“Việt  Nam: Một thời để nhớ”, đến với độc giả hằng tuần, ghi lại tất cả những  cái hay, cái đẹp của đất nước và con người Việt Nam trước đây, mà tiêu  biểu là thời gian trước khi chế độ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam  sụp đổ hồi Tháng Tư năm 1975. Không phải đất nước và con người Việt Nam  ngày nay dưới chế độ Cộng Sản hoàn toàn không có gì là hay, là đẹp,  nhưng nếu dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trên thế giới hiểu biết  được tường tận chủ nghĩa Cộng Sản - như những gì họ hiểu ra khi Liên  Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết, cha đẻ của các chế độ độc tài,  đảng trị cộng sản thế giới, cùng các nước chư hầu ở Ðông Âu tan rã hồi  năm 1991 - thì những người Cộng Sản Việt Nam đã không thể nào đánh chiếm  được Miền Nam tự do cách nay hơn ba thập niên, để rồi đưa đẩy đất nước  đến chỗ đầy những hỗn loạn xã hội và ô nhiễm môi trường trong khi con  người Việt Nam thì ngày càng thêm phân hóa trước cái hố cách biệt quá  sâu giữa người giàu và người nghèo, bởi vì quyền lực và tiền bạc chỉ tập  trung vào tay giới đảng viên và cán bộ cộng sản thống trị đất nước.
Trên  trang báo này là các nhận định, hoài niệm hoặc tâm tình về những gì thể  hiện nét đẹp và cái hay của “một thời vàng son xưa cũ” (the good old  days) hoặc của “những ngày xưa thân ái” (như ý nhạc Phạm Thế Mỹ), tỉ như  một “Hà Nội ba mươi sáu phố phường,” một “Huế đẹp, Huế thơ” và một “Sài  Gòn, Hòn Ngọc Viễn Ðông” hoặc, ấn tượng hơn, là cái hương vị đậm đà của  một tô phở Bắc, cái nét e ấp trong tà áo dài tha thướt của một nữ sinh  Ðồng Khánh và mấy câu vọng cổ ngọt đến lịm người trên sông nước Tiền  Giang. Gần đây nhất và mang tính thời sự hơn, “Việt Nam: Một thời để  nhớ” có thể chỉ là lời tâm sự về một Sài Gòn cũ với “nắng còn in trên  đại lộ” nơi có dáng dấp của một “dáng huyền còn đứng nghiêng nghiêng”  như từng được thể hiện qua lời nhạc của Nam Lộc, người “nhạc sĩ của  Tháng Tư”...
Các bài viết đăng tải trên trang “Việt Nam:  Một thời để nhớ” không nhất thiết phản ảnh quan điểm của Nhật Báo Người  Việt, mà chỉ là quan điểm riêng của từng tác giả. Muốn đóng góp bài vở  cho trang “Việt Nam: Một thời để nhớ” xin quý vị email về địa chỉ: vannphan@yahoo.com.
Võ Long Triều
 Làng  tôi nhỏ tên gọi là Phú Thuận, cạnh bên Tân Hưng và Châu Hưng, thời Pháp  thuộc nhập ba xã thành Châu Phú Hưng, quận Bình Ðại, trước thuộc tỉnh  Mỹ Tho sau nhập vào tỉnh Bến Tre. Khai sanh của tôi vẫn ghi tên xã Châu  Phú Hưng tỉnh Mỹ Tho.
 Thời  tiết miền Nam, đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long chỉ có hai mùa: Mưa và  Nắng. Mưa từ khoảng tháng 4 cho đến tháng 10, nắng từ tháng 11 đến tháng  3. Trận mưa đầu mùa gọi là “sa mưa dông”. Năm nào hạn hán, đồng khô cỏ  cháy thì dân chúng xôn xao, già trẻ bé lớn đều than vang khấn vái. Bởi  vì ruộng khô, nhà nông không cày cấy được, trễ mùa thất thu gia đình  khốn khó. Những gia đình không phải nông dân cũng cần hứng nước mưa chứa  vào lu, mái, để dành uống suốt năm. Khi tấm giặc thì dùng nước sông  nước viếng. Do đó trời mưa hay nắng hạn quan trọng vô cùng đối với dân  trong làng.
 Nắng hạn đi bơi
 Nếu  cuối tháng 4 mà trời vẫn còn nắng hạn, dân làng tha oán, hương chức hội  tề nhóm họp liên miên, bàn tán có nên tổ chức “Ði Bơi” để cầu trời xin  mưa hay nên chờ đợi. Ði bơi là một truyền thống lâu đời của làng tôi.  Một hình thức toàn ban hương chức hội tề và dân làng cầu trời một cách  trang trọng và thành khẩn nhằm mục đích duy nhứt là xin trời mưa xuống  cho dân nhờ.
 Hương  chức hội tề có nghĩa là ban lãnh đạo làng xã. Ban cố vấn gồm hai bậc  trưởng thượng uy tín nhứt trong làng: Hương Bái, Hương Bồi do ban hành  chánh của làng bình bầu và ông Hương Cả đích thân mời thỉnh. Nhiều vị  Bái, Bồi hoặc khiêm nhường, hoặc muốn làm giá, nên eo xách từ chối đôi  ba lần trước khi nhận chức. Hai vị nầy chủ xướng việc tế lễ cúng bái trong làng như cúng thần hay tế trời đất.
Ban  hành chánh gọi là hương chức hội tề gồm có 12 vị: Hưng Cả (chủ tịch),  Hương Chủ (phó chủ tịch), Hương Sư (cố vấn), Hương Trưởng (ngoại vụ),  Hương Chánh (nội vụ), Hương Giáo (giáo dục), Chán Hương Quản và phó  (cảnh sát) Hương Thân (thư ký nôi dịch), Hương hào (thư ký ngoại dịch),  Chán Lục Bộ và phó (tài chánh, nhiệm vụ chính là thu thuế ). Thời pháp  thuộc, lúc tôi còn nhỏ có khoản thuế thân là ác nghiệt nhứt. Mỗi người  dân trong làng từ 21 tuổi trở lên phải đóng thuế mỗi năm để có quyền  sinh sống trong làng. Người ta bị xét giấy thuế thân như xét thẻ căn  cước bây giờ. Có người nghèo quá trốn thuế bị chánh lục bộ đề nghị Hương  Quản bắt “đóng trăn”. Nhiều người ở tỉnh thành không biết đóng trăn là  gì, có lẽ cũng nên giải thích sơ qua.
 Cây  trăn làm bằng hai tấm ván dầy bề ngang năm tất bề dài khoảng hai thước,  chồng lên nhau theo chiều đứng của bề ngang, kẹp trong bốn cộc cứng  chắc ở hai đầu, tấm ván trên có thể kéo lên hạ xuống. Trên mặt hai tấm  ván có khoét hai lỗ nhỏ vừa với cổ chân người. Tội phạm đút hai chân  vào, tấm ván trên hạ xuống, trên hai cộc cây của hai đầu có cây nêm đóng  cứng lại, hai tấm ván khít rịt không kéo lên xuống được nửa cho tới khi  có người mở nêm. Tội nhân chỉ còn nằm chờ hương chức hội tề phân xử hay  giải về quận hoặc tỉnh thành. “Ðóng trăn” đồng nghĩa với còng nằm bây  giờ, bằng một thanh sắt xỏ ngang còng chân đóng dính vào sàn nhà.
 Nếu  hạn hán kéo dài làng phải tổ chức “đi bơi”. Ban hội tề chỉ thị cho  ông“dân trường”, người tùy phái của làng đi khắp nơi thông báo ngày dân  làng phải đi bơi. Trai tráng và người khỏe mạnh trong làng phải đem theo  “cây dầm”, loại chèo tay ngắn để bơi, những ai không có dầm phải cầm  theo một khúc cây giả như cây chèo.
 Sáng  sớm ngày phải đi bơi, tiếng mõ đánh ba hồi lợi ba dùi, dân làng tụ tập  trong sân đình cũng gọi là “nhà việc”, nơi hương chức hội tề nhóm hợp.
 Mõ  hồi một là tiếng mõ đánh liên hồi rồi ngưng và đệm liền thêm một tiếng.  Ðó là tiếng còi báo động có việc khẩn cấp. Còn mõ ba hồi lợi ba dùi là  để tập họp dân làng với mục đích gì đó. Mõ hai hồi lợi hai dùi là việc  quan, gọi hương chức hội tề, thường là Hương cả và Hương Quản.
 Cái  mõ thường làm bằng một khúc cây gốc “mù u” dài khoản một thước rưởi.  Giữa thân mõ có khoét một lỗ bề ngan chừng 5 phân, dài một thước, đục  bộng ruột. Dùi mõ cũng làm bằng cây mù u ngắn. Mõ đánh nghe tiếng cum  ngân vang, dội xa. Dùng làm vật báo hiệu cho dân trong làng.
 Sau  ba hồi mõ mọi người có mặt đầy đủ, hương chức hội tề mặc khăn đóng áo  dài, có ông đội nón lá, ông nào giàu đội “nón cụ”, kết bằng cánh lông  chim, lông vịt màu xanh hay đen trên chót nón có gắn hình tháp nhọn bằng  kim khí màu bạc, quay nón bằng vải nhiễu xanh hay đỏ. Tất cả xăn ống  quần lên khỏi đầu gối. Ý nghĩa là sẽ có nước nhiều đến nỗi phải xăn quần  lên mà lội.
 Ông Hương cả dẫn đầu, tất cả hàng một theo sau. Ông lớn tiếng hô to:
 - Lạy trời mưa xuống! Mọi người la theo:
 - Hố bơi! (Tay cầm chèo hay cầm cây giả bơi như ngập nước phải ngồi thuyền.)
- Cầu trời cho ruộng nước đầy đồng!
 - Hối bơi!
 - Dân làng cày cấy dài công!
 - Hố bơi!
 - Ðược mùa no ấm mọi người vui tươi.
 - Hố bơi!
 - Dân Làng Phú Thuận rập đầu!
 - Hố bơi!
 - Cầu xin trời phật thương tình
 - Hố bơi! Một ông hội tề nào đó cũng xướng:
 - Cả làng cầu khẩn ơn trên!
 - Hố bơi! Một người dân nào đó cảm hứng dạng miệng cũng xướng theo:
 - Chúng con cầu xin trời đất!
 - Hố bơi!
 - Mưa xuống cho ruộng đầy nước cho lúa đầy đồng.
 - Hố bơi!
 Ðám  đông theo hàng dọc đi khắp trên các bờ đê, hết thửa ruộng nầy đến thửa  ruộng khác, cứ như thế mà xướng hô và cứ như thế mà bơi cho đến trưa mới  trở về sân làng giải tán. Năm bảy ngày sau mà trời chưa mưa lại phải đi  bơi nữa. Và nếu có mưa thì mọi người khoan khoái bảo rằng nhờ đi bơi.  Thời tôi còn sống trong làng có dịp chứng kiến được ba lần dân đi bơi  trong đó có thân phụ tôi.
 Cúng đình tế thần
 Mỗi năm làng phải tổ chức “đám đình” một lần để cúng Thần cầu xin cho dân an và sinh hoạt của làng phát đạt.
 Thần  là một bài vị do vua sắc phong ghi tên một danh tướng, để trong một hợp  nhỏ màu đỏ bên ngoài có mạ kim tuyến vàng. Bởi vậy mới có câu “Sinh vi  Tướng tử vi Thần”. Tên ông thần làng Phú Thuận, tôi có biết qua lúc còn  nhỏ, nay đã quên.
 Ðám đình nào cũng phải có một gánh hát bội diễn lại những chuyện cổ tích bên tàu thường dựa vào chuyện Tam Quốc Chí. Cũng có năm phải tế lễ đặc biệt cúng trời đất thần thánh mỗi khi có hạng hán hay thiên tai do bệnh truyền nhiễm hoành hành. Lệ  cúng đình mỗi năm theo ngày tháng qui định, kéo dài ba ngày. Các hương  chức cấp cao từ Chánh Hương Quản trở lên phải cúng một mâm xôi đậu, vị  nào nghèo xin làng châm chế cúng xôi trắng như ông Hương Giáo Sen cũng  không thành vấn đề, các hương chức nhỏ cúng xôi trắng. Lệ cúng đình phải  có một hoặc nhiều con heo quay và heo trắng. Chầu hát, heo quay, heo  trắng thường do các ông trưởng thượng giàu sang cúng hiến dù là hương  chức hay dân thường. Nếu không đủ vật tế lễ thì làng xuất tiền “công  nho” ra mà mua hay trả tiền thuê gánh hát.
 Ngày  chánh lễ cửa đình mở rộng, Ông nội tôi, Quan Huyện, đi đầu, Hương Bái,  Hương Bồi khăn đóng áo dài trịnh trọng theo sau, học trò lễ mặc áo dài  bằng nhiễu xanh đầu đội mũ quan có vải lòng thòng sau lưng chấm ót, chấp  tay đứng hai hàng. Ông Bái khởi xướng có ca có kệ: Cúc cung bái.., học trò lễ phụ họa nghe êm tai rợn người.
 Hành  lễ xong, đãi tiệc linh đình, quan ngồi bàng quan, dân ngồi trên hai bộ  ván cũng thường gọi là bộ ngựa ở nhà sau, hết đợt nầy tới đợt khác,  người trong làng xúm nhau xào nấu dọn ăn cho đến khi hết người dự.
 Sáng  hôm sau dân trường bưng mâm theo ông Hương Hào Ba xin yết kiến ông nội  tôi. Ông Ba đại diện làng kiến thịt cho Quan Huyện. Trên mâm có một đầu  heo quay, đủ mọi thứ lòng, tim gan phèo phổi, mỗi thứ một miếng nhỏ, một  đuôi heo, một miếng thịt và một gốc xôi cắt xéo. Tục lệ là phải kiến  “đầu đuôi thủ vĩ,” có nghĩa là tượng trưng cho tất cả con heo.
 Nhiệm  vụ của gánh hát là phải về làng sớm hai ngày. Chiều chiều giống trống  lắt cắt lùng tùng để quảng cáo cho dân biết và loan truyền sang làng lân  cận để họ tham dự. Trai gái hồ hởi chờ ngày xem hát, thực tế nhứt là có  dịp làm quen, trêu ghẹo nhau giao tình. Con nít thì ăn hàng, xem hát,  phá phách đủ trò. Bánh kẹo chỉ có bánh ích, kẹo đục, hột vịt lộn, bắp  rang bắp nấu, bánh phòng, mía, sửa đậu nành. Vậy mà trẻ con ăn uống hết  ngày nầy sang ngày khác hết đêm nầy sang đêm khác vẫn còn muốn ăn. Ban  đêm có hát bội đông người xem, ban ngày thì đám con nít vui đùa đông  nghẹt. Tuồng hát do ban hội tề bàn thảo và chọn những khúc truyện nào  phải diễn trong ba đêm. Sau khi chọn cốt truyện rồi, Hương Trưởng Biện  tới nhà tôi trình cho ông nội và thỉnh ý xem ông chấp thuận hay muốn  thay đổi cốt truyện tuồng hát. Luôn luôn ông nội tôi bảo: Làng quyết  định sau tôi thuận vậy, cần gì phải thay đổi. Nhưng ông thường hỏi ai  đưa ra đề nghị và ai thuận, ai bát như thế nào, rồi ông bình luận vắn  dài cưới ngất với vẽ hài lòng.
 Ðêm  hát đầu tiên ông nội tôi được mời “cầm chầu”. Có nghĩa là ngồi trước  một cái trống to đề trên khuôn, vừa tầm tay, dùi trống vấn vải đỏ. Mỗi  khi ông nội tôi cảm thấy hay vì điệu múa, tiếng hát ly kỳ, cảnh tượng  cảm động, Tướng công giận dữ thì ông đánh thùng một tiếng tỏ ý ông khen  hay, hai tiếng khá hay, ba tiếng rất hay, nổi hứng ông đánh bốn năm  tiếng khen hay lắm thật hay Có khi ông cầm tiền bảo người hầu đem quăn  lên sân khấu thưởng cho một đào kép nào đó thì đào kép đó hát vừa xong  đoạn của mình vào trong phải trở ra liền cuối sát đầu, chân bước lui  nhanh chống với tiếng trống cơm nhỏ đánh liên hồi. Ðào kép đó lập lại ba lần tỏ vẻ lạy tạ ơn. Gánh hát nào mà không được người cầm chầu khen thưởng bằng tiếng trống thì đừng hồng năm sau trở lại làng tôi hát tiếp.
 Nhười  ta thường nói trong đời có bốn cái ngu trong đó có cái ngu cầm chầu.  Bởi vì khi người cầm chầu mà khen thưởng không đúng lúc, đúng thì, sẽ bị  người xem phê bình và chế diễu khinh khi. Mà thói thường đâu có ai cùng  một ý với ai, bởi vì đoạn hát nầy có người cho là hay, có thể người  khác thấy dỡ, hoặc dù có hay cũng chưa đáng ba dùi trống. Hay là có chỗ  không đáng một tiếng thùng.
 Tiếng  đồn ông nội tôi cầm chầu hay. Có lẽ vì chức quan của ông khá lớn đối  với dân làng nên người ta không dám chê, hay vì tuổi già ông đã từng đọc  và bàn qua khá nhiều về truyện Tam Quốc Chí.*Mùa nắng bắt đầu, tôi đi xôm lươn 
Thời  tiết đồng bằng sông Cửu Long có hai mùa: nắng và mưa. Ðồng ruộng khô  dần, bùn sệt cứng, bước chân đi không lún. Những con lươn còn sống sót  rút sâu xuống hang. Ðêm đêm chúng nhoi đầu thò mỏ ra hứng sương. Do đó,  người đi xôm lươn ban ngày nhìn kỹ mặt đất thấy chỗ nào có một lỗ nhỏ  trơn lu, hay lợn cợn dính vài hột bùn còn ướt do lươn ngậm đất lấp lỗ  thông hơi thì biết liền bên dưới có lươn.
Tôi  học xôm lươn, nghéo ếch là do bác Ba Ninh chỉ cách và mách dạy kinh  nghiệm. Bác Ba là người giúp việc cho gia đình tôi từ lúc bác còn nhỏ  cho đến khi bác lớn khôn. Ông nội tôi cưới vợ cho bác và cấp cho vợ  chồng bác 2 công dòng, gần đất thánh gia đình có lăng mộ của ông cố tôi.  Vợ chồng bác ba Ninh trồng khoai, tỉa bắp, nuôi heo, nuôi gà để sinh  sống.
Mỗi  khi nhà tôi có cúng giỗ, đám tiệc hay ngày Tết thì cả nhà bác tự nguyện  đến dọn dẹp nhà cửa, chưng bông, phụ lo việc bếp núc. Cũng có khi cần  người lao lực ba tôi chỉ hú một tiếng là có mặt bác ngay, cùng với một  người bạn trang lứa của bác cũng sống bằng sự giúp đỡ của ông nội tôi.  Bác Ba là dân nhậu nên biết nấu những món ăn ngon như: lươn rút xương,  lươn um dừa, lươn xào lăn, ếch bầm xào khô, cháo ếch đậu xanh, lá cách  xào nhái, chim chuột, quay chảo. Vì là dân nhậu nên bác thường đi kiếm  mồi trong thiên nhiên bằng cách đào chuột, đuổi chim, nghéo ếch, xôm  lươn, câu rê... Tôi thường theo bác trong mọi sinh hoạt thích thú đó mỗi  khi bãi trường về quê.
Cây  xôm lươn làm bằng thanh sắt nhỏ dài độ một thước. Ðầu trên tra cứng vào  cán cây tròn bằng cổ tay dài một tấc, vừa đủ để nắm chặt xôm sâu. Ðầu dưới cây xôm chẻ làm đôi, nông rộng ra độ một phân, giũa nhọn, chặt ngạnh để lươn dính vào không tuột ra được.
Buổi  sáng đi sớm, lươn còn luồn trong bùn cạn, xôm dễ trúng. Càng về trưa  lươn càng lặn sâu tránh nóng, người xôm phải nhấn lút cây chĩa, có khi  cũng không trúng nó. Mỗi lần tìm được lỗ hơi thì cứ đâm thẳng cây xôm  xuống bùn, đâm chung quanh một vùng chừng một thước vuông. Nếu may mắn  trúng vào lưng nó thì cây xôm động đậy ngay, tay cầm cây xôm cứ vặn tròn  nhiều vòng cuốn tròn con lươn lại làm cho nó khó vùng vẫy để thoát  thân. Và cứ thế mà từ từ kéo nó lên gỡ ra bỏ vào đục.
Cái  đục là một thứ giỏ tròn đan bằng tre, miệng ống cao có nắp đậy, có giây  mang. Những ai lười không mang đục theo thì chỉ cần một sợi giây lát xỏ  vào mang xuyên qua miệng con lươn, xách theo chờ cơ hội xỏ thêm nhiều  con khác nếu trúng mối. Ngày nào đi về tay không thì khỏi mất công mang  đục lè kè. Không mang theo đục cũng có cái lợi là đi dọc đường, người  quen hỏi đi đâu mình nói đi xôm lươn, dù là trên đường về nhà tay không,  tránh khỏi bị người ta yêu cầu dở đục cho xem thử có nhiều hay ít.
Sự  tò mò của dân quê trong làng nó có một thứ thâm tình khó nói. Họ ngưỡng  mộ nếu thấy mình xôm được nhiều lươn, họ tội nghiệp nếu thấy cái đục  trống rỗng! Còn người chủ đục thì sượng sùng mắc cỡ, hoặc khi có nhiều  thì phải biếu xén hàng xóm láng giềng. Người nào ích kỷ chỉ xôm vài con  đủ ăn, đủ nhậu ngày đó thôi. Còn những con lươn ngoài đồng thì “rộng đó”  chờ ngày khác. Làng tôi có ba người nổi tiếng là tay nghề xôm lươn  nghéo ếch. Bác Ba Ninh, Dượng Ba Thình và Chú Sáu Lưu, cả ba đều là dân  nhậu lai rai, sống ngày qua ngày một cách thoải mái. Họ cuốc dòng trồng  khoai, cày ruộng gặt lúa theo mùa. Ðuổi chim nghéo ếch đào chuột theo  lúc. Tôi thường dự những buổi nhậu của Bác Ba Ninh và bạn bè bác, những  món tôi thích ăn nhứt là lươn xào lăn, ếch bầm xúc bánh tráng và chim mỏ  nhát quay chảo. Thiên hạ đồn rằng thịt lươn có tính cường dương, lúc  nhỏ tôi ăn thường nhưng không biết nó có dương tính hay không? Tôi thuộc  loại “phá mồi”Ô nghĩa là chỉ biết ăn mà không biết nhậu. Bác ba luôn  luôn nhắc mời tôi: “Ăn đi con”, mặc dù chỉ có một con lươn hay vài con  ếch không đầy một dĩa mà tôi chĩa gần hết phân nữa. Các bác vui thấy tôi  ưa thích món nầy hay món khác còn mấy ổng thì chỉ cần vài trái me non,  me giốt hay khế chua, nhâm nhi uống hết xị rượu nầy đến xị khác, có khi  tôi ăn no nê về nhà mà trưa chiều trở lại còn thấy đám nhậu sần sì người  tỉnh, người say.
Người  ta có thể bắt lươn bằng cách đặt ống trúm. Họ lấy một ống tre dài hai  mắt, đầu cuối có mắt tre bít lại, phần trên chẻ ra thành nhiều cộng banh  lớn ra, đương với nan tre vuốt mỏng chừa lỗ vuông nhỏ, đầu trên đậy  bằng một cái hom, con lươn chun vô được mà không thể chui ra. Trong cái  bộng tre đương đó người ta bỏ mồi thúi, thường là ruột gà, rắn chết sình  chặt từng khúc ngắn. Ðem ống trúm ghim xuống bùn trong mương hay rạch,  vài ngày sau lấy lên có thể bắt được lươn.
Mình  lươn có nhớt rất trơn, nhớt là một phương tiện tự vệ, mỗi khi bị nắm  bắt, tự nhiên mình lươn tiết ra một chất nhớt trơn tru để thoát nạn. Cho  nên kỹ thuật bắt lươn không phải là mò trúng nó dưới bùn rồi nắm chặt.  Nắm trọn mình con lươn trong tay mười lần nó vuột ra hết tám, chín lần.  Người bắt lươn mỗi khi mò trúng nó thì quấu hai ngón tay trỏ và giữa,  siết chặt vào ba ngón còn lại, làm cho xương sống nó công sức luồn vuột  của nó bị giảm thiểu tối đa. Mò bắt lươn trong mương, trong đìa tát cạn  tôi có làm qua. Còn đặt ống trúm thì chưa bao giờ tôi thử.
Cuộc  sống của mấy ông bợm nhậu nói trên thật thanh nhàn an phận, không ganh  đua, không tham vọng. Con cái trong nhà giúp cha mẹ nối nghiệp nhà nông.  Hình như cuộc sống của họ bị đóng khung vào giai cấp nông dân. Họ chấp  nhận như vậy. Sung túc hay đói khổ chỉ nhờ trời mưa nắng thuận mùa hay  nghịch cảnh.
Lúc  tôi còn nhỏ thấy họ chân lấm tay bùn thì tội nghiệp. Thấy họ vui chơi  hưởng lạc với bạn bè qua ly rượu chén trà, tôi tiếc giùm cho họ. Tại sao  họ không tận sức lao động tạo thêm điều kiện cho gia đình mình vươn  lên. Bây giờ tuổi đời quá thất thập, vinh nhục, sang giàu có nếm đủ thì  tôi lại tiếc rẻ sao mình không được ông trời ban phát cho một nếp sống  giản dị an nhàn như vậy? Phải chăng là vì tôi đứng núi nầy trông núi nọ?
Thật  ra, sống trong xã hội nào cũng vậy, nhà quê, tỉnh thành, xứ tân tiến  hay nghèo chậm tiến, nơi nào cũng có những người ham danh, tham lợi, bon  chen ganh ghét, đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái. Nơi nào cũng có  người tốt, kẻ xấu. Nhưng thông thường, đa số người dân quê chất phác  thật thà, lòng dạ cởi mở trọng nghĩa, khinh tiền, nhứt là người miền Nam  thời đại trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Có  những buổi trưa xôm lươn về, trời nắng chang chang, mấy thằng chăn trâu  đồng tuổi với tôi ngồi chễm chệ trên lưng con trâu đang cúi sát đầu,  mài miệng nó trên đám cỏ cùng còn sót ở các bờ đê. Mùi nắng khét, bùn  tanh, pha mùi rơm rạ là đặc hương của đầu mùa nắng. Chiều tối, người ta  đốt rơm tưới thêm nước với mục đích tạo thật nhiều khói để un cho muỗi  bớt cắn trâu trong chuồng. Mùi khói đó đối với tôi có một hương thơm đặc  biệt. Tất cả mùi thơm của lúa chín, của bông cau, của mạ non, mùi bùn,  mùi khói là những đặc thù của ruộng vườn quê tôi. Nó làm tôi nhớ lại cái  định nghĩa cụm từ “lòng yêu nước” do Thiếu Tướng cố Tổng Thống Charles  de Gaulle, người hùng đã cứu nước Pháp hai lần, viết trong quyển hồi ký  “L'appel du 18 Juin” của ông. Khi ông tự hỏi lòng yêu nước là gì? Thì  ông cũng tự trả lời: Phải chăng là mùi thơm của đồng quê, lúa mì, cây  cỏ, nó khiến cho con người cảm nhận bổn phận phải bảo vệ mùi hương đó  cho xứ Pháp tồn tại dù phải hy sinh tính mạng của mình. Tôi nghĩ ông  Charles de Gaulle có lý. Yêu nước, thương quê hương là như vậy. Nhớ nhà  là cái gì? Phải chăng là nhớ đồng quê, làng xã của mình, hay là đường  phố với hàng cây bóng mát, với nhà lầu, cao ốc, xe cộ đầy đường đối với  người ở tỉnh thành. Nhớ như bài hát nhớ Saigon của nhạc sĩ Nam Lộc:  Saigon ơi ta đã mất người trong cuộc đời.
Có  những buổi chiều mặt trời sắp lặn, từng đoàn năm ba con trâu lớn nhỏ,  với người mục đồng nón lá trật sau lưng, đầu trần, ngâm nga một vài câu  vọng cổ buồn. Hay là xa xa có tiếng vi vu của anh chăn trâu nào đó biết  thổi sáo, giọng thăng trầm thật ảo não trong cảnh chiều tà. Hay là có ai  đó ngồi trên lưng trâu hút gió lẩn biến trong màu tím sậm dần của hoàng  hôn. Thật là thơ mộng, tiếc rằng lớn lên tôi không còn cơ hội thưởng  thức được những cảnh trời chiều đẹp buồn như vậy. Nếu không, biết đâu  tôi cũng đã thành thi sĩ vô danh.
*Nghéo ếch
Ði  sâu vào mùa nắng, đất ruộng càng khô, những dấu chân trâu giẫm đầy trên  ruộng, khắp đồng lồi lõm, đi guốc không được, chân không thì bị cấn  đau. Cũng may mà còn mấy gốc rạ, do người cắt lúa không tận gốc, cho nên  cứ đạp trên đó mà đi thì không bị cấn. Dân quê làng tôi, thời đó ít có  ai mang giày dép, trừ khi lên tỉnh thành hay đi đám tiệc, có người mang  dép đi dự đám cưới đám giỗ, tiệc xong ra về họ lột khăn đống cởi áo dài  vắt vai, cởi dép cặp nách đi chân không, có ông còn lột cả quần dài mặt  quần cụt, áo bà ba về nhà. Bộ đồ bà ba là y phục thông dụng nhứt cho  người lớn, nam cũng như nữ trong làng. Nông dân lao động thì mặc quần  đùi, áo bà ba rách vá nhiều lỗ, cho dù trong nhà của họ lúa ví đầy bồ,  trong tủ có giấy xăng nhét đầy “ruột ngựa”. Ruột ngựa là một thứ dây nịt  may bằng vải có nhiều ngăn đựng tiền để cất giấu. Ðêm ngủ cột vào lưng  sợ “ăn trộm đào ham”, hay phòng khi hữu sự chạy giặc, trốn cướp thì cột  vào hông mà chạy. Ăn trộm đào hầm có nghĩa là đa số nhà ở thôn quê làm  bằng cây, vách ván hay vách lá. Kẻ trộm muốn vào nhà chỉ cần khoét sát  vách một lỗ to dưới đất, đủ rộng để cho người chui vô chui ra vào nhà  lấy quần áo, lục tủ tiền.
Trở  về chuyện nghéo ếch cũng là một trong những sinh hoạt vô cùng thích thú  của thời thơ ấu mà bây giờ tôi nghĩ lại còn mơ tiếc. Ðôi khi tôi ôn tất  cả những thú vui của tuổi đời từ nhỏ đến ngày nay và biết rằng không  khi nào tôi sống lại được những giây phút đó. Vì vậy tôi ngầm thưởng  thức bằng kỷ niệm, bằng mơ mộng trong trí nhớ. Ðôi khi bị bà xã quấy  rầy, kêu tôi nói chuyện nầy chuyện khác, lôi tôi về với thực tế của hiện  tại, tôi hay càu nhàu trách móc.
Nắng  khô loài ếch còn sống sót, lớp nhảy vào rừng hay bụi rậm, chui nằm dưới  nhiều lớp lá, hay trong những hang hóc, gốc cây, chờ đêm đêm nhảy ra ăn  sương hứng mát. Lớp ếch khác đào hang trên ruộng còn ướt, sâu cạn tùy  theo ruộng gò, ruộng trũng. Chúng ngậm đất lấp lỗ hang từng ngụm làm nắp  hang sần sùi, sáng sớm còn ỷ ướt. Ðến trưa nắng khô nhưng vẫn biết được  là hang ếch vì quan sát kỹ thấy chung quanh rìa tròn, lấp đất vụng về,  sần sùi như dấu ráp từng ngụm đất. Lấy cây khều mạnh, bật nấp ra thấy  liền một hang sâu cạn tùy ếch lớn nhỏ, tùy gò hay trũng. Ếch to thường  gọi là “ếch bung”. Loài ếch nhái cũng như loài cá, trời cho chúng nó một  giác quan đoán biết được mùa khô sắp đến, phải chịu đói khát thời gian  dài, nên chúng tìm mọi cách ăn thật nhiều tạo đầy mỡ trong cơ thể để  tiêu hao dần lúc nắng hạn không có mồi. Giống như loài ốc ở Âu Châu,  chúng ăn no đủ mập để ngủ Ðông. Hay là chim, thú ở vùng tuyết lạnh cũng  phải chuẩn bị cho thời gian thiếu thực phẩm.
Loài  cá đồng thì cảm nhận được mùa khô sắp đến nên cá lóc, cá rô, cá trê đua  nhau bỏ ruộng hướng về sông, rạch hay ao đìa mà lội, lóc, nhảy, tìm  đường sống. Do đó người ta mới làm hầm đón ngả đi của chúng mà bắt, hoặc  những con di chuyển không kịp kẹt lại nằm trên những vũng nước nhỏ sắp  khô, người ta chui vào ruộng lúa chín tìm bắt gọi là “bắt cá cạn”. Còn  tôi bây giờ tạm thời đi nghéo ếch.
Cây  nghéo làm bằng thanh sắt thép nhỏ, thường là cây kèo của dù hư. Người  ta lấy nó chặt ngạnh, giũa nhọn, uốn cong chừng hai phân. Lưỡi nghéo  được tra vào một cán cây tre dài một thước. Lúc đầu mới tập nghéo tôi  theo bác ba Ninh. Về sau tôi đi rảo quanh ngoài ruộng một mình, nếu gặp  hang, lật nắp, thò nghéo xuống đụng phải vật gì mềm thì biết liền có  ếch. Nghéo trúng, ếch la to nghẹo nghẹo inh ỏi, tôi mừng rỡ kéo lên.  Thường trúng bụng lòi phèo, đổ ra một thứ gì như cái bông có tia tia màu  cam, đó là mở ếch người ta gọi là “mùng tơi”. Ếch nào có nhiều mùng tơi  là ếch đó mập. Tôi gỡ bỏ ếch vào đục, còn bác ba Ninh tôi thấy bác cột  dây ngang eo con ếch, cột nhiều con thành một xâu xách lòng thòng. Ếch  sống lâu khó chết dù lòi ruột đổ máu mà từ trưa đến xế chiều về tới nhà  chúng vẫn sống nhăn.
*Mùa mưa bắt đầu tôi đi soi ếch
Trời  sa mưa giông, đám mưa đầu mùa thường có giông to gió lớn, sấm sét ầm ĩ,  mây đen giăng mịt trời, những lằn sét chớp như điện xẹt từng đường dài  cong queo. Cảnh tượng đó đối với thằng nhỏ như tôi thật hãi hùng. Một  phần vì sợ giông bão sập nhà một phần vì sợ trời gầm sét đánh trúng  mình. Dù trong đầu tôi nghĩ nhà nền đúc tường gạch làm sao sập được, vậy  mà tôi cứ mãi đứng nhìn cây cối đưa qua, quặc lai gần như chúng nó muốn  ngả. Cái sợ vẫn ám ảnh tôi cho đến hết cơn mưa. Trời mưa như xối nước,  sân trước nhà đầy nước, chảy xuống ruộng không kịp. Hột mưa lớn từ trên  cao rớt xuống văng bọt lí tí cùng sân. Cơn mưa tạnh, gió lặng, khí mát,  khoan khoái lạ thường.
Ðứng  sau nhà nhìn ra đồng ruộng mênh mông nước ngập đều, nếu không có những  bờ đê ngăn cách sẽ giống như mặt biển im lìm không sóng gợn. Cảnh tượng  quen thuộc nầy toàn dân trong làng ai cũng chờ đợi từ mấy tháng nay.  Người thì van vái cho trời mưa đúng lúc cày cấy kịp thời, người thì mong  mỏi trời mưa vì nước chứa uống suốt mùa khô đã cạn. Chờ mong, trông  đợi, rồi cuối cùng hớn hở vui mừng nhứt là tôi bởi vì tối nay tôi sẽ  được đi soi ếch với chú tư Phiến, người giúp việc trong gia đình mà tôi  gọi một cách thân thương là “binh tướng”. Chú tư có trách nhiệm chăm sóc  anh em chúng tôi.
Nhiều  ngày trước chú đã chuẩn bị lồng đèn, giỏ đục để đi soi ếch nhái rồi.  Chú biết thế nào trời cũng phải mưa trong đôi ba ngày sắp tới, vì mây  đen và sấm sét đã báo hiệu rồi, chỉ còn chờ gió lạnh đùa hơi nước đọng  đổ xuống như giội nước tưới rau liên tục.
Trời  hơi sậm tối là đã nghe tiếng ếch nhái khởi sự kêu vang. Quệt quệt là  tiếng ếch, trẹt trẹt trẹt... kít kít là nhái ngan, có nghĩa là nhái nhỏ  giống như ếch con, ngắt nghen ngắt nghen là nhái bầu nhỏ bằng ngón tay  màu cam lợt. Dùng chúng làm mồi câu cá lóc là tốt. Trời tối dần, tiếng  ếch nhái càng kêu ran trời, inh ỏi, lạ thường, khuya một chút đệm thêm  tiếng ễnh ươn kêu quền quang kéo dài như tiếng trống đệm hay đờn  viô-lông-xen kéo rền trong một bản nhạc hòa tấu. Thật ly kỳ ngay cả đối  với những người thường nghe qua nhiều lần, huống chi là đối với người lạ  ở tỉnh thành về quê thì họ càng ngạc nhiên hơn nữa. Người khác nghĩ gì  tôi không biết, chớ đối với tôi, tiếng kêu không ngừng của muôn ngàn ếch  nhái hòa thành một thứ nhạc ly kỳ ghi mãi trong trí nhớ của tôi. Và cứ  mỗi khi nghĩ lại, tôi hình dung được cảnh tượng đó hiện rõ trước mắt,  tiếng ếch nhái gần như còn dội bên tai như thật. Cái dấu ấn đó in sâu  trong đầu, mỗi lần khơi động lại, nó hiện ra toàn diện hình như mới xảy  ra ngày hôm qua.
Người  ta nói khi con người sắp chết sẽ nhớ lại trong khoảnh khắc toàn bộ  những kỷ niệm vui buồn của đời mình, chắc rồi vào những giờ cuối tôi  cũng sẽ thấy cảnh tượng nầy hiện lại trong đầu, âu cũng sẽ là một bản  nhạc tiễn đưa tôi đi đầy lý thú!
Ðèn  soi ếch thông thường làm bằng ba miếng ván nhỏ ghép lại, một miếng nhỏ  bít đầu dưới để đèn chông, một bít đầu trên có quai cầm tay. Cây đèn  chông có tim đốt bằng dầu lửa chiếu sáng hơn dầu dừa và khó tắt. Nhà  nghèo ít tiền không mua dầu lửa, người ta lượm dừa khô nạo ra thắng lấy  dầu đốt ít sáng dễ tắt. Cây đèn để trong cái lồng mặt trống rọi sáng  trước mặt cho phép thấy xa chừng hai thước. Mỗi người đi soi ếch thông  thường ai cũng có hộp quẹt máy hay bao diêm để đốt đèn trở lại khi bị  gió tắt. Có người bó tròn nguyên một tào lá dừa đốt thành đuốc đi soi,  không tốn dầu, khỏi sợ gió tắt nhưng phải có một người vác theo vài ba  cây đưốc mới đủ soi. Những ai không có quẹt lửa, gió thổi tắt đèn thì mò  đến chỗ nào còn đèn sáng mà mồi. Có người xài đèn khí đá với những cục  đá hóa chất bỏ vào một bình bằng kim loại đổ nước vô, đá xì hơi ra một  lỗ thật nhỏ đốt cháy. Ðèn khí đá sáng ngời tỏa chiếu khá xa gió thổi  không tắt. (đá “calcium carbide” cộng với nước, nhả ra khí a-xê-ti-len  C2H2 đốt cháy. Ngày xưa thường dùng trong những ngọn hải đăng hoặc đốt  sáng dưới các hầm mỏ)
Nhà  quê người ta hay nói lúc “đỏ đèn” có nghĩa là trời tối tất cả mọi nhà  đều đốt đèn thắp sáng. Cũng vào lúc đó, nhiều người xách đèn ra ruộng  soi ếch. Càng tối càng đông người, về khuya cả trăm ánh sáng trải đều  khắp ruộng làng. Ai ai cũng ham đi soi ếch bắt nhái. Tay trái cầm đèn,  rà sát mặt nước, tay phải chụp lấy ếch nhái. Chụp trật không sao, đi vài  bước nữa sẽ còn con khác. Ếch nhái ở đâu mà tự nhiên có nhiều như vậy?  Chúng nó là những con vật ẩn thân trong rừng bụi hoặc dưới hang. Hết  nắng hạn đến mưa rào, đúng lúc chúng nhảy ra lặn lội, chọn bè chọn lứa  vừa ý bắt cập để sinh sản. Trời càng về khuya tiếng kêu rân bớt dần, bản  nhạc hòa tấu diêu lại, tại vì đó là lúc ếch nhái đã bắt cặp nằm im  hưởng lạc. Thường con đực nhỏ hơn con cái vì nó có buồng trứng to. Con  đực nằm trên lưng con cái hai tay ôm chặt. Ðó là lúc chúng dạn dĩ nhứt,  bất chấp tiếng động, không sợ người, mình chỉ cần thò tay bắt bỏ vào đục  mà không thề sẩy. Một buổi tối như vậy chú tư, anh năm và tôi bắt hơn  nửa đục vừa ếch vừa nhái. Sáng ngày trong đục dính đầy trứng xanh xanh  đen đen của những con ếch nhái chờ có nước để sinh đẻ liền.
Hôm  sau tại chợ làng có gần chục người đem ếch nhái ra bán từng xâu, rẻ rề.  Tình trạng soi ếch nhái kéo dài cả tuần mới hết. Nhà tôi ăn nào nhái  kho sả, đùi ếch chiên, xào lá cách nước dừa, nấu cháo, muối nướng vân  vân. Ngon thật là ngon.
Con  cóc ít thấy trong những ngày sa mưa dông, nhưng trong mùa trước khi mưa  chúng nghiến răng nghe trèo trẹo. Bởi vậy mỗi khi cóc kêu là báo hiệu  trời sắp mưa. Cho nên người ta nói con cóc là cậu ông Trời. Thịt cóc ăn  được, nhưng phải bỏ hết ruột gan, không làm giập mật, phải rửa thật  sạch. Con cóc không có thịt nhiều chỉ có bộ xương dính ít thịt. Người ta  bầm ra nấu cháo ăn rất ngọt. Ngon hơn thịt ếch nhái nhưng phải tránh  những con cóc tía màu đỏ còn gọi là cóc lửa. Gan cóc có vị độc như gan  con cá nóc, dân làng tôi có người trúng độc. Lấy bông cây khế nghiền nát  vắt nước uống giải độc không chết. Ðôi khi cũng có người chết vì không  biết vị thuốc nầy.
Cô  bảy tôi chặt đầu, lột da ếch làm thịt, hay tay trên của nó bịt đầu vuốt  vuốt, thật là tội nghiệp, cô cười nói: Nó đang tìm cái đầu ráp vô đó.  Có con chấp hai tay trên của nó lại, bà Hai Nghi nói nó lạy mình xin tha  đó tụi bây, lúc bấy giờ tôi chỉ thấy tội nghiệp thôi. Tôi lấy da ếch  còn ướt bịt liền vào một lon sữa bò hay một gáo dừa khô nhỏ làm trống  đánh lùng bùng, trò chơi của tôi với những đứa con nít trong xóm giả  dạng hát Sơn đông hay đánh trống chầu.
Thịt  ếch ăn ngon, nhưng chặt đầu lột da là cảnh tượng khá đau lòng. Bây giờ  tôi mới thấm câu nói của đại triết gia Goethe, người Ðức: “Cái đau khổ  của người nầy đem hạnh phúc lại cho người khác” (le malheur de l'un fait  le bonheur de l'autre). Câu nói chí lý trong bất cứ chuyện gì, từ mua  bán đổi chác, đấu tranh chánh trị, tranh đua thể thao, giao dịch xã hội,  thậm chí trong chuyện nhỏ nhoi nầy là con ếch đau khổ tôi ăn thịt nó  ngon lành.
Bẩy  mươi lăm tuổi đời tôi nhìn lại tất cả mọi việc xẩy ra đều thấy đúng  theo nhận định của Goethe. Nghĩ lại chuyện đời mà xem: Tổng thống đắc cử  vui mừng hớn hở, ứng viên thua cuộc buồn tiếc tủi thân. Cộng sản chiếm  miền Nam vui mừng chiến thắng, nhưng làm cho hàng triệu người đau khổ,  nào cải tạo, nào bỏ xứ ra đi, và cả triệu người phải bỏ xác trên biển cả  và rừng sâu.
Ðảng  viên cộng sản cướp đất bán cho người nước ngoài làm giàu, tạo xe hơi  nhà lầu, con cái ăn xài phủ phê. Cướp đất của nông dân làm sân golf cho  cán bộ và người giàu tiêu khiển, hoặc bán cho người ngoại quốc xây dựng  nhà máy kỹ nghệ bất chấp ảnh hưởng tai hại cho môi trường sống của dân  chúng hay không, những sự kiện đó khiến cho hàng trăm ngàn người tan  hoang nhà cửa đói rách lầm than. Phải chăng là cái khổ của người nầy gây vui sướng cho người khác?
Bắt cá cạn
 Một  nhánh của sông Cửu Long chảy ngang làng tôi bên hướng Bắc thẳng ra cửa  Ðại, nhập vào biển Ðông. Cập sát bờ sông, rộng chừng một cây số bề  ngang, chạy dài qua nhiều làng xã ra tới cửa biển là những vườn dừa dầy  đặc với mương rạch dẫn nước nuôi cây. Thẳng về hướng Nam  độ ba cây số là đồng lúa mênh mông bị cắt ngay giữa bằng một con đường  đá chưa tráng nhựa chạy dài tới quận Bình Dại nằm ngay cửa biển.
 Sống  trong môi trường đó con cá nó biết hướng nào có nước phải tìm về, dù  phải đi ngang qua lộ đá có khi phải bỏ xác. Tất cả sẽ di tản bằng mọi  cách từ thửa ruộng nầy sang thửa ruộng khác dẫn ra sông qua các mương  rạch nằm sát mí ruộng. Những con nào lốc không kịp, nhảy chưa tới mương  đìa sông rạch thì đành chịu trận nằm phơi trong vũng nước cạn còn sót  lại trong các thửa ruộng lúa chính vàng.
 Thời  điểm đó tôi hay chui lội trong những đám lúa chín để bắt cá cạn. Ðó là  điều cấm kỵ bởi vì có thể làm rụng lúa ít nhiều. Các chủ ruộng luôn dòm  ngó kiểm soát, sợ trâu ăn lúa dựa bờ, sợ có người tước bông lúa nuôi gà  và đại kỵ là có người chui vào đó mà bắt cá cạn. Em tôi và tôi thường  lợi dụng cái thế con cháu của chủ điền nên các chú bác tá điền nể nang  không làm khó dễ.
 Ðiều  đó còn có thể giúp họ mượn cớ để xin ông nội tôi giảm bớt địa tô vì  thất mùa và cũng vì chúng tôi phá phách. Ông nội tôi luôn luôn chế giảm  rất nhiều để chuộc cái lỗi của con cháu ông đã phá làng phá xóm. Vả lại trong làng gần như tất cả đều xem nhau như là bà con xa gần dù không có chút liên hệ máu mủ gì cả. Từ  thời ông cố tôi đến ông nội, năm nào cũng châm chế cho rất nhiều người,  trừ những năm mưa thuận gió hòa lúa phơi đầy sân. Phần chúng tôi thì cứ  ỷ lại làm bừa mỗi khi có cơ hội.
 Thằng  Tôn và tôi chui vào ruộng lúa, nằm đại trên đất bùn, trườn lết từ từ  kiếm những vũng nước còn đọng lại, không hơn một thước vuông, cá lóc nằm  phơi cựa quậy khó khăn, cử động không được như thường vì ít nước, có  con nằm ngay đơ phùng mang ngáp thở. Ít khi gặp cá rô hay cá trê vì hai  loại cá nầy di chuyển dễ hơn cá lóc.
 Con  cá rô di chuyển bằng cách nằm nghiêng, giương cái mang ra tạm cấm xuống  đất hất mình tới, hoặc dựa trên cỏ mà lắc đi dù chậm nhưng chỗ nào cũng  đi tới được. Còn cá trê thì dùng hai cái ngạnh bên trái và phải của nó  tạm ghim vào đất hay cỏ mà lắc qua lắc lại đi đâu cũng tới. Chỉ có cá  lóc là phải công mình chỏi nước chỏi đất mà phồng tới, đụng cây thì rớt  lại tìm đường khác. Ðiều không may cho giống cá nầy là những bờ đê ngăn  ruộng thường mộc cây lức cao thắp tùy nơi. Nhưng trời cũng cho chúng nó  sức mạnh chỏi đuôi phóng khá cao. Cá di chuyển vào đêm lúc chạng vạng  tối.
  Làm hầm bắt cá
 Thời  điểm cá tìm đường ra sông, anh năm và tôi say mê việc làm hầm bắt cá.  Muốn làm hầm phải quan sát và nghiên cứu con đường nước nào thuận tiện,  ruộng lúa nào có nước sâu nằm gần các “ruộng gò” cao hơn. Ngoài việc đi  quan sát còn phải hỏi thăm mấy chú bác trong làng đã từng làm hầm bắt cá  mỗi năm lúc mùa khô bắt đầu.
 Xế  chiều là anh em tôi vác tàu lá dừa, mang nốp ngũ, xách đục (nốp là hai  lớp đệm đan bằng giây lát, lớp dưới dùng như chiếu trải trên cỏ hay đất  để nằm, lớp trên đang dính liền nhau dùng như chiếu đắp che sương, đầu  đuôi và bên hông nốp dính nhau chừa một bên trống để người chui vào và  mí nốp có độ hai tất xếp vào trong để sau khi chui vào người ta nằm đè  lên mí xếp đó cho muỗi mồng trùng dế không vào được, nốp đôi là để hai  người dùng, nốp chiếc dùng cho một người. Ðục là vỏ đựng cá). Chúng tôi  làm hầm sớm để kịp hoàn tất trước khi trời tối.
 Tới  nơi chúng tôi đã quan sát và chọn trước, móc đất làm hầm. Chúng tôi lựa  chỗ nước sâu của thửa ruộng nơi loài cá thích tập trung. Lội xuống móc đất đắp bờ thành một cái hầm bề dài độ 3 thước, bề ngang 5 tất, sâu 5 tất. Ðắp  xong tát nước cạn, lấy bùn tô láng miệng hầm đắp lài xuống mí nước. Sau  đó cấm những tàu lá dừa phía sát bờ ruộng lưa thưa đủ để chặn cá lóc  phóng nhảy trúng vách lá rớt xuống hầm.
 Chúng  tôi trải nốp nằm trên bờ ruộng chờ tối trời cá bắt đầu di chuyển. Ðèn  chông để sẵn trong lòng đèn bằng cây nhưng không đốt sáng vì muốn tránh  làm cho cá sợ. Khoảng một hai giờ sau khi mặt trời lặn cá bắt đầu đi.  Chúng tôi ngồi im, hay nói chuyện rù rì nhỏ to chờ nghe những tiếng  “sạch” như ai chọi vật gì vào các tàu lá. Chúng tôi đếm 1 rồi khều nhau  đắc ý. Sạch, 2, sạch 3 cứ đếm như vậy đến mười thì bật quẹt đốt đèn tới  hầm bắt cá. Những con cá lóc nằm cựa quay cùng với nhiều cá rô và cá trê  đã giương mang giương ngạnh mượn bùn lắc lư trèo lên miệng hầm và rớt  xuống lỗ.
 Cái  thú vị làm cho say mê là những tiếng sạch lớn hay nhỏ mình có thể đoán  được trọng lượng của con cá. Có khi mới đếm được 4, 5 tiếng “sạch” mà  lòng nôn nóng, đứa nầy khều đứa kia muốn bật đèn đi bắt cá rồi. Nếu  những tiếng “sạch” đó nối tiếp gần nhau thì chần chờ không nên vội vàng  bắt sớm để tránh làm động những con cá gần đó vì sợ hãi phải đi tìm  đường khác. Có khi tham lam chờ đợi thì cũng  có lúc nghe tiếng “chũm” nghĩa là con cá nào đó phóng ngược ra ngoài  ruộng nước, cũng có khi mình đếm mười mà chỉ bắt được 7 hay 8 là vì có  con lọt vào hầm rồi mà còn tìm cách phóng đi trúng vách lá lần thứ hai,  thứ ba làm mình đoán sai. Cá rô cá trê thì đa số chỉ nằm chờ đó  bởi vì dù có tìm cách lắc lư gì thì vách đứng thân hình nó nặng đành  phải rớt xuống hầm nằm chờ bắt về kho tộ hay nấu canh chua!
 Càng  về khuya càng ít cá, cho đến khi gần sáng lại có một đợt lai rai nhưng  không bằng đêm tối mới bắt đầu. Cái khổ của thân tôi là chui vô nốp anh  năm lúc nào cũng giành nằm ngoài. Tôi phải nằm trong, bít miệng nốp lại  ngột ngạt khó thở tôi đành phải dùng ngón tay xỏ lủng một lỗ khá lớn để  thở, nhưng có khi muỗi chui vào anh năm cằn nhằn chửi đổng.
 Muỗi,  cá, cũng giống như loài người, ăn uống có giờ giấc. Ðầu hôm muỗi vo ve  châm chít liên miên rồi lại bớt đi tử khoản 10 giờ chờ đến gần sáng  chúng lại đi kiếm mồi cũng như cá chỉ tìm mồi vào lúc chạng vạng tối và  khi gần sáng. Ðó là lệ thường nhưng cũng có những con lai rai tìm mồi  giữa đêm khuya.
  Câu cá
Ông  bà mình hay nói “Trời sanh voi thì Trời sanh cỏ” nghĩa là thiên nhiên  cung cấp cho con người đủ vật chất để sống. Ở các nơi khác tôi không  biết như thế nào chớ ở miền Nam dân làng tôi sống thoải mái bằng cách  bắt cá, bắn chim, nuôi vài con gà thả chạy rong tự chúng kiếm mồi trùng  dế mà sống, nuôi ít con vịt thả ngoài đồng mùa khô ăn mót lúa đổ, mùa  mưa lặn lội kiếm tép mồng cá con ăn mập phì.
 Nắng thì bẫy chim, thổi chim, chấm chim, gài cu. Mưa  thì soi ếch, câu rê, câu cắm, đặc lờ, hớt cá. Nhà nông thì cuốc dòng  trồng rau cải, khoai bắp, làm ruộng gặt lúa, dù là tá điền phải trả địa  tô xong vẫn còn đủ sống quanh năm. Một vài người được xem như  “nghèo mạt” trong làng cũng có cơm no, áo ấm nhờ sức lao động của họ.  Bối cảnh chung thời đó, dù còn bị Tây đô hộ nhưng cũng hưởng được thái  bình, tự do tín ngưỡng. Cai tổng hà hiếp, thằng Tây bóc lột nhưng còn  chừa đủ hay thừa thãi cho người dân sống an lành. So với ngày nay cán bộ  tham nhũng, cướp đất đánh dân, bất kể người thân đã từng bao che cho  bọn chúng tự gọi là “cách mạng” nhưng khi được ăn trên ngồi trước thì  phản lại số người đã từng cưu mang “cái gọi là cách mạng đó”. Nói về câu  cá thì tuổi thiếu thời của tôi chưa biết có dây câu bằng ny-long, chưa  biết có cần câu với máy quay. Dây câu của  chúng tôi làm bằng những sợi chỉ tháo ra từ những bao xi-măng hay mua  một “cuồng nhợ” trong tiệm “hàng xén” đem về sắp đôi sắp tư, máng một  đầu vào móc đinh trên cột nhà hay nhờ người cầm đầu dây đó rồi kê bắp vế  lên mà se cho tới khi dây săn cứng thì mới cho hai sợi từ từ nhập lại  thành dây câu dài ngắn tùy ý. Dây ngắn dễ se, dây dài khó thực hiện vì  lúc nhập đôi phải cho giây “ăn” với nhau từ từ. Nếu không, dây bị so le vừa xấu vừa không bảo đảm rắn chắc.
 Cần  câu làm bằng những cây trúc, dài ngắn tùy ý, câu cá rô, cá trê thì cành  ngắn hai ba thước, dây câu một thước rưởi là đủ. Cần câu rê phải dài  bốn năm thước tây. Những cây trúc ít khi ngay thẳng suông đuột, có chiều  công đúng vọng như mình muốn. Vì vậy người ta phải hơ lửa uốn cho đầu  cần cong đúng vọng. Thông thường sau khi hơ lửa uốn xong người ta để cây  nằm xuống đất đống nhiều nọc nhỏ ép cây trúc theo trìu ngay và cong đẹp  như ý của mình muốn. Cuối gốc cần câu rê còn phải vót một cây nạn gắn vào để chịu cây cần trên đùi khi quăng dây. Dây dài năm bảy thước tùy theo người câu thiện nghệ hay không.
 Cần  câu cắm, làm bằng cây tre thật già, dài khoảng bẩy tất, ba tất đầu cần  vót sạch ruột chỉ chừa vỏ cây dịu quặt rắn chắc, và một mắt nhỏ ở đầu để  cột dây và lưỡi câu vào. Gốc cần vuốt nhọn để dễ cấm vào đất của bờ  ruộng.
 Câu  cá trê cá rô ở ao đìa hay ruộng sâu, câu cá chốt cá út thì ở mương rạch  với mồi trùng mồi dế mồi dán. Thả câu ngầm, có phao hay không tùu ý.  Nếu cột phao thì khỏi cầm giữ cần câu chỉ ngồi nhìn phao rung rinh, cá  ăn kéo phao chìm xuống là giựt dính cá. Có khi cũng xẩy vì giựt quá mạnh  tét mép cá hay tự con cá ngậm mồi chưa trọn vẹn, mới ngậm ngoài môi,  lưỡi câu chưa vướng vào mép cá. Cái phao là một lá lúa, lá cỏ xếp làm  đôi làm ba cột gúc trên dây câu, chừa khoản sâu vừa phải theo ước đoán  của mình ở độ sâu nào có cá lững lờ chờ mồi. Cũng có thể thả hết dây,  mồi chìm tận đái nơi mà cá trê thường lội kiếm mồi hôi thúi. Thời tôi  còn nhỏ làm gì có những thứ phao làm sẵn, nhỏ lớn đủ cỡ đủ mầu bán trong  các quầy hàng chuyên môn dành cho khách đam mê nghề câu như ngày nay.
 Câu  rê là cả một sự khéo tay, tính toán nhịp nhàng. Thường câu cá lóc hay  ếch ở ruộng. Nhiều tay câu nghề, bán cá mà sống. Riêng tôi thời đó còn  nhỏ nên chỉ đeo theo mấy chú mấy bác xem cho thỏa mãn sự ham muốn thèm  thuồng, và học hỏi cách thức với quyết tâm chính mình sẽ thực hiện khi  đủ sức cầm cần và sử dụng dây nhợ dài thậm thược bằng ba bốn lần chiều  cao của bản thân tôi.
 Trước  hết là phải uống lưỡi câu bằng cây “kèo dù”, một loại thanh thép phế  thải của cây dù hư. Mài thật nhọn, giũa hoặc khắc cho có ngạnh, uốn  công, thắt chặt vào dây nhợ cột cứng trên đầu cần. Người câu thường sử  dụng mồi nhái con, móc từ miệng nhái xuống tận đuôi hình thù tay chân  con nhái còn giống y như nó còn sống. Khi kéo rê nhẹ cá lốc tưởng như  con nhái đang nhảy bèn táp phập là hết đời.
 Muốn  kéo rê giữa cỏ lúa mà không bị vướng mắc thì người ta xỏ trước vào sợi  dây một ống bộng, ngắn, của long gà khá lớn để khi móc mồi xong, người  ta ngắt một cọng rạ, cọng lúa, tốt nhứt là cọng cỏ ống, ghim một đầu vào  lưỡi câu, đầu kia xỏ vào ống long gà, như vậy cục mồi suông đuột không  thể bị vướng mắt vào cỏ lúa vì lưỡi câu bị dấu trong cọng cỏ ống rồi.  Khi cá hay ếch táp vào, cọng cỏ bật ra lưỡi câu máng hàm là xong việc.
 Khó  khăn nhứt trong việc câu rê là chỏi cần câu dài trên đùi. Tay cầm sợi  dây có mồi khá nặng, để lòng thòng độ năm tất, quay vù vù vừa quan xa  vừa hạ cần câu xuống cho mồi đi xa tối đa. Rồi  mới từ từ rê nhẹ, con nhái chết hết leo trên lúa rớt xuồng nước lội qua  cỏ nếu có cá thì đương nhiêu nó rượt theo mà táp mồi. Nếu có ếch  nằm lú đầu với hai con mắt thồ lộ thì người câu thấy rõ nên cứ quăn mồi  vào hướng ếch nằm thì chắc chắn bắt được nó. Mỗi thửa ruộng thường có  vài ba con cá lóc đói chờ tử thần là thợ câu đi qua xóa sổ. Cũng có  những thửa ruộng cá nhiều mấy chú mấy bác quần tới quần luôi bắt cả đục.  Phần tôi đứng vựa mé ruộng nhắp lên nhắp xuống cũng có khi bắt được cá  to vào gần bờ chờ nhái hay dế thất lạc. Và cũng có khi tôi bắt được ếch  lớn ngồi vựa mé chờ cào cào bươm bướm hết thời bay bậy. Người biết câu  rê chịu khó đi cả ngày thế nào cũng bắt được cá bán để mua gạo hay đổi  thịt là chuyện thường.
 Ðầu  mùa mưa người ta thường bắt được cá lớn vì chúng nó từ sông rạch vào  ruộng sanh nở cho nên mới có chuyên hớt cá rồng rồng là những bầy hàng  mấy ngàn cá lóc con. Thời pháp thuộc cấm tuyệt đối hớt cá rồng rồng với  mục đích dưỡng ngư. Tuy nhiên vẫn có người phá lệ và những vị “Hương Quản” (cảnh sát làng) cũng dễ giải làm ngơ.
Ngoài  việc xúc cá rồng rồng khi ruộng còn trống chưa cầy bừa cấy lúa, người  ta hay đi nôm bắt được cá lớn đầy trứng trong bụng. Cái nôm làm bằng  những thanh tre vót nhọn một dầu, đang cứng vào nhau thành một vòng tròn  đường kính độ năm bảy tất, trên đầu túm lại thành một khoanh tròn đủ  rộng để cầm nôm và thò tay vào bắt khi nôm trúng cá. Ði nôm thì dễ mà  bắt được cá rất khó vì vừa lội vừa chụp nôm xuống nước. Bước đi của mình  động mạnh làm cá sợ lội tránh xa, con nào vô phước, dạn dĩ còn ở gần  nôm trúng nó phóng đụng thành nôm lịch kịch, mình biết ngay, thò tay vào  chận bắt. Khi gặp cá trê thì phải lừa thế mà bắt nó, thường phải tìm  cách đè nhẹ, ép đầu nó vào thanh nôm, nắm cho bằng được cái đầu và hai  ngón tay kẹp sau hai cái ngạnh của nó mà kéo ra. Sơ ý bị ngạnh nó đâm  thì đau nhứt nhiêu hơn là sự vui mừng bắt được cá. Cá trê lét hay trê  trắng có nọc độc hơn cá trê vàng. Nọc cá là nhớt của nó. Khi bị chạm  trúng mình nó tiết ra liền một thứ nhớt trơn tru giúp nó thoát thân.  Loại nhớt đó khi làm cá nếu bị trầy tay dính nhớt thì cũng đau nhứt như  bị cá dâm. Loại cá ngác ở sông ở biển, cùng một giống với cá trê, tiết  nọc càng độc, đau nhứt càng nhiều, hay là con cá ở sông có hình thù xấu  xí người ta thường gọi là cá “mặt quỉ”, ai bị nó đâm trúng đau nhứt vô  cùng có thể bị lên cơn sốt nằm đôi ba ngày mới hết đau.
 Ðầu  mùa mưa ruộng đầy nước, cuối tháng nước sông dâng cao, gọi là nước  rông, hay “con nước ba mươi”, tràn vào ruộng, cá lớn cá bé theo dòng  nước mà vào, khi nước xuống người ta hay đặt “lờ”. Cái lờ có hình thù  một cái đục lớn, có lỗ cho cá tép chui vô được mà ra không được, gọi là  cái 'hôm”. Ðầu miệng hôm người ta gắn thêm một ống “trúm” tròn. Ðầu nhỏ nhét vào miệng hôm, đầu to có đường kính rộng chừng năm tất. Người  ta đặt lờ chận nước ruộng chảy về sông bằng cách tháo bờ đất của ruộng  chừng năm tất, nước tràn ào ra, đặt ông trúm vào đó, bồi đất kín chung  quanh miệng trúm, cá tép chảy vào cái lờ được chỏi cứng bằng cây hai  bên. Một con nước rông như vậy hay sau một cơn mưa to nước tràn, đổ lờ  có thể được năm mười kí lô cá trắng tép mòng, loại cá tép nhỏ xíu nhưng  béo thịt ngọt nước. Cũng có khi lọt vào một hai con cá trê cá lóc cá rô.  Cá trắng, tép mồng rửa sạch bỏ vào nồi sắp thành một lớp cá tép một lớp  thịt heo ba rọi, kho lạc cuốn rau sống bánh trang ăn ngon không biết  ngừng hoặc ăn với cơm còn ngon hơn nhiều thứ cao lương mỹ vị.
 Cái  thú vui của thời tôi còn thơ ấu bây giờ thế hệ con cháu tôi không còn  cơ hội thưởng thức nữa. Cho dù chúng nó có nghe cha ông kể lại thì cũng  mường tượng một cách mơ hồ không thể tận hưởng được mùi vị của đồng quê  miền Nam nơi chôn nhau cắt rún của ông cha chúng nó.
Câu sông
Câu  cá cũng nhiều kiểu cách, câu sông, câu rạch, câu ruộng, câu đìa tùy  theo loại cá mình muốn câu tùy thời gian ngày hay đêm. Câu sông theo con  nước, muốn bắt cá lớn có hai loại thông thường là cá lăng, cá bông lau.  Phải có dây dài và chắc, quấn trên một miếng ván dài ba tấc, hai đầu  khuyết sâu để cuốn chỉ vào đó. Lưỡi câu lớn, mồi to, cột thêm cục chì  nặng, nhà quê không có chì thường lượm sắt vụn, thậm chí cột một chùm  đinh nặng chừng 5 hoặc 10 gờ-ram. Khác với ngày nay cần câu có máy quay,  có chỉ nylon rắn chắc đủ cỡ lớn nhỏ, có chì nặng nhẹ hình tròn hình  dài, có lưỡi dành cho đủ loại cá.
Thời  tôi còn nhỏ người câu cầm dây có chì nặng quay vòng vòng để lấy trớn  quăng mồi thật xa ra sông chìm ngấm tận đáy. Thời đó tôi chưa có sức  cũng chưa biết quay chì để lấy trớn nên mồi không đi xa, tôi chỉ bắt  được cá út bằng cườm tay là thường, nhưng cũng có đôi ba lần may mắn bắt  được cá bông lau nặng một hai ký. Những lần đó cả nhà và anh em chúng  tôi xúm nhau bàn tán. Người thì nói con cá đó nó đui nên lội ngang vướng  câu, người thì nói số mạng tôi lớn nên Hà Bá sợ mới bắt cá móc vào câu  tặng tôi, người thì nói chó dắt gặp may! Sự thật có lẽ cá đói vào bờ  kiếm ăn hay vì nước chảy mạnh giữa dòng sông cá nhỏ trốn vào bờ nước yếu  dễ bơi, cũng có thể nó đi tìm những trái bần chín mùi từ trên cây rụng  xuống, nổi lình bình trên mặt nước hay chúng nó đi tìm những con vật  chết trôi chết nổi ven bờ.
Có  một lần tôi thấy ông Hương Lễ, tên Tự, câu một con cá bông lau nó lôi  quá mạnh ông cầm dây tuốt rát tay rướm máu, ông phải cởi áo quấn vào tay  để chịu trận. Vừa cầm dây ông vừa la bài hãi có lúc ông quýnh quáng la:  bớ làng xóm ơi! Nhưng kịp thấy mình hố nên sửa lại bớ “bà con” ơi. Bởi  vì câu bớ làng xóm là chỉ để kêu cấp cứu hay báo động mà thôi. Thiên hạ ở  gần xóm nghe la xúm nhau bu quanh ông Tự. Chừng đó ông lấy lại bình  tĩnh huênh hoang tự hào: “Con cá quá bự bà con ơi, quá bự, tôi gặp vận  may rồi, quá bự, con heo con hay con bò con đây? Bán con cá nầy gia đình tôi mua gạo ăn cả tháng vân vân và vân vân. “Bà  con”, trong đó có tôi nôn nóng chờ xem con gì mà to dữ vậy? Giằng co  mãi gần nửa giờ con cá mệt đừ ông Tự mới lôi được nó vào bờ. Không cân  nhưng ai cũng đoán mò con cá nầy phải trên mười kí, dài hơn một thước.  Ông Tự phải chạy về nhà lấy giây cột đầu và đuôi mượn người cầm đầu cây  phụ khiêng cá về nhà vì ông không muốn lôi nó lết bết trên đất làm trầy  da con cá khó bán. Tôi về nhà thuật chưa hết chuyện ông Tự câu được cá  bông lau trên mười kí thì bà Hương Lễ Tự đầu đội khăn vằn tay bưng rổ cá  khứa sẵn từng khứa đem vào nhà tôi bán. Ông nội tôi nghe nói bước ra  sân chắt lưỡi mỉm cười nói với bà nội: Bà biểu sắp nhỏ mua giùm cho thím  Hương Lễ ba khứa đi, lựa khứa bụng có mỡ ngon chiều nấu canh chua.
Câu cắm
Câu  cắm là một thú vui khác, nó khá nhộn nhịp, hồi hộp, hấp dẫn, có khi  cũng mệt nếu khi nào có cá nhiều. Cần câu cắm ngắn, làm bằng tre thật  già chẻ ra từng cọng bằng ngón tay út. Vót bỏ ruột tre của phân nữa thân  trên, chỉ chừa vỏ tre cứng diệu, quặt lên quặt xuống dễ dàng, đầu cần  chừa một mắt nhỏ để thắt dây câu vào không bị tuột. Phân nửa thân dưới  người ta vót nhọn gốc cây câu để dễ cắm vào đất mềm của bờ ruộng. Dây  câu ngắn có tra lưỡi vào, ngay một phần ba đầu dưới cần câu có một vòng  dây cột ngang dùng để móc lưỡi câu vào trong tư thế nghỉ câu. Tư thế nầy  giống như một cây cung nhỏ bị bẻ công một phần ba đầu trên.
Anh  em chúng tôi không đứa nào biết chuốt cần câu cắm. Mấy chú giúp việc  trong nhà chỉ vót giùm vài ba cần để cắm quanh nhà chơi mà thôi. Vì thế kỳ nghỉ hè năm đó anh Năm và tôi quyết định đặt mua một trăm cần. Chúng  tôi lựa đêm tối trời, cá dạn ăn hơn là khi có trăng sáng. Anh Năm quẩy  đục lớn chờ đựng cá, đục nhỏ đựng nhái con, gáo dừa đựng trùng nằm dưới  một lớp đất. Tôi mang nóp đi theo vào sở ruộng Ðìa Sen, ruộng sâu của  nhà, tá điền là ông sáu Mọi.
Cắm  câu người ta móc mồi trùng hay mồi nhái, sau đó cắm chặt gốc cần vào bờ  đê ruộng, lưỡi câu và mồi chìm xấp xỉ dưới mặt nước. Nếu là mồi nhái  thì chỉ móc vào đùi nó để cho con nhái nhảy vọt tới vọt lui khêu gợi cá  lóc vồ nó cho sớm.
Mỗi  lần cắm câu người ta thường mang theo năm bảy chục hay một trăm cần, có  người cắm tới hai trăm cần trên một bờ đê dài mấy trăm thước. Chúng tôi  cắm mỗi cần dang xa gần hai thước, cắm xong một trăm cần trời mới chạng  vạng tối. Vậy mà giữa lúc đang cắm nghe đầu kia cá mắc câu giãy lủm  chủm phải bỏ chạy tới đó gỡ bỏ vào đục, đậy nắp kỹ, thả xuống nước ngâm  cho nó sống. Thế rồi anh Năm và tôi thay  phiên nhau chạy nhanh hết đầu nầy đến đầu khác, có khi hai đứa đang gỡ  cá mà nghe có chỗ nào đó giãy lủm chủm gỡ không kịp. Nhưng cũng trong một thời gian ngắn thôi, rồi chúng tôi lại trải nóp ngồi vui sướng kiểm điểm sự thắng lợi.
- Ðêm nay coi bộ khai trương có nhiều khách hàng đó mầy.
-  Nhiều cá thì ham thiệt mà sao thấy hồi hộp tim đập thình thình. Nhứt là  khi nó giãy một lượt hai ba con sợ gỡ không kịp nó sút.
Lại lủm chủm nữa, tiếng giãy khá mạnh, có lẽ cá lớn, anh Năm chạy gỡ, tiếng anh vọng từ xa, đúng rồi cá lóc lớn hơn cườm tay.
Cái  khoái lạc của sự thành công nó lâng lâng trong người, cái hồi hộp chờ  đợi còn làm tăng thêm niềm vui sướng. Tôi không biết những người cắm câu  bắt cá bán để nuôi gia đình có cảm giác như thế nào? Có lẽ ngoài cái  sung sướng nắm được con cá trong tay còn cái vui, cái an ủi là sẽ có  được thêm ít tiền. Ngoài cái hồi hộp chờ cá cắn câu giãy lủm chủm họ còn  ước mơ nghe được nghe tiếng giãy thường hơn nữa. Họ tưởng tượng vợ con  sẽ vui mừng. Chắc sự thưởng thức của họ nhiều hơn và sâu đậm hơn sự vui  mừng của tôi.
Hay  là cũng có thể giống nhau, vì khi đứng nhìn một “chiến lợi phẩm” cường  độ vui mừng chắc cũng giống nhau trong khoảnh khắc đó.
Riêng  tôi, ngoài những con cá bắt được, còn có mùi thơm cỏ lúa của đồng quê  mà tôi đã từng hít thở từ lúc mới lên năm lên mười, cảnh vật buổi hoàng  hôn chiều xuống tối dần, gió thoảng sương lạnh, muôn ngàn sao lấp lánh  trên nền trời tối đen. Tất cả những thứ đó nó in sâu trong đầu tôi, nó  gợi nhớ gợi thương những lúc xa quê hương tôi cảm thấy chạnh lòng.
Ruộng  sâu, lúa cao, muỗi nhiều. Chúng tôi đứa nào cũng mặc quần đùi áo tay  ngắn, cả hai đập xành xạch nhưng chưa đứa nào chịu chung vô nóp vì còn  muống nghe tiếng cá giãy dù là đã thưa dần. Trời về khuya sương càng  lạnh hai anh em tôi đành chui vào nóp. Nằm yên, cơn ngủ ru tôi vào giấc  lúc nào không hay biết. Hừng sáng anh Năm đánh thức tôi dậy.
- Mầy ngủ như chết, đêm hồi hôm tao còn đi gỡ thêm hai con nữa, toàn cá trê.
Chúng  tôi quảy cá về nhà, phân chia cho đầu nầy vài con đầu kia vài con, hãnh  diện khoe rằng chúng tôi cũng thuộc vào thợ câu chớ có phải là công tử  bột đâu. Kỳ thật câu là một thú vui đặt biệt, một sự đam mê mà những lúc  bãi trường chúng tôi bỏ mặc những “bài làm hè”, phải góp khi vào lớp  lúc tựu trường. Năm nào tôi cũng bị phạt quì gối vì có làm bài đâu mà  góp. Nhưng lúc quì gối tôi sung sướng hồi tưởng lại những thú vui hưởng  được trong kỳ nghỉ hè. Bây giờ nhớ lại thời  thơ ấu, tôi cảm thấy lâng lâng buồn muốn sống lại những ngày đã qua  nhưng vĩnh viễn không bao giờ đi ngược thời gian được!
Những trái nhãn lồng, chùm giuộc, trứng cá là niềm vui của tuổi trẻ ở nhà quê
Con  nhà giàu hay con nhà nghèo ở thôn quê chỉ khác nhau khi tối về nhà cha  mẹ, đứa được nuông chìu ăn ngon ngủ kỹ, đứa chỉ có đủ cơm no bụng, chăn  gối mùng mền tả tơi rách rưới. Nhưng ban ngày khi chúng chạy rong trong  làng tìm bạn vui chơi với nhau thì thằng nào cũng như thằng nấy. Mấy đứa  con nhà giàu thường lâm vào thế hạ phong bởi vì chúng nó không thuộc  đường đi nước bước, không biết hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có cây có  trái, chỗ nào có thể hái trộm, trái nào ăn được, trái nào không. Thời  còn thơ ấu tôi thích nhứt là đi chơi với thằng Có, nó chăn bầy trâu của  ông Hương Quản, tên Họa, ở gần nhà tôi.
Thằng  Có nó biết rành nhà của ai có cây chùm giuộc ở sát mí rào, nhà của ông  bà nào có cây trứng cá, de nhánh ra đường, mồ mả của ông Bái Ba có nhiều  cây trứng cá che mát toàn khu mộ, trái chín đầy, chim trao trảo ăn  không hết. Những tháng nghỉ hè từ trường Saint Joseph ở Mỹ Tho về làng, sáng hôm sau là tôi đi kiếm thằng Có. Chúng  tôi hẹn nhau vào những buổi chiều nắng nhẹ khi thì ngoài ruộng gần Mỏ  Neo, khi thì trên giồng cỏ gần nhà bác Hai Châu. Bởi vì buổi trưa trời  nắng chan chan, ra khỏi nhà là bị rầy, có khi còn bị hăm sẽ ăn đòn nếu  người nhà thấy tôi dang nắng đầu trần.
Việc  trước tiên và hấp dẫn nhứt đối với tôi là cỡi trâu. Bởi vì khi tôi còn  học trường làng, thầy tư Nhơn bắt phải học thuộc lòng bài:
Ai bảo chăn trâu là khổ?
Không, chăn trâu sướng lắm chớ!
Ðầu đội nón mê như che lọng
Tay cầm cành tre như roi ngựa
Ngất nghểu trên mình trâu
Hai  câu trên nó in sâu trong đầu và có những lúc ngán học, lười biếng tôi  tự nhủ: Thà đi chăn trâu tôi cũng bằng lòng, còn hơn phải học nhọc nhằn  với chữ nghĩa, cộng trừ nhơn chia.
Thằng  Có đỡ tôi ngồi trên lưng trâu rồi nó thót lên ngồi sau vịn sợ tôi té.  Con trâu đi chậm rãi nhưng cái lưng của nó lớn quá, hai chân tôi thì  ngắn nhỏ không kẹp được vào đâu, không đạp vào chỗ nào để giữ được thăng  bằng. Vậy mà sao thằng Có nó ngồi vắt võng  vững vàng như không. Tin vào bàn tay của nó vịn trên vai, tôi yên lòng  ngắm cảnh đẹp của nắng chiều bao trùm cánh đồng rộng mênh mông trước  mắt, tôi khoan khoái hưởng cái mát dịu của gió nhẹ lay động mấy ngọn  trâm bầu hay cây me keo, tôi hít thở mùi rơm rạ, mùi bông bắp, mùi mạ  non, xen lẫn mùi hôi trâu mà bây giờ nhớ lại tôi hình dung rõ, phân biệt  được mùi hương của từng thứ như tôi đang sống trong cảnh vật đó dù là  tưởng tượng.
Thằng  Có và tôi thường hái trứng cá ở khu mộ ông Hương Bái, thường gọi là Bái  Ba. Nó thích ăn thứ trái đó còn tôi thì ưa những trái nhãn lồng chín  vàng, ruột chua chua ngọt ngọt thắm mát miệng. Cũng có khi tính con nít  muốn phá làng phá xóm thằng Có rủ tôi đi hái trộm chùm giuộc. Nhà ông  Hương Cả tên Hộ, con của ông Bái Ba, có cây chùm giuộc chua ở gần mé rào  nó có thể chui qua hàng rào cây dúi vào hái được. Ăn chua lè chua lét  mà nó nhai luôn cả hột nghe giòn rụm, ngốn ngáo thấy phát thèm, bây giờ  nghĩ lại vị chua tôi còn nhỏ giãi rùng mình.
Sâu  tuốt phía trong gần nhà có cây chùm giuộc ngọt, thằng Có nói khó ăn cắp  lắm vì nhà nầy có chó. Nó nói lâu lâu mầy về chơi tao cũng liều hái cho  mầy vài trái thử coi được không. Nó bỏ trâu ăn trên mé giồng xa, hai  đứa đi hái trộm trái cây của người ta, một trò nghịch ngợm lý thú nhưng  tôi hồi hộp lo sợ quá. Còn thằng Có tỉnh bơ cười chúm chím lộ vẻ anh  hùng coi chuyện nguy hiểm “như pha”. Vừa nghe nó nói vào sâu trong sân  nhà có chó là tôi tản đi xa, trở về phía bầy trâu 5 con đang ăn trên mé  đồng. Ði chưa được bao xa là tôi nghe tiếng chó sủa, nhìn lại thấy thằng  Có chạy trối chết tay cầm một nắm vật gì trắng có đất có lá tôi đoán là  chùm giuộc. Thì ra anh ta bị chó phát hiện hoảng hồn, hốt đại một nắm  trái cây rụng dưới đất chạy ù ra, chui càn qua hàng rào dúi, bị cây cào  tét tay áo, sướt thịt rướm máu, nhưng miệng nó cười toe tét đưa tôi mấy  trái cát bụi dính đầy: Cho mầy nè, mầy ăn chua không được thì có trái  ngọt đây. Ba trái còn nguyên, hai ba trái khác thúi dập bỏ đi, tôi chùi  hai trái bỏ vào miệng một trái còn một trái nhét vào mồm nó, trái kia  tôi bỏ túi để dành.
Gặp  lại bầy trâu, chúng nó đang liếm sang đầu hai hàng bắp non của người  ta, thằng Có thất thanh chạy lại cầm roi tre quất bừa hết con nầy đến  con khác, rượt chúng nó chạy thật xa ra giồng bỏ tôi lại một mình lủi  thủi theo sau. Tới nơi nó nói không ra lời: Chết mẹ tao rồi, nếu ai biết  được trâu tao ăn bắp của họ thì tao sẽ bị đòn nát đít.
Tội  nghiệp thằng Có quá, chiều hôm đó đi chơi mất vui, nhưng cũng chiều hôm  đó lòng tôi biết rung động vì tình bạn mặn nồng thắm thiết qua sự liều  lĩnh hy sinh của thằng Có. Nó muốn tìm trái cây ngọt cho tôi nên chấp  nhận rủi ro, có thể bị đòn. Bị đòn là cái chắc, vì ở miệt Giòng Lớn nầy  có trâu ai ngoài trâu của ông Hương Quản Họa? Về nhà, tối ngủ tôi nhớ  thằng Có và thương nó quá, nó nghèo phải đi ở đợ chăn trâu, mấy thằng  con nít trong làng có đứa nào dám chơi với nó đâu? Con nhà khá giả đi  chơi với chăn trâu là điều cấm kỵ. Mỗi khi đi chơi với thằng Có tôi phải  lén trốn nhà vì khoái cỡi trâu. Cũng có lần anh Năm kiếm tôi không  được, bắt gặp tôi đi chơi với thằng Có, anh mét cô Bảy tôi bị đòn, và  nhiều lần bà gì ghẻ hửi thấy mùi trâu, biết tôi đi chơi với thằng Có bà  mét cha, khi thì ông rầy la hăm he dữ dội, khi thì ông đánh cho mấy roi,  khóc nhưng cũng không chừa. Bạn thân của thằng Có là 5 con trâu của ông  Quản Họa. Cái bánh ngon nhứt nó được ăn là “bánh ít” mỗi khi có đám giỗ  trong nhà ông chủ.
Ðôi  khi trong nhà làm bánh, tôi bỏ túi vài cái bánh men bánh gai đem cho  nó. Thằng Có mừng rỡ sáng mắt cười toe tét. Nó không nói cám ơn mà chỉ  nói: Mầy giàu sướng quá có bánh ăn hoài. Nó ăn hai cái để dành mấy cái,  nói là để dành chớ một hồi sau dằn cơn thèm không được, nó lấy ra nuốt  hết. Nghĩ như vậy tôi thấy buồn, cái buồn của thằng con nít, không sâu  sắc có lý có ý nghĩa, mà do tính ngây thơ nhẹ dạ, đã là con nít hễ vui  thì cười, buồn thì khóc. Tôi không khóc nhưng nước mắt tràn ra khóe,  quẹt đôi ba lần tay áo ẩm ướt.
Vớt cá lia thia
Sau  những trận mưa giông dữ dội, ruộng nổi nước khoảng hơn một tháng sau là  có thể đi vớt cá lia thia ngoài đồng. Trẻ con ở nhà quê đa số đứa nào  cũng biết vớt cá, đá cá lia thia. Trước khi đi vớt cá tôi phải chuẩn bị  chai hủ sẵn ở nhà, lựa những chai không, cạn rượu, khô nước, trong trắng  không có màu để cho mình dễ nhìn rõ vóc dáng và màu sắc con cá. Tuy  nhiên lỗ chai nhỏ thì làm sao thả cá vô, vớt cá ra, thay nước, hay bỏ  thức ăn vào cho nó được?
Do  đó tôi phải cắt chai bằng cách tìm một cộng sắt nhỏ, bẻ cong thành  khoanh tròn, đút vào đầu chai kéo xuống cho vừa tầm cao mình muốn,  thường là giữa chai. Lấy cọng sắt ra đưa vào lửa nướng cho khoanh tròn  nóng đỏ. Tròng khoanh tròn vào cổ chai kéo xuống vừa tầm mình định,  nhúng liền chai và khoanh sắt trong chậu nước. Tai nghe tiếng rắc, chai  nức bể làm hai ngay chỗ khoanh sắt thắt ngang, cái chai trở thành một  dụng cụ nuôi cá lý tưởng.
Cá  nuôi trong nhà không thể dùng tay bắt nó vì lỡ tay bóp mạnh hư cá hoặc  tróc vảy. Người ta thường dùng vải mùng may dính vào một khoanh kẽm tròn  nhỏ thành cái vợt để vớt cá sang chai, sang chậu hay vớt lăng quăng,  trùng chỉ, bỏ vào cho cá ăn. Muốn có chậu lớn nuôi những con cá quí thì  phải mua, tôi cũng đua đòi mua hai ba chậu.
Vớt  cá ngoài đồng bằng một rổ xúc lớn, lỗ thưa con tép nhỏ cũng không lọt  ra ngoài, bề sâu cao hơn rổ thường. Thằng Tôn em tôi đi theo xách thùng  có đựng sẵn nước. Chúng tôi đi dọc theo bờ ruộng nhìn kỹ những bụi cỏ  hay lác, chỗ nào có một đốm bọt trắng bằng bàn tay hay nhỏ hơn là chỗ đó  có cá lia thia nằm dưới đống bọt. Lội nhẹ xuống ruộng, từ từ đi gần sát  đống bọt đặt miệng rổ thật nhanh cách bọt chừng hai ba tất, chân trái  đùa mạnh nước vào rổ, mười lần bắt được cá trống hai ba lần. Thường chỉ  bắt được cá mái đang giữ ổ trứng, có khi bắt cả hai trống mái đang chuẩn  bị làm tình, ít khi bắt được một mình cá trống, khi nào thấy đống bọt  nhỏ thì biết nó đang nằm dưới đó nhả bọt làm nhà cho con mái sinh sản.
Tạo  hóa sinh chim cá con trống thường có bông có mã đẹp, có tiếng hát điệu  múa hay để chúng dễ khêu gợi phái nữ theo mình. Con cá lia thia trống có  màu xanh, phướn đỏ, cá mái trắng chợt sọc rằng.
Chúng  tôi chỉ bắt cá trống đem về bỏ vào chai, lấy giấy ngăn không cho hai  bên thấy nhau. Bởi vì thấy nhau là chúng phùng mang diệu qua diệu lại  lấy trớn cắm đầu hả miệng xắn vào chai tưởng mình cắn được đối phương.  Như vậy sẽ làm hư miệng cá và khi đá độ thật, nó dễ bị thua. Tuy nhiên  lâu lâu cũng phải rút ngăn giấy ra để cho chúng nó sừng sộ phùng mang  diệu võ dương oai tỏ thái độ hung hăng rồi ngăn trở lại liền. Ðó là cách  duy trì tập dợt tính hung hăng đấu đá của chúng.
Thằng  Tôn và tôi chia đôi, cá của đứa nào tự ý nuôi sóc và sẽ lựa chọn những  con cá “ngon lành” nhứt của mình cho đá nhau. Bên nào thua phải cõng bên  thắng ba vòng sân nhà, tương đối rộng lớn. Nuôi cá bằng những con lăng  quăng, ấu trùng của muỗi. Món ăn ngon nhứt của cá lia thia là trùng chỉ,  màu đỏ, ngắn nhỏ như sợi chỉ, loại trùng nầy tương đối khó kiếm, chỉ  bắt gặp nó sống trong bùn sình, bùn non dưới đái ao hồ. Tôi thường thay  thế trùng chỉ bằng những con trùng con, tìm thấy khi đào trùng để câu  cá. Trong mỗi lọ cá chúng tôi bỏ một vài cộng rong trứng xanh um nổi  trên mặt nước như mái nhà che để cho cá núp dưới đó.
Ðôi  khi chúng tôi cũng cho cá đẻ gọi là “ép cá” vì tính tò mò và cũng vì  tuổi nhỏ bất cứ thứ gì lạ mà tôi không biết là muốn làm thử cho bằng  được. Trước tiên phải tìm một cái “thạp da bò”, loại lu đựng chừng vài  chục lít nước, bên ngoài của thạp sơn một lớp men màu vàng đục như da bò  nên dân quê làng tôi gọi là thạp da bò. Ðổ nước vào đó hơn nửa lu, bỏ  rong vào cho nhiều rồi lựa hai ba con cá mái bụng to có nghĩa là chúng  đang mang bụng trứng, cộng với một con cá trống mà thôi, thả tất cả vào  lu. Khi nào thấy có một về bọt tương đối lớn, gần bằng bàn tay, bọt nhỏ  mịn hơn bình thường, dầy đặt nổi trên mặt nước, là đã có cá đẻ rồi. Muốn  chắc cá đã đẻ hay chưa thì lấy cọng tre đưa vào phía dưới bọt kéo lên  nhiều lần xem có trứng dính vào đó không? Nếu có thì phải vớt ngay con  cá trống ra nếu không chính nó sẽ ăn những con cá con mới nở.
Muốn  đá cá chúng tôi vớt hai con bỏ vào một chậu lớn đủ rộng cho hai võ sĩ  quyết đấu ăn thua. Cá trống màu xanh phướn đỏ thật đẹp vậy mà khi thua  bỏ chạy nó đổi màu trắng nhợt vì sợ hãi hùng, hết biết đường chạy đụng  vào vách chậu lung tung trong khi đối phương hung hăng rượt cắn trối  chết. Thú vui là nhìn hai con cá cắn nhau đứt vi, đứt phướn, tróc vảy.  Và nhứt là khi hai con đều xắn mạnh vào nhau hai miệng cá bị răng kẹp  dính nhau, gọi là “khấu”, chúng lắt lư hồi lâu mới nhả ra được. Khi cá  của mình thắng thì vỗ tay la ó miệng cứ nhắc ba vòng sân. Khi thua mặt  bí sị hăm he lần sau sẽ trả thù. Ðá cá chỉ đơn giản như vậy mà hai anh  em chúng tôi say mê năm nào hễ đến mùa là chuẩn bị đi hớt cá.
Thú  vui nuôi cá lia thia là nhìn chúng nó phùng mang vươn phướn đá bóng khi  mình kéo tấm giấy ngăn qua một bên. Và vui sướng nhứt là khi đá độ mình  thắng cuộc. Tuy còn nhỏ chơi với anh em trong nhà không ăn thua tiền  bạc nhưng sự hãnh diện thắng cuộc nó đốt cháy sự tự ái trong lòng và  kích thích mình ra công chịu khó o bế con cá như người ta đấm bóp võ sĩ  trước khi lên đài... Phải chăng từ đó mà nẩy sinh những sự đam mê trong  lòng của tuổi trẻ ngay khi còn vui đùa với bạn bè lúc ấu thơ?
Tôi  cũng từng theo người lớn tham dự những trận đá cá ăn tiền ly kỳ thú vị,  tôi cũng từng nghe các bác bài vẽ những mánh khóa làm cho cá sung hung  dữ và khi cá bị tróc vi trầy vảy thì đem về nên thả vào nước có bỏ thêm  một chút xíu muối để làm cho kỳ vi của cá mau lành, vảy cá mau ra trở  lại. Nhưng nếu bỏ muối quá nhiều có thể làm hai con mắt cá bị hư gọi là  “nổ mắt”thậm chí cá bị ngất ngư hay chết.
Có  rất nhiều loại cá lia thia, cá phướn đẹp nhưng không phải loại đá độ  hung dữ, cá xiêm to con màu xanh biết, cá đồng, cá xiêm lai với cá đồng  là loại đấu đá hay nhứt. Tại Fresno, có nhiều người Mường (Hmong) ưa  thích đá cá ăn tiền. Có những tiệm chuyên môn bán cá đá và loại cá giá  mắt nhứt là loại cá mua từ Việt Nam. Thật là một điều lạ qua nước Mỹ nầy  tôi mới biết.
Tát đìa
Trong bài viết về bắt cá cạn tôi đã tả sơ cái đìa là một ao lớn thật sâu nằm giữa đồng ruộng, hai bên bờ trồng cây che mát, hai đầu để trống gọi là miệng đìa, người ta vét đất lài từ mí ruộng xuống ao sâu để cho cá dễ xuống đìa vào mùa khô. Gia đình tôi có ba cái đìa: Ðìa Sen dù không có cây sen nào nhưng vẫn gọi là đìa Sen, Ðìa Lá gần mương đầy cây dừa nước gọi là đìa lá. Ðìa Bầu có cây trâm bầu to lớn mọc quanh bờ che mát. Ðìa nhiều cá nhứt là đìa Sen nằm giữa ruộng sâu mênh mông, mùa khô cá rút về đó thấy sẵn có ao to đúng là nơi trú ẩn lý tưởng trong mùa khô.
Mỗi  năm khoản tháng chạp khi gió có mùi hương lạ, mùi rơm ra ẩm ước, mùi  đồng lúa mới gặt xong, nhà tôi gọi đó là gió Tết; là thời gian phải  chuẩn bị tát đìa vì cũng là lúc dân làng rảnh việc nên dễ huy động những  tay lực lưỡng tham gia tát nước. Trước khi tát đìa nhiều việc cần phải  chuẩn bị:
1- Dọn sẵn chừng 20 cái lu bự còn gọi là máy lớn chứa đầy nước để rộng cá.
2- Kiểm soát lại những giỏ có bề sâu dùng đựng hay gánh cá đi đường xa. Giây quay phải thật chắc, thường làm bằng lạc dừa.
3-  Ðường di chuyển cá từ đìa về đến nhà tôi khá xa. Tôi thấy có sẵn một  đôi trâu kéo “cộ” trên sàng cộ có lót lá chầm và bốn bên dừng lá cao hơn  một thước. Cộ là một loại xe bằng cây thấp, cao hơn mặt đất chừng 5  tất. Bề ngang một thước rưởi hoặc hai thước, dài ba thước. Bánh xe được  thay thế bằng hai cây đà dọc thật to, đầu cong quớt cao để lướt qua  những bờ đê của ruộng, mặt cộ lót những cây ngang kềm cứng. Người ta  thường dùng cộ để kéo lúa, cộ rơm từ ruộng về nhà. Trâu kéo cộ đi trên  ruộng đất khô nẻ lồi lõm cũng giống như chó kéo xe trợt tuyết đi chậm mà  ta thường thấy trong TV hay Cinéma.
4- Tuyển đủ nhân công để tát nước, ít nhứt từ 16 đến 20 người.
5-  Phải có sẵn hai “gàu sòng”, phòng khi một bị hư. Gào sòng làm bằng nang  tre đương thật khít, sơn bít bằng dầu hắc hay dầu chay, múc nước vào  không chảy. Ðầu trên miệng lớn, tròn bằng một ôm tay đường kính chừng 6  tất, dài sáu bảy tất, đít gàu tóp nhỏ dần cúi đáy chỉ còn chừng 3 tất.  Miệng gàu kết một cây ngang thật cứng chắc, đích gàu cũng vậy. Người ta  cột vào hai đầu cây ngang trên miệng và dưới đay mỗi bên hai sợi dây dài  bện bằng lạc dừa thật rắn chắc, hoặc dây lượt xe đánh bằng xơ của vỏ  dừa. Dù chắc mấy cũng phải có dây phòng hờ khi bị đứt. Bốn đầu dây cột  vào một khúc cây ngắn chừng một tất dùng làm tay cầm.
6-  Dọn chỗ ngồi trên bờ ao thật trống trải thoải mái cho những cặp “tát  sòng” rộng đường xoay trở và có chỗ để họ trải nóp ngủ đêm.
7- Vét một cái giếng cạn có nước vừa đủ để giội rửa cá cho hết bùn khi gánh đi hay cộ về.
8-  Nhân công bắt cặp, tay đôi. Khi tát hai người ngồi xa nhau, tay mặt cầm  dây cột miệng trên của gàu, tay trái cầm giây cột đít dưới của gàu. Hai  người cầm dây căng thẳng cái gàu, rùng xuống hất gàu ra xa chạm mặt  nước, tay trái kéo lên tay mặt hạ xuống, cái gàu ụp vào nước múc vô đầy,  tay mặt kéo mạnh lên, tay trái hạ theo rồi hai người cùng một lượt đưa  gàu nước ra khỏi miệng ao, tay trái căng thẳng dỡ hỏng đít gàu đổ nước  ra hết, rồi cứ như thế mà múc đổ hằng trăm hàng ngàn gàu nước. Mỗi cặp  tát sòng phải có động tác nhịp nhàng ăn ý với nhau. Năm nào cũng vậy họ  quen biết từ lâu, tự họ tìm người hợp ý hợp tình với mình để cặp nhau  tác sòng. Cặp này tát mệt, thay tay đổi cặp khác, họ thay phiên nhau tát  từ chạn vạng tối cho tới sáng mặt trời vừa ló dạng thì đìa phải cạn  nước vì bắt cá và cộ về nhà không thể để nắng trưa làm chết cá. Do đó  trước khi tát, người thân tín của gia đình tôi là bác ba Ninh và bác ba  Cử phải tới nơi ước lượng chừng bao nhiêu cặp tát nước và thời gian bao  lâu mới cạn đìa lúc mặt trời vừa mọc, tùy theo năm đó có ít hay nhiều  nước. Có khi phải khởi sự tát lúc xế chiều thì mới kịp bắt cá lúc sáng  sớm. Sau nầy người ta dùng máy bom nước, tiện lợi hơn nhưng mất cái đặc  thù của thôn quê Miền Nam lúc tôi còn thơ ấu.
Mỗi  khi tát đìa ông nội tôi bịt khăn đầu kiểu mấy ông nhà quê, tay xách  ba-ton tới xem thật sớm. Chúng tôi cũng kéo theo hết bọn vì không thể bỏ  qua cơ hội rất hứng thú mỗi năm chỉ thưởng thức được có ba lần. Chỉ có  tát Ðìa Sen nhà tôi mới chuẩn bị kỹ càng như vậy chớ Ðìa Bầu thì cần ít  người tát, cá không nhiều, gánh vài ba chục gánh là hết, không cần đến  cộ. Ðìa Lá còn ít hơn nữa, gần sát vườn dừa mương rạch bên cạnh, cá di  chuyển ra sông cần chi phải ở lại đìa.
Sự  sung sướng của ông nội tôi lúc tuổi già là nói chuyện khào với nhân  công đang tát, nhắc chuyện năm ngoái năm xua, kể lại kỷ niệm ngày ông  còn trẻ. Hoặc thúc hối họ lẹ tay chuyển gàu nếu thấy còn nước nhiều hay  là khen thưởng vì thấy nước đã cạn và một hai người xách giỏ lội xuống  bắt những con cá lớn trước. Họ có nhiệm vụ gánh về mau bỏ vào lu máy đày  nước rộng cho chúng sống lâu. Cá lóc thật lớn bằng bắp chuối hay bắp vế  thông thường ông nội tôi không cho phép giết ăn, ông buộc phải rộng  chúng nó sống chờ đến mùa mưa sẽ thả lại trong đìa cho nó tiếp tục sinh  sản.
Nguyên  tắc là phải bắt cá lớn trước nhưng trên đường rượt theo cá lớn nếu có  cá nhỏ hơn thì cũng cho vào vỏ luôn. Ðứng trên bờ thấy cá lớn chạy lướt  trên bùn rẻ sống, thiên hạ la ó chỉ trỏ, lớn họng nhứt là anh em chúng  tôi, các chú dưới đìa hô to: Coi kìa, coi kìa, xe hơi chạy dưới nước đó!  Cả đám cười vang dậy trong đó có đám đông dân nghèo kéo tới “bắt hôi”,  nghĩa là bắt mót những con cá đã chui vô bùn mà nhóm người làm công bắt  không hết. Nhân công bắt cá dàn hàng ngang và từ từ bắt, được nhiều cá  họ xách giỏ đổ vào cộ, ông nội thấy khá nhiều liền ra lệnh cộ về nhà  gắp. Cá lóc, cá trê, cá rô to bỏ vào lu rộng chờ ngày ngày Tết, đám giỗ  hay giết ăn hàng ngày. Còn cá nhỏ để thành đống, chết sẽ làm mắm liền  trong ngày. Năm nào trúng mùa cá nhiều phải cộ ba bốn cộ. Cá nhỏ đổ từng  đống theo loại nhìn thấy tôi phát ớn luôn.
Trong  lúc bắt cá mạnh ai nấy la ó, phê bình, phát biểu. Nào là cá nhiều quá,  nào là cá rô ít, năm nay trúng mùa, năm ngoái ít cá. Người nầy khen  người kia bắt giỏi, hay tiếng kêu phải chờ nhau để theo cho kịp hàng.  Lâu lâu có tiến kêu trời, ui da, hay chửi cha chửi mẹ con cá trê đâm  nhứt quá. Có người bất cẩn bị đâm nhứt quá chịu không nổi phải ra về,  người khác thay thế. Mấy chú tát xong nhào xuống bắt cá ít lắm cũng phải  sáu bảy người.
Bắt  qua một lược bắt lại một lược rồi bắt sơ qua một lần nữa là đề cho “con  hôi” tràn xuống mạnh ai nấy bắt. Thông thường họ bắt cá nhỏ, ai cũng có  bởi vì những con chui xuống bùng lâu nó ngợp phải trồi lên là bị chụp  liền. Khắp nơi dưới mặt đìa đều có người. Ðôi khi có người đạp trúng cá  lốc thật to bắt được nó là người nhà tôi yêu cầu đổi lấy con cá đó bằng  một đục đầy cá nhỏ họ mừng rỡ vô cùng. Do đó tôi thường nghe tiếng van  vái “ông ngay ông địa làm ơn cho tôi mò trúng một con thật bự đổi lấy  đục cá về nhà tôi sẽ cúng ông một nải chuối”. Những tiếng cầu xin ông  Ðịa thật vui, buồn cười mà cũng thật tội nghiệp.
Có  những đứa bé gái nhỏ cũng xách đục bắt hôi nhưng mò không lợi người ta  chỉ có vài ba con cá sặc nhỏ mặt buồn hiêu, anh năm và tôi gọi nó cho  thật nhiều cá, mặt nó sáng rỡ miệng cười toe toét. Con nít nhà quê không  biết nói tiếng cám ơn. Phải nhìn cặp mắt và gương mặt của nó mới cảm  thông được sự cảm động ngây thơ của nó đáng thương vô cùng. Nhiều đứa  thấy vậy phân bì cười đùa nói “phải biết trước hồi nãy tôi không thèm  bắt chờ mấy cậu cho còn nhiều hơn tôi bắt nữa”.
Ngoài  cái vui và khoan khoái nhìn thấy cá, chúng tôi cũng lội bắt nhưng chỉ  tìm cá lóc hay cá rô chớ không dám đụng tới cá trê. Bắt cá là một thú  vui khá đặc biệt khi túm được nó giãy giụa trong tay, cho mình một cảm  giác khoái lạc lạ thường.
Mỗi  lần đi xem tát đìa là chúng tôi lận theo một gói muối ớt và vài chục  cây tre vót nhọn chừng 7 tất. Lội bùn phá đám, bắt cá, chai rong, xem  đầu nầy hỏi đầu kia, tới khoảng 10 giờ là khởi sự đói rồi. Chúng tôi bắt  những con cá lóc bằng cườm tay thọc cây vào miệng xóc tới đuôi, rửa sơ,  cấm ngược đầu xuống đất, rải lên một lớp rơm dầy, xẹt diêm đốt rơm cháy  tàn là cá chín, như vậy gọi là “nướng trui.” Tay cầm con cá tay cầm nắm  rơm bẻ cong lại cạo sạch vẫy cháy đen. Cá còn nóng hổi gỡ từng miếng  chấm muối ớt ăn ngon lạ kỳ, ăn đến no mới thôi, ruột cá vừa béo vừa ngon  thật khó tìm nơi nào có được món ăn như vậy. Cá tươi mềm mụp còn ướt  nước ngọt, không khô và lạc như cá nướng do các quán ăn ở chợ Cầu Ông  Lãnh hay nơi khác bán cho khách hàng.
Mắm đồng
Trong  bài viết tả quang cảnh tát đìa bắt được nhiều cá, một số rất ít cá thật  lớn được rộng nuôi sống trong lu nước chờ mùa mưa sẽ được phóng sinh để  tiếp tục sản xuất. Nuôi trong lu mái như vậy không cần phải cho ăn, con  cá ốm đi nhưng vẫn sống ba bốn tháng chờ cơn mưa đầu mùa, đìa ngập nước  là chúng được tự do bơi lội tìm mồi.
Ða  số cá nhỏ hơn sống trong lu mái chờ người nhà bắt ra làm thịt thường  ngày hay đám giỗ hoặc ngày Tết. Còn lại hàng đống cá lớn, cá nhỏ đã chết  hoặc còn sống mà không đủ lu mái rộng để kéo dài sự sống của chúng.
Những  năm tôi còn thơ ấu, sau khi xem tát đìa trở về tắm rửa xong tôi đeo  theo bà nội. Bà ngồi trên bộ ván gõ vừa ngoáy trầu vừa chỉ huy một đám  người trai gái, bà con hay láng giềng cộng thêm những người giúp việc  trong nhà chuẩn bị cá để làm mắm. Việc đầu tiên, bà phán là tất cả xúm  vô lựa cá chia thành ba loại: cá lóc, cá trê, cá rô đổ thành đống riêng  biệt.
Hai  chú đàn ông phải đi ra tận vườn dừa đốn mấy chục tàu lá dừa nước, chặt  ngọn chừa đủ dài bằng chiều cao của một người đứng sổng lưng. Sau đó róc  bỏ phân nửa lá phần dưới thân cây, kế tiếp chặt ngắn chom lá còn lại  chừa khoảng ba tấc cách thân cây. Mấy chú ở nhà vác hai cái thạp da bò  cao lớn bỏ cá lóc vào gần đầy lu, đổ nước lúp xúp trên mặt cá.
Ba  hoặc bốn chú đứng chung quanh lu, mỗi người cầm một tàu dừa nước còn lá  ở đầu cây chọt lên chọt xuống trong cái lu đầy cá. Bốn người cứ thế mà  sọc lên sọc xuống, vẩy cá từ từ tróc hết, đến khi nào nhìn tất cả những  mình cá trắng da, nghĩa là vẩy bị tróc ra hết thì mới ngưng tay. Làm  trắng vẩy một lu cá như vậy phải ngưng tay thay nước một hai lần và có  khi phải thay tàu lá dừa nước nhiều lần.
Nhìn  cá tương đối sạch vẩy thì mấy chú đổ ra. Bà nội đã phân công cho năm ba  cô ngồi trước dao thớt chờ cá đổ ra là chặt đầu đuôi, mổ bụng đem ra bờ  giếng, kéo nước rửa sạch, đưa vào chờ bà nội tự tay muối cá bằng muối  hột và bỏ vào thạp, quê tôi thường gọi là mái vú, bởi vì chung quanh  miệng mái có hai cục đất lớn hơn ngón chân cái do tay người thợ sản xuất  bóp dẹp gắn vào mặt ngoài. Hai cái nút đó người nhà quê xem như hai cái  vú cho nên gọi là mái vú. Thân mái rộng bùng binh, miệng mái túm lại,  có khả năng chứa vài trăm lít nước.
Sở  dĩ bà nội tôi tận tay muối cá vì bà cho rằng những người giúp việc  không biết dùng lượng muối như thế nào cho vừa đủ mặn để thấm vào da  thịt con cá và để cho sự lên men biến thịt cá thành trạng thái mắm,  nghĩa là không bị sình thúi vì thiếu muối, vi trùng sinh sản làm cho cá  hư thúi. Hay là con mắm bị cứng thịt do muối nhiều làm cho quá trình  biến chất thịt cá khó khăn nên con mắm giống cá muối hơn là cá mắm.
Bỏ  cá vào lu, mấy chú phải xếp ngay hàng, đều đặn, nhận thật cứng, từng  lớp một. Khi cá sắp lên tới miệng còn độ 4 phân thì mấy chú cắt những mo  cau khô đậy thật kín hai lớp trên mặt cá và lấy những thanh tre bằng  hai ba ngón tay, chuốt dẹp độ dầy lối hai phân tây, gài cong ngang qua  miệng mái túm rụm và đứng cứng trên hai cây chõi. Thường mấy chú phải  dùng ba hay bốn vòng cung làm cho mặt mo cau đậy trên lớp cá thật sát  thật cứng. Sau đó nấu nước muối đổ lên mặt, cao chừng một tấc. Như vậy  coi như xong, thông thường phải chờ gần cả năm thì con mắm mới ngon. Dấu  hiệu mắm ngon và có thể tháo dở ra ăn được khi nào thấy trên mặt nước  muối khởi sự có dòi lội lêu bêu nghĩa là lúc đó cá đã thành mắm cho nên  chất pro-tê-in đã thắm qua mo cao lên tới nước muối mới có sinh ra dòi.
Nếu  muối ít thì khi người ta thấy có mùi hôi thúi phải dở ra ngay, nếu chưa  quá muộn thì còn có thể muối lại, gài vào lu nhưng đợt mắm đó sẽ không  ngon. Nếu cá đã quá sình thì đành phải đổ bỏ thôi.
Nếu  gài mắm để quá lâu ngày mà không thấy thạp mắm chuyển mùi hay có dòi  thì biết thạp mắm đó cũng không ngon. Bởi vì muối cá quá mặn.
Ðúng  kỳ dở mắm, người ta rang gạo vàng, xay nhỏ, rắc ít nhiều vào thân con  mắm gọi là thính mắm, rồi gài trở lại với mục đích làm cho con mắm thơm  tho hơn.
Còn  lại những đống cá trê, cá rô, hay cá sặc nhỏ con thì quá trình biến chế  thành mắm cũng theo một thể thức như đã nói trên. Ðó là phương pháp làm  mắm của bà nội tôi mà cả làng ai cũng học và cũng khen mắm ngon.
Câu cá rô non
Sau  những cơn mưa khí trời lại mát, hơi nước kéo theo mùi cây lá, mùi cỏ  nhẹ nhàng dễ chịu. Mỗi cơn gió thoảng qua là nhập vào tâm một cái gì in  sâu vào đầu, một cảm giác của nhà quê, đồng ruộng mà khi đi học ở tỉnh  xa nhớ nhà, nhớ đồng ruộng, là nhớ thứ hương vị đó. Sáng sớm hôm nay  bước ra khỏi nhà thấy sân còn ướt, do đám mưa lớn đêm qua. Mặt trời chói  lọi tươi đẹp hơn mọi ngày, lòng tôi tự nhiên thấy cảm hứng. Vào nhà tôi  khều anh Năm, rủ:
-Ði câu cá rô non chơi anh Năm, hình như mùa cá non năm nay mình chưa được ăn cá non chiên dòn.
-Ði thì đi nhưng phải thọt ổ kiến vàng lấy mồi đã.
Câu  cá rô non cũng đòi hỏi lắm công phu. Trước tiên là phải tìm một cành  trúc ngắn có độ cong suông chiều. Một cây kim gút bẻ cong đầu, thành  lưỡi câu thật nhỏ không cần chặt ngạnh. Lấy chỉ may áo quần xe đôi chừng  một thước rưỡi cột lưỡi vào cần. Vấn đề mồi câu mới là rắc rối. Chúng  tôi lấy một cây trúc thật dài, cột một cái rổ lòng thòng chừng ba tấc  trên đầu cây, chừa ngọn trúc độ vài tấc. Xong rồi đi tìm ổ kiến vàng  trên những cây trâm bầu, me keo, hay cam quít, đưa cây xọc vào ổ kiến,  trứng kiến trắng phếu nhỏ hơn mút đũa rớt vô rổ, đồng thời cũng có đầy  kiến bò tứ tung chung quanh rổ, dọc theo cành trúc. Tay tôi phải vổ mạnh  liên hồi lên thanh trúc để cho những con kiến té xuống đất và tránh làm  sao cho chúng nó không bò đến tay chân mình vì kiến vàng cắn rất đau.
Chúng  nó là một loại kiến ăn sâu bọ trời sinh ra để quân bình thiên nhiên.  Sâu, rầy phá bông phá trái thì có kiến vàng ăn sâu. Nhiều nơi người ta  đi tìm những ổ kiến cắt nhẹ nhàng trọn ổ đem bỏ trên cây của những vườn  cam quít, vú sữa, sa-bu-chê để trừ sâu. Thọc được chừng hai ba ổ kiến  vàng là đủ câu cả buổi sáng.
Cá  rô “non” là những con cá rô nhỏ bằng hai ngón tay, mới được sinh nở lúc  ruộng nổi nước nhờ “sa mưa giông”. Những con cá rô “mề” bụng đầy trứng  theo nguồn nước của mương, rạch từ sông Cửu Long di chuyển vào ruộng  theo giác quan trời phú cho nhiều loài cá. Chúng nó biết đường tìm về  nơi được sinh ra và lớn lên để tiếp nối dây chuyền sinh sản mà tạo hóa  đã ban cho. Như loài cá Salmon ở Alaska, Mỹ Quốc. Hay cá bông lau ở Biển  Hồ Ton-Lê- Sáp, xứ Cam-pu-chia.
Con  cá bông lau chỉ sinh đẻ tại Biển Hồ mà thôi. Người ta không thể nuôi ép  cho nó sản xuất mà chỉ chờ mùa nước của Biển Hồ tràn ra sông Cửu Long,  chừng đó vô số cá con, nhỏ bằng tâm nhang hoặc lớn hơn, theo giòng nước  ra sông miệt Hồng Ngự, Châu Ðốc tụ thành những cụm màu xám đen dưới  nước. Người dân Hồng Ngự, Châu Ðốc, tới mùa nước rông chèo xuồng đi vớt  những con cá bông lau con gọi là “cá bọt”. Họ đem về thả vào ao nuôi chờ  lớn bằng ngón tay, bán lại cho ngư dân nuôi thành cá tra to lớn mình  thấy ngoài thị trường. Cá tra dù thuộc nòi giống của cá bông lau nhưng  không bao giờ sinh sản ở ao hồ nhân tạo. Người ta vớt “cá bọt” nuôi lớn  chớ không có nơi nào sản xuất được cá tra con. Thông thường không ai  thấy buồng trứng trong bụng cá tra.
Cá  rô thịt ngọt béo, nếu là cá to thì gọi là “cá rô mề”, nếu kho tộ mỡ của  nó tươm đầy, hay nấu canh chua ăn với cơm không biết ngán. Dân làng tôi  giàu hay nghèo đều ưa thích cá rô mề kho. Những người nông dân tát ao  tát vũng hay câu được cá rô mề lớn bằng bàn tay hay lớn hơn, ít khi chịu  bán ra, họ để lại nhà ăn vì may mắn có được cơ hội. Nhiều người nhịn ăn  đem kiến cho chủ điền của họ hay các ông quan trong làng Hương Cả, Cai  Tổng, hay quan Huyện.
Cá  rô non cũng ngọt cũng béo nhưng người ta không kho, không nấu mà họ đem  rửa sạch không cạo vẩy, chiên dòn cuốn với bánh tráng rau sống chấm  nước mắm tỏi ớt, ăn ngon hơn thịt gà thịt vịt. Mỗi năm chỉ ăn cá rô non  được một mùa. Không phải chợ nào cũng có người bán, nhà nào cũng mua  được cá non để ăn.
Ðầu  mùa mưa, cầy cấy xong, ruộng nước trong veo, nhiều nơi người ta đứng  dựa mé bờ nhìn xuống thấy từng bầy năm mười con, có khi mấy chục con chờ  những con muỗi mòng đáp trên mặt nước hay cắm đầu tìm kiếm những con  lăng quăng trốn dưới gốc mạ non hay cỏ lát mọc trong ruộng. Dân trong  làng ít người câu cá rô non vì không phải ruộng nào cũng có cá và câu cả  ngày cũng không được bao nhiêu, nên không ai chịu bỏ công oan uổng. Còn  tôi lúc thiếu thời luôn luôn tìm hưởng những thú vui ngoài đồng hơn là  sống trong nhà buồn chán.
Câu  cá rô non rất dễ, cứ móc một trứng kiến thả xuống chỗ nào mình thấy cá  là rất nhiều con dành nhau đớp mồi. Dở nhẹ tay đưa lên bờ có khi không  cần gỡ, cá dính lòng thòng ra khỏi mặt nước nó giẫy dụa rớt trên bờ vì  lưỡi câu không có ngạnh hay rớt ngay trong miệng đục nếu mình rê nó vào  đó. Nhìn rõ thấy cá đớp mồi gây cảm xúc hồi hộp nhẹ nhàng làm cho sự đam  mê càng phấn chấn, dù phải dang nắng hay bị kiến vàng cắn khi đi kiếm  mồi, anh Năm và tôi không năm nào bỏ qua một mùa câu cá rô non.
Ðặt bung
Cái  bung làm bằng tre, đương thành giỏ hình bầu dục, lớn nhỏ tùy ý, thông  thường bề dài sáu tấc, ngang ba tấc, cao năm tấc. Bên phía mặt bầu dục,  người ta chừa một lỗ hình chữ nhựt ba tấc cao, bảy phân ngang, rồi đặt  vào đó một cái hom tréo thật lỏng lẻo để cá chui vô dễ dàng mà ra không  được. Nắp bung làm bằng cây có cửa, lỗ nhỏ chừng năm phân vuông, mở ra  gài lại được để bỏ mồi vào bung khi cần.
Người  ta đặt bung gần cuối mùa lúa, khi lúa trổ đòng đòng nghĩa là có bông  búp trong thân cây. Thời gian đó cá trong ruộng cũng lớn, đặt bung là  phương tiện đặc biệt dùng để bắt cá trê. Có hai loại cá trê sống trong  ruộng: Trê lét da trắng, trê vàng da vàng với ít nhiều đốÔm bông. Cá trê  lét ăn tạp mồi hôi thúi, cá trê vàng kén ăn hơn.
Anh  Năm và tôi cũng như thường lệ hễ chỗ nào có cá có chim là có mặt chúng  tôi tìm cách bẫy bắt. Nếu tính theo nhà Phật thì chúng tôi phạm tội sát  sinh dẫy đầy.
Bắt  cá bằng cách đặt bung có phần cực khổ hơn cắm câu hay đặt lờ, đặt lợp,  đặt nò. Trước hết phải dang nắng cả ngày để bắt cua đồng, dọc theo mé  ruộng, đôi khi bị cua kẹp bầm tay rướm máu vì mình còn nhỏ chưa có kinh  nghiệm. Ðã vậy còn phải bắt khá nhiều đem về bằm nhỏ bỏ vào hũ để ủ cho  nó sình lên thúi dậy. Nếu là mồi đặt cá trê vàng thì không nên để sình  thúi quá lâu và phải thêm một vài tai vị nghiền nát hay ngũ vị hương  càng tốt. Trước khi sử dụng phải đổ vào đó thật nhiều dầu dừa để khi bỏ  mồi vào bung lớp màng màng của dầu dừa tỏa ra đem mùi hôi thúi nhử cá ở  xa.
Quảy  bung và mồi thúi đi xa cũng có phần khó chịu. Trước khi đi tới chỗ nào  ước đoán có cá, chúng tôi phải hỏi thăm người quen trong làng, ruộng nào  sâu có cá nhiều? Bà con ai cũng tốt bụng vui vẻ chỉ, bởi vì họ biết  chúng tôi nghịch ngợm đi tìm vui chớ không phải bắt cá để ra chợ bán.
Tới  nơi chúng tôi đã chọn, lội xuống moi đất đặt cái bung sát mé bờ, ngập  nước chừa năm phân gần sát nắp. Sau đó be bùn chung quanh thật kỹ, vuốt  thật láng, nhứt là cái miệng hom phải tô bùn cho trơn tru giống như hang  cá vô ra vậy. Trong khi lội nước đấp bùn thì đỉa trâu, đỉa mén cứ bu  đeo vào chân, may mắn là chúng tôi sợ sâu mà không sợ đỉa. Những con đỉa  gây phiền phức chúng tôi phải bắt quăng chúng nó liên hồi làm cho thời  gian chuẩn bị kéo dài chớ thật ra chúng nó không hút được bao nhiêu máu  của chúng tôi. Bởi con nào vừa đeo vào chân thì tôi nhổ nước miếng vào  tay vuốt qua thân nó là nhả ngay rồi cầm quăng thật xa chỗ mình móc đất  nhưng chúng cũng trở lại nhanh chóng hình như chúng nó đánh hơi được mùi  da thịt của người.
Ðặt  xong cái bung chờ cho nước lắng bùn đục, trong trẻo lại bình thường,  chúng tôi mới mở nắp bỏ hai muỗng mồi ngồi chờ cá vô. Ðầu hôm từ lúc  chạng vạng tối chúng tôi phải bỏ mồi liên tục khoảng mười lăm phút một  lần. Thoạt đầu cá mới vô chừng vài ba con thì chưa nghe chúng giẫy, đến  khi có vài chục con thì giẫy dụa lạch chạch, róc rách liên hồi. Cá càng  nhiều càng nghe tiếng giẫy lớn, những tiếng cá giẫy trong bung cộng thêm  màng màng hôi thúi tỏa ra ngoài là một cách gọi đàn, cá bu vào khu có  mùi hôi tưởng chừng như trong hang có mồi nên đồng bọn mới giành nhau  tranh ăn dữ dội. Sự thật cá càng quậy càng giẫy thì mồi càng văng ra cá  bên ngoài càng muốn chui vô.
Chúng  tôi ngồi rình thấy cá tụ chung quanh ăn móng, quậy tới quậy lui, lội  qua lội lại, dợn nước đục ngừ, rồi cũng chui vào bung hết. Sự hồi hộp và  hứng thú ngồi nhìn cá từ xa lai rai hay từng bầy gắp rút chui vào bung  của mình cho tôi một cảm giác sung sướng lạ kỳ. Mặc dù phải thức khuya  châm mồi, muỗi cắn đập mãi vẫn còn nhưng sự ham mê bắt tôi ngồi đó có  khi đến gần sáng. Ðêm nào không có hoặc ít cá thì anh em chúng tôi chui  vô nóp nằm bàn tán, tiếc rẻ công lao mình dành cho bao nhiêu khổ cực mà  chỉ bắt được hơn chục con cá. Có khi hai đứa nghĩ rằng mình đi học làm  chi cho nặng óc, xa nhà nhớ mấy em thà đi câu cá đặt bung chài lưới sống  như mọi người thoải mái hơn là phải tuân theo kỷ luật nhà trường.
Một  vài khi chúng tôi thức đêm không thấy có chút mệt mỏi vì cá nhiều, hàng  trăm con nằm sắp lớp, hai đứa phải gồng tay giở bung lên khỏi bờ, cá  đầy hơn nữa bung. Chúng tôi khệ nệ khiêng về vui vẻ. Cả nhà bàn tán hai  ba ngày chưa thôi. Chúng tôi đi khoe cùng làng, mấy chú mấy bác không  ngớt lời khen ngợi và có ông còn bảo:
-Tao sẽ bắt chước tụi bây tới đó kiếm vài con cá cho mấy đứa nhỏ nó ăn.
Bác Ba Tàn kể công:
-Tao chỉ chỗ thì nhứt định phải có cá, nếu không thì chỉ cho tụi bây làm gì?
Bác khoác lác như vậy chớ nhiều lần bác chỉ chỗ tụi tôi đi cắm câu, sáng chỉ mang về hai ba con cá lóc nhỏ.
Cái  thú vui ở miền quê khi lặn lội đi câu cá hay bắt chim thật là thú vị,  đầy cảm hứng, hồi hộp, khoan khoái khó tả mà người ở tỉnh thành không  thể biết được. Tình nghĩa đậm đà, giản dị, thấm thía của bà con láng  giềng miền Nam quê hương tôi cũng là điều khó thấy ở vùng đô thị. Bây  giờ tuổi đã quá thất thập, sống qua nhiều nơi, nhiều xứ, vào những thời  điểm khác nhau, nhớ lại những kỷ niệm xa xưa lòng vẫn thấy cảm hứng, bồi  hồi, bồng bột không kém lúc thiếu thời.
Bắn chim
Ai  có sống qua cảnh náo nhiệt của thành phố, xe cộ đầy đường, rầm rộ khua  động không ngừng, cho dù đã quen nhưng đôi khi họ cũng ước ao được sống  những ngày yên tĩnh, đầu óc lắng dịu không bị căng thẳng vì sự ồn ào náo  nhiệt luôn tác động vào tâm não con người.
Và  ai đã sống qua cảnh đồng quê êm ả, chiều nhìn mặt trời dần dần lặn mất  dưới rặng cây, tối xem trăng sáng chói như đèn trời soi cảnh vật... về khuya thỉnh thoảng có tiếng chim vạt kêu đêm như nó chia sẻ nỗi buồn với những người có tâm sự.
Ða  số những ai đã sống qua cảnh êm đềm, giản dị của đồng quê, thế nào họ  cũng ước mơ hưởng được cuộc sống an nhàn như vậy. Con nít thơ ngây như  tôi sinh ra nơi nầy càng cảm thấy khắng khít dính liền với mùi ruộng  lúa, mùi khét trâu, mùi khói rơm ung mũi, những thứ đó nó quyện vào tâm  não con người tôi hễ xa thì nhớ, hễ gần thì không muốn bỏ đi.
Những  đứa trẻ quen ở thành thị, có đủ mọi thứ đồ chơi nào xe hơi, xe tăng  đụng biết lui, trống đường biết tiến, nào súng bắn xẹt lửa y như thật,  vân vân... Như thằng con tôi 11 tuổi được về làng thăm quê nội. Con của  người láng giềng trạc tuổi của nó sang rủ đi gài bẫy “chim mắt thao”. Dĩ  nhiên thằng con tôi tò mò, xin phép cho bằng được để đi theo xem điều  mới lạ nầy như thế nào?
Trong  cái lồng nhỏ, phân nửa trên để trống có đầy đủ đồ ăn mà loại chim mắt  thao ưa thích, phân nửa dưới nhốt con chim mồi. Cửa lồng trên mở rộng có  sợi dây cột vào để kéo sập bất cứ lúc nào. Ngày  hôm đó thằng con tôi đi chơi tới xế chiều mà không thấy đói vì nó mãi  hồi hộp theo dõi chim rừng đáp trên lồng vô hay không vô ăn mồi?... Rồi  cứ như thế làm cho nó say mê đến khi bắt được hai con mới chịu về. Từ  đó mỗi khi nghỉ Hè là nó cứ nằng nặc xin về quê nội với mục đích tìm  những thú vui lạ mà thành thị không thể cho nó hưởng được.
Thuật  chuyện con tôi để giải thích chuyện của bản thân mình, vốn sinh ra và  lớn lên trong làng, dù có đi Mỹ Tho, Sài Gòn học nhưng mỗi khi bãi  trường là lặn lội khắp nơi trong làng tìm những thú vui quen thuộc. Ðời  người có những chuyện khó quên, thậm chí không thể quên được là thú vui  mà mình cho rằng tuyệt vời hay chuyện đau thương buồn tủi để lại một dấu  ấn trong lòng.
Chuyện  thích thú nhứt của tôi là “giựt chim” trên những đám mạ mới gieo. Sự  mong chờ, sự ước ao chim về ăn mồi lúa vừa lú mầm, gieo đầy trên mảnh  ruộng mới được tát cạn nước. Sự hồi hộp khi bầy chim đậu trên cành mà  chưa chịu đáp xuống lưới, sự vui mừng khi giựt tay lưới sập bắt được vài  ba chục con chim se sẻ, dòng dọc, áo già hay chim sắc... Chim sắc nhỏ  con, lông màu nâu, mỏ sậm đen, chim áo già cũng nhỏ, lông đỏ, khoan cổ  đen, mõ trắng ngà thật đẹp, chim dòng dọc to hơn một chút, còn gọi là  dòng dọc nghệ, lông vàng có đệm ít lông đen trên mình hay trên cánh, mỏ  vàng, chim sẻ lông nâu và đen pha lẫn, con trống có vành mắt đen chim  mái không có.
Ôi!  Ðam mê nó ngấm thấu tận lòng, mãi cho đến lớn lên mang chức tước đầy  người mà vẫn còn lặn lội tìm cách sống lại những ngày thơ ấu đó. Ðôi lúc  tôi cũng thoát được ra khỏi vòng ràng buộc của xã hội trưởng giả quan  quyền. Những giờ phút đó nó quí báu làm sao!
Nói  về kỷ niệm khó quên trong đời còn một chuyện thứ hai tôi ghi nhớ mãi là  thời còn du học bên Pháp. Có một đêm trăng rằm sáng chói rọi xuống biển  tuyết trắng xóa khắp nơi. Tôi cùng với ba người bạn đồng song cỡi ngựa  giữa cảnh đẹp trời khuya, ngao du đi hết làng nầy sang làng khác ở khu  ngoại ô thành phố Paris. Lúc đó tôi có cảm tưởng lạ lùng như mình đang  lạc trong cõi thần tiên,
Trở  về cái thú bắn chim, trẻ con trong làng bắn chim toàn bằng ná thung,  quê tôi gọi là giàng thung, gồm một cái “nạng” làm bằng nhánh cây có  cháng hai, chặt về hơ lửa uống cho bầu cong thật tốt, xong cắt chừa năm  phân làm gốc, bảy phân hai cây chia ra thành nạng. Ðầu hai cây nạng, mỗi  bên cột một dây thun bằng ruột xe hơi, dài chừng hai tấc cuối đầu dây  thun cột dính với một miếng da dùng kềm đạn nhắm mục tiêu mà bắn.
Có  người nhờ thợ mộc cưa lọng một cây nạng bằng gỗ, bào chuốt láng lẩy  thật đẹp. Còn tôi thì lựa những thân cây cứng dẻo như cây duối, cây ổi,  đốn những cháng hai đem về uốn cong đúng chiều dùng làm ná thung cũng  tốt. Ðạn bắn chim thường bằng đất sét vò tròn phơi khô. Nhưng có khi  lười biếng tìm những đống đá sỏi hốt cả nắm làm đạn cũng xong. Giàn  thung chỉ bắn được những loại chim nhỏ như se sẻ, trao trảo, dòng dọc.  Loại chim lớn hơn như cu đất, cu ngói, dù bắn trúng nó vẫn không ngã trừ  khi đứng gần sát, hoặc trúng đầu hay trúng cánh gẫy, làm chinh gió nó  bay không được phải té xuống đất mình rượt bắt. Có khi nó lủi vào bụi  rậm, bụi gai thì cũng chịu thua.
Thổi chim
Thay  vì bắn bằng giàn thung, làng tôi có vài người lớn họ dùng ống đồng dài  chừng hai thước, lỗ nhỏ bằng ngón tay út, lấy đất sét mềm vò tròn nhét  vào lỗ rồi nhấm vào con chim mà thổi thật mạnh. Viên đạn bắn ra xa nhưng  không mạnh bằng giàn thung. Lợi thế của ống đồng thổi chim là dễ nhắm  trúng đích. Nhưng con nít như tôi thời đó chỉ biết đi theo xem chơi thấy  lạ nhưng không đủ hơi để thổi. Chú bảy Hồng cho thổi thử nhưng cục đất  sét đi không xa có khi còn mắc kẹt giữa ống đồng vì yếu hơi.
Chấm chim
Chấm  chim có phần rắc rối công phu hơn. Trước hết là phải có một cây trúc  thật dài, uốn suông đuột ngay thẳng. Ðầu cây thoa đầy mủ, muốn chấm  trúng chim mình phải rình rập tới gần những con chim thật dạn hoặc buổi  chiều sắp tối, chim về ngủ cả bầy đầy trên cây. Chúng líu lo chí chóe  giành nhau chỗ đậu ngủ qua đêm bất kể có người đang rình rập. Tôi thích  chấm chim kiểu nầy nhưng khó tìm ra những cây có chim thường về ngủ.  Hoặc có mà ở xa nhà hay gần những cụm cây um tùm, đi về đêm tối sẽ bị  gia đình rầy la.
Muốn  chấm chim phải chặt cây lấy mủ. Loại mủ tốt là mủ cây mít, cây sa-kê,  cây sa-pu-chê. Thông thường trộn ba thứ càng tốt. Lấy được mủ rồi về nhà  phải nấu lại cho sôi làm mất chất nước lộn trong mủ. Trò chơi nầy chẳng  những khó khăn mà còn dơ bẩn vì khi mủ dính tay phải lấy dầu dừa hay  dầu lửa chùi mới sạch.
Tuy  nhiên nếu lấy mủ thoa đầy một nhánh cây, đem cấm giữa đồng ruộng, những  nơi có chim thường đến như gần đống rơm cao nghệu, hay trên những đám  mạ mới gieo, lúa mọc mầm, nằm phơi la liệt trên đám ruộng sạch cỏ, cạn  nước, có khi cũng bắt được khá nhiều chim.
Giựt chim
Trò  chơi nầy hơi rắc rối nhưng vô cùng thú vị. Trước hết phải làm một tay  lưới. Chúng tôi không tự làm được mặc dù rất dễ nhưng cái khó là canh  dây, cột dây như thế nào cho tay lưới nhẹ giựt và sập cho thật mau. Do đó chúng tôi phải nhờ bác ba Ninh làm giùm. Lưới  giựt chim gồm có hai mảnh riêng rẽ, dài hai thước, ngang một thước. Bốn  bề ngang cột dính vào một thanh tre nhỏ cũng ngắn một thước như nhau.  Nếu để hai tấm lưới nằm trên mặt đất cách nhau đúng hai thước. Bốn góc  bên trong có bốn khoen dây dùng để cấm nọc cho bốn đầu cây nầy dính cứng  dưới đất nhưng có thể lung lay xoay đi xoay lại dễ dàng. Còn lại hai  đầu cây trên mỗi bên cột một sợi dây dài chừng hai thước, đầu dây có  khoen đề cấm nọc dính xuống đất. Hai đầu cây ở  đoạn dưới tay lưới cột liền nhau dây lòng thòng dài độ bốn thước, giữa  sợi dây nầy nối liền với một sợi khác thật dài chừng hai mươi thước có  tay cầm.
Vấn  đề khéo léo của người “bắt tay lưới” là làm sao điều chỉnh dây nhợ cho  cân bằng chính xác. Làm thế nào để khi nắm giựt nó úp hai miệng lưới vô  đúng hai thước đất trống đã chừa bên trong. Còn người mang tay lưới đi  vực chim phải cắm những cây nọc sao cho tay lưới không bị chỏi và xếp  lại thật mau khi giựt sập để kịp úp bầy chim đang ăn trong khoảnh đất  trống bốn thước vuông có chim mồi cột trong đó và có lúa rải đầy nhử  chim rừng vào ăn.
Mỗi  khi trong làng có đám mạ nào mới gieo trên đất ruộng sạch cỏ, vừa tát  cạn nước, để lộ ra những hột lúa vừa nẩy mầm phơi trần dầy đặc, sẽ mọc  thành mạ non nếu không bị chim trời mổ nuốt. Biết được có đám mạ là em  tôi quẩy lồng, tôi vác lưới đi giựt chim. Tới nơi chúng tôi tìm khoảnh  đất gần bờ đê cắm lưới. Trải lưới xong cắm ba bốn con chim mồi dính chân  trong dây, chớp chớp cánh muốn bay mà không bay được. Rải thêm lúa rồi  đi tìm một nhánh cây khô trụi lá có nhiều cành, cắm ngay trên đầu lưới  cách xa chừng vài thước để chim rừng có chỗ đậu trước khi đáp xuống vùng  đất có chim mồi và đầy lúa.
Ðặt  để tay lưới xong, chúng tôi kéo sợi dây có tay cầm thẳng đường và giựt  thử xem có nhậy sập không? Mọi thứ đều chuẩn bị chu đáo, xong chúng tôi  đi tìm những cành cây đầy lá bẻ đem về cắm thành một cái chòi núp kín  đáo không để chim rừng thấy bóng người. Ngồi trong cái chòi đó chờ lũ  chim xấu số bay về.
Khi  thì chờ thật lâu mới thấy bóng chim về, khi thì còn đang làm chòi núp  chưa kịp xong là chim đã kéo về cả đàn, thấy bóng người hoảng sợ bay  mất, hoặc cũng có khi đàn chim vì đói mà đáp liều vào chỗ có lúa để kiếm  ăn. Nhưng tôi vừa bén mảng đến cầm dây là chúng nó vội vàng bay mất.  Những buổi sáng sớm hoặc xế chiều là thời điểm thuận lợi nhứt để giựt  chim. Bởi vì sáng chim bay đi kiếm mồi, chiều tìm chỗ ăn no trước khi về  nơi nghỉ ngủ qua đêm.
Chúng  tôi ngồi trong chòi nói toàn chuyện chim với cá. Ít khi nào nói chuyện  học hành, có chăng là than phiền năm nay thầy cho quá nhiều bài phải làm  trong dịp Hè. Và năm nào cũng đành chịu phạt đổi lấy sự vui chơi trong  ba tháng nghỉ Ðang nói năng lăng xăng bỗng nhiên hai đứa đồng thanh suỵt  nhỏ, mắt nhìn năm ba con chim sắp đáp trên cành. Thằng Tôn xì xào nói  nhỏ:
- Ít quá, tụi nó có xuống cũng đừng giựt. Thà bắt cho đáng mẻ lưới, trước sau gì cũng có chim mà lo gì?
-  Mầy quên rằng có bao nhiêu lần đi về chỉ có hơn chục con hay có lần tay  không? Bây giờ có bao nhiêu là tao chụp lấy bấy nhiêu. Chờ chúng nó đáp  xuống là tao giựt liền. Trong lúc anh em đang bất đồng, ba con chim sắt  nhỏ đáp xuống, năm con khác vẫn đậu trên cành cây đầu lưới.
Thằng Tôn bực mình nói hơi lớn tiếng:
- Chúng nó phân vân cái gì mà không chịu xuống?
Tôi lại suỵt bảo nó im rồi nói nhỏ:
- Chim sắc và chim áo già nhát lắm, có thể nói được là chúng nó khôn hơn loài dòng dọc, chim sẻ háu ăn.
Chờ không lâu cả đám sà xuống, tôi lanh tay giựt mạnh, lưới sập bắt trọn 8 con chim sắc, chúng nhảy cà dựng dưới mặt lưới. Hai đứa chúng tôi chạy ra gỡ mau bỏ vào lồng rồi căng lưới chạy vào chòi núp chờ nữa.
Lâu  thật lâu, nắng chiều dịu bớt, mặt trời ngã dần xuống cao khỏi ngọn trâm  bầu chừng một sào. Chúng tôi quyết định sẽ cuốn lưới khi mặt trời xuống  khoảng giữa thân cây. Thằng Tôn tiếc hùi hụi, than xuất hành nhằm giờ  xui ngày rủi.
Từ  xa cách hai thửa ruộng trước mặt, tôi thấy một bầy chim bay nhưng không  định hướng được chúng nó sẽ về đâu? Tôi khều thằng Tôn chỉ, nó sáng  mắt, vẫy tay ngoắc bầy chim làm như nó muốn gọi chúng về đây. Thật vậy,  bầy chim hướng mau về đám mạ chúng tôi đang ngồi, ngày càng rõ nét, thấy  được là dòng dọc nghệ. Rồi một đám chim sắc từ đâu bay đến lại đậu thêm  trên cành khô.
Chúng  nó đậu đầy nhánh cây trước lưới, không còn chỗ trống, một đám hơn chục  con đáp ngay vào vòng lưới. Tim tôi đập liên hồi, tay cầm sợi dây nắm  chặt. Thằng Tôn khều lưng tôi không ngừng. Hình như tôi run hay nó run  vì sung sướng hồi hộp. Cái giây phút tuyệt vời, một sự ước mơ lâu dài  bây giờ mới tới. Nhưng lại phải chờ. Thằng Tôn ghé tai tôi muốn nói nhỏ  gì đây? Tôi vội xô nhẹ đầu nó ra, tay trái bịt miệng nó. Hai tay nó lại  ngoắc ngoắc mời chim đáp xuống. Giây phút hồi hộp chờ đợi... Tại  sao lâu qua mà chúng nó không đáp xuống, mặt tôi nóng ran, ruột gan bời  rời mấy con chim sắc bị bắt nhốt trong lồng kêu inh ỏi, vài ba con chim  sắc khác trong bầy chim trước mặt, bay về hướng chòi, đậu trên mấy  nhánh trăm bầu phủ đầu chúng tôi. Hai anh em tôi thằng nào cũng  bất động, gần như cứng người vì mừng, vì sợ chúng phát hiện có người sẽ  hè nhau bay mất tất cả. Bầy chim trên cành chớp cánh hạ dần cả đám không  biết bao nhiêu đã lọt vào, tôi vội lấy hết sức giựt mạnh, hai mảnh lưới  ụp vào, lố nhố đám chim mắc lưới nhảy tung tăng. Thằng Tôn la hét vỗ  tay mừng rỡ nó nói gì tôi cũng không nghe, tay tôi xách lồng chạy như  bay ra ngồi gỡ từng con bỏ vào lồng. Tim vẫn còn đập nhưng đầu tôi lấy  lại bình tĩnh dần.
- Trúng mối rồi anh Sáu ơi!
- Ðố mầy biết được bao nhiêu con?
- Ít lắm phải năm sáu chục.
- Có thể như vậy lắm.
- Chim dòng dọc nghệ nhiều, quay chảo ăn mệt nghỉ.
- Nhổ lông mổ ruột cũng mệt nghỉ!
- Vậy thôi giở lưới thả cho tụi nó bay làm phước, mình khỏi nhổ lông mổ ruột anh chịu không?
- Thằng khỉ mầy đừng dở hơi.
Anh  em chúng tôi vừa gỡ chim vừa đếm tất cả bảy mươi sáu con cộng với tám  con chim sắc bắt được là 84, nhốt chặt lồng không còn chỗ bay, chúng  giẫm lên nhau kêu inh ỏi.
Thằng  Tôn đề nghị cuốn lưới về, nhưng lòng tham và sự ham mê của tôi chưa  chịu ngừng. Banh lưới ngồi chờ, thỉnh thoảng có chim về không đông, mỗi  bầy chừng vài chục con nhưng đậu trên cành kêu hót, có lẽ chúng nghe  đồng bọn kêu ré và hiểu rằng bọn chúng đã gặp cơn nguy. Vì vậy không có  bầy nào chịu đáp xuống, Từ đó chúng tôi rút kinh nghiệm đi giựt chim đem  theo hai lồng, có chỗ rộng nhốt chúng thoải mái không la inh ỏi có thể  làm kinh động giống chim cùng loại.
Chiều  hôm đó nhà chúng tôi ăn cơm như bữa tiệc. Thằng Tôn và tôi mặc sức kể  chuyện, mạnh miệng, hào hùng, nhưng không thể tả được tâm trạng vui  mừng, cái cảm giác lo âu hồi hộp trong lúc chúng tôi chờ đợi bầy chim  đông nghẹt đang quan sát mấy con chim mồi và thức ăn đầy dẫy mà chưa  chịu đáp xuống.
Cái  thú vui của tuổi thơ là ở đó, sự đam mê buộc tôi nhớ mãi quê nhà, nhớ  cảnh thiên nhiên hữu tình, nhớ đồng ruộng mênh mông, sông rạch trải dài,  phải chăng những cái đó tạo cho tôi lòng yêu nước thương dân?Giựt Cu
Trong  bài viết về thú vui của tuổi trẻ khi chúng tôi vác lưới đi giựt chim  thì tôi đã mô tả khá rõ ràng về hình dáng và tác động của tay lưới dùng  làm bẫy để bắt chim rừng. Nhưng lưới giựt cu có phần khác hơn đôi chút.  Thứ nhứt tay lưới lớn hơn, hai mảnh lưới có bề dài hai thước rưỡi, bề  ngang một thước rưỡi. Như vậy bề mặt khoảnh đất trống dành cho chim đậu  rộng gấp đôi. Thứ hai lỗ lưới lớn hơn để tránh bị cản gió khi cần giựt  nhanh. Thứ ba các dây nhợ phải to và chắc hơn vì tay lưới lớn.
 Kỹ  thuật giựt cu đòi hỏi phải lanh trí, lanh tay hơn giựt chim dòng dọc,  áo già. Bởi vì con chim cu rất mạnh. Nó đập cánh mạnh và nhanh, Ðậu trên  cành cây hay dưới đất chúng vừa chớp cánh vừa vọt chân. Do đó chim cu  cất cánh bay bổng chớ không bay ngang rồi mới lên bổng như chim sẻ. Vì  vậy giựt cu là phải giựt ngay khi chim mới vừa sà vào lưới chưa kịp đậu  xuống đất. Nếu để cho chúng nó đậu xuống đất rồi mới giựt thì mười lần  sẩy mất hết chín rưỡi vì hai miệng lưới vừa chớp là con chim đã vọt  thẳng ra ngoài tầm lưới rồi. Cho nên khi chúng sà vào khu đất trống có  cu mồi thì phải lẹ tay giựt mạnh, úp ngay cả lũ chưa kịp đặt chân xuống  đất. Có đôi khi một hai con vừa đụng đất vọt lên trúng đồng bọn té ngay  xuống.
 Nhanh  trí lẹ tay tôi có, nhưng sức mạnh tôi thiếu nên rất nhiều lần ham đi  giựt cu một mình tôi làm sẩy chim không biết bao nhiêu lần. Khi nào đi  với anh Năm thì tôi bắt được nhiều hơn vì ảnh không cho tôi sờ tay vào  giây lưới. Thịt cu ngon ngọt, quay chảo hay bầm nhỏ nấu canh với đọt bầu  non là món dân quê làng tôi hay thưởng thức.
 Giựt  cu trên những đám mạ mới gieo ít khi có, phải lựa những đám cỏ thấp có  bông cỏ nhiều. Chim cu rất nhác nên chúng thường tìm nơi có cây rậm hay  đồng cỏ hoang vu. Chúng nó thích ăn bông cỏ, ăn lúa khô hơn là ăn lúa  nẩy mầm, trừ lúc chúng nó đói thiếu mồi.
 Khổ  nỗi là tôi thích vác lưới đi một mình tới đám cỏ rậm có nhiều bông,  chim cu thường xuống cả bầy do ông ba Hàn chỉ cho tôi, nó nằm trong khu  vườn của ông Hương Sư Liên. Nhà bác Liên có  cô con gái trạc tuổi tôi tên Thời. Cứ mỗi lần cô ta thấy bóng tôi vác đồ  nghề đi ngang qua cây cầu sau hè là cô hớn hở lớn tiếng chào hỏi nói  năng xa gần, líu lo đủ thứ. Phần tôi thì hồi hộp cười đùa trả lời, khi  thì tự nhiên khi thì ấp úng. Gần như đôi bên hai đứa có một cái  gì ẩn ý chứa trong lòng mà không dám nói ra hay là không biết nói làm  sao để diễn tả lòng mình.
 - Cậu sáu đi gài bẫy bắt hết mấy đám chim cu sau nhà, em bắt cậu phải đền em đấy.
 -  Cô Thời muốn tôi đền cái gì đây? Chim nhiều mà bác Liên không thích bắt  ăn thịt để nó phá phách, tôi bẫy giùm cho mà em không cám ơn còn đòi  tôi phải đền nữa sao?
 -  Bắt đền chớ sao? Chim gáy nghe êm tai, sáng sớm nghe vui, xế chiều nghe  buồn bã, cái thú ở nhà quê của em là như vậy đó, chớ đâu phải như cậu  Sáu đi học ở tỉnh thành có đủ thú vui.
 - Ði học xa không vui đâu, nhớ nhà lắm, nhớ bác Hương Sư nhớ bà con lối xóm.
 - Cậu sáu nhớ bẫy chim hay nhớ ba em?
 - Tôi nhớ cô Thời nhiều hơn nhớ bẫy chim.
 Con nhỏ xí một cái, lại còn hứ thêm, rồi trợn mắt nhìn tôi trân trân, mỉm cười vui vẻ tiếp:
 - Nói thật hay nói xạo vậy cậu Sáu?
 - Nói thật!
 Những  câu nói đùa qua lại của hai đứa trong lứa tuổi mười ba, lời lẽ ngây  ngô, không đâu vào đâu cả mà sao tôi thấy nó ngọt ngào quá. Trải  lưới xong rồi, tôi ngồi trong chòm cây chờ cu về mà đầu cứ lập đi lập  lại mấy câu vừa trao đổi với con Thời sao thấy lòng nó lâng lâng thích  thú. Một thứ cảm giác chắc chắn không phải là tình, không phải  đùa cợt, không phải chọc ghẹo trai gái. Nó có một cái gì đôi bên muốn  gởi gấm, một thứ trìu mến qua những câu nói ngây ngô vô nghĩa nhưng làm  cho người nghe thấy nhẹ lòng khó quên.
 Gác Cu
 Gác  cu như thế nào? Trời phú cho loài chim này giống như bồ câu nuôi trong  nhà, chúng có hai đặc tính: Thứ nhứt là một vợ một chồng, trừ khi bạn  tình của nó chết. Thứ hai là anh hùng cái thế trong lãnh thổ của nó,  không cho phép bất cứ con chim nào lạ bay vào lãnh thổ đó mà trổ tài dê  chim mái trong vùng. Và nó cũng không chấp nhận nghe tiếng gáy nào khác,  hay hơn giọng kêu của nó. Cái tính “anh chị” ghen tương và kiêu căng đó  khiến cho nó chết “vì đàn bà”.
 Bẫy  dùng để gác cu hình thù nhỏ, bề ngang chừng hai tấc rưỡi bề dài chừng  bốn tấc. Mặt dưới bằng phẳng, phân nửa mặt trên đương bằng nan tre hình  bầu tròn như nửa quả bóng, đó là lồng nhốt cu mồi, có cửa để bắt chim ra  thả chim vào. Phân nửa bên còn lại có hình vòng thon như trái xoài bao  trùm lưới, có lò xo kéo lên bật xuống do một hệ thống gài với một cây  gác ngang để chim rừng đứng vào thì sụp lò xo bật xuống nhốt con chim  rừng bay tới đá lộn với cu mồi.
 Người  đi gác cu dùng cây sào thật cao có móc, đưa bẫy cu đặt vững chắc trên  nhánh cây, tàu dừa, hoặc máng trên cành bằng cách này hay cách khác rồi  ngồi chờ cu gáy. Chim phải gáy thường, gáy mãi cho đến khi con cu chủ  chốt trong vùng nghe tiếng gáy mới lạ của cu mồi bèn nổi giận tìm đến mà  đá thì bị sập bẫy. Người gác cu chuyên nghiệp người ta thường tập con  chim mồi cất tiếng gáy mỗi khi họ búng tay nghe chóc chóc hay hút gió  kêu phù phí là chim cất giọng cú cu ngay. Cũng có khi tiếng gáy của cu  mồi quá mê ly dụ được chim mái đã lẻ bạn bay tới đáp vào bẫy sập mất  mạng.
 Người  ta thường nói: Ở đời có bốn cái ngu, làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm  chầu. Làm mai tốt ngày, tốt tuổi, thì vợ chồng người ta hạnh phúc, bằng  khômg êm ấm thì mình bị phiền trách. Lãnh nợ là cái ngu lớn nhứt bởi vì  đa số người lãnh nợ đều phải giang đầu ra trả và kêu trời. Cầm chầu thì  luôn luôn bị chỉ trích không ít thì nhiều. Bởi vì trong một vở hát bội  khi nào người cầm chầu muốn khen hát hay thì đánh một tiếng thùng trên  cái trống chầu có vấn một miếng vải đỏ thắt gút to cho trang trọng. Kép  hát thật hay thì chầu hai tiếng, ba tiếng thùng. Nhưng ở đời bá nhân bá  tánh, câu hát này mình thấy hay người khác cho là thường, thậm chí dở ở  điểm này hay điểm khác. Cô đào này đẹp, hát không hay mà vẫn đánh thùng.  Cho nên sau một tuồng “hát bội” khắp nơi trong làng người ta phê phán  chức sắc cầm chầu giỏi dở, công bằng hay háo sắc. Vậy thì khôn ngoan  nhứt là đừng có ngu mà cầm chầu.
 Còn  cho rằng gác cu là ngu thì tôi thắc mắc. Phải chăng là tại chờ đợi quá  lâu, hoặc cả ngày bỏ công ăn việc làm, bỏ mặc vợ con đi gác cu mà không  bắt được con chim nào cả thì quả là ngu. Nếu nhà nghèo phải lặn lội kiếm  cơm cho gia đình mà chọn nghề gác cu thì có thể xem đó là ngu. Nhưng  nếu người khác cho đó là một thú vui, khi gác cái lồng cu lên cao, ngồi  chờ trong vườn cây mát rượi, nếu là vườn dừa có những cây cao trổ bông  thơm phức, gió thoảng đưa hương lướt nhẹ qua từng hồi, cảnh vật im phăng  phắc, tiếng cu gáy như ru hồn. Chờ đợi trong cảnh này đâu phải là ngu?  Cho dù chờ không có chim đến, phải đi nơi khác thì cũng đứng ngồi dưới  những rặng cây cao bóng mát. Không phiền hà đụng chạm tới ai, không bị  phê bình chỉ trích gì cả. Nếu cả ngày chỉ bắt được có vài con hoặc đi về  tay không thì cũng chẳng phải là ngu vì thỏa mãn được cái thú vui mình  đã chọn.
 Riêng  cá nhân tôi lúc còn nhỏ không có khả năng đi gác cu mà cũng không được  ông Ba Hàn cho phép đi theo vì ông sợ tôi đứng ngồi lộ liễu chim không  dám về. Nhưng sau này khi nên danh phận tôi tạo được hai mẫu vườn ở khu  cầu kinh Sài Gòn có trồng dừa, có trồng cau, có đầy đủ loại cây cao bóng  mát. Ngoài ra gần đó còn có những vườn dừa nên tôi thường nghe tiếng cu  đất gáy rân, gợi cho tôi những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi bèn sinh ra ý  nghĩ nuôi cu mồi để nghe tiếng gáy và sắm một giàn bẫy gác cu để nhớ lại  những kỷ niệm thời xa xưa ấy. Nhớ những buổi trưa nắng gắt, cảnh vật im  lìm, tiếng cu gáy êm tai, hay những lúc chiều tà tiếng cục cú cú cu kéo  dài nghe buồn bã thấm thía. Cảnh vật thiên nhiên của miền Nam Việt Nam  in sâu trong đầu tôi một dấu ấn mãi mãi không quên nhứt là ngày nay phải  sống trong cảnh tha hương vọng quốc.
 Ðuổi chim
 Ðồng  quê miền Nam ruộng lúa mênh mông, khi lúa chín đầy đồng thì đủ các loại  chim luồn lỏi dưới rặng lúa vàng ăn hột rụng trên đất cứng sắp khô. Ðó  là thời gian nhà tôi hay tổ chức đuổi chim. Nhưng đuổi chim trong ruộng  lúa là điều cấm kỵ bởi vì nhiều người chia nhau lội trên ruộng đầy bông  lúa chín vàng sẵn sàng rụng nếu bị lay động mạnh. Do đó người ta chỉ  đuổi chim trong ruộng nhà hay như gia đình tôi chỉ cần thông báo cho các  chú các bác tá điền rủ họ cùng đi với chúng tôi thực hiện cuộc đuổi  bắt.
 Cái  bẫy gài để bắt chim gọi là cái “Bống”. Nó có hình dáng tròn như một cái  ống to có đường kính chừng năm tất, dài ba thước chia làm hai ngăn, đan  bằng nan tre lỗ nhỏ. Mỗi ngăn có cửa gài thật chắc để thò tay bắt chim  được. Ðầu trên bít chịt, đầu dưới có một hom tre thật mỏng vô được dễ  dàng mà ra không được. Chặng giữa cũng có một hom giống y như vậy. Sở dĩ  người ta chia làm hai ngăn là để phòng khi có nhiều chim quá chúng nó  có chỗ dồn vào đó, và nếu chim đầy chúng giẫy giụa quá mạnh phá gãy hom  ngoài bay mất thì chim sẩy cũng không hết, vẫn còn một số đã vào ngăn  trong. Tính toán là như thế chớ ít khi bị sẩy mất chim, bởi vì dù cho có  đầy chim nhưng làm cho sút hay gãy cái hom không phải dễ.
 Trước  khi đi đuổi chim phải xem coi ruộng nào thường nghe chim “cúm núm” kêu.  Cúm núm là một loại gà nước tiếng kêu của nó to: cúm núm... cúm núm...  túc... túc... túc... Sau khi lựa những thửa ruộng mình nghi là sẽ có  nhiều chim rồi thì tập trung chừng bảy tám người, ba bốn chú vác liếp,  mang bống, cộng thêm ba anh em chúng tôi, thằng nào cũng hăm hở, mừng rỡ  vì biết sẽ có nhiều chim và là một trò chơi quá dễ dàng mà kết quả luôn  luôn tốt đẹp.
Người  nhà quê dùng cái liếp để phơi thuốc lá. Sau khi sắc lá thuốc nhỏ bời  rời, người ta kéo thành rê mỏng ép trên mặt bằng của cái liếp đan bằng  tre hoặc bằng cây sậy đập giập, bề ngang cái liếp lớn độ năm tấc, bề dài  hai thước, liếp tre dùng được lâu bền, liếp sậy nhẹ nhưng mau hư.
 Vác  liếp đi đuổi chim mấy chú mượn liếp sậy để nhẹ vác. Tới nơi mấy chú mấy  bác dùng liếp ấn nhẹ xuống đất, dựng sát hai bên cái bống, mỗi bên sắp  mười liếp chạy dài nghiêng chiều thành một góc khá rộng kể từ cái bống.  Xong rồi chúng tôi bắt từ phía đối diện với chỗ đặt bống, chia mỗi người  đứng cách xa nhau, lội xuống ruộng tay vạch nhẹ cây lúa, chân bước  chậm, miệng la hù... hù... với mục đích đuổi những con chim đang ở trước  mặt chạy tới. Khi bước đi còn cách xa cái bống thì hù... hù... khá lớn  tiếng, đi lại càng gần thì tiếng hù càng nhỏ bởi sợ lớn tiếng chim hoảng  hồn bay bổng ra khỏi ruộng là mất một con mồi. Cứ đi như vậy gần tới  đích, đoàn người gom tụ nhau cho đến tận cái bống thì thấy chim ơi là  chim. Nào cúm núm, cò ma, chằng nghịch lông ức màu xanh óng ánh, mỏ nhát  bông trắng bông đen mập ú lù, ốc cao mỏ đỏ nhỏ con ngon thịt.
Hết  thửa ruộng nầy đến thửa ruộng khác có khi đuổi hai lần có khi ba lần  đuổi bắt nhiều chim chia nhau ăn nhậu vui vẻ. Làm sao tôi không ham đuổi  chim bởi vì biết trước khi đi thế nào cũng có nhiều chim và cái thú vừa  lội trong lúa vừa hù, vui thích nhứt là tới nơi thấy cái bống chứa đủ  thứ chim giẫy giụa tìm đường thoát thân không được.
 Những  thú vui mà thế hệ của tôi sống ở đồng quê miền Nam được chứng kiến và  vui hưởng chắc không còn có thể tìm lại được nữa. Tiếc rằng người viết  không đủ tài năng để mô tả, diễn đạt đầy đủ ý nghĩa, phơi bày tận cùng  hết ý những cảm nghĩ sâu đậm trước những thú vui cảnh đẹp của miền Nam  thân yêu ngày trước.Những trò chơi quê mùa của tuổi trẻ

 Thời  gian lúc tôi còn thơ ấu 1940-1950, trẻ con trong làng, giàu cũng như  nghèo không có được những món đồ chơi như đám con tôi sau này, nào xe  hơi chạy bằng pin điện, nào tàu con chạy trên nước, búp bê biết nói biết  cười, thậm chí súng M16 bằng nhựa bắn xẹt lửa. Càng không thể tưởng  tượng như bây giờ mấy đứa cháu tôi ở Mỹ có đủ thứ đồ chơi nhằm thỏa mãn  sự tò mò, óc sáng tạo của chúng nó hay khêu gợi sự thích thú về âm nhạc  và màu sắc. Ðồ chơi vừa đem lại sự thích thú vừa là phương tiện giáo dục  cho trẻ con thời đại ngày nay. Ðồ chơi nhiều đến nỗi chất cả đống trong  một góc nhà hay cả một phòng dành cho chúng nó vui đùa phá phách.
 Nhưng  xét cho cùng mỗi thế hệ có những món chơi thích hợp với thời đại của  thế hệ đó và cũng thỏa mãn được những thú vui hay sự ưa thích của đám  con nít sống trong xã hội lúc bấy giờ.
 Tuổi  thơ của tôi ở nhà quê có những thú vui rất thông thường giản dị, kể lại  chỉ có những độc giả ngoài năm mươi tuổi mới hiểu được vì đã thấy hay  có chơi qua, như bẫy chim, bắt tổ chim, đánh trổng, u nước, mổ đáo  tường, đá banh chuối v.v... và
Bẫy cò
Trò  chơi vui thích nhứt, ít khi bắt được chim nhưng mỗi lần gài dính một  con cò bị treo cổ lòng thòng trên cần bẫy là một sự vui mừng khó tả, một  thành công, một chiến thắng của anh em tôi và là một đề tài để chúng  tôi hãnh diện bàn tán khoe khoang, đôi khi còn thêm mắm dậm muối cho ra  vẻ ta đây là thiện nghệ.
 Còn  đối với những người trong nhà như bà cô tôi hay mấy chú giúp việc thì  họ chế nhạo rằng: Tao có vạch con mắt nó thấy một bên bít chịt còn một  bên sưng tù vù hình như con cò nầy không thấy đường đó tụi bây! Cho dù  có nói gì đi nữa thì chúng tôi cũng được ăn một món thịt cò bầm nhỏ có  xả ớt, xào khô, xúc bánh tráng nước dừa và món canh lá bầu non với thịt  cò ngon ơi là ngon.
 Ðồng  ruộng miền Nam thời đó có chim đầy đồng, nước ngập có tràn bè, giang  sen, diệc mốc, bay qua đáp xuống tìm cá. Mùa gặt lúa xong, nhiều cánh  đồng còn ít nước đọng vũng, những nơi đó cò trắng đáp từng đàn hàng trăm  con, lăn xăng tìm nhái con, cá nhỏ còn sót lại, ngày nào cũng thấy  trắng ruộng. Khoản thời gian đó là thuận tiện nhứt để gài bẫy cò.
 Bẫy  cò rất đơn giản. Một cần tre thật dịu dài hai thước, một sợi dây chắc  chừng một thước, khoản bảy tấc dây cột dính vào một thanh tre nhỏ chừng  năm phân, giữa thanh tre cột một dây có lưỡi câu để móc cá con hay nhái  làm mồi nhử cò. Ba tấc dây cuối cùng còn lại  làm vòng tròn như thòng lọng để siết cổ cò. Khi gài bẫy người ta khoét  lỗ tròn hoặc lợi dụng lỗ chân trâu có nước khá sâu. Cần bẫy cắm sâu vào  đất, hai bên miệng lỗ cắm hai thanh tre xéo ở đầu miệng, gài cây ngang  có cá mồi dính trong lưỡi câu. Cò mổ cá, cây ngang sụp, cần tre  bật, vòng thòng lọng thắt đầu cò treo cổ chờ chết. Cũng có khi cò giẫm  chân trúng bẫy, nó giãy giụa bay hết trớn, nếu cần bẫy cắm không sâu  dưới đất hay thòng lọng siết chân nó không chặt thì sút chân bay mất  hoăỳc nhổ luôn cần bẫy mất cả chì lẫn chài.
 Trong  trường hợp cò bị rủi ro mắc chân thì rất khó gỡ, nó bay tứ tung khó  lòng bắt trúng nó bởi vì phải e chừng nó mổ vào tay rách thịt, nếu không  may trúng mắt có thể bị đui. Người lớn hay nhát chúng tôi về vụ đui mắt  nên mỗi lần như vậy là chúng tôi dùng roi quất cho cò ngã chết mới dám  lại gần.
 Cái  vui mừng, sự hồi hộp khi thấy con cò bị treo cổ, giống như tôi được  giải nhứt trong lớp trúng thưởng cuối năm, hay bỗng nhiên ông nội gọi  cho một số tiền lớn. Sung sướng vì có cơ hội  để khoác lác với bạn bè. Còn đôi khi cò bị vướng chân thì mừng ít sợ  nhiều, chỉ khi nào đập chết con cò tháo gỡ xong thì nỗi sợ mới biến  thành sự vui mừng không được hớn hở trọn vẹn.
Ðánh trổng tán u
Bộ  trổng gòm một cây thước tròn gọn để cầm tay, dài độ năm sáu tấc và một  con trổng nhỏ bằng ngón tay cái dài một tấc rưởi hoặc hai tấc. Buổi  chiều trời mát rủ nhau ra ruộng khô hoặc tìm sân, bãi nào trống. Khởi sự  lấy đầu cây thước xoi khoét một lỗ nhỏ xiên vừa để con trổng nằm nhóc  đầu lên, lú ra một chút, đủ để đập xuống đầu nó con trổng văng bổng lên,  gọi là chặt gồng, đồng thời đánh mạnh vào con trổng, gọi là tán, cho nó  đi càng xa mịt mù càng tốt. Ðứa nào tán xa hơn là ăn, đứa nào  tán gần là thua, đứa nào tán hụt thì thua chắc. Thằng nào ăn thì cầm con  trổng và cây thước trong cùng một tay, thảy bổng con trổng lên tán  trúng cho đi thật xa, con trổng vừa rớt xuống đất thằng thua bắt đầu  chạy đi lượm con trổng về, miệng phải kêu lớn u.u.u không được đứt hơi,  nếu chạy xa trở về mà đứt hơi thì phải tán lại và u lại cho tới khi nào  đem được con trổng về đúng luật lệ mới khởi sự chơi bàn khác. Nếu kẻ  thắng tán hụt con trổng rớt tại chỗ thì khỏi u. Người lớn đánh trổng ăn  tiền, người ta tán con trổng đi xa và lấy cây thước vừa đi vừa đo tổng  cộng bao nhiêu thước rồi hai bên trừ số sai biệt, được bao nhiêu thước  là phải chung bấy nhiêu xu.
U nước
Một  đám bạn bè chia nhau bắt bồ thành hai phe. Gạch một lằn ranh chia thành  hai nước. Một thằng bên này chạy qua lằn mức bên kia miệng kêu lớn  u.u.u không được phép đứt hơi, lấy tay bắt trúng mình một đối thủ và  chạy thoát về kịp bên nước mình thì đối thủ bị bắt trúng chịu chết ra  khỏi hàng ngũ. Nếu anh chàng u.u.u.. xong qua nước người ta mà bị kẻ  địch xúm nhau bắt cứng bên đó hoặc đứt hơi nửa chừng thì coi như chết  phải ra sân. Cứ như vậy mà chơi cho đến khi nước nào hết quân là thua.
 Chọi đáo ăn cổng
Mỗi  thằng có một đồng xu, bằng đồng hay bằng chì, nặng nhẹ, lớn nhỏ tùy ý  miễn sao cầm vừa tay và đừng quá lớn vì người ta sẽ chọi dễ trúng đồng  tiền của mình. Thời tôi còn nhỏ có một xu bằng đồng, lớn bằng rưỡi đồng  quarter dollar của Mỹ, nó mỏng và nhỏ, người ta chọi khó trúng nhưng nhẹ  quá không vừa tay khó chơi. Do đó đa số đi tìm chì hay đồng nấu chảy,  đổ vào một lỗ đất khoét sẵn cho vừa ý mình. Ðợi chì hay đồng nguội, lấy  lên mài bằng mặt, dẹp tròn vừa tầm chọi cho sướng tay. Ai có tiền thì  nhờ thợ bạc làm bằng đồng chì theo ý muốn của mình.
 Chọi  đáo thường chơi hai đứa, thằng đi trước thảy xu xa gần tùy ý, gọi là  “thí”, thằng sau nhắm chọi trúng là ăn, nếu không trúng thì đồng xu của  mình văng gần hay xa đồng của người ta phải để y đó cho người ta chọi  trúng thì thua. Ai thua khom lưng xuống cho kẻ thắng trận leo lên lưng  cầm đồng tiền của kẻ bại thảy xa gần tùy ý rồi nhắm nó mà chọi trúng thì  được ngồi trên lưng cho người ta cõng tới đó lượm xu trở về mức khởi  điểm. Thường trước khi chơi phải giao hẹn: Có quyền nhảy lên lưng ngựa  hay không? Nếu là có thì tội nghiệp cho kẻ thua! Thằng bạn nó lấy trớn  phóng lên lưng mình có khi muốn té chúi nhũi. Con nít ác ôn như vậy đó,  nhưng mọi thằng vẫn thấy đó là vui là thích khi được hành tội người  khác.
 Mổ đáo tường
Trước  khi chơi phải vẽ một khung lớn hình chữ nhựt. Ðầu dưới lấy gạch kê một  tấm ván dài năm tấc ngang ba tấc, nằm ngửa mặt, đủ độ nghiên để cầm đồng  xu mổ vào đó nó chạy quanh như thế nào mà không ra khỏi đường vẽ cao  nhứt. Ai mổ ra khỏi lằn mức trên cao thì coi như chết. Lượm xu về để  trên dấu chết cách tấm ván chừng năm tấc. Mọi người đều nhắm canh làm  sao để mổ cho đồng xu của mình nằm cao trên hết thì có quyền chọi những  xu của người khác nằm dưới, rồi cứ tiếp tục chọi nếu trúng thì tiếp nửa,  nếu trật thì người kế tiếp chọi đồng xu của người dưới mình. Ai thua  thì đưa lưng ra chịu cho người khác cỡi. Con nít chơi ăn cõng người lớn  chơi ăn tiền nhưng ít khi thấy người lớn chơi mấy cái trò như vừa tả  trên đây.
 Ðá banh chuối
Làm  một trái banh chuối quá dễ, lấy những tàu chuối khô, tuốt lá, còn lại  tàu khô xé ra làm dây, nối liền nhau từng khúc dài. Cuộn lá chuối khô,  dùng giây quấn chặt thành một cục tròn nhỏ, rồi cứ thế mà quấn lá thêm  vào, ràng dây siết chặt thành một cục tròn lớn hơn. Lớp thứ ba phải dùng  toàn bằng dây quấn thành một trái banh lớn nhỏ tùy ý bọn con nít trong  làng chơi chung với nhau. Rồi hai thằng đầu đảng bắt bồ, chia làm hai  phe, khi nào có lẻ một thằng thì bên nào ỷ mạnh sẽ chấp bên kia thêm một  cầu thủ.
 Ðá  banh trên đường lộ, bằng phẳng dễ chơi nhưng thỉnh thoảng có người lớn  đi ngang qua thì phải ngừng, nếu là thằng nhỏ trong làng đi qua thì  không ngừng nhưng có thằng liến khỉ xong vô đá bậy một cái rồi chạy thì  cả lũ chưởi bới inh ỏi, có thằng tức giận bỏ sân rượt theo dĩ nhiên là  chạy không kịp! Vui thật là vui. Nếu không may gặp cha mẹ hay cô bác của  một cầu thủ đang hăng hái giành banh thì người cô bác đó đứng lại xỉ vả  cả đám một hồi rồi đuổi xuống ruộng mà đá. Ruộng lồi lõm làm sao đá? Chỉ  lấy chân dích banh và chạy theo giành, tất cả đám “xây lố cố” chúng tôi  quần riết thửa ruộng cũng bị san bằng thành sân banh!
 Những  ngày nghỉ bãi trường, chiều nào không đánh trổng thì cũng chọi đáo, u  nước hay đá banh chuối cho tới chạng vạng tối mới về nhà tắm rửa.
 Bắt ổ chim
Kỷ  niệm ở đồng quê, sự đam mê của tuổi trẻ thật đơn sơ giản dị. Những thế  hệ con em sinh ra ở thành thị không chung đụng với thiên nhiên, khó biết  loài chim sinh trưởng như thế nào? Nếu có đứa nào ham muốn nuôi chim  thì cha mẹ cho tiền mua thú sắm lòng. Chim biết hót, chim biết nói chúng  lại tự hỏi làm sao chim nói được tiếng người?
 Tôi  đã từng bắt khá nhiều ổ chim, đã từng nuôi cưởng biết nói, dồng dộc đeo  theo mình, cu đất cu ngói lớn khôn bay mất, chim sẻ khó dạy, chim sắc  dễ nuôi. Nhưng có hai loại chim tôi nuôi thành công và mãi ham mê cho  đến khi lớn lên có gia đình, thành danh mà vẫn tìm mọi cách kiếm cho  bằng được loại chim mình đã từng nâng niêu khi còn thơ ấu. Ðó là dồng  dộc nghệ và cưởng.
 Những  thứ chim như cu đất cu ngói dễ nuôi nhưng bị gia đình rầy vì nuôi chim  con phải nhai gạo rồi ngậm mỏ nó vào miệng mình, chúng xóc nuốt như chim  mẹ ngậm mỏ chim con mà súng mồi. Hai loài chim này rất ngu, nuôi lớn  nhớ rừng bay mất. Chim sẻ đầy sân đầy nhà lớn lên chúng nghe tiếng đồng  loại nhập bọn bỏ mình, gọi mấy nó cũng không về.
 Có  lần tôi đi câu thấy bầy le le con, tôi rượt bắt được ba con đem về nuôi  chung với bầy vịt lớn lên nó sinh sống như vịt trong nhà, đi ăn rồi về  cho dù có le le rừng đeo theo rủ rê cũng không dụ được. Có lẽ nó đã quen  thân tiếng vịt nên không hiểu được tiếng chim đồng loại của nó. Cũng  giống như báo chí đưa tin có một cô gái người Miên lạc trong rừng lúc  còn bé. Cha mẹ tìm được nó quên hết tiếng người.
 Chim  cưởng làm ổ trên các ngọn cây cao chót vót, thường là cây keo có gai.  Cưởng làm ổ bằng cành khô lá rụng, cũng có khi bằng rác rến, lông chim  lông gà vải vụn, bất cứ thứ gì chúng có thể làm thành một ổ to che nắng  che mưa và bên trong mềm êm để chim con sống thoải mái. Ổ cưởng có lỗ chui vô chui ra gọi là cái vòi. Khi  nào cưởng con lớn thì cái vòi được lót dài thêm, đề phòng cưởng con bị  té chết vì giông gió ngọn cây chuyển động mạnh. Muốn bắt cưởng con vừa  lớn để nuôi thì phải canh chừng khi thấy cái vòi ổ dài ra chừng hai tất  là phải chấp cây thật cao thọt cho rớt nguyên ổ nếu không chim con có  thể té chết. Vòi ổ cưởng dài trên ba tấc là cưởng con biết bay chọt rớt ổ  cũng không bắt được con nào.
 Nuôi  cưởng con từ lúc nhỏ thật công phu, mỗi ngày bắt cào cào châu chấu cho  nó ăn không đủ phải cho ăn thêm cơm. Nhưng nếu ăn nhiều cơm sẽ khó tiêu,  do đó phải cho cưởng ăn ớt thật nhiều. Mỗi ngày nó nuốt ít nhứt năm ba  trái ớt hiểm. Cưởng lớn lên phải lột lưỡi và để nó sống gần nơi có tiếng  nói của người. Người ta hay treo lồng cưởng gần bếp hoặc thả cưởng đi  tự do nhưng thỉnh thoảng phải cho nó ăn nơi nào mình muốn nó quanh quẩn  nơi đó.
 Lột  lưỡi là bắt cưởng nắm trong tay trái, tay phải vạch mỏ, kéo lưỡi nó ra,  bên dưới lưỡi cưởng có một vãi trắng, lấy móng tay khều nhẹ từ từ, vãi  trắng đó tróc ra, nắm kéo thật nhẹ không cho đứt chót lưỡi, nếu đứt chót  thì hết nói luôn phải nuôi con khác. Cưởng lớn chừng một năm hoặc hơn  tùy con, sẽ biết nói theo những gì mình dạy nó từng tiếng. Nuôi lâu nó  hiểu được tiếng người và nói theo thói quen kêu “ba ơi có khách”, “đi  đâu đó”, “cậu sáu đâu rồi”, “ăn cơm” vân vân. Trong nhà có một con chim  biết nói là một kỳ công, một sự hãnh diện, một niềm vui giải trí khi  mình đối thoại với nó hết câu này đến câu khác toàn những gì nó thuộc  lòng.
 Chim  dồng dộc nghệ long vàng bông đen, mỏ vàng, loài chim này có giác quan  khôn lanh, sống theo bầy, nó chỉ đóng ổ nơi nào có loại ong bần đầy vẩy,  ngọn dừa, ngọn cây bần, chỗ nào có ong là có ổ dồng dộc. Không ai có  thể trèo lên cây đó bắt ổ của nó. Muốn bắt chim phải dùng cây sào cao có  lưỡi hái giựt đứt cuống thì mới bắt được ổ. Tuy nhiên phải luôn đề  phòng ong đánh sưng mặt.
 Loài  chim này có biệt tài kiến trúc rất khéo mà tôi chưa từng thấy loài chim  nào làm ổ khéo léo và chắc chắn như vậy. Chim cu làm ổ sơ sài bằng mấy  cành khô nhỏ gác xuyên qua xuyên lại, đứng ở dưới nhìn lên thấy hai  trứng của nó trắng phau. Còn chim dồng dộc chúng bay đi tước từng giây  lát nhỏ dài, đem về đương thành một cuống to bằng ngón tay đình liền với  cành cây chạy dài xuống độ ba tấc rồi bung phình ra như một cái chén  lớn tròn bầu thụng xuống, trên miệng chén đó có một vòi thòng xuống, vòi  ngắn khi chim mới đẻ, nở chim con càng lớn vòi càng thòng dài ra. Ổ  chim đương thật kỹ, tay người xé không rách, hình thù giống như một cái  chén lớn treo lòng thòng có cái vòi dài hay ngắn tùy theo. Ðó là ổ chim mái. Còn ổ chim trống thì đơn sơ như nửa cái chén úp mặt xuống có dây đương ngang để chim trống đậu ngủ ban đêm.
 Lớn  lên tôi thường bày vẽ cho con tôi thưởng thức những thú vui gần với  thiên nhiên trong đó có việc bắt ổ chim đem về nhà treo như một thứ vật  trang trí trưng bài hoang dã đẹp mắt. Thằng nhỏ có nuôi một con chim con  thật khôn, lớn lên nó đi đâu chim theo đậu trên vai thỉnh thoảng kêu  the thé rỉa cổ áo, mổ tóc, nó hay bay dẫn đường thật dễ thương.
 Bây  giờ tuổi già nhớ lại, điểm từng việc đã làm, từng hành động đã qua, tôi  bồi hồi, ngồi im tưởng tượng. Ước gì trời cho tôi nhỏ lại sống một thời  gian ngắn, ôi! biết bao nhiêu vui sướng, tôi hình dung cõi tiên, cảnh  phật, thiên đàng chắc cũng chừng ấy vui mừng và lạc thú đơn giản như  vậy.
Chim bìm bịp
  Trong  bài trước tôi có mô tả thú vui của trẻ con hay bắt tổ chim. Ðã nói bắt  tổ chim mà không nói đến sự tìm kiếm bắt ổ bìm bịp thì quả là thiếu sót.  Bởi lẽ chim bìm bịp có nhiều giai thoại được dân quê truyền miệng mà  lúc còn thơ ấu chuyện con bìm bịp gây khá nhiều thắc mắc và mơ ước cho  tôi. Chim bìm bịp lớn hơn con cu đất, lông màu nâu, đuôi dài, mỏ to,  lông cổ, lông đầu màu đen. Ðặc tính của loài chim này là sống dựa mé  sông và mương rạch. Tại sao? Bởi vì chúng ăn mồi cá tép cho nên mỗi khi  nước rồng sát để lòi bãi bùn đầy lổ hang của cá thòi lòi, cá bống sao,  còng gió nhỏ con có màu sắc hoặc xám xì như cua, thậm chí con tèn hen  hay ốc lát đều là những món ăn thông thường của bìm bịp.
 Bìm  bịp có hai tiếng kêu rất đặc biệt. Khi chúng bước nhẹ trên bãi bùn hay  đứng rình trước hang cá, lỗ còng, chờ bọn chúng lú đầu ra là nhanh như  chớp mổ, xóc nuốt liền. Nếu trong lúc kiếm ăn mà có tiếng động hay bóng  người thì chúng kêu “cốc cốc cốc...” Hình như để báo động với đồng loại  rằng có nguy hiểm. Ðặc biệt lúc chúng tìm mồi khi nước rồng ló bãi cho  đến khi nước khởi sự lớn ngập một hai tấc đất là người ta nghe bìm bịp  trong vùng lớn tiếng kêu vang “bịp bịp bịp bịp...” một hơi dài rồi xuống  giọng nhỏ dần. Hình như để lưu ý đồng loại là đã hết giờ không còn bắt  mồi được nữa. Do đó mà dân gian, hạng người sinh sống bằng nghề câu,  chài lưới, hay chở hàng buôn bán đầu làng cuối chợ theo sông rạch của  miền Nam có câu hát rằng:
 Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi,
 Buôn bán chẳng lời chèo chống mỏi mê!
 Loài  chim bìm bịp làm ổ những nơi rậm rạp, bụi cây gai góc khó tìm. Cho dù  biết được hướng đó có ổ của nó, muốn vô tìm cho ra thì cũng vô cũng gian  khổ. Tiếng đồn rằng con bìm bịp là thầy trật tả. Tại sao có chuyện ly  kỳ như vậy? Bởi vì theo lời đồn đãi thì người nào tìm được ổ bìm bịp, có  chim con thì bẻ chân bẻ cánh chúng nó để lại trong ổ, rồi một hai ngày  sau trở lại lấy những lá cây bột sình của chim mẹ đấp vào chim con cho  lành xương tan máu. Và cứ làm như vậy để lấy thuốc cho tới khi chim lớn,  bắt hết chúng nó ngâm rượu cùng với bùn và lá đã thu được từ trước đến  nay. Cái đó gọi là thuốc rượu con bìm bịp.
 Câu  chuyện tôi tin có thật bởi vì ở xã Phú Thuận của tôi lâu lâu có vài ba  anh “Ba Tàu sân đông múa võ” để bán thuốc cho người hiếu kỳ bu xem chung  quanh. Trong số đó thường có anh em chúng tôi. Bởi vì trước khi sân  đông mãi võ thì họ đánh trống lùng tùng xèn báo tin. Thường là ngay  những lúc nhóm chợ buôn bán đầy người.
 Trong  lời quảng cáo nhiều thứ thuốc có “Thuốc rượu con bìm bịp, uống vô hết  nhứt lành xương, xoa ngoài hết đau, uống vào bổ thận, bổ xương. Mại vô,  mại vô đi.” Vừa hô to lời quảng cáo tên mãi võ bốc ra từ hủ thuốc một  con bìm bịp lông lá còn nguyên vẹn, nước rượu sậm màu chảy ròng xuống  hủ. Rồi tên mãi võ bỏ con bìm bịp vô hủ, tay đấm mạnh thình thịt vào  ngực anh ta, cầm chai thuốc đổ vào ngực xoa bóp lia lịa cười ha hả miệng  hô to “Bà con thấy chưa? Không tức ngực, không bầm, không đau, không  nhức, thuốc thần thuốc tiên mại vô bà con, mại vô mua đi.”
 Rồi  một cảnh tượng khác làm tôi hãi hùng khi mà đầu óc tôi còn quá non trẻ:  Anh “Ba Tàu” mãi võ cầm một cây kiếm suông đuột, dài độ năm tấc, anh hả  họng thật to, đút lưỡi kiếm từ từ vào cổ họng thụt lút cán kéo lên kéo  xuống hai ba lần, lấy ra và tiếp tục hô to lời quảng cáo “dầu cù là hiệu  ông tiên đau đâu xoa đó, xức vô hết liền.” Hết múa võ đến màn đấu võ  “cụi”. Ðó là nghề của Ba Tàu sân đông nhưng nó vô cùng hấp dẫn và hứng  thú đối với chúng tôi lúc thiếu thời.
 Trở  lại thuốc rượu con bìm bịp, điều làm tôi mơ ước kiếm được tổ chim để  thử bẻ chân bẻ cánh tìm những vị thuốc bí mật do trời phú cho loài chim  này. Tôi rình rập mãi mới thấy một cặp chim thường bay vào hướng bụi rậm  gần mé sông, đầy cây ô-rô lá gai góc, lên tới bờ phải vạch bụi mà đi.  Chúng nó khôn ngoan dụ người đi lạc hướng, chúng bay về ngõ khác cứ chui  vào bụi rồi lòn ra, bay xa rồi trở lại cũng chui vào các bụi đó. Mặc  cho tôi vạch kiếm khắp nơi, kiếm từng bụi cây cũng không thấy ổ.
 Tôi  tiếp tục rình rập, tới lui nơi đó vì tôi tin chắc phải có ổ của hai con  bìm bịp này. Cho đến một ngày tôi nghe bìm bịp con kêu nhỏ tiếng cốc  cốc,... cốc cốc,... cốc cốc,... ở phía đối diện với các lùm bụi tôi đã  càn quét nửa tháng trước. Thì ra chim mẹ đã gạt tôi đi lạc hướng với mục  đích bảo vệ chỗ ở của nó. Bây giờ tìm ra thì chim con đã lớn biết bay  chập chững, dù không được xa nhưng lùm bụi cản đường làm sao rượt bắt  được!
 Thời  gian lâu sau đó cũng đôi chim bìm bịp này dẫn tôi đến khu lùm gần bên,  tôi biết khôn nên cứ tìm những hướng đối ngược với chổ chúng chui vào.  Kiếm ra được ổ có 4 trứng màu xanh có bông đen, lớn hơn ngón tay cái.  Tôi thò tay mân mê, bẻ nhánh cây làm dấu để ngày sau biết đường tìm, vài  hôm tôi trở lại, chim bỏ ổ vì có mùi hôi tay người mó vào. Chúng nó bỏ  trứng đi tìm nơi khác mà sinh sản. Kết quả tôi chưa bao giờ biết được  xác thực bìm bịp có thuốc trật tả kỳ diệu như người đời truyền tụng.
   Bơi lội
Có  những đứa bạn đồng hương trạc tuổi tôi, chiều chiều hết đá banh, đánh  trổng, hay vật lộn trên những đống rơm, mình mẩy trầy trụa ngứa xót.  Chúng nó nhảy đùng xuống mương, xuống rạch, bơi lội xơi xởi, người nổi  ló đầu ngang ngực. Bơi như rái mà hình ảnh không giống như trong sách  học. Sách vẽ người lực sĩ nằm bơi chân duỗi thẳng đập nước, tay sải nhẹ  nhàng lớp lang. Còn mấy thằng này lội ngang lội ngược tay móc xuống nước  như tìm kiếm một thứ gì chìm gần bên hông. Dù bơi như thế nào tụi nó  vẫn nổi không chìm, vẫn tắm vui vẻ lặn lội tứ tung. Còn tôi mơ ước  ngưỡng mộ, thèm được như chúng nó. Nghĩ tới lúc về nhà phải xối tắm từng  gáo nước thì ước mơ biết lội của tôi nổi dậy mãnh liệt. Tâm sự với ai  ngoài thằng Có, nó chăn bầy trâu của ông Hương Quản Họa gần nhà. Nó bảo:
 - Mầy cứ bắt một con chuồn chuồn trâu, màu xanh, con lớn, cho nó cắn rún là mầy biết lội ngay.
 - Có thật không?
 - Thật mà.
 - Mầy có cho nó cắn rún mầy không?
 - Có, mấy chú lớn, kể cả ông chủ tao cũng bảo tao như vậy.
 Tôi  mừng thầm, sáng ngày hôm sau tôi bám quanh mấy cây lựu trước nhà kiếm  bắt cho bằng được một con chuồn chuồn trâu, loại lớn hơn chuồn chuồn  thường, dỡ áo lòi rún đút dầu con chuồn chuồn vào nó cắn đau điếng thấy  mấy ông trời! Tay giựt mạnh, đầu con chuồn chuồn sứt ra còn dính trên da  rún. Ðau quá nhưng lòng mừng thầm ngày nay mình sẽ biết lội. Tôi còn tự  nhủ mình phải đủ gan chịu đau, bắt thêm một con khác cho nó cắn một lần  nữa mới chắc ăn. Nghĩ như vậy vì cái rún đã hết đau. Tôi làm gan bắt  một con chuồn chuồn khác cho cắn lần thứ hai đau quá tôi vội buông tay  con chuồn chuồn bay mất.
 Chiều  hôm sau tôi chờ cho trận cút bắt, trốn kiếm trong những đống rơm ngoài  đồng chấm đứt, tụi nó kéo nhau ra mương dừa gần đó nhảy ào xuống tắm la ó  om sòm. Tôi ngập ngừng lưỡng lự vì lần đầu tiên muốn xuống nước. Sự ham  mê thúc giục tôi nhảy ùm xuống mương. Chìm lỉm! Uống nước ừng ực, sợ  hãi vô cùng, nhưng đầu còn tỉnh táo, hai tay mò vào đất lần đi thẳng vô  bờ, tôi ngóc đầu lên thở được. Nhưng cũng còn bán tín bán nghi, chưa  biết mình bị thằng Có gạt. Tôi đứng dựa mé mương khoát nước tắm rửa cũng  cười như mọi người nhưng đầu cứ tự hỏi sao thằng Có biết lội mà mình  không biết?
 Ðêm  đó tôi ngủ không ngon vì đầu thắc mắc chờ sáng sớm phải hỏi lại thằng  Có xem sao? Nó lùa trâu đi xa nhà một khoảng, tôi vòng ngã trước đón  đường gặp nó hỏi ngay:
 - Có, sao hôm qua tao nhảy xuống mương không nổi, lội không được uống nước thấy mồ?
 -  Ai biểu mầy ngu, nghe lời tao mầy ráng chịu! Nó cười hô hố. Tự nhiên  tôi phát khùng, dọng cho nó một thoi vào sườn, chửi mắng túi bụi. Nó  không dám đánh lại, nó vừa chạy vừa lêu lêu nói:
-  Tao bị người ta gạt thì bây giờ gặp mầy tao gạt lấy vốn lại cho huề. Nó  chạy trối chết tôi không thèm rượt theo, trở về buồn bã vì ngu bị gạt  và quyết tâm phải tập bơi cho bằng được. Khôi hài nhưng có dại mới nên  khôn, những trò chơi ấu trĩ đó nó để lại cho tôi những kỷ niệm nhớ đời.
Công cấy
 Miền  Nam là vựa lúa của cả xứ. Mùa mưa nông dân dọn đất gieo mạ xong là cày,  bừa, trục những khu ruộng mênh mông còn lại, dọn sạch cỏ lác chờ ngày  cấy. Cấy lúa và nhổ mạ thường xẩy ra cùng ngày. Ðám mạ chừng một công  đất có thề cấy trên vài ba mẫu ruộng.
 Nhổ  mạ phải là đàn ông, bởi công việc khá nặng cần sức. Quần đùi, nón lá,  áo bà ba đen, ngang lưng cột một chùm giây lạt dừa, một thứ giây làm  bằng da cây dừa nước chẻ nhỏ phơi khô. Người nhổ mạ khom lưng nắm từng  nạm lúa non giựt mạnh tróc rể đưa chân đập gốc mạ vào cho văng bớt bùn  dính theo rể lúa, nếu bùn còn nhiều người nông dân cầm nắm mạ diệu qua  diệu lại trong nước cho bùn rớt ra. Nhổ được ba bốn nắm anh ta thò tay  rút một sợi giây quấn ngang bó lại để tại chỗ đó. Những bó mạ này sẽ  được chủ ruộng kéo đi ném gần nhóm nữ công đang cấy, họ mở ra, mạnh ai  nấy lấy từng nắm, tước nhỏ đôi ba tép cấm xuống bùn và cứ thế mà vừa cấy  vừa lui dần ngược về phía sau lưng. Người cấy lúa nào cũng có một cây  nọc giắt sau lưng dành cho những ruộng gò đất cứng, Họ sẽ cầm nọc ấn  xuống cho có lổ để nhét tép mạ vào. Ruộng gò khó cấy do đó tìm nhân công  không dễ.
 Chủ  ruộng muốn cấy phải lựa ngày không trùng với những đám cấy khác. Trong  xã của tôi nông dân quen biết nhau hết. Sự quen biết lâu năm trở thành  như bà con, ai cũng chú cũng bác cũng anh cũng tui. Ruộng anh cấy mấy  ngày xong? Rồi tới phiên tôi nhé. Người nghèo cô đơn thì cấy lấy tiền,  lấy lúa. Người có ruộng thì cấy vần công, nghĩa là tôi cấy ruộng anh hôm  nay mấy ngày thì mai này vợ con anh cấy trả lại cho đồng công. Còn dư  thiếu sẽ tính tiền bằng lúa hay trả bằng những ngày công làm việc khác  tùy theo sự dàn xếp đôi bên. Mọi sự thương lượng dựa trên tình người.  Trong làng tôi không cần có hợp tác xã, không cần hiệp hội nông dân để  quản lý hay phân xử, không ai hà hiếp bóc lột ai. Tất cả là một sự hòa  hợp có tình có nghĩa của người đồng hương.
 “Công  cấy” là những người đàn bà con gái trong làng. Vận áo bà ba đen quần  dài, đầu đội nón lá, “vo” quần cao lên khỏi gối, người nào sợ đĩa thì  cột giây bó chặt quần phủ tới mắt cá. Tất cả dàn hàng ngang đứng đều  cách nhau chừng hai thước đủ để đưa tay cấy 5 tép lúa phía trước mặt.  Ðám đông phụ nữ người khom kẻ đứng, tay trái cầm nắm mạ tay phải tước,  cắm lia lịa xuống bùn, cứ vậy mà lui dần về phía sau, cảnh tượng sống  động xem thật đẹp mắt.
 Tôi  thích theo công cấy để nghe hò, để xem mặt những cô gái quê mùa có vẻ  đẹp ngây thơ mà thằng con nít như tôi chưa biết yêu, chưa biết tình,  nhưng vẫn biết nhìn, biết khen, biết muốn làm quen nói đùa với mấy cô  thôn nữ đẹp. Biết nhìn những cặp đùi trắng phau, lòng thấy lâng lâng mà  không biết tại sao? Bây giờ nhớ lại tôi còn thấy vui, thấy nhớ, thấy  thèm, thấy tiếc vì không khi nào có thể hưởng được cái thú vị xa xưa của  thời thơ ấu đó nữa!
 Cái  khổ của tôi là sanh ra trong giai cấp khá giả, con cháu nhà quan trong  một làng quê nhỏ hẹp, nên tôi chịu sự kỳ thị do sự tự ti của đa số dân  làng. Ðiều đó làm tôi rất khó chịu, không thể tự nhiên chào hỏi nói đùa  với những người tôi thích. Cái xã hội còn vướng mùi phong kiến nó cách  ly tôi với những người tôi muốn làm thân.
 Ðiệu  hò của mấy chục người đàn bà cùng một giọng cất tiếng vang rân kéo dài  với nhiều giọng pha lẫn, nghe thật lạ, thật êm. Một người đang khom lưng  cấy bổng đứng dậy lớn tiếng xướng “Hò... tất cả rập theo tiếp chữ hơ...  ơ... ơ... kéo thật dài rồi ngưng, người xướng ngôn tiếp tục:
 “Hò chơi cho trọn buổi chiều,
 Keo sơn quấn chặt sợi chỉ điều với nhau”... ơ... ơ
 Hay là
 “Hò... hơ... ơ...
 Gió đưa gió đẩy bông trang...
 Bông búp về nàng bông nở về anh... ơ...”
 Tôi  nghe điệu hò như bản hợp ca có nhiều giọng, tôi thầm khen những câu  xướng lúc khôi hài, lúc có ý nghĩa, lúc trữ tình thơ ngây, lúc tục tằn  nhưng không thô lỗ vì nó có thể hiểu ngầm hai nghĩa.
 Những  câu hò, những sáng kiến bất ngờ, tự nhiên và bén nhạy của các thiếu nữ  quê mùa đối đáp với nhau, hoặc với một chàng thanh niên nào đó có tình ý  với cô nào trong nhóm người đang khom lưng cấy. Người thanh niên xen  vào đám nữ công, đứng gần hoặc xa ý trung nhân, tét lúa vừa cấy vừa hò  những câu trữ tình mà chính anh ta đã chuẩn bị trước. Một màn hí kịch  như vậy làm cho mọi người hưng phấn quên mệt. Người thanh niên đó có thể  rời đám đông bỏ đi bất cứ lúc nào cũng như anh đã đột nhiên xen vào  không ai biết trước. Dĩ nhiên anh ta không phải là người xa lạ, ai cũng  biết anh là dân trong làng hoạc ở xã lân cận. Và sau đó mặc cho những  lời bàn tán, cấp đôi cấp lứa, phỏng đoán ngược xuôi.
 Những  điệu hò, những câu đối đáp của hàng trăm đám người cấy lúa, nếu có ai  theo ghi chép và đúc kết lại, tôi chắc sẽ thành một bản văn có thể nói  là văn hóa dân gian của miền Nam rất hồn nhiên có đầy ý nghĩa.
 Vì  muốn nghe hò mà tôi luôn theo công cấy, khi thì đi với anh Năm, khi thì  đi với bác ba Cử, người giúp việc cho ông nội lâu năm, trở thành người  của gia đình có nhiệm vụ xem chừng mấy đứa cháu của ông. Bác ba ham vui,  tính nết khôi hài bãi buôi, nói cà lăm và tội nghiệp là bác bị sứt môi.
 Trong  làng hễ có công cấy ở đâu là thấy có tôi ở đó... Người ta cấy từ sáng  sớm tới chiều mặt trời gần lặn mới thôi. Có khi chúng tôi ở chơi nghe hò  đến đứng bóng, nghĩa là lúc con người đứng thẳng, mặt trời rọi từ trên  đầu không thấy bóng mình chiếu trên đất, còn gọi là đúng ngọ, 12 giờ  trưa. Giờ đó có người gánh cơm ra dọn sẵn trên bờ ruộng, công cấy ngồi  dọc hai bên. Ðồ ăn gồm canh bí rợ nấu dừa, cộng với mắm cá lốc, cá trê  chưng. Xen kẽ giữa các tô mắm, thố canh có vài thúng cơm trắng bới sẵn  trên mấy tàu lá chuối lót dưới đít thúng. Quanh năm đám cấy nào cũng  vậy, năm nào cũng như năm nấy, hai món ăn truyền thống này luôn dành cho  công cấy. Ðôi khi ông chủ ruộng “mời lơi” chúng tôi:
 - Gặp bữa, cậu Năm, cậu Sáu dùng cơm với chúng tôi cho vui. Ðồ ăn không nhiều bằng ở nhà nhưng mấy cậu thấy vui sẽ ăn ngon hè.
Bí  nấu dừa có chuối xiêm chín mùi trông thấy ngon muốn ăn rồi. Nhưng đối  với tôi vì có mặt con Xin, con của bác chín Ninh tôi bèn xáp vô liền,  anh Năm và bác Ba phải theo. Tôi lựa chỗ đối diện với nó để ăn lơ là,  cốt ý là ngắm nhìn khuôn mặt ngây thơ xinh đẹp lạ thường, có ma lực cuốn  hồn tôi, nhìn mãi không chán. Cặp đùi nó trắng phau quần xăn khỏi gối  làm tôi cảm thấy lâng lâng mà không biết tại sao? Tuổi tôi còn quá nhỏ,  lòng chưa dậy thì mà đã thích nhìn gái đẹp! Phải chăng là tính trời cho?  Ðàn ông con trai ai thấy gái đẹp mà không nhìn?
 Cứ  đeo theo mãi những đám cấy trong làng tôi học và nhớ được nhiều câu hò,  nó in sâu vào đầu khó quên hoặc vì nó hợp cảnh với mình hay nó ngụ ý  vui:
 “Hò... hơ... mọi người tiếp ơ... ơ... ơ... kéo dài....
 Bạc với vàng con đen con đỏ...
 ơ... đôi đứa mình còn nhỏ thương nhiều ơ... ơ...”
 Người xướng hò vừa ngừng, liền có cô hay bà nào đó đứng lên:
 Hò... hơ... ơ... ơ...
 “Vừa nhìn thấy em là anh muốn như Kim Trọng... ơ...
 ơ... anh Kim Trọng thấy chị Thúy Kiều liền thương... ờ... ơ...”
 Tôi  chẳng biết Kim Trọng, Thúy Kiều là ai nhưng cứ tưởng là mình sẽ thương  một cô gái nào đó trong tương lai cũng giống như mình đang để ý con Xin  vậy thôi.
 Một người khác hò giọng gay gắt:
 Hò... hơ... ơ... ơ...
 “Con gái khôn lấy nhằm chồng dại ... ờ...
 Tiếc bông hoa lài cậm bãi cứt trâu ờ... ơ...”
 Bác ba Cử bổng nhiên nổi hứng đứng trên bờ mà trổi giọng hò sảng:
 Hò... hơ... ơ.. ơ.. ơ...
 “Ớ này em kia khom lưng cấy lúa... ờ...
 ơ... Ðưa cái mông chờ có đứa nào rờ không?... ơ... ơ...”
 Trời đất ơi cha nội này hò gì kỳ vậy? Tôi liền cười không thể nín được. Tức khắc có một bà cũng đanh đá không vừa đứng lên:
 Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
 “Gió Nam non thổi lòn bụi lứt... ơ...
 ơ... Cám cảnh thương người nó sứt cái môi ... ờ... ơ...”
 Bác Ba xụ mặt, mắc cỡ cứng người nói:
 - Thôi về tụi bây. Anh Năm và tôi vừa cười vừa nói:
- Khoan, ở lai xem có ai nói gì bậy bạ nữa không?
 Một người khác hò:
 Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
 “Bình bồng từng đám che trời... ơ...
 ơ... Lang thang bay khắp bầu trời quê ta... ơ...”
 Có người trả lời ngay:
 Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
 “Lang thang bay khắp bầu trời quê ta... ơ...
 ơ... Ðó là... ơ... đó là... đó là đám mây chớ gì.... ơ...”
 Hò... hơ... ơ... ơ... ơ...
 “Thò tay mà ngắt ngọn ngò... ơ...
 ơ... Thương em đứt ruột mà giả đò ngó lơ.. ơ...”
 Còn  khá nhiều câu hò khi dài khi ngắn, tả tình tả cảnh nhưng tôi không nhớ  rõ nên xin bỏ qua, tôi tin rằng độc giả thông cảm vì sau hơn sáu mươi  năm mà tôi còn nhớ được vài câu hò chứng tỏ trí nhớ của tôi còn chưa lụn  bại.
 Võ Long Triều(trích từ NVOL)
No comments:
Post a Comment