vị của  trái dừa ở mỗi nhánh lại  khác nhau... Đây được xem là cây dừa ba  nhánh được phát hiện lần đầu  tiên tại Việt Nam.
Cây dừa có ba nhánh, trái của mỗi nhánh có vị ngọt khác nhau
  Cây dừa độc nhất vô  nhị này do anh Thương Quang Minh, trú tại tổ 2,  ấp Phú Hoà, phường  Phú Đức, thị xã Bình Long, tỉnh Bình  Phước trồng cách đây 13  năm. Cây dừa có chiều cao khoảng 10m, đường  kính thân chừng 25cm; 3  nhánh to đều nhau, đường kính khoảng 20  cm.
Cây  dừa được trồng  từ một trái dừa giống ngẫu nhiên trong vườn  nhà anh Minh. Năm  2001, cây dừa cao chừng 3m thì đột nhiên chết  không rõ lý do. Sau đó  một năm, người nhà phát hiện 3 nhánh mầm nhú  ra trên đỉnh và phát  triển cho đến bây giờ.
Việc  cây dừa này chết  rồi sống lại với 3 nhánh chung một thân đã thu hút sự  hiếu kỳ của người  dân trong vùng. Hàng ngày có rất đông người đổ về  nhà anh Minh chiêm  ngưỡng cây dừa lạ.
 “Cách   nay 2 năm, một vị khách lạ đã trả giá 80 triệu đồng để mua cây dừa   nhưng tôi không bán. Tôi nghĩ đây là cây dừa thiêng, từ ngày nó đâm ra   ba nhánh mầm, gia đình tôi ăn nên làm ra nên không muốn bán” - anh Minh   cho hay.
Anh Minh bên cây dừa lạ của gia đình.
 Được  biết mỗi năm,  một nhánh dừa có thể cho trên trăm trái và vị  ngọt của trái  dừa ở ba nhánh có độ khác nhau: ngọt đậm, ngọt  vừa và hơi  ngọt.
 Jabuticaba:
Trầm Hương và Kỳ Nam
Kỳ  Nam và Trầm hương là sản phẩm đặc biệt nằm trong lõi của cây Gió. Ở   Campuchia, cây Gió có tên là Can Krasna (Can, cannada: Trầm, Krasna:   sẫm). Có lẽ từ âm ấy mà có tên khoa học bằng tiếng La tinh. 
+ Tên khoa học : Aquilaria Crasna Pierre
+ Họ: Thymeleaceae
+ Bộ: Thyméales
+ Lớp: Song-tử-diệp
+ Ngành: Hiển hoa (bí tử)
Cây  Gió là một loài đại mộc có thể cao 40-50 mét, vỏ  màu xám có nhiều sợi  có thể làm giấy được, gỗ mềm màu trắng. Lá không  lông có 15-18 cặp gân.  Trái là nang dài 4cm.
Không  phải bất kỳ thân cây Gió nào cũng có Trầm hương  và Kỳ nam. Chỉ một số  cây Gió có bệnh mới chứa Trầm ở phần lõi của thân.  ở phần này, nếu quan  sát kỹ qua độ phóng đại của kính lúp, ta thấy các  tế bào gỗ thoái hóa,  biến dạng, mất mộc tố, chứa một chất nhựa thơm  (tinh dầu), biến thành  những khối hình thể không đều, lồi lõm, có rãnh  dọc, trong trong, màu  sậm; đó là Kỳ nam (Bois d"aloès). Chung quanh Kỳ  nam gỗ cũng biến chất  ít nhiều, đó là Tóc (do chữ Camphuchia là Tok);  khi đốt cháy Tóc tỏa ra  mùi thơm, thường dùng để làm nhang nên gọi là  Trầm hương (Bois  d"aigle).
Trầm và Kỳ  nam đều ở lõi cây Gió do tích tụ nhiều hay  ít tinh dầu, cho nên nếu  không sành sỏi dễ bị nhầm lẫn khi mua. Muốn  phân biệt hai thứ ấy ta  phải xem kỹ tính chất và khí vị của chúng: Gỗ Kỳ  nam nặng và nhuyễn, có  đủ vị cay, chua, đắng, ngọt, thơm tho. Nó tích  chứa nhiều tinh dầu nên  khi cháy cho ngọn màu xanh, khói lên thẳng và  cao, bay lờ lững trong  không khí rất lâu.
Gỗ  Trầm hương nhẹ hơn, có vị cay, hơi đắng, mùi thơm  nhẹ nhàng. Khi đốt  cháy Trầm hương bốc khói lên hình vòng rồi tan biến  nhanh trong không  khí.
Muốn phân biệt  Kỳ nam tốt xấu thì người ta quan sát  loại nào có sớ nhuyễn mịn, có  nhiều tinh dầu là tốt, còn loại nào rắn  chắc và ít dầu là xấu. Người ta  thường gói Kỳ nam trong lá chuối thật  kín rồi đem phơi nắng, đến tối  đem vào nếu có nhiều chất dầu chảy ra là  tốt. Muốn giữ Kỳ nam được tốt  và lâu thì nên bọc vào giấy thiếc hoặc bỏ  vào hộp có nắp đậy kín để  tinh dầu khỏi bay hơi hoặc chảy bớt.
Một  số người thường lấy gỗ cây Sơn già (Exoecaria  agallocha, Linné, thuộc  họ Euphorbiaceae) để bán giả Trầm hương. Ở cây  Sơn già nặng và rất  cứng, có màu nâu đỏ, có chấm đen hoặc xám, vị đắng,  có mùi thơm dễ  chịu, nên một số người Ấn Độ hoặc Trung Quốc vẫn thường  đốt để xông  hương trong nhà cho thơm. Theo Petelot thì đó là một sự sai  lầm vì  trong gỗ Agallocha có chứa một chất nhựa có tính độc làm hại đến  sức  khỏe của con người.
Theo  kinh nghiệm của những người "đi điệu" (tìm trầm)  cho hay, khi nào gặp  những cây Gió cao 30-40 mét trở lên, lá đã vàng và  nhỏ dần dần, thân  cây có nhiều u bướu như những tổ kến hoặc gốc có gò  mối đóng thì cây  Gió đó có Kỳ nam. Khi gặp cây Gió như vậy họ phải hạ  cây, đào tận rễ để  tìm, vì Kỳ nam có thể nằm trên ngọn, ở thân hoặc ở  rễ. Khi gặp những  cây Gió còn non thì người ta thường dùng dao lụi vào  thân cây thành  những vết thương và theo dõi nhiều năm sau để lấy Trầm -  Kỳ.
Người  ta cho rằng khi bị thương, cây sẽ tích tụ nhựa  đến đây để băng bó xem  như là khả năng tự đề kháng để chống bệnh nên tạo  ra Trầm - Kỳ. Theo  nhận xét của những người "đi điệu" lão thành thì dạo  này đi rừng dễ gặp  Trầm kỳ hơn trước kia, có lẽ trong thời gian chiến  tranh những mảnh  bom đạn đã ghim vào thân cây Gió nên kích thích tạo ra  Trầm - Kỳ. Cũng  có thể vì vậy mà sau ngày giải phóng có nhiều người đi  rừng gặp Trầm và  Kỳ nam.
Năm 1977,  Julaluodin đã tìm thấy trong vùng Tóc của cây  Gió có chứa một loại nấm  Cryptosphaeria mangifera. Ông đã thử nghiệm  bằng cách cấy những nấm ấy  vào thân những cây Gió lành mạnh. Sau một  thời gian thì vùng nhiễm  khuẩn trở nên sậm màu và biến thành Tóc rõ rệt  vì khi đốt tỏa ra mùi  trầm.
Phải chăng khi  bị thương tích hoặc khi bị nhiễm bệnh ở  một vùng nào đó, cây tích tụ  nhựa đến để tự băng bó hoặc để tự đề kháng  nên đã tạo thành Trầm hương  và Kỳ nam.
Những cây  Gió mọc trong rừng rậm trùng trùng điệp điệp  xen lẫn với những loại cây  điệp loại khác nên rất khó tìm kiếm, mà một  khi kiếm được cây Gió cũng  chắc gì đã có Trầm và Kỳ nam, thành thử nhiều  người "đi điệu" phải  luồn rừng từ tháng này sang tháng khác để tìm  kiếm. Ngoài lương thực  tươi mang đi bỏ đầy "ruột tượng" để mang theo  người, ăn cầm chừng cho  đỡ đói trong lúc đi rừng dài ngày. Có nhiều khi  hết lương thực, lúc đi  lạc trong rừng, người "đi điệu" phải ngậm củ Ngải  (Galanga cyrcuma),  một loại riềng dại, có vị thơm dịu làm cho ruột đỡ  cồn cào trong lúc  tìm đường về.
Vì cuộc  hành trình dài ngày và đầy gian lao vất vả nên  người "ăn trầm" khi trở  về thường hốc hác, râu tóc xồm xoàm, áo quần  rách bươm chẳng khác gì  dã nhân nên nhiều người đã tưởng tượng ra cảnh  "ngậm ngải tìm trầm lâu  ngày biến thành người rừng". Việc ngậm ngải cũng  không phải để làm cho  dã thú tránh xa như một vài người lầm tưởng, vì  những người "đi điệu"  thường mang theo roi mây hoặc roi dâu, thỉnh  thoảng quất vào không khí  thành những tiếng xé kêu "trót, trót", chính  những âm thanh ấy làm cho  cọp beo tránh xa cũng như tiếng roi da của  người dạy thú trong gánh  xiếc làm cho voi cọp phải gườm.
Không  phải ai "đi điệu" cũng kiếm được Trầm, có người  kiếm được có người  không, nên giới "ăn trầm" thường tin dị đoan rằng  những kẻ lương thiện  mới được Thiên Y Ana (hóa thân của cây Trầm, Kỳ  nam) cho gặp. Vì vậy  trước khi đi rừng tìm kiếm, kẻ "đi điệu" phải xem  ngày lành tháng tốt  để xuất hành, trước đó phải ăn chay 3 ngày, tránh  chung đụng với đàn  bà, trong khi đi rừng không được có ý nghĩ ám muội,  không được nói  chuyện cà rỡn, không gây gổ nhau... Đến khi gặp được cây  trầm thì người  đó phải nhịn đói để giữ mình tinh khiết, tìm đến suối gần  đó để tắm  rửa cho sạch sẽ, rồi lập đàn thờ cúng vái tạ ơn thần Rừng  trước khi hạ  cây Gió để tìm lõi Trầm kỳ.
Trầm  hương và Kỳ nam của ta rất có giá trị trên thị  trường quốc tế, nhất là  đối với Trung Quốc. Đài Loan, Hồng Kông, Nhật  Bản. Đó là những hương  liệu quý giá trong việc điều chế các loại nước  hoa hảo hạng như Santal,  Nuit d"Orient..., một số xà phòng tắm và nhất  là nhang trầm.
Sở dĩ Trầm và Kỳ nam có giá trị cao là vì có công dụng chữa bệnh rất tốt trong Đông y:
- Trừ sơn lam chướng khí:  Người ta  thường xông trầm trong nhà để trừ khí độc và thường mang Kỳ  nam trong  người để ngừa sơn lam chướng khí. ở một vài vùng, nhất là  vùng Phú  Khánh, người ta thường bọc Kỳ nam trong túi vải thưa để đeo ở  cổ xem như  "bùa hộ mệnh". Trẻ em dưới 1 tuổi đeo 2 chỉ, 1 đến 5 tuổi  đeo 3 chỉ,  người lớn đeo 5 chỉ.
- Dùng làm thuốc giải nhiệt và trừ sốt rét:   ở Campuchia, theo các bác sĩ Menaut và Phana Douk, người ta thường  dùng  Kỳ nam, Trầm và ngà voi mài với nước lạnh để uống. Ngày 2-3 lần,  mỗi  lần uống từ 3 phân tới 1 chỉ.
- Thuốc trừ đau bụng:  Theo bác sĩ  Sallet ghi nhận thì thuốc Nam có toa thuốc trị đau bụng  rất hay gồm:  Trầm hương 2 chỉ, sắc cùng Đậu khấu, hạt cau, vỏ cây Mộc  lan, Sa nhơn,  Can khương... trong 2 chén rưỡi nước còn lại 9 phân chia  uống thành 2  lần trong ngày sẽ làm cho bụng hết quặn đau.
- Chữa bệnh đường tiểu tiện: Người ta thường mang Trầm kỳ ở vùng hội âm để chữa bệnh đường tiểu tiện.
- Theo Đông y, Kỳ nam dùng để trị các chứng độc thủy   do phong thổ gây nên, làm tiêu chứng chướng mãn, no hơi, đau bụng, ói   mửa, hen suyễn thở gấp, hạ được nghịch khí, thông chứng bế do khí hư  gây  nên. Mài từ 3 phân tới 1 chỉ, tùy theo tuổi lớn nhỏ hòa với nước  lạnh  hoặc bỏ vào nước đun sôi mà uống.
- Chống chỉ định:
+ Trầm kỳ là thuốc trụy thai, nên đàn bà có thai không nên uống hoặc mang trong mình, có thể làm sảy thai.
+ Những người suy nhược và biếng ăn, suy gan... không nên dùng Trầm - Kỳ.
-  Tương khắc trầm kỳ có tính kỵ hỏa, thành thử không  nên uống chung Trầm  - Kỳ với những loại thuốc có tính chất thuộc hành  hỏa tính theo âm  dương ngũ hành.
Phân bố địa lý của cây Trầm - Kỳ
Trầm  kỳ thường tìm thấy trong những cây Gió mọc ở những  vùng núi hướng về  phía có gió biển nên ta thường gặp ở vùng phía Đông  Trường Sơn hơn là  Tây Trường Sơn.
Ở Đông Dương, Trầm kỳ có nhiều ở Campuchia và Việt Nam.
Riêng ở Việt Nam, ít tìm thấy Trầm kỳ ở phía trên vĩ tuyến 17.
-  Ở Bình Trị Thiên thường tìm thấy ở vùng Cam Lộ của  Quảng Trị, vùng A  Sao, A Lưới, vùng Thanh Sơn. Ồ ồ và vùng đèo Hải vân  thuộc Thừa Thiên.
- Ở Bình Định có từ vùng núi Quy Nhơn đi vào.
- Ở Khánh Hoà. Phú Yên có rất nhiều tại Vạn Giã, Tân Định, An Thành, Bình Khang, Duyên Khánh...
- Ở Bình Thuận có ở vùng núi giáp ranh với Lâm Đồng.
- Ở Lâm Đồng ta có thể tìm thấy Trầm kỳ ở các núi giáp ranh với Bình Thuận.
- Ở các hải đảo thì gặp nhiều Trầm - Kỳ tại Phú Quốc.
Năm  1973, tôi đã hướng dẫn một số sinh viên theo học  chứng chỉ Thực vật 2  thuộc trường Đại học Đà Lạt, theo đường Tà In vào  Tà Nhiên, đến Sa Mai,  Thác Thiêng... tìm đến được một khu rừng có nhiều  cây Gió. Ở đó chúng  tôi đã được một cụ già "đi điệu" người Chàm hướng  dẫn đi xem rừng và đã  được cụ cho xem những mẫu Trầm hương và Kỳ nam đã  thu được ở vùng này  và vùng núi đi dọc giữa Di Linh và Phan Thiết. Chúng  tôi nhìn thấy Trầm  ở đây tốt chẳng khác gì Trầm hương ở Quảng Trị và Kỳ  nam ở đây chũng  gần bằng Kỳ nam vùng Khánh Hoà, Phú Yên.
Như  vậy Lâm Đồng ngoài những rừng thông bát ngát có trữ  lượng lớn để cung  cấp gỗ thông, bột giấy và tùng hương, còn có triển  vọng khai thác được  Trầm kỳ là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị rất cao  trên thị trường  quốc tế.
Muốn được  sản lượng lớn, ngay từ bây giờ phải có kế  hoạch ngăn cản không để cho  nhân dân hạ cây Gió một cách bừa bãi, đồng  thời trồng thêm nhiều cây  Gió và cho nhiễm khuẩn để tạo thành Trầm và Kỳ  nam do ta chủ động để  khỏi đi tìm kiếm vẩn vơ trong rừng rậm như những  người "đi điệu" trước  đây.
1. Trong nguồn tài nguyên rừng, trầm hương và kỳ nam (gọi tắt là trầm kỳ) là hai loại lâm đặc sản có giá trị kinh tế lớn nhất. Trầm hương và kỳ nam là phần gỗ chứa nhiều nhựa thơm sinh ra từ thân cây dó bầu   mọc hoang trong những cánh rừng già Trung bộ. Cây dó có 2 loại: dó bầu   (tên khoa học là Aquilaria agallocha) và dó gạch hay còn gọi là dó  niệt  (Aquilaria malaccensis). Dó gạch cũng cho trầm nhưng mùi thơm  nồng, hắc,  có vị tanh và giá trị thấp. Chỉ có dó bầu mới cho ta trầm  tốt và kỳ  nam. Cây dó bầu cao từ 10m - 40m, vỏ xám, thân thẳng ít  nhánh. Dó bầu là  loài cây ưa ẩm, chịu bóng râm, thường phân bố trên độ  cao từ 300 - 600  mét so với mặt biển. Không phải bất kỳ cây dó bầu nào  cũng tạo thành  trầm hương. Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào làm  sáng tỏ một cách  rốt ráo cơ chế hình thành trầm hương trong cây dó bầu.  Về nguyên nhân  tạo trầm kỳ của cây dó, có nhiều giả thuyết khác nhau.
Trầm hương đã tạo nên cho Khánh Hòa tên gọi đặc biệt - Ảnh: Bảo Toàn
Từ thế kỷ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) đã viết trong sách “Phủ biên tạp lục”: “Hương   ấy là do ở ruột cây dó kết thành. Dó có ba loại: dó lưỡi trâu thì  thành  khổ trầm, dó niệt thì thành trầm hương, dó bầu thì thành kỳ nam  hương.  Người ta thấy cây già lá vàng mà nhỏ, thân nhiều u bướu, thì  biết ngay  là có hương, chặt mổ để lấy”. Gần đây, khi trầm hương có  giá trị  xuất khẩu cao trên thị trường thế giới, đã có nhiều công trình  khoa học  đề cập đến hương liệu quý này. Đa số các nhà nghiên cứu cho  rằng trầm  hương là một sản phẩm do bệnh lý cộng sinh với tế bào gỗ tạo  thành. Dân đi điệu  (đi tìm trầm) chuyên nghiệp cũng cho rằng  muốn xác định cây dó bầu có  trầm hay kỳ thì trước hết nhìn mặt bì (vỏ)  cây dó đó. Mặt bì có dạng kết  cấu như thế nào đó thì bên trong mới có  trầm kỳ. Người ta nghiệm rằng  trên cây dó nơi nào có những chỗ lõm vào  hoặc lồi ra mà da cây khô nứt,  nổi lên những chấm màu tím, đỏ nâu là  dấu hiệu có kỳ nam. Như vậy, mặt  bì có thể là một lớp nấm cộng sinh ở  vỏ cây báo hiệu bên trong thân cây  đã có trầm kỳ.
Sự  hình thành trầm hương có liên quan chặt chẽ tới cấu trúc di truyền  của  loài, tuổi cây và một loạt các tiêu chí sinh thái khác như cường độ   chiếu sáng, nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, thành phần đất đai... Về nguyên   lý, để cây dó tạo thành trầm phải có hai yếu tố:
-  Chấn thương cơ giới mạnh, như bị mảnh bom đạn khi nổ găm vào thân  cây,  hoặc do con người dùng rìu, rựa chặt sâu vào thân cây, những lỗ  hổng  lớn do sâu bệnh đục khoét, hoặc những vị trí gãy cành, gãy ngọn do  gió  bão gây ra, hoặc những vị trí tỉa cành tự nhiên của cây.
-  Tại những nơi chấn thương ấy, sau một thời gian dài từ 10 - 15 năm,   dưới tác đông mỗi ngày một ít của những chỉ tiêu sinh thái vừa kể trên,   những bào tử sẵn có nằm trong không gian môi trường tác động vào vết   thương gây ra những phản  ứng hóa học bên trong cây dó và từ đó tạo   thành trầm hương, tùy theo mức độ tác động mà cho ta trầm tốt hay xấu.
Các sản phẩm là từ Trằm hương - Ảnh: Bảo Toàn
Trong  thực tế, không phải vết thương nào trên cây dó cũng tạo trầm,  nhưng  cách lý giải này xem ra có độ xác thực hơn cả, chẳng thế mà xưa  nay  những những người đi điệu khi gặp những cây dó bầu chưa ăn trầm,   đã biết tác động vào nó bằng cách chém vài nhát rìu sâu vào rễ, thân   hoặc nhánh cây- là những nơi có nhiều khả năng tạo trầm- để tạo ra vết   thương, với hy vọng sau đó một thời gian cây sẽ được tạo trầm.
2.  Người Việt đã biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng trầm kỳ từ bao  giờ,  đến nay chưa tìm được tài liệu nào xác minh rõ, nhưng chắc chắn đã  từ  rất lâu đời. Sử sách còn ghi lại rằng trong số những đặc sản, báu vật   mà Nhà nước phong kiến xâm lược phương Bắc trực tiếp vơ vét hoặc bắt   dân ta cống nạp hàng năm, có trầm hương bên cạnh ngà voi, tê giác, ngọc   trai, yến sào, chim sâm cầm... Sách “Thiên nam dư hạ tập” (có  thể  xem như một bộ từ điển bách khoa của người Việt ở thế kỷ XV) chép  rằng  hai nguồn Trà Đình, Ô Kim huyện Bồng Sơn; thôn Nha Ca, nguồn Cầu  Bông,  huyện Phù Ly và huyện Tuy Viễn đều hàng năm cống kỳ nam hương,  tức là  thứ  ấy.
Cách phân loại trầm kỳ từng được người xưa xem xét ti mỉ, kỹ lưỡng. Cũng sách “Phủ biên tạp lục” (soạn năm 1776) của Lê Quý Đôn ghi rõ: “Kỳ   nam hương xuất tự đầu núi các xã thuộc hai phủ Bình Khang và Diên  Khánh  xứ Quảng Nam là thứ tốt nhất, xuất tự Phú Yên và Quy Nhơn là thứ   hai...Họ Nguyễn trước đặt đội Am sơn, hàng năm cứ tháng hai thì đi tìm   kiếm, tháng sáu thì trở về, số lượng nhiều ít không nhất định, lấy sắc   sáp trắng là tốt nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ hai, sắc sáp xanh là kém   nữa, sắc sáp vàng lại càng kém nữa, sắc như vằn hổ thì kém nhất; lấy   chất mềm như phấn đông, có thể cắt thành miếng là hạng tốt nhất, bền rắn   là hạng xấu. Tục ngữ nói: “Nhất bạch, nhị thanh, tam hoàng, tứ hắc”.   Muốn phân biệt trầm với kỳ nam thì lấy hình, chất, khí vị mà phân biệt.   Trầm hương thì cứng, nặng, ít thơm, sắc nhạt, vị đắng;, kỳ nam thì mềm   nhẹ, có hơi dầu, thơm mát, vị gồm đủ cay ngọt, chua, đắng; đốt trầm   hương thì khói kết xoáy rồi sau mới tan, đốt kỳ nam thì hơi khói lên   thẳng mà dài. Trầm hương chỉ có thể giáng khí, kỳ nam có thể trị trúng   phong, đàm suyễn, cấm khẩu, mọi chứng, mài vào nước mà rỏ và đốt khói   cho hơi hương vào mũi thì tỉnh lại ngay. Đau bụng đầy tức thì ngậm là   khỏi ngay. Lại có thể trừ được tà khí, uế khí, nên trong chỗ hành dịch,   hành quân không thể không dùng. Kiêng nhất là bọc giấy, nên chứa vào đồ   sứ hay đồ thiếc, rồi lấy bẹ chuối bọc vào cho kín, phơi giữa chỗ mặt   trời, đến chiều lấy ra thì nước dầu tiết ra. Cũng không nên phơi luôn”.
 Thăm quan 1 gian hàng trầm hương tại triển lãm nhân 
 Tuần Văn hóa Phật giáo tại Nha Trang - Ảnh: Bảo Toàn
Hiện  nay, việc phân loại trầm kỳ vẫn còn mang tính cảm quan, chưa có  tiêu  chuẩn nào đánh giá cho thật đúng phẩm cấp của từng loại. Dân gian   thường chia trầm hương làm nhiều loại: trầm kiến - có lỗ có hang do kiến đục làm tổ trước khi cây thành trầm; trầm rễ - do rễ cây sinh ra; trầm tốc - ở nơi thân cây sinh ra, miếng trầm đặc, không có lỗ; trầm mắt tử - kết tạo trên nhánh cây. Trầm tốc có nhiều nhất và trên thị trường, chia ra làm nhiều thứ giá bán khác nhau: tốc hoa màu vàng lạt, có những chấm lốm đốm như hoa; tốc nước màu vàng lợt, chất ươn ướt và nặng; tốc xám màu xam xám như tro; tốc lọ nghẹ màu đen đen như bồ hóng và nặng; tốc đá nặng và trông hình sắc như đá; tốc ớt sắc vàng lợt, vị cay như ớt xiêm; tốc hương   sắc vàng lợt, hương đượm, thường bao quanh kỳ nam, cho nên có nhiều  gân  nhiều điểm kỳ nam lẫn vào. Trầm ít dùng làm thuốc, thường dùng để  đốt  lấy hương trong các dịp cúng tế, lễ lạc, giá trị thua kỳ nam nhưng  thông  dụng hơn. Hình dáng, màu sắc của một miếng trầm rất đa dạng, có  khi là  một miếng gỗ hình trụ hoặc hình chóp nón, có miếng màu nâu nhạt,  miếng  màu đen sẫm.
Kỳ nam được  phân biệt với trầm hương ở mùi thơm và lượng dầu kết  tinh. Dầu ở kỳ nam  kết tinh giống như sáp ong, tỏa mùi thơm ngào ngạt.  Dựa vào màu sắc,  người ta chia kỳ nam thành 4 loại theo thứ tự giá trị: nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc.   Kỳ bạch có màu trắng ngà, chất mềm và rất nhiều dầu; kỳ thanh có màu   xanh biếc, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng; kỳ huỳnh vàng như sáp   ong, chất cứng và năng, để lâu khô dầu trở nên nhẹ; kỳ hắc có màu đen   bóng. Theo kinh nghiệm dân gian, kỳ nam là vị thuốc quý dùng trị các   chứng đau bụng kèm ói mửa, tiêu chảy rất hay (mài với nước hoặc ngâm   rượu mà uống) hoặc dùng trong trường hợp người bị trúng gió, bất tỉnh,   cấm khẩu (mài với nước cạy miệng đổ vào hoặc đốt xông vào lỗ mũi) hiệu   nghiệm như thần. Phụ nữ có thai kỵ kỳ nam, không nên uống hoặc mang theo   trong người vì có thể bị sẩy thai. Hình tượng trầm hương và kỳ nam đã   được các vua nhà Nguyễn cho khắc trên Cao đỉnh và Nhân đỉnh đặt trong   Thế miếu của Hoàng thành Huế. Trầm kỳ không chỉ là nguồn dược liệu mà   còn là hương liệu cho nhiều loại mỹ phẩm: xà phòng, nước hoa, dầu gội   đầu..., là chất khử độc, khử trùng cho môi trường, làm chất ướp xác và   là vật không thể thiếu trong các buổi lễ của nhiều tôn giáo. Mùi thơm   của trầm xông lên tại các đình, chùa, đền, miếu tượng trưng cho sự tôn   kính thiêng liêng. Vì vậy trầm hương và kỳ nam ngày càng có giá trị trên   thị trường thế giới.
 Người dân cảm thấy thích thú với các cây trần được triển lãm nhân 
 Tuần Văn hóa Phật giáo tại Nha Trang - Ảnh: Bảo Toàn
3. Trước đây cây dó bầu mọc nhiều ở các vùng rừng núi của tỉnh Khánh Hòa. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần viết về thổ sản của tỉnh Khánh Hoà cũng ghi: “Vùng   núi các huyện đều có kỳ nam, trầm hương. Dân xã An Thành huyện Tân  Định  hàng năm đi kiếm để nạp, năm nào không có kỳ nam phải nạp thay  bằng  trầm hương”. Trầm Khánh Hòa tập trung nhiều ở rừng núi các  huyện Vạn  Ninh, Ninh Hòa, Khánh Vĩnh, trong đó nổi tiếng nhất là vùng  Tu Bông,  Vạn Giã (thuộc huyện Vạn Ninh) mà danh tiếng đã đi vào ca  dao:”Cây quế thiên thai mọc ngoài khe đá, Trầm nơi Vạn Giã hương toả sơn lâm…”.    Xưa nay, trầm khai thác được ở Khánh Hòa phần lớn là trầm tốt và có   nhiều kỳ nam. Hàng năm nhân dân địa phương tích cực khai thác bán cho   Nhà nước để xuất khẩu. Giá xuất tại thời điểm 1989 (thời cực thịnh của   nghề khai thác trầm kỳ) như sau: trầm hương loại 1 giá 1.050 USD/kg,   loại 2 giá 900 USD/kg, loại 3 giá 700 USD/kg, loại 4 giá 410 USD/kg; kỳ   nam loại 1: 2.000 USD/kg, loại 4: 850 USD/kg. Giá cao như vậy nên người   dân đổ xô vào việc đi khai thác trầm hương, bỏ cả sản xuất. Tất cả  những  cây dó bầu, dó gạch từ lớn đến nhỏ đều bị chặt sạch để tìm trầm.  Cây dó  đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Hiện nay, tìm được một vài  cây dó  bầu con còn sót lại trong rừng thật vô cùng khó khăn, mà nếu có  thì  những cây dó non này dễ chừng phải đến bốn năm chục năm sau hoặc  lâu hơn  mới có lại trầm kỳ. Đối với loại cây quý hiếm và có giá trị  kinh tế cao  này, không thể trông chờ vào sự phát triển tự nhiên của  rừng mà phải  tìm cách gây trồng thuần hóa nó. Trầm hương là sản phẩm  đặc biệt của cây  dó bầu, nhưng nó không phải là sản phẩm tất yếu như ở  các loại thực vật  khác để rồi cứ đến mùa vụ là thu hoạch. Trầm hương  sinh ra từ cây dó  bầu, nhưng không phải bất cứ cây dó bầu nào cũng cho  ta trầm hương, thậm  chí theo lời anh em đi điệu cho biết, có những khu  rừng dày đặc cây dó  bầu, nhiều cây đã lớn nhưng không một cây nào cho  trầm. Bởi vậy, song  song với việc gây trồng, thuần hóa, phải đầu tư  nghiên cứu để tìm ra quy  luật hình thành trầm hương trong cây dó bầu và  rút ngắn chu kỳ tạo  trầm, đem lại nhiều trầm tốt. Đồng thời phải thấy  rằng chu kỳ sinh  trưởng của cây dó rất dài, có thể đến hàng chục năm  sau khi gây trồng.  Vì vậy, việc nghiên cứu đòi hỏi phải có sự kế thừa  của nhiều thế hệ cán  bộ khoa học để có thể đưa sự nghiệp này đến kết  quả.
Mỗi xứ sở có một đặc sản tiêu biểu, đó là niềm tự hào của nhân dân địa phương. Khánh Hòa đã từ lâu nổi tiếng là “xứ trầm hương”,   nhưng nếu chúng ta không biết bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý   giá này, không chủ động đầu tư để gây trồng thuần hóa cây dó bầu ngay  từ  bây giờ, không tái tạo lại nó, thì e rằng niềm tự hào đó ngày mai  đây  sẽ chỉ còn là vang bóng.
Vườn hoa tử-đằng (glycine) ở NhậtỞ Nhật Bản, loài hoa wisteria hay còn gọi là Hoa Tử Đằng, hoa fuji  rất được yêu chuộng; trong khi ở Mỹ nhiều nhà coi hoa này là ...rác (vì  khi rụng thì quét dọn hơi mệt, chưa kể là phải chịu khó cắt tỉa để  tránh um tùm, tối tăm). Nếu như ở các nước Phương Tây, hoa hồng là biểu  tượng của tình yêu thì ở xứ xở phù tang này Hoa tử đằng lại tượng trưng cho tình yêu bất diệt. Chính vì thế mà ở công viên hoa Ashikaga, người ta đã cho trồng hẳn một rừng hoa wisteria để mọi người có thể thưởng thức và chiêm ngưỡng. Có thể nói không ngoa rằng không ở đâu hoa wisteria lại đẹp và tươi tắn như ở công viên Ashikaga. Những bông blank">hoa wisteria   mềm mại như những áng mây và thảm hoa trải dài miên man đến ngút ngàn   khiến cho người xem có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên   cảnh. Hàng ngày có hàng nghìn du khách và người dân Nhật bản đến công viên Ashikaga để ngắm hoa và chụp ảnh lưu niệm. Hoặc đôi khi những cặp tình nhân cũng cùng nhau tới đây, họ không ngắm hoa hay chụp ảnh mà chỉ đơn giản để nắm tay nhau và đi dưới vườn hoa tình yêu tuyệt đẹp này. Chính vì ý nghĩa của loài hoa này đối với người dân Nhật rất quan trọng nên tỉnh Tochigi đã cho xây dựng công viên Ashikaga chỉ chuyên trông hoa wisteria trên một diện tích rộng lớn 8,2 héc ta đất. Ở công viên này người ta cho trồng rất nhiều các giống hoa wisteria với đủ các màu sắc xanh, hồng, trắng và vàng. Ngoài việc trồng hoa wisteria, người ta còn trồng các loài hoa khác để tăng thêm vẻ phong phú cho công viên.
>  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
|   | 
|   | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
| >  | 
|   | 
Bộ sưu tập hoa
1. Bỉ Ngạn hoa
Đây  là loài hoa ta thích nhất, thứ hai là hoa Anh Túc a, Bỉ Ngạn hoa  nở  nơi bỉ ngạn, tương truyền trên con đường Vong Xuyên nở đầy hoa này. Bỉ  Ngạn hoa màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa, màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa.
2. Hoa Anh Túc
Người ta nói hoa càng độc thì càng đẹp, đích thị không sai.
3. Hoa Tử Đằng
Hoa  Tử Đằng nhìn từ xa như một đàn bướm màu tím bay rợp trời. Hoa Tử  Đằng  đại diện cho một tình yêu say đắm, nỗi nhớ lưu luyến khôn thôi.  Theo ta  biết thì còn có một loài tên Ngân Đằng nhưng ta chưa thấy hình  qua nên  không biết ra sao.
Hoa  Sơn Trà còn có tên là Trà Hoa. Hoa Sơn Trà có màu trắng, hồng,  vàng,  tím, đỏ nhưng ta thích nhất màu trắng. Hoa Sơn Trà màu trắng đơn  thuần,  trong trắng vô tạp niệm, một loài hoa mộc mạc nhưng xinh đẹp.
5. Hoa Nhài(Lài)
Hoa  Nhài trong tiếng trung là 茉莉花, hán việt là Mạt Lị Hoa. Hoa Nhài có ý  nghĩa là ” bạn là của tôi “.Nhớ lúc xưa lão sư dạy hát có dạy bài 茉莉花
好一朵美丽的茉莉花
好一朵美丽的茉莉花
芬芳美丽满枝桠
又香又白人人夸
让我来将你摘下
送给别人家
茉莉花茉莉花
好一朵美丽的茉莉花
芬芳美丽满枝桠
又香又白人人夸
让我来将你摘下
送给别人家
茉莉花茉莉花
A, thật đáng hoài niệm a.
6. Tử Thụy Liên:
 7. Hải đường ( Begonia)





8.Camellia /Trà mi
9.Cây Trứng cá  (Muntingia calabura)



10. Cây Lim sét, Lim xẹt (Peltophorum pterocarpum)



11.Anemone
12.Autumn crocus            Colchicum spp
13.Azalea & Rhododendron spp.:











14.Buttercup       Ranunculus spp.
15.Clematis
16.Thuỷ Tiên(Daffodil             Narcissus spp.)









17.Hyacinth
18.Trúc đào (Nerium oleander)


Oleander, Sister Agnes
Oleander, Rosebay

Trúc đào cánh kép

Trúc đào cánh kép
19.Lantana
Lantana "Gold Mound" Hort



"Miss Huff" Lantana
20.Lobelia /      Cardinal flower
21.Iris
22.Hydrangea
23.Delphinum / Larkspur
24.Tulip
 

25.Rhubarb
26.Periwinkle       myrtle 
27.Marsh       marigold Caltha palustris:
28.Morning glory- Ipomoea spp.:
            
29. Papua Wax plant (Hoya archboldiana)

30.Hoya Wax 
Hoa Sứ


|   | 
|               | 
Hoa Hoàng hậu - Ảnh Google
Hồi nhỏ, trước nhà là một ngôi nhà thờ lớn. Trong sân ngôi nhà thờ đó có trồng một cây hoa rất đẹp, bông rất sai, rũ từng chùm như những chiếc lồng đèn vàng treo cao, rực rỡ cả một góc trời. Khi đó ít ai biết loại hoa đó tên gì, chỉ nghe mọi người gọi là hoa hoàng hậu. Có lẽ vì nó quá đẹp chăng?!
Sau này thấy cây hoa này được trồng phổ biến hơn. Và hình như cũng không nghe ai gọi là hoa hoàng hậu nữa. Tìm hiểu mới biết cây này có xuất xứ từ Hawai và có nhiều tên gọi: Osaka, bò cạp nước, muồng hoàng yến, mai dây, cây xuân muộn, mai nở muộn (có lẽ vì nó có màu vàng rực rỡ giống mai?!),...
Ở trên đường Nguyễn Đình Chiểu, gần góc Trần Quốc Thảo, trong sân của tòa Tổng giám mục lúc trước có một cây hoàng hậu cực đẹp. Cây rất to, hoa vàng rực rỡ từng chùm rũ từ ngọn cây. Đẹp đến mức có nhiều khi đi ngang đó phải dừng xe lại, đứng dòm một lúc cho thỏa thuê rồi mới đi tiếp được. Lâu rồi ít đi ngang qua đó, nên không biết bây giờ có còn không!
Hoa này cũng như hoa mai, chỉ đẹp khi ở trên cây, và tụ hội thành chùm. Hái xuống từng bông riêng rẽ thì lại mất đẹp...
Ý định trồng một cây, mà sao khó quá, vì cây thân gỗ, cần nhiều đất, sân nhà thì lại không rộng lắm.
Tiếc!
Hằng   năm, cứ thấy những trái cây tròn như trái tắc (quất, hạnh) màu vàng  cam  hực hỡ mời chào khách qua Bắc Cần Thơ là người ta biết đang mùa  viêm  nhiệt
Trái   cây đó là thanh trà, còn gọi xoài hoang dại (Wild Mango), tên khoa học   Bouea Oppositifolia (Roxb.) Meissn., tên cũ Mangifera Oppositifolia   Roxb., cùng họ Anacardiaceae với cây xoài. Vì nó giống trái xoài thu   nhỏ, có hột to, nên dân địa phương gọi là xoài mút hay xoài hột. Lãnh   địa thanh trà hình như chỉ ở khu vực Ðông Thành (Bình Minh, Vĩnh Long).   Vì, cứ đến xã Ðông Thành, nhiều nhất là ấp Ðông Hưng 2, trong mùa nắng   là người ta thấy thấp thoáng trong màu xanh những tàng lá rậm rạp ẩn   hiện những trái thanh trà vàng cam một cách thích mắt.
Bà   Nguyễn Thị Tuyết Hà (55 tuổi, Ðông Hưng 2) cho biết nhà bà trồng 20  gốc  thanh trà, năm ngoái, trúng, được 600kg, giá 8,000 đồng/kg, bỏ túi   4,800,000 đồng. Năm nay, bán đợt rồi 12,000 đồng/kg, được 7-8 triệu   đồng. Có lúc “khủng” (hút hàng), lái tới tận vườn mua tới giá   15,000-16,000 đồng/kg. Trái xanh họ cũng mua, giá thấp hơn, 10,000   đồng/kg. Bà lẩm bẩm: “Hổng biết họ mua mần gì?”
Bà   Trần Thị Em (55 tuổi, Ðông Hưng 2) trồng 60 cây thành trà, đầu mùa này   bán được 20 triệu đồng. Bà bán được số tiền lớn như vậy nhờ thanh trà   lão (trồng 35 năm nay), nên cho trái sai. Mấy ngày qua, mỗi ngày bẻ   500kg trái thanh trà, bán bằng giá nhà bà Tuyết Hà, 12,000 đồng/kg.   Nhưng thu hoạch hấp dẫn nhất là thanh trà ngọt, giá bán tại gốc từ   25,000-26,000đồng/kg. Nhà bà Em có 3 cây thanh trà ngọt, 1 cây có trái.   Bà mua thanh trà ngọt (lá dài hơn thanh trà chua) từ năm 1975 với giá   50,000 đồng/cây. Sau nầy mới chiết được 2 nhánh sống.Hỏi   thanh trà gốc mua ở đâu, bà Tuyết Hà và bà Em đều bảo rằng mua ở nhà   Sáu Vẹn. “Ðầu mùa tới giờ, Sáu Vẹn bán cả trăm triệu đồng tiền thanh   trà”, bà Em tiết lộ. Sáu Vẹn còn là “vựa” cung cấp thanh trà cho lái đến   mua, đó là khẳng định của bất cứ nhà vườn nào ở Ðông Hưng 2 này.
 Ông   Huỳnh Văn Vẹn (Sáu Vẹn, 76 tuổi) đúng là “đại gia” thanh trà của Ðông   Hưng 2. Trước sân và sau vườn nhà ông, những gốc thanh trà xòe tán mát   rượi đến nỗi trên nền đất chẳng có cây cỏ nào mọc nổi. Trong bóng mát   xanh um, ông đưa chúng tôi thăm vườn nhà được bố trí hệ thống ống tưới   qua máy bơm, dù vườn được chia cắt từng khoảnh bằng những con mương với   những chiếc cầu bê tông đơn giản bắc ngang. Ông Vẹn cho biết nhà ông   trồng 100 cây thanh trà sen bưởi năm roi trên 12 công đất. Mấy ngày qua, vườn nhà ông hái được 400kg thanh trà, có bữa “trúng”, còn lên tới 500kg. Ðó   là tính xen kẽ giữa cây mới và cây cũ, vì cây càng lão trái càng sai.   Vườn quá rộng nên việc thu hoạch thanh trà ông phải mướn nhân công. Cô   Nguyễn Thị Ngọc Lan (37 tuổi) cho biết hái thanh trà bằng lồng tre, tốt   nhất là vợt lưới vì không làm hư trái. Lồng và lưới do chủ cung cấp.  Giá  nhân công từ 60,000-80,000 đồng/ngày, chủ bao ăn sáng và ăn trưa.  Nếu  làm nhiều hoặc ít hơn 8 tiếng/ngày thì tính tiền theo giờ. Năm rồi  chỉ  việc hái thanh trà mướn mà cô có được 2 triệu đồng.
Khi   hỏi nguồn gốc thanh trà, ông Sáu Vẹn cười cho biết: Khoảng năm 1950,   cha ông (Huỳnh Văn Sung) học chữ Nho với ông Cả ở Rạch Vồn (Cái Vồn,   Bình Minh) rồi trở nên thân thiết. Thấy nhà ông Cả có cây thanh trà   “ngộ” quá, cha ông xin và được ông Cả cho 7 cây ương (4 cây chua, 3 cây   ngọt) về trồng trước sân nhà lấy bóng mát và những mùa trái đẹp làm   “kiểng”. Bảy cây “tổ” ấy gốc cả ôm, năng suất đến 1.5 tấn/mùa. Ông Huỳnh   Văn Xinh (Sáu Xinh, 74 tuổi), cười vui: “Hồi đó thanh trà ra trái đẹp   nhưng hổng ai biết ăn. Con nít tụi tui bẻ chơi nhà chòi rồi liệng bỏ”.   Ông Sáu Vẹn tiếp: “Một bữa, khoảng năm 1977, dân mua bưởi năm roi thấy   trái lạ và đẹp, nếm thử, thích, hỏi mua vài chục ký đem lên Sài Gòn.   Nhắm chừng bán đại, 1.5-2 đồng/kg”. Từ đó, ông Sáu Vẹn, ông Sáu Xinh mới   nhân thanh trà ra trồng trên diện tích lớn. Ðể nhân giống, trước kia   hai ông ương hột, về sau mới chiết nhánh vì cây mau phát triển. Thanh   trà chiết trồng khoảng 2 năm, cao chừng 2m, cho trái chiếng. Bốn   năm ngày tưới thanh trà 1 lần, nhưng 3 ngày tưới 1 lần là tốt nhất.  Ðặc  biệt tưới phân lạnh (uréa) trái lớn, còn phân Kali thì trái chua ít   ngọt nhiều. Thanh trà kháng thể mạnh nhưng vẫn xịt ngừa sâu.  Chăm  sóc thanh trà đúng kỹ thuật sẽ cho năng suất cao. Thanh trà cho  trái 3  đợt: Tháng 9 Âm lịch, lá già trổ bông, xuống nhụy, 2 tháng rưỡi  là thu  hoạch. Ðợt đầu thường bắt đầu từ rằm Tháng Giêng Âm lịch. Sau  đó, thanh  trà cho thu hoạch liên tiếp 2 đợt nữa. Muốn thanh trà ra trễ  vụ để bán  giá cao, khi “khủng”, ông Sáu Vẹn bật mí: “Nó giống chôm  chôm, cứ cầm  nước và xịt đọt là có trái theo ý muốn. Nhưng không giống  chôm chôm và  một số cây trái khác, thanh trà không thể siết nước để cho  ra trái  nghịch mùa”. Vì vậy, thanh trà chỉ có duy nhất một mùa trong  năm: mùa  viêm nhiệt. “Thanh trà là cây siêu lợi nhuận”, ông Sáu Vẹn quả  quyết,  rồi tiếp: “Phân ít, chăm sóc ít, thu hoạch cao”. Tuy nhiên “coi  dễ mà  khó”, ông Sáu Xinh nhấn mạnh, đó là khi cây ra bông chuẩn bị  “xòe” gặp  sương, nhất là sương muối thì hư, hoặc gặp cơn mưa buổi tối,  sáng lại  lâm râm, nhụy rụng hết. Ðược cái, vài hôm sau bông trổ lại,  nhưng năng  suất không cao.Ly nước thanh trà giải nhiệt mùa nắng nóng. (Hình: Cát Tường/Người Việt)
Thanh   trà nhà ông Sáu Xinh (và hầu như cả vùng này) có nguồn gốc từ người  anh  chú bác là ông Sáu Vẹn. Hiện nay vườn nhà ông rộng 4-5 công, năm  2009  thu hoạch 7 tấn thanh trà. Ðầu mùa năm nay, thất vì ra bông gặp  sương  muối, chỉ được 2 tấn, hy vọng 2 đợt trái sau. Ông Sáu Xinh cho  biết,  trên địa bàn ấp Ðông Hưng 2 có khoảng 40ha vườn, trong đó thanh  trà  chiếm tới 20ha. Năm rồi, cả ấp trúng, thanh trà trĩu cành muốn gãy   nhánh, thu hoạch khoảng 40 tấn.
Nổi   tiếng là vựa nhưng thật ra nhà ông Sáu Vẹn chỉ là nơi tiếp nhận thanh   trà của bà con xung quanh đem tới nhờ bán giùm. Vì nhà ông thu hoạch  sản  lượng lớn, lái không phải mua lắt nhắt nhiều nơi, việc vận chuyển  thuận  lợi, do đó ông bán tới 15,000 đồng/kg chua. Còn thanh trà ngọt từ   25,000-26,000 đồng/kg. Mỗi mùa, ông thu hoạch thanh trà ngọt từ   100-150kg. Thanh trà ngọt có giá cao như vậy vì hiếm, trồng từ hột ương   khó sống, sống được mất 10 năm mới cho trái. Bây giờ chiết nhánh 2 năm,   cao chừng 2m, có trái, nhưng cũng khó có nhánh chiết sống. Trước kia,   lái chở thanh trà bằng tắc ráng, mấy năm nay đường sá tráng xi măng nên   họ vận chuyển thanh trà đóng thùng bằng xe gắn máy ra quốc lộ 54 rồi  cho  lên xe tải chở đi Sài Gòn, các tỉnh miền Ðông... Người ta mua thanh  trà  về, vò mềm vỏ rồi chấm muối ớt, nhưng phần lớn gọt bỏ vỏ dằm  đường,  chút muối cùng nước đá là có thứ nước giải khát ngon lành.
Ngoài   bán trái, nhà vườn còn bán nhánh chiết. Ông Sáu Xinh tâm sự: “Ðầu tiên   tụi tui chiết nhánh bằng cách bó rễ rau mác, rễ ra nhóc nhưng yếu xìu,   trồng sống hổng được mấy cây”. Ông Sáu Vẹn tiếp: “Rút kinh nghiệm, học   hỏi thêm, tụi tui bầu xơ dừa, bó nylon đen nên đạt hiệu quả cao”.  Nhánh  chiết thanh trà chua bán 10,000 đồng/nhánh. Riêng nhánh ngọt bán  tới  20,000 đồng. Có nhà vườn năm rồi bán vài trăm nhánh thanh trà chua.  Dân  Củ Chi (Sài Gòn), một số tỉnh miền Ðông và Tây Nguyên, nhiều nhất  là  Daklak, vô mua nhánh đem về trồng. Ông Sáu Vẹn nở nụ cười thích thú:   “Năm rồi ngoài Daklak điện vô cho hay thanh trà trồng được 5-6 năm có   trái chiếng, tốt lắm”. Rồi ông sung sướng kể: “Hổng biết sao mà ở tận   Lào Cai biết số điện thoại nhà tui, điện đòi mua hột, biểu gởi bưu điện   ra ngoải cho họ. Tui hổng biết gởi gắm và tiền bạc thâu ra sao nên hổng   dám bán”.
Thanh trà bán tại bờ Cái Vồn Bắc Cần Thơ. (Hình: Cát Tường/Người Việt)
Ðể   có thêm “đồng ra đồng vào” khi hết mùa thanh trà, nhà bà Em trồng xen   dâu xanh, nhà ông Sáu Vẹn trồng măng cụt. Các nhà vườn khác thì trồng   thêm xoài, bưởi năm roi... Mùa thanh trà chấm dứt khoảng cuối tháng 3 Âm   lịch, khi mưa sa. Nhưng, cũng có những ngày nắng, lúc đó người ta lại   nhớ đến vị chua đã khát của trái thanh trà mà không thể nào có được. Cô   Phạm Thị Hiệp (32 tuổi) bán thanh trà tại Bắc Cần Thơ, bờ Cái Vồn, cho   biết đã làm mứt từ những trái thanh trà hư dập để dành ăn dần. Thanh  trà  cô mua tại nhà ông Sáu Xinh. Sau khi lựa lọc, cột chùm bán 25,000   đồng/kg trái chua và 40,000 đồng/kg trái ngọt, phần trái hư dập cô gọt   bỏ vỏ, bỏ hột, cứ 1kg cơm thì sên 1kg đường rồi cho vô keo. Cách làm của   cô khiến ta nghĩ đến cách “giữ” vị chua thanh trà khi hết mùa bằng  cách  chế biến nó thành mứt, như mứt tắc, mứt chanh. Thứ “confiture”  tiện lợi  và hữu ích này, nếu được sản xuất công nghiệp, sẽ là mặt hàng  bán chạy  trong lúc thời tiết nóng bất thường, chẳng phải trong nước mà  còn xuất  cảng.
“Cây mọc hoang trong rừng luôn xanh, ở Phú Quốc, Châu Ðốc, Vĩnh Long... có nơi cũng trồng để lấy quả (...)
Quả   thanh trà có vị chua, ngọt, tính mát, có tác dụng bổ, giải khát, giải   nhiệt, sinh tân dịch, ăn nhiều nhuận tràng. Quả còn xanh gọt bỏ vỏ, bỏ   hột, nấu canh chua ăn cho mát trong mùa nắng nóng. Lá thanh trà cũng   tương tự lá xoài, chứa nhiều hoạt chất có tính kháng sinh (mangiferin,   quercetin, acid galic...) dùng nấu cao (1kg lá khô bằm nhỏ thêm 2 lít   nước, sắc còn nửa lít rồi cô thành 100ml cao sền sệt) để thoa trị phỏng,   rôm sẩy, hăm lở”.
Dược sĩ Phan Ðức Bình
(Tạp chí Thuốc & Sức Khỏe số 331 (1-5-2007)
22 triệu đồng cho 2 quả xoài Nhật
Tại  Nhật Bản, từ ngày 5/4 người ta bắt đầu bán loại xoài gọi  là “trứng của  mặt trời”, một đặc sản của tỉnh Miyazaki. Mỗi hộp xoài gồm  2 quả, được  bán với giá 100.000 Yên  (khoảng 22 triệu đồng) + thuế VAT là 50.000 Yên (khoảng 11 triệu đồng).
 Xoài “trứng của mặt trời” là một thương hiệu cao cấp ở Nhật, nó có trọng lượng trên 350gram/quả, có độ ngọt gấp 15 lần xoài thông thường.
 Cửa hàng Iwata là cửa hàng đầu tiên  tại thành phố   Miyazaki bán loại xoài này trong năm  nay. Người quản  lý cửa hàng cho  biết, cửa hàng đã phải trả giá cao nhất là 200.000 yên  cho một hộp 2 quả  xoài trong cuộc đấu giá để giành phần bán loại xoài  này đầu tiên. 
 Để kỷ niệm cho sự kiện này, cửa hàng đã quyết định bán 1 hộp xoài với giá đặc biệt, chỉ bằng một nửa giá mua vào.
 Theo Hiệp hội kinh tế tỉnh Miyazaki, sản lượng xoài của tỉnh Miyazaki năm nay khoảng 777 tấn, trong đó loại xoài “trứng mặt trời” chiếm khoảng 15%.
 | 22 triệu đồng 1 hộp táo 2 quả xoài “trứng mặt trời” | 
Lan Hạc Trắng(Heron Orchid)
Plaza del Congreso,ở Buenos Aires, Argentina.























ReplyDeletevé máy bay eva air khuyến mãi
vé máy bay đi mỹ hạng thương gia
văn phòng korean air tại việt nam
đặt vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngau Hung Du Lich
Tri Thuc Du Lich
ve may bay di canada gia re