Tiếp tuc chuyến đi từ Orange County, Nam California lên Seattle, Washington, chúng tôi đi tiếp qua Canada. Sau khi thăm cánh đồng uất kim hương (Tulip field) ở Skagit Valley  gần Burlington, Washington, chúng tôi theo xa lộ 20 ra bến phà (ferry)  để qua đảo Victoria, Canada và đến thăm vườn hoa Butchart nổi tiếng  trước khi thực hiện chuyến du hành suốt từ Tây sang Đông của Canada.Phà ghé qua đảo Lopez, đảo Shaw và đảo San Juan đón thêm khách rồi mới đến cảng Sidney của đảo Victoria thuộc tỉnh British Columbia. Hải quan và biên phòng Canada kiểm soát khá nghiêm ngặt so với trước ngày 11-9 và hình như không mấy thiện cảm với dân Mỹ gốc Á châu; thậm chí rất ư bất lịch sự và thiếu nhã nhặn với phụ nữ nên nhiều người trong đoàn chúng tôi đã muốn hủy bỏ hành trình du lịch Canada lần này và có lẽ nhiều người trong chúng tôi cũng không còn muốn trở lại đất nước này lần nữa cho dù hầu hết đều đã viếng thăm Vancouver hay Toronto ít nhất 2 lần trước khi có biến cố "11-9" ! Đón tiếp du khách kiểu này, e rằng Canada đã làm mất đi rất nhiều thiện cảm mà du khách đã dành cho Canada bấy lâu nay.
a. Victoria:
Từ Cảng Sidney, chúng tôi theo Pacific Bay Highway đến thẳng Butchart garden ở địa chỉ: 800 Benvenuto  Avenue Brentwood Bay, BC V8M 1J8. Với diện tích 22ha trên vùng đất có  tên gọi "Greater Victoria" của đảo Vancouver, đây là một trong nTừ những bảng
Rời Butchart garden, chúng tôi ghé qua Victoria Butterly gardens để xem những bộ sưu tập quý hiếm về các loại bướm (tương tự hội sưu tầm bướm ở Fullerton và Orange county gần nhà tôi) trước khi lái xe ra khu thị chính thành phố Victoria. Canada có cái hay là thành phố nào cũng trồng hoa rất đẹp và thường có sông hồ hay bờ biển nên trông rất mát mẻ, trữ tình. Trước tòa thị chính là những bến cảng Victoria harbour, Inner harbour và Upper harbour với vịnh Victoria và xung quanh là những lâu đài, công viên rất đẹp. Đường phố trồng cây cao bóng mát, với nhiều loại hoa khác nhau làm cho thành phố trông rất vui mắt. Chúng tôi ghé qua căn cứ hải quân hoàng gia Anh và Canada cũ ở Fort Rodd Hill - một di tích l
ịch  sử nổi tiếng từ năm 1878 nhưng đã đóng cửa từ 1956 ngay bến cảng  Esquimalt, với ngọn hải đăng Fisgard đã chứng kiến bao trận chiến oai  hùng trong việc bảo vệ bờ cõi Victoria. Bên kia vịnh là viện bảo tàng và  bến phà đi về Port Angeles và Seattle. Victoria còn có một  trường đại học riêng rất nổi tiếng và được nằm trong 3 trường đại học  danh tiếng nhất Canada, nhìn ra Oak Bay rất đẹp. Lái xe dọc theo bờ biển  cũng rất mát mẻ, đẹp đẽ rồi ngược về hướng Bắc theo đường 17 về vịnh  Swartz, chúng tôi lại xuống phà đi qua Vancouver.Vượt qua eo biển Georgia, trước khi tới mũi (Point) Roberts cũng là biên giới Mỹ - Canada, chúng tôi có dịp thấy được nhiều đảo (Pender, Prevost, Mayne, Galiano) trong hòang hôn.
Sau thủ tục hải quan ở bến phà Tsawwassen, chúng tôi lái tiếp theo xa lộ 17 rồi bắc qua xa lộ 99 về nhà một người bạn ở Richmond để tắm rửa rồi mới vô downtown Vancouver để ăn tối. Dù đã đến Chinatown ở Vancouver nhiều lần nhưng tôi vẫn thích ăn đồ Tàu và trái cây Việt Nam ở đây nên lần nào đến Vancouver, nhất định cũng kiếm thịt quay và trái cây. Rất nhiều người Việt sống và buôn bán ở đây, y hệt như Toronto vậy. Người Hoa dạo này sống ở Canada khá nhiều, coi bộ rất nhiều người Hoa di dân đến đây thuộc thành pâần trí thức hay giàu có, không còn tập trung ở khu Chinatown nữa mà sống rải rác ở những khu sang trọng hơn. Đ cả ngày cũng mệt rồi nên chẳng ai tha thiết dạo phố về đêm nữa mà chỉ muốn về ngủ để lấy sức đi chơi ngày mai.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi được "gia chủ" dẫn đi ăn phở rồi đưa đi thăm C
hinatown mua  sắm trái cây. Phố xá người Hoa ở đâu cũng ồn ào, tấp nập và cái hay là  đi đâu, họ cũng mang theo "truyền thống văn hóa" của họ, cả cái tốt lẫn  cái xấu và họ luôn tự hào về nét riêng biệt độc đáo của họ. Sau đó,  chúng tôi ghé vào khu vườn hoa Tôn Dật Tiên thể hiện rõ nét văn hóa và  kiến trúc cảnh quan của người Hoa(Chinese landscape); nhất là  về phong thủy và ảnh hưởng của Lão giáo được trình bày rất hài hòa,  khéo léo, tỉ mỉ, độc đáo tương tự như các hoa viên ở Hàng Châu, Tô Châu  mà tôi đã ghé qua. Đây là trung tâm văn hóa do hội hoa viên Tôn Dật  Tiên (thành lập năm 1981) xây dựng xong vào 24/4/1986 với sự trợ giúp  tài chánh của chính phủ Canada nhằm giới thiệu văn hóa Trung Hoa và tạo  sự thông cảm giữa 2 nền văn  hóa Đông - Tây. Thay vì dùng đinh ốc, thợ mộc của họ vẫn dùng "mộng" ráp  nối đúng theo "truyền thống" và với sự hợp tác giữa các kiến trúc sư,  chuyên viên cảnh quan và thảo mộc cùng với các nghệ nhân và "thân hào,  nhân sĩ", họ đã thành công khi tạo được sự hài hòa, cân bằng "âm dương"  giữa bố cục của kiến trúc và cảnh quan (cây cảnh + nước + đá từ hồ Tây ở  Tô Châu).
Sau  đó, chúng tôi đi dọc theo bờ biển trên đường Commissioner Street ra  Vancouver Convention centre và khu Canada Place - Cruise Ship Terminal,  từ Coal Harbour theo highway 99 xuyên qua Stanley Park rồi vòng qua  English Bay Beach tấp nập người tắm biển(không biết có lạnh lắm không mà  sao phụ nữ, con nít vẫn tắm tỉnh bơ ?), trông rất vui mắt, kế bên là công viên rất đẹp và  xanh mát, đông người đi bộ hay đạp xe qua lại. Lái xe vòng quanh bờ  biển để ngắm những ngôi nhà sang trọng với hoa và cây cảnh cũng rất  thích thú. Coi bộ dân Canada tà tà, nhàn du hơn dân Mỹ nhưng nói chuyện  với họ mới thấy dân Canada coi bộ cũng không thích Bush và chính quyền  Hoa Kỳ. Tới hòn đảo Granville, chúng tôi được tập nói tiếng Pháp trở lại sau gần 30 năm không
có  dịp nói tiếng Pháp với dân Tây nên ai cũng tha hồ líu lo với một kiến  trúc sư Canada gốc Pháp có vợ Việt. Granville thật sự rất đáng đến viếng  thăm vì đây là nơi quy hoạch rất thành công, ngăn nắp tử tế mà ai làm  công việc quy hoạch cũng nên đến học tập kinh nghiệm. Trên đường về  downtown, chúng tôi có dịp lái ngang qua Stanley Park là một công viên  rộng lớn (400 hectares/ 1,000  acres) với nhiều cây cao, vườn hoa đẹp và thú hoang dại. Chúng ta có  thể lái xe đi vòng quanh giống như công viên Golden Gate ở San  Francisco, từ Prospect Point qua Ferguson Point xuống Stanley Point, dọc  theo Lost Lagoon đến Deadman Island và Brocklon Point, theo Sidewall  Promenade qua Pipeline Road trước khi đến Rose Garden. Chiều hôm đó,  chúng tôi lái lên núi Grouse để được ngắm nhìn Vancouver từ trên đỉnh  núi cao nhất Vancouver và tỉnh British Columbia. Vô coi những ngôi nhà  gỗ và đá, phụ nữ thích thú với những kiểu nhà bếp khác nhau, đàn ông kéo  nhau ra ngắm toàn cảnh thành phố và xa xa là Thái  Bình Dương. Gia chủ rủ chúng tôi kéo lên núi Seymour để ngồi cáp treo  chơi cho biết. Thực ra đây là nơi trượt truyết mùa đông nên mùa hè chỉ  có du khách như chúng tôi mới kéo lên đây cho biết. Xuống núi, các bà rủ  nhau đi shopping ở khu phố Robson, còn  đàn ông kéo đi dạo phố quanh quẩn giữa đường Burrard và Jervis để ngắm  mấy cô đầm Canada cho vui rồi lại chui vào uống café đấu láo. Ăn uống  xong, chúng tôi kéo nhau đi qua Yaletown và Gastown để biết thêm chút  đỉnh về lịch sử Canada. 2. Alberta :
a. Calgary:  Từ phi trường Calgary, chúng tôi theo xa lộ số 2 - Deerfoot Trail về  khu SouthCentre và tạm tá túc nhà người bạn gần hồ Bonavista. Calgary là  chặng dừng chân đầu tiên của  chúng tôi ở tỉnh Alberta. Calgary có khá nhiều sân golf, công viên và hồ  nước nhưng Calgary Tower là "cột mốc" nổi bật nhất thành phố này. Khánh  thành từ 30 tháng 6 1968,  'Tower' là nơi mà du khách có thể lên đó ngắm nhìn tòan cảnh Calgary và  trong Thế Vận Hội mùa Đông 1988 (Winter Olympic Games), tháp này trở thành ngọn đuốc vĩ đại nhất thắp sáng suốt thời gian tranh tài.
b. Edmonton:  Rời Drumheller, chúng tôi đến Red Deer rồi đi thẳng lên Edmonton để  thăm một người bạn đã từng sống ở Pulau Bidong với chúng tôi trước đây.  Vợ chồng anh ấy sống trong một  căn chung cư gần trường đại học Alberta. Anh ấy đang làm việc cho một  hãng do người Ấn Độ làm chủ, vợ làm cho một nhà hàng Tàu nên chúng tôi kéo đi ăn cơm Tàu trước khi đi thăm tòa nhà Quốc Hội tỉnh bang Alberta. Lái xe từ đường 124th.  qua đường 1885 rồi đường 1905 và Jasper Ave., xuống khu phố cổ nghệ  thuật Old Strathcona rồi ngang qua West Edmonton Mall tấp nập, khách sạn  Scotia và Macdonald rồi đến Fort Edmonton Park với nhà ga và những đầu  máy xe lửa cũ, hay qua viện bảo tàng Royal Alberta, anh miên man giới  thiệu sơ qua về thành phố Edmonton cũng như cuộc sống ở đây. Chúng tôi  theo các chị vô West Edmonton Mall - khu shopping đồ sộ. Vô đây rồi thì  chẳng ai còn muốn đi đâu nữa ! Nghe chủ nhà rủ đi Icefields vào sáng hôm  sau, bà con mới lục tục ăn tối và kéo về nhà. Sáng hôm sau, chúng tôi được ăn cháo lòng do chính chị ấy nấu rồi kéo nhau ra ngoài công viên Winston Churchill Square rồi qua Odyssium (tức TELUS World of Science Edmonton) coi cho biết trước khi lái xe đi ra bờ sông Saskatchewan chơi rồi chia tay vợ chồng anh ấy để tiếp tục hành trình đi qua tỉnh Saskatchewan. Theo xa lộ 16, chúng tôi đi qua Vegreville, Vermillion rồi đến Llyodminster ngay biên giới.
 3. Saskatchewan: Từ biên giới, chúng tôi lái xe băng qua những khu rừng núi xanh tươi hay những mỏm đá cheo leo, những sa mạc với đồi cát mênh mông, những đồng cỏ bên cạnh những  đầm lầy (badlands ?)... Qua North Battleford, đến Saskatoon cũng giống  như các thành phố đã đi qua nên chúng tôi lái thẳng đến Regina - thủ phủ của tỉnh này và có cảm tưởng như đang đến Reno ở phía bắc Nevada vậy khi lái xe ngang qua khu casino. 4. Manitoba: Từ Regina theo xa lộ 1, qua Moosomin vượt biên giới chúng tôi vào tỉnh Manitoba. Ghé đổ xăng ở Virden rồi ăn trưa ở Brandon trước khi vô tới Winnipeg.
Winnipeg nằm dọc theo Assiniboine, chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp khá rõ hơn  là Anh. Lái xe vô downtown mới thấy Winnipeg có "sinh khí" hơn Regina,  nhất là với thích thú bất ngờ khi đi qua Celebration Circle được nghe  những thổ dân địa phương trong  những lễ phục đầy màu sắc đang trình diễn những bài ca dân tộc trong  tiếng trống bập bùng. Nằm ngay tại ngã ba sông Hồng (Red river) và sông  Assiniboine, Winnipeg là nơi hội tụ về văn hóa, địa lý và lịch sử và  cũng là nơi cung cấp điện năng cho sự phát triển của Canada hôm nay và  ngày mai. Một nơi đông vui khác ngay bờ sông tập trung khá nhiều người  ăn uống, buôn bán, dạo chơi là "The Forks". Chúng tôi ghé vô nhà hàng  Kim Long ở 235 Portage Avenue ăn tối rồi hỏi thăm về những  nơi "hấp dẫn" nhất của thành phố này để ngày mai đi tham quan và qua  Fremont hotel ngay trên đường Lombard ở phía sau để thuê phòng trọ ngủ  qua đêm. Thật bất ngờ khi chúng tôi thấy Canadian Museum for Human  Rights ngay trên đường Portage này. Tối hôm đó, chúng tôi đi dạo bờ sông  dọc theo đường Waterfront Drive và công viên Stephen Juba.
Rẻ qua xa lộ 417, chúng tôi vô thủ đô Canada: Ottawa và thành phố Gatineau.5. Ottawa -Thủ đô Canada , nằm giữa Ontario và Quebec, gần như ở trung tâm phần phía đông Canada, thành lập từ 1857. Năm 1969, Ottawa và Gatineau nhập chung thành khu vực thủ đô (Canada’s Capital Region) với diện tích khoảng
4,715 km2, có sông hồ, đầm lầy, thung lũng, đồi núi và đồng bằng nằm 2 bên bờ sông Ottawa, cao độ tb. 79 m trên mực nước biển, có khí hậu lục địa (nóng ẩm/ hè; lạnh và có tuyết/ đông), dân số: trên 1 triệu (năm 2000), ngôn ngữ chính: Anh và Pháp. Tập trung các cơ quan hành chánh trung ương, quy tụ nhiều di tích lịch sử, viện bảo tàng và tượng đài nhưng có lẽ nổi bật nhất là tòa nhà Quốc Hội(Parliament Hill). Một nét đôc đáo khác của thủ đô là màn trình diễn của 32 kỵ binh trong quân phục màu đỏ trên St. Laurent Boulevard gần Sandridge Road.
Con đường Confederation Boulevard là con đường chính của thủ đô Ottawa mà không ai có thể nói là không  muốn đến đây để ngắm nhìn và chụp hình, nhất là vào ngày Quốc Khánh  Canada - 1 tháng 7 hàng năm với diễn hành, cờ xí rợp trời và lễ hội.  Chúng tôi được một người bạn là nha sĩ tại đây mời đi ăn buffet ở một  nhà hàng Tàu rồi dẫn đi xem Phòng triển lãm quốc gia (National Gallery),  viện bảo tàng văn hóa (Museum of Civilization) và đảo Victoria - nơi mà  quốc gia cổ xưa Alqonquin trước kia đã dùng làm nơi hội họp, buôn bán  và lễ hội nên giờ đây Canada  vẫn muốn dùng hòn đảo này làm nơi bảo tồn và phát huy truyền thống văn  hóa, đồng thời cũng là nơi giáo dục thế hệ trẻ, vừa thu hút du khách qua  chương trình “Aboriginal Experiences.” Tối hôm đó, chúng tôi cũng có  dịp đi bộ với nhau dọc theo bờ sông, ngắm nhìn những ngôi nhà mắc tiền  trong ánh đèn lung linh và kể về kỷ niệm thời còn đi học với nhau trong  trường Lê Quí Đôn.
6. Montréal & Québec:
Sáng  sớm, tội nghiệp bác đã chuẩn bị điểm tâm y hệt thời còn sống ở Saigon:  bánh mì, beurre, hột gà, pâté, jambon với café sữa hay ovaltine. Ông già kéo ra vườn chỉ cây nho xum xuê mà bác dùng để làm rượu. Sau đó, bác lại làm tour guide chỉ đường cho tôi lái. Từ Place Ville Marie, khu nhà trên đường Prince-Arthur  và Square Saint-Louis với những kiểu nhà Victorian xây thập niên 1950s  hay cũ hơn, qua khu Expo cất năm 1967 đến khu Casino và phố cổ Montreal,  rồi đi ngang Thư Viện hay trung tâm hội nghị (Convention Centre) thành  phố, đến Canadian Centre for Architecture, bác đều giảng giải rõ ràng  cho tôi nghe lịch sử của từng nơi.  Lái dọc theo sông Lawrence thích hơn  là lái vòng vèo qua đường phố Montréal; nhất là khi thấy bảng ARREST thay cho bảng STOP(hay ARRÊT ở Québec) thì ... khó chịu làm sao. Tối  hôm đó, ông đưa chúng tôi đi ăn buffet La Bonne Carte rồi vô Marché  Bonsecours mua sắm đến khuya mới về nhà. Montréal là 1 thành phố Tây ở  Canada.Hơn  một thế kỷ rưỡi Montréal là trung tâm kỹ nghệ và tài chánh của Canada.  Những kiến trúc đa dạng bao gồm hãng xưởng, kho hàng, nhà máy xay lúa  mì, xưởng lọc dầu vẫn còn tồn tại trong tình trạng nguyên thủy cho đến  ngày nay khiến cho thành phố còn rất nhiều di tích lịch sử, kiến trúc cổ  nhất là ở khu trung tâm thành phố và khu bến tàu cũ. Những tòa nhà với  kiểu cách Âu Châu trong khu phố cổ gồm có: Vương Cung Thánh Ðường Ðức Bà  (Notre Dame de Montréal Basilica) xây năm 1672, chợ Bonsecours mở năm  1847, những tòa nhà ngân hàng vào thế kỷ 19 trên con đường St. James là  những kiến trúc làm chùng lòng du khách hoài cổ mỗi khi ghé thăm  Montréal. Những ai muốn thưởng ngoạn thiên nhiên có thể trèo lên đồi  Mont Royal xem hoa nở và nhìn xuống thành phố rực rỡ ánh đèn khi hoàng  hôn buông xuống nhưng gây ấn tượng nhiều nhất cho du khách đến viếng  Montréal vào mùa Ðông băng giá là Thành Phố Trong Lòng Ðất (Underground  City) có tên là RÉSO ở khu trung tâm và là quần thể xây cất ngầm dưới  mặt đất rộng lớn nhất thế giới từ trước đến nay.Ý tưởng thành lập thành phố ngầm là do nhà thiết kế đô thị Vincent Ponte nảy sinh khi xây cao ốc văn phòng Place Ville-Marie và thương xá ngầm phía dưới vào năm 1962 để che những đường sắt ở phía Bắc nhà ga trung ương Central Station. Ðầu tiên người ta xây đường hầm nối Central Station và khách sạn Queen Elizabeth Hotel. Năm 1966 khi xây dựng hệ thống xe điện ngầm người ta đã thiết lập thêm những đường hầm nối từ nhà ga Bonaventure đến Château Champlain Hotel, cao ốc Place du Canada, Place Bonaventure, Central Station và Windsor Station. Những đường hầm rộng lớn này là khu đầu tiên thành hình thành phố ngầm sau này. Từ 1984 đến 1992 thêm hàng chục cao ốc mới xây khác cũng nối đường ngầm vào những trạm xe điện trong lòng đất nhất là vào cuối thập niên 1990 những công trình xây dựng đồ sộ như tòa nhà chọc trời cao nhất Montréal Le 1000 De La Gauchetière, Le 1250 René-Lévesque và Montréal World Trade Centre càng bành trướng thành phố ngầm thêm rộng ra.
Université de Montréal, Montréal, Québec, CanadaMcGill University,
b. Québec: Sáng hôm sau, chúng tôi đi Québec. Thay vì đi xa lộ 20, chúng tôi lấy xa lộ 40 đi dọc theo con sông. Ghé ăn sáng ở Trois-Rivìeres xong thì đến nhà thờ Notre-Dame-du-Cap Sanctuary và lái một vòng thành phố Trois-Rivières rồi mới đi thẳng vô nhà thờ Notre-Dame des Anges gần trung tâm thành phố Québec vì chúng tôi đã hẹn với một người bạn (vốn sống ở Québec từ năm 1981 đến nay) ra gặp và dẫn đường vô nhà ông ấy. Ai dè, nhà ông cũng rất gần đó và mời chúng tôi cứ ở nhà ông, chật một chút mà vui. Vợ con ông lăng xăng mời ăn trưa xong rồi hãy đi chơi. Ông nhiệt tình đưa chúng tôi ra bến tàu Vieux Port coi cho biết và ghé vô Musée de la Civilisations, rồi lái ra khu Vieux (Old) Québec chơi. Tuy là phố cổ nhưng có nhiều "danh lam thắng cảnh" xen lẫn với nhiều khu buôn bán (đồ cổ/ antiques, lưu niệm, quần áo, thức ăn...) y như bên Tây. Tiếng Tây của dân Québec khác với tiếng Tây của dân Pháp, như boisson thì nói là breuvage, souper thay cho diner, etc....
Đi bộ khu này để xem cho biết Tây quy hoạch và thiết kế đô thị ra sao. Có những con đường lát đá cobble stones dẫn đến những "di tích lịch sử" như Chateau Frontenac là lâu đài với những ngọn tháp nằm trên cao nhìn xuống khu Lower, với những căn nhà xây theo kiến trúc thế kỷ 18, 19 trong vùng Fleuve Saint-Laurent và Vieux-Quebec.
còn hoạt động đến bây giờ. Đảo này dài 34 km x rộng 8 km và nối với đất  liền bằng cầu Pont de l'Île (Bridge of the Island) mà ban đầu có tên là  Pont Taschereau. Chemin Royal, con đường chính của đảo đi xuyên qua 6  ngôi làng, chạy dọc theo bờ sông và có thể nhìn thấy Cap-Tourmente, nhà  thờ Sainte-Anne de Beaupré nổi tiếng, the Laurentides, và thác  Montmorency Falls từ bờ phía bắc của con sông. Bờ phía Nam có thể thấy  dãy Appalachians, the City of Levis và đảo Ile aux Grues Islands.  Du khách có thể xuống tàu đi dạo trên sông quanh đảo y như bateaux  mouches ở Paris.Từ khu Maritime Park of St Laurent với những thuyền buồm  và du thuyền đủ loại, chúng tôi lái qua 6 ngôi làng: Sainte-Pétronille,  Saint-Laurent, Saint-Jean, Saint-François, Sainte-Famille và  Saint-Pierre. Tối hôm đó, ông chủ nhà mới giải thích cặn kẽ cho chúng  tôi hiểu vì sao Québec muốn độc lập, tự trị hoài mà vẫn chưa được.  Hình  như trong máu dân Tây có chữ ....gàn?Sáng hôm sau, ông chủ nhà đưa đi coi thác Momenrency và sông Momenrency rất đẹp với đập nước, qua khu Beaupre, khu Porte Dauphine, porte St. Jean Smudge, porte St Louis và đi tàu trên sông trước khi vô nhà thờ Sainte-Anne de Beaupré. Trở lại khu Grande Allee và tà tà đi bộ trên đường Saint-Louis, chúng tôi vô ăn trưa trong một nhà hàng French Canadian. Sau đó, anh đưa đi xem City Hall, Musée de Québec, Musée NATIONAL DES BEAUX-ARTS DE QUEBEC, Chaussée des Ecossais, vườn hoa St Roch, Place de l'Institut Canadien và đường Stanilas, phố D'Auteuil và Port Kent, Boulevard Honore-Mercier, dọc theo bờ sông St Lawrence... Québec rất đẹp và lãng mạn, nhiều di tích lịch sử mang hình ảnh của một nước Pháp mới bên kia bờ Đại Tây Dương. Người Việt sống ở Québec dường như vẫn mang theo kỷ niệm của những ngày học trường Tây ở Việt Nam và vẫn thích Pháp hơn Mỹ ! Thành thật mà nói, Québec rất quyến rũ với rất nhiều cảnh đẹp và tài nguyên phong phú, người dân ở đây cũng siêng hơn và cởi mở hơn dân Tây chính gốc. Chia tay ông bà chủ nhà, chúng tôi hối hả lái xe về Kingston để gặp một người bạn thân của tôi từng sống ở trại tị nạn Pulau Bidong, Malaysia.
7. Ontario: có lẽ đây là tỉnh bang giàu mạnh nhất và có diện tích mặt hồ nước lớn nhất trong số 10 tỉnh (province) và 3 hạt (territory) của Canada. Ontario còn có thác Niagara nổi tiếng thế giới. Trên đường đi Kingston, chúng tôi ghé qua xem cầu Ivy Lea (hay còn gọi là 1000 Islands Bridge) nổi tiếng bắc qua nhiều hòn đảo giữa Kingston và 1000 Islands từ Gananoque, ON đến Collins Landing gần vịnh Alexandria, NY dài 19 km (8.5 miles) rồi đến thăm hãng Hershey làm kẹo chocolate ngay tại thành phố nhỏ Smiths Falls, ON.
ọi người thảo luận. Đầu tiên, A. đề nghị nên đi ra thăm 1000 Islands trong đó có  Heart Island vào sáng sớm mai. Sau bữa ăn trưa, A. đưa mọi người đi một  vòng thành phố Kingston. Chung quanh City Hall và bến tàu đi 1000  islands là vài nhà bảo tàng (museum), di tích lịch sử (historic sites),  một rạp hát và những tiệm ăn, hiệu buôn của một tỉnh lẻ. Bên kia vịnh là Fort  Henry với những di tích cho thấy Canada đã chiến đấu oanh liệt để chống  lại sự tấn công của quân Mỹ trước đây. Bên kia đường là viện bảo tàng của binh chủng truyền tin Canada và Barriefield Rock Garden.
Canada mà A. đề nghị mọi người nên đi đến cho biết vì hòn đảo nhỏ này có đất đỏ  với những ngọn đồi xanh mượt nên có nhiều sân golf, nổi tiếng với tôm  hùm là món khóai khẩu nhất và những bãi tắm tuyệt vời. Cầu Confederation  dài 13 km nối liền đảo với đất liền là một công trình kỳ quan của Canada; sau cầu Ivy Lea Bridge - The Thousand Islands International Bridge. Sáng sớm, mọi người háo hức ra bến tàu đi qua 1000 Islands. A. yêu cầu mọi người coi lại xem có mang theo US Passport; nếu không,  nhân viên hải quan Mỹ sẽ không cho lên Heart Island. Giữa mặt hồ  Ontario mênh mông như biển nước, vô số đảo nhỏ nhô lên. Có một chú nai  đang bơi từ hòn đảo này qua cù lao k
ia.  Tàu ghé vô Heart Island, nhân viên hải quan Mỹ kiểm tra từng người kỹ  lưỡng trước khi cho mọi người lên tham quan lâu đài Boldt với chuyện  tình thật đẹp của vợ chồng tỷ phú chủ nhân lâu đài này. Một vườn hoa làm  thành hình trái tim ngay giữa lâu đài, với Alster Tower và ông chủ vẫn  giữ tất cả kỷ vật của người vợ yêu quý trong lâu đài mà ông xây cho vợ.  Tiếc thay, vợ ông chết sớm nên chưa được sống trong lâu đài này. Trước  khi lên tàu rời lâu đài, ai cũng bùi ngùi về chuyện tình này  và chợt nghĩ ở Mỹ cũng khó kiếm được vợ chồng nào như vậy. Lên tàu đi  dạo tiếp vùng hồ Ontario nằm ngay biên giới Mỹ - Canada này. Thực ra có  đến 1864 hòn đảo, rất nhiều đảo hoàn toàn không có người ở, do một nhóm  du khách người Pháp tình cờ khám phá vào thập niên 1870s. Lên bờ, chúng  tôi chỉ kịp ăn với gia đình A. rồi chia tay để lái xe tiếp về Toronto  theo lịch trình đã định.
Theo xa lộ 401 đi tiếp về hướng Nam khoảng hơn 3 giờ sau thì đến Toronto. Vô Mississauga  thuê phòng ngủ xong, tắm rửa và nằm ngủ một chút thì chúng tôi ra khu  Chinatown để gặp lại những bạn học LQĐ cũ. Phải công nhận là người Hoa  đi đến đâu cũng làm thương mại rất thành công, mở chợ, buôn bán sầm uất  và luôn giữ nét độc đáo của họ. Người Việt gốc Hoa là sợi dây trung gian  liên kết giữa 2 cộng đồng Hoa và Việt. Mississauga nói riêng, Toronto  nói chung có nhiều dân Á Châu hơn; nhất là người Hoa.
Đến  Toronto cũng nên ghé PATH - khu shopping nằm ngay dưới mặt đất lớn nhất  TG, kéo dài 27 km (16 miles) với diện tích 371,600 m2 (4 million sq.  ft). Kế đó là St. Lawrence Market trong khu Old Town Toronto. Eaton  Centre, với 320 shops và quán ăn, 17 cinemas và  khách sạn Marriott với 400 phòng, xây năm 1979, thu hút khá đông người  đi mua sắm; nhất là những hàng hiệu từ Ý, Mỹ, Pháp. Chúng tôi cũng đi  qua Queen Street West, Kensington Market, Little Italy dọc theo đường  Clair West, hay khu Greek communitytrong khu "The Danforth," Little  Portugal ở Dundas và Bathurst, hoặc Gerrard India Bazaar ở Gerrard và  Greenwood nhưng vui nhất là khu Chinatown dọc theo Dundas với rất nhiều  hàng quán Việt Nam nên phải gọi đây là khu Việt Nam. Thích nhất là tha  hồ ăn trái cây tươi từ Việt Nam, Thái Lan, Tàu... như mãng cầu, măng  cụt, bòn bon, dâu, xoài, cóc, ổi, mít, v.v... Ăn trái cây trừ cơm ! Ăn  thỏa thích, cho đã thèm nhưng dứt khóat đừng đem về Mỹ. Muốn coi DVD  phim Tàu copy với giá rẻ ($1 USD/ disk) cũng vào khu này. Phở và cơm  Việt Nam ở đây không ngon như Bolsa nên muốn ăn cho ...đỡ ghiền thì phải  về Mississauga thôi. Thịt quay và đồ Tàu cũng không ngon như bên  Vancouver.
đã đến thác nước này 3 lần rồi nhưng nói thật là thác nước này vẫn rất hấp dẫn; nhất là khi đứng từ bờ bắc (phía Canada) nhin qua bờ Nam (Hoa Ky) thì thật tuyệt vời ! Ðêm xuống, ánh đèn pha rọi sáng cả khu này thì ...đẹp vô cùng. Đậu xe vô parking của khu khách sạn và casino là đã nghe tiếng thác nước đổ xuống ầm ầm rồi. Bước qua bên kia đường là đã nhìn thấy sự hùng vĩ của thác nước Niagara này.  Nhiều người chịu khó mặc áo mưa rồi đi tàu ra đến gần phía chân thác  nước. Thác nước tung bọt trắng xoá dưới ánh nắng chiếu rọi, như hàng  nghìn chuỗi ngọc đang treo lơ lửng, thỉnh thoảng lại có 7 sắc cầu vồng  xuất hiện, trở thành một kỳ quan ở Bắc Mỹ. Nơi thác đổ xuống, do có dòng  nước chảy xiết, đã tạo nên một hồ sâu cực lớn. Chổ sâu nhất là 55 m.  Tổng chiều dài của thác Niagara là 1.240 m. Ở giữa có một đảo nhỏ, rộng  khoảng 350 m, gọi là đảo Sơn Dương (dịch âm từ Đảo Gete). Đảo chia thác  thành hai phần: bên trái (hướng tây) tương đối rộng, nằm bên trong lãnh  thổ Canada, rộng khoảng 739 m, với mực nước rơi là 49,9 m. Do hình dáng  cong như móng ngựa nên còn được gọi là thác Móng ngựa(horseshoe). Bên  phải (hướng đông) nằm trong lãnh thổ nước Mỹ, gọi là thác Ameilojra,  rộng 305 m, mực nước rơi là 50,9 m. Tổng chiều dài của thác Niagara là  1.240 m. Do sông Niagara (bắt nguồn từ nước hồ Erie, chảy vào hồ  Ontario, tổng chiều dài là 56 km), là con sông chia cắt giữa bang New  York của Mỹ và bang Ontario của Canada. Tổng chiều dài từ đầu dòng chảy  đến điểm đổ xuống là 99 m, là một trong những con sông có tiềm năng thuỷ  điện rất lớn ở bắc châu Mỹ. Ở thượng lưu sông chảy trên địa hình bằng  phẳng, mặt sông rộng, nước chảy chậm. Đến trung du, sông trở nên hẹp,  nước chảy mạnh hơn. Ở nơi đó có một khúc quanh hẹp. Con sông sau khi đã  trải qua các vách núi đá vôi cheo leo thì đổ xuống ở độ cao 51 m. Dòng  nước đổ mạnh tạo nên thác Niagara. Thỉnh thoảng, vào 22 giờ tối thứ sáu  và chủ nhật, du khách đến thác sẽ được xem bắn pháo bông. Xa xa là chiếc  cầu biên giới với dãy xe nối đuôi nhau chờ đi qua trạm biên phòng. Sau  vụ "9/11", du lịch coi bộ ...mệt với sự kiểm soát và ánh mắt cú vọ của  mấy ông police và custom quá.Chúng tôi rủ nhau đến chùa Vạn Phật (Cham Shan Temple ở địa chỉ: 7254 Bayview Avenue, Thornhill) với 1 tháp cao và 1 chính điện nhưng dạo này coi bộ vắng hoe nên chúng tôi lại lái xe xuống khu phố Niagara-on-the-Lake nổi tiếng với hoa và cây cảnh. Nghe nói nữ hoàng Anh thường qua nghĩ hè ở đây và dạo phố này nên nhà nào cũng chăm sóc nhà cửa, vườn tược rất kỹ. Du khách đi lại tấp nập,phố xá đông vui. Những giỏ hoa sặc sỡ treo đầy dọc theo 2 bên đường rợp cây cao bóng mát. Lái dọc theo bờ hồ cung mát, với nhiều căn nhă rộng lớn với landscape đẹp vô cùng; nhất là những ông chủ vườn nho và làm rượu vang.
Khu parking thật rộng với trên 20.000 chổ đậu xe. Bên trong là khu Bourbon/ New Orleans, khu Europa, khu Chinatown & chùa Tàu, khu Aquariums, khu hồ phun nước, khu nữ trang, khu tượng đài(bằng đồng hay đá cẩm thạch/ marble), v.v... Có hồ tạo sóng nhân tạo, có khu mở ra để thấy bầu trời, có rạp hát và đủ loại hàng quán. Vô đây mới thấy Fashion Islands bên này nhỏ xíu, chẳng thấm thía gì ! Ðâu phải cái gì của Mỹ cũng số dách đâu?
  | ||
 
  | ||
 
  | ||
 
  | ||
 
  | 
Trên   đường trở lại Seattle, chúng tôi sẽ phải du hành 2 ngày trên biển. Lúc   này tàu chạy về hướng Nam dọc bờ biển Canada. Nhìn ra hai bên hông tàu   thì chỉ thấy mênh mông chân trời chớ không có cảnh vật gì đẹp.
Nếu bạn không biết chơi thể thao hay có một thú vui gì đó như tắm hồ, đánh bài, chơi cờ, đọc sách... để giải trí thì có thể hai ngày này sẽ là hai ngày nhàm chán. Tôi thấy trên tàu có nhiều người trùm mền nằm ngủ trên các ghế bố bên bờ hồ tắm. Họ không ngủ trong phòng mà ra đây nằm ngủ nên trông tức cười lắm. Họ giống như những người vô gia cư. Thật ra, được ngủ một giấc ngon lành bất kể trời đất chung quanh cũng là tốt rồi. Ði du thuyền có một điều ích lợi đó là chúng ta có những ngày khác bình thường.
Ðó là những ngày không suy nghĩ, không vội vã, không lo toan. Chúng ta có thể không đi du lịch và vẫn ngủ ngon, nhưng công việc nhà thì vẫn phải làm. Ở đây thì khác vì muốn làm cũng không được. Thôi thì hãy thoải mái, vui chơi. Có chán thì kiếm một hoạt động gì đó để làm. Thật ra, trên tàu có nhiều sinh hoạt như chơi cờ, đố vui, xem phim, tập thể thao, chơi bóng bàn, nghe đàn dương cầm, nhảy đầm, hát karaoke, làm đẹp, nghe kể chuyện vui...
Nếu bạn không biết chơi thể thao hay có một thú vui gì đó như tắm hồ, đánh bài, chơi cờ, đọc sách... để giải trí thì có thể hai ngày này sẽ là hai ngày nhàm chán. Tôi thấy trên tàu có nhiều người trùm mền nằm ngủ trên các ghế bố bên bờ hồ tắm. Họ không ngủ trong phòng mà ra đây nằm ngủ nên trông tức cười lắm. Họ giống như những người vô gia cư. Thật ra, được ngủ một giấc ngon lành bất kể trời đất chung quanh cũng là tốt rồi. Ði du thuyền có một điều ích lợi đó là chúng ta có những ngày khác bình thường.
Ðó là những ngày không suy nghĩ, không vội vã, không lo toan. Chúng ta có thể không đi du lịch và vẫn ngủ ngon, nhưng công việc nhà thì vẫn phải làm. Ở đây thì khác vì muốn làm cũng không được. Thôi thì hãy thoải mái, vui chơi. Có chán thì kiếm một hoạt động gì đó để làm. Thật ra, trên tàu có nhiều sinh hoạt như chơi cờ, đố vui, xem phim, tập thể thao, chơi bóng bàn, nghe đàn dương cầm, nhảy đầm, hát karaoke, làm đẹp, nghe kể chuyện vui...
|   Xe ngựa đưa du khách thăm viếng Victoria.  | 
Những  trò  này cũng có thể giúp bạn vui vẻ trong thời gian trên tàu. Về phần  tôi,  sau mấy ngày đi chơi, tôi thấy sức khỏe khá hẳn lên. Những bịnh  kinh  niên như nhức đầu, mỏi mắt (vì làm việc nhiều trên máy vi tính)  đều  không thấy xuất hiện. Như vậy rõ ràng đi chơi là có ích rất nhiều  vì ít  ra, mình cũng có những ngày vui vẻ và thay đổi cuộc sống ít  nhiều. Trong  hai ngày trên biển tôi cỉ ngồi ngắm thiên hạ vui chơi và  tham gia vài  sinh hoạt như sau:
Chợ trời trên tàu
Lúc  10  giờ sáng ngày Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2010, trên tàu có tổ chức bán hạ  giá  hàng rẻ tiền. Họ bán đồng hồ, bóp xách, khăn quàng, dầu thơm, quần  áo,  dây nịt... Giá mỗi món 10 đô la. Chúng tôi cũng ghé thăm coi chơi  thì  thấy đây là nơi bán hàng Trung Quốc, phẩm chất không tốt. Thế mà du   khách cũng ham mua và chen chân không lọt. Ðúng là chủ tàu đã đánh  trúng  tâm lý mua hàng giá rẻ của mọi người.
Xem show “Do you wanne a dance”
Tối  nay,  chúng tôi tới rạp hát rất sớm từ lúc 7:30 để ngồi ở phía trước  xem một  show ca vũ nhạc cuối cùng. Tối nay, cũng là một tối ăn mặc đẹp  để chụp  hình vì tối mai sẽ vui chơi ở Victoria.
Tương  tự  như các show khác, hôm nay rạp cũng đầy khách. Tối nay, đoàn vũ cũ  đã về  nghỉ, một đoàn vũ mới tới trình diễn với các vũ công khác. Như  vậy  chúng tôi cũng may mắn được xem hai đoàn vũ khác nhau của tàu  Princess.
Chương   trình hôm nay thiên về vũ hơn nhạc nên không có ban nhạc sống mà chỉ  có  nhạc thu sẵn. Tuy nhiên các màn vũ cũng rất đặc sắc. Họ trình bày  các  thể điệu vũ của các nước Mỹ, Áo, Tây Ban Nha, Ấn Ðộ... Các vũ công  nam  nữ đều còn rất trẻ và biểu diễn hết mình. Họ được khán giả khen  ngợi qua  những tràng vỗ tay thật dài.
Marriage Game Show
Sau   chương trình ca nhạc, chúng tôi tiếp tục qua một phòng khác để xem một   show vui về gia đình. Show này do anh Lee là quản trò và tương tự như   trên tàu Carnival, anh mời ba cặp vợ chồng đã cưới nhau 6 năm, 25 năm,   và 50 năm lên sân khấu để phỏng vấn và ra 5 câu hỏi cho chồng khi vợ   vắng mặt sau sân khấu rồi hỏi ngược lại. Nếu hai vợ chồng cùng trả lời   đúng thì sẽ được điểm cao. Các câu hỏi đều hơi bậy một chút nên “cấm trẻ   em” vào xem. Câu hỏi mà nhiều người thích nhứt:
- Nếu ông muốn “yêu” bà thì làm sao?
Ông  già  nhứt trả lời: Khi lên giường thì chỉ cần nói: “Let do it.” Còn ông  trẻ  nhứt lại nói: “Please.” (Người trẻ thì lịch sự hơn ông già rất  nhiều!)
Show  này  vui, đông khách nhờ người dẫn chương trình rất dí dỏm, hài hước  rất đáng  đi coi dù du thuyền nào cũng có và lập đi lập lại nhiều lần.
Tối  Thứ  Năm, trước khi đi ngủ, chúng tôi lại phải vặn đồng hồ lại. Kỳ này  thì  tăng thêm một giờ để xài giờ Seattle cũng là giờ Cali.
Show giao lưu “Hậu Trường Sân Khấu”
Ngày  Thứ  Bảy, 4 tháng 9, 2010, vào buổi sáng có show giao lưu giữa đoàn ca  nhạc  Princess và khán giả. Có chừng 100 người đến tham dự tại rạp hát.  Ban tổ  chức gồm có anh Lee, trưởng ban văn nghệ, các nhạc sĩ, vũ công,  ca sĩ,  nhân viên kỹ thuật ánh sáng, âm thanh...
Mở  đầu  anh Lee chào mừng khán giả và cho biết để thực hiện một show ca vũ  nhạc  của Princess tốn khoảng 1 triệu rưỡi đô la. Thời gian thực hiện  từ khi  có ý tưởng cho tới lúc trình diễn là 1 năm. Ca sĩ, vũ công đều  là những  người chuyên nghiệp có học từ các trường đại học ở khắp nơi.  Dàn đèn, kỹ  thuật âm thanh... đều có chuyên viên và hệ thống vi tính  điều khiển...
Sau  đó,  du khách đặt nhiều câu hỏi về kỹ thuật biểu diễn, về trang trí sân  khấu,  âm thanh, ánh sáng, về đời sống của các ca sĩ, vũ công... Cuối  cùng du  khách được mời lên sân khấu để đi một vòng ra sau hậu trường để  xem một  phòng hóa trang và thay đồ cũng như xem các thiết bị ở phía  sau. Nhiều  người còn được chụp hình với các ca sĩ mà họ yêu thích nữa.
Show  này  tuy không giải thích hết mọi câu hỏi của khán giả nhưng cũng là  một dịp  để tìm hiểu về kỹ thuật làm các chương trình ca vũ nhạc của Mỹ.
Làm sao trẻ lại trong vòng 10 phút?
Hết  show,  trên đường về phòng chúng tôi thấy có một phòng kia đang thuyết  trình  về đề tài: “Làm sao trẻ lại trong vòng 10 phút?” Ðọc chủ đề thấy  hấp dẫn  quá nên vào coi. Té ra, đó là quảng cáo cho kỹ thuật chích chất  Botox  (và những hóa chất khác) để xóa vết nhăn ở ngay trên tàu này. Ði  du  lịch, bạn có thể làm đẹp nhưng chắc giá mắc lắm. Nội chuyện hớt  tóc, làm  móng tay thì cũng mắc rồi. Có một ông bạn Mỹ cho biết ông đã  từng hớt  tóc trên tàu với giá 50 đô la một lần. (Do đó bạn nên chú ý...  hớt tóc  trước khi đi du lịch!).
Ăn uống ngày cuối cùng trên tàu
Trưa  nay,  trên lầu 14 lại có buffet kiểu Alaska. Người ta cho ăn cá hồi hun  khói,  cá lạnh, tôm lạnh, và nhiều món lạnh khác. Thấy đồ lạnh là  thấy... dở  rồi. Vậy mà tôi thấy người ta sắp hàng dài dài để lấy thực  phẩm và mua  bia để nhấm nháp. Bởi vậy mới biết khẩu vị mỗi người mỗi  khác. Món mình  không thích lại có rất nhiều người “khoái.” Trong khi  đó, trong nhà hàng  buffet Horizon Court lại có nhiều món ăn Á Ðông rất  hợp khẩu vị của tôi  như bánh xếp nhồi thịt, sườn nướng kiểu Tàu, tàu hủ  nấu với thịt gà, cà  ri thịt thỏ và nhiều món ăn lạ và hấp dẫn khác.  Hôm nay là ngày trên  biển cuối cùng nên tàu cho ăn ngon quá!
Chưa  hết,  vào buổi chiều họ còn đãi món ăn Ðức nữa. Lúc 5 giờ rưỡi, chúng  tôi đã  lên nhà hàng buffet để ăn tối sớm chuẩn bị cho chuyến xuống tàu  thăm  thành phố Victoria - Canada. Tưởng mình tính hay, ai dè bà con  cũng giỏi  quá. Họ đã tới sớm và sắp hàng dài dài. Hình như tối nay  không ai chịu  ăn ở nhà hàng sang trọng ở phía dưới. Ai cũng ăn buffet  cho lẹ để đi  chơi. Hay là họ khoái món ăn Ðức với chủ đề Octoberfest,  tức là liên  hoan uống bia như ở Munich vào tháng 10? Nhà hàng dọn ra  nhiều món đặc  sản của Ðức rất ngon nhưng tôi thích nhứt là món xúc xích  ăn với bắp cải  chua. Món ăn này lạ miệng nên chúng tôi thưởng thức tận  tình. Người ta  còn bán bia để du khách nhậu lai rai nữa.
Ăn xong, chúng tôi lên lầu 15 để coi tàu cặp bến và ngắm nhìn thành phố Victoria từ trên cao.
Victoria - thành phố yên bình
Tuy   chương trình báo là tàu cặp bến lúc 7 giờ mà hôm nay tàu tới nơi sớm  hơn  lúc 6 giờ 15. Lúc này trời còn sáng. Bến du thuyền lớn ở xa thành  phố  nên chúng tôi không thấy các kiến trúc ở ngay sát Victoria. Thay  vào đó  là khu bờ biển và nhà cửa dân chúng ở gần đó. Cảm tưởng đầu tiên  của  chúng tôi về thành phố Victoria là một nơi đây tuy nhỏ, nhưng đẹp  và yên  bình.
Trời   không mưa nên ai cũng muốn rời tàu sớm cùng một lúc do đó chúng tôi  phải  sắp hàng khá dài. Hơn nửa tiếng sau, chúng tôi mới ra được khỏi  tàu.  Nhân viên hải quan Canada chỉ đứng nhìn du khách chớ không coi  giấy tờ  hay xét hỏi gì hết. Ra khỏi hải quan thì có xe buýt chở bạn vào  thành  phố cách đó chừng 2 km. Tiền xe khứ hồi là 7 đô la. Bạn có thể  đi bộ vào  thành phố cũng được nhưng tốn khoảng 30 phút.
|   Victoria - thành phố đầy hoa.  | 
Trên xe, bác tài giới thiệu sơ qua về thành phố Victoria của mình như sau:
Ðây  là  thủ phủ của tỉnh bang British Columbia. Thành phố nằm ở phía Ðông  Nam  của đảo Vancouver. Dân số của thành phố khoảng 300,000 người trong  đó  30% sống bằng nghề du lịch. Do khí hậu tốt nên rất nhiều người già   chuyển về sống hưu trí ở đây. Cư dân Victoria tự hào rằng cộng đồng của   họ là cộng đồng xưa nhứt Canada với 150 năm thành lập. Khu phố Tàu cũng   là một khu phố xưa nhứt của người Hoa ở Châu Mỹ. Victoria có một hải   cảng dài và lãng mạn và Tòa Nhà Quốc Hội đồ sộ và đẹp đẽ. Họ cũng có một   tòa lâu đài được bảo tồn kỹ để giới thiệu với du khách nét cổ xưa của   mình
Nhưng   điều mà Victoria tự hào chính là nơi đây là một thành phố hoa. Chúng  tôi  thấy có hoa ở khắp nơi: trước sân nhà, bên bờ hải cảng, trên cột  đèn và  ở nhiều khu công viên. Victoria còn có Butchart Garden là một  vườn hoa  đẹp nhứt thế giới nữa.
Xe  ngừng ở  trạm xe buýt trên đường Government là con đường lớn gần bến  cảng để  chúng tôi đi chơi. Bác tài dặn phải về sớm trước 11 giờ để được  đưa trở  lại tàu.
Chúng  tôi  đi về phía hải cảng. Dọc đường, chúng tôi đi ngang một khu có  nhiều nhà  hàng Thái, Ấn, Việt... Giờ này người ta đang ăn tối nên mùi  đồ ăn bốc  ra thơm phức.
Rẽ  trái  để ra cảng, chúng tôi thấy bên bờ hải cảng là văn phòng hướng dẫn  du  lịch. Phía trước là những bồn hoa vàng, đỏ, cam đẹp lắm nên chụp  hình ở  đây rất nhiều. Tiếp tục đi về phía Tây dọc theo bờ cảng chúng  tôi thấy  hải cảng này chỉ gồm các tàu nhỏ. Hôm nay Thứ Bảy, ở phía  dưới, nơi có  một sân rộng, người ta có trình diễn ca nhạc và bán hàng  ăn uống. Chắc  có hội chợ hay lễ lạt gì đó. Dân địa phương, du khách  dừng lại để nghe  nhạc và ngắm cảnh rất đông đảo.
Bên  trái  chúng tôi là một khách sạn rất lớn và cũng rất cổ xưa. Ðó là  khách sạn  Empress, một kiến trúc đẹp với sân cỏ rộng có trồng nhiều hoa  đỏ thật  xinh xắn. Phía tay trái của khách sạn là Tòa Nhà Quốc Hội của  bang  British Columbia. Ðó là một kiến trúc xây bằng đá kiểu Anh trông  rất đồ  sộ. Bề ngang tòa nhà chắc cũng cả trăm mét. Giữa nhà có một mái  vòm cao  thể hiện lối kiến trúc xưa cả trăm năm trước. Dọc bờ cảng có  bảo tàng  sáp và một chiếc tàu có nhiều hoa rất đẹp.
Ngược  lại  phía Ðông, ở một góc đường, mấy anh nhạc sĩ đang đem đàn ra hát  biểu  diễn để xin tiền du khách. Tiếng đàn thật hay làm cho nơi đây thêm  náo  nhiệt và vui vẻ. Trên đường mấy chiếc xe ngựa chở du khách nhàn du  đi  ngắm cảnh. Hơi lạ là cũng có mấy chiếc xe lôi do người đạp để chở  khách  nữa. Tất cả đã đem lại cho Victorria một khung cảnh thật vui tươi  và náo  nhiệt.
Xem  một  vòng nơi vui nhứt Victoria là khu hải cảng xong thì trời tối.  Chúng tôi  trở lại đường Government để xem các cửa hàng bán đồ kỷ niệm,  ngọc thạch,  kem, bánh kẹo... Tôi thấy họ bán nhiều bánh ngọt làm với xi  rô chế tạo  từ nhựa của cây phong. Ðây là sản phẩm đặc biệt của Canada  mà nhiều  người thích mua về làm quà cho người thân.
Khoảng  9  giờ, chúng tôi sắp hàng chờ tới phiên lên xe buýt về bến cảng. Ở đó  cũng  có một tiệm bán đồ kỷ niệm với giá rất rẻ nên cũng vào coi cho  biết.
Chúng  tôi  trở lại tàu lúc 9 giờ rưỡi, kết thúc chuyến thăm vội vã một thành  phố  đẹp. Chúng tôi cứ tiếc hoài là phải chi tàu tới sớm hơn để mình có  dịp  đi chơi nhiều hơn tới tận khu Phố Tàu hay vào thăm Butchart Garden,  một  vườn hoa đẹp nhứt trên thế giới.
Thủ tục rời tàu
Nửa  khuya  đêm Thứ Bảy tàu rời bến Victoria trở về Seattle. Sáng sớm hôm  sau thì  tàu cặp bến. Tàu Princess có giới thiệu tua đi chơi Seattle để  thăm tháp  Needle và chợ Pike, sau đó sẽ đưa ra phi trường với giá 60 đô  la một  người nhưng chúng tôi đã biết hai nơi đó rồi nên không tham  gia. Sáng  nay, họ cũng gởi hóa đơn tính tiền típ cho nhân viên trên  tàu. Mỗi người  bắt buộc phải trả 10.50 đô la một ngày, bảy ngày vị chi  là 73.50 đô la.  Hóa đơn của chúng tôi không có gì sai nên không phải  khiếu nại gì hết  (họ còn bớt mỗi người 25 đô la vì mua vé trên Internet  từ mấy tháng  trước).
Chúng  tôi  sẽ bay chuyến bay vào lúc 3 giờ chiều nên không vội vã mà từ từ  thức  dậy thu dọn hành lý. Tàu Princess bắt buộc khách phải trả phòng  lúc 8  giờ sáng nên chúng tôi phải kéo hành lý lên nhà hàng ở lầu 14 ăn  sáng.  Sau đó, chúng tôi xuống phòng Explorer ngồi chơi xem truyền hình  tới lúc  người ta cho ra khỏi tàu. Thủ tục rời tàu cũng chậm. Từ lúc ra  khỏi tàu  cho tới khi lên xe buýt để đi ra phi trường cũng cả tiếng đồng  hồ. Rồi  lại phải ngồi chờ trên xe cho đủ người mới chạy. Tới phi  trường, qua  cổng an ninh xong để vào trong thì cũng gần 12 giờ. Thấy có  chuyến bay  sớm về Los Angeles lúc 12 giờ, chúng tôi tới hỏi thử coi  còn có chỗ  trống để về sớm hay không thì người ta nói chuyến nào cũng  đầy. Hôm nay  là ngày Lễ Lao Ðộng nên khách đông quá. Thế là phải chờ  tới 3 giờ trưa  để bay đúng chuyến.
Chuyến   bay về Los Angeles êm ả, đúng giờ. Chúng tôi về tới nhà lúc 6 giờ  chiều  cùng ngày kết thúc chuyến du ngoạn dài hơn 2,000 dặm đến Alaska,  vùng  đất lạnh nhưng phong cảnh đẹp tuyệt vời.
 
No comments:
Post a Comment