Cổ        Loa  là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào  khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới  thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện        nay, Cổ Loa là một xã thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Bối cảnh địa lý
Vào         thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của        tam giác châu  thổ sông Hồng và là nơi giao        lưu quan trọng của đường thủy và  đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả        vùng đồng bằng lẫn vùng  sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở        tả ngạn sông  Hoàng. Con sông này qua nhiều        thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã  trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa        kia sông Hoàng là một con  sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối        liền sông Hồng với  sông Cầu, con sông lớn        nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như  vậy,        về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí  vô cùng thuận        lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào         thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng  với        mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường  thủy này chi        phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ        Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu  ngược        lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc  của Bắc Bộ, nếu        xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn  nếu muốn đến vùng phía        Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm  nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến        tận sông Thương và sông Lục  Nam.
Địa         điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một        vùng đồng  bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm         ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây,  đánh dấu một giai đoạn phát triển        của dân cư Việt cổ, giai đoạn  người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ        vùng Trung du bán sơn  địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng         tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao  tiếp,        trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng  đường thủy; trong        nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật  trồng lúa nước, mức độ dân cư        cũng đông đúc hơn.
Trung         tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể  hiện sự        phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn.
Cấu trúc Thành Cổ Loa
Sơ đồ              thành Cổ Loa
Thành  Cổ        Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất,  quy mô lớn        vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất  trong lịch sử xây dựng        thành lũy của người Việt cổ"
Khi  xây        thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các  địa hình tự        nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp  thêm đất cho cao hơn để        xây nên hai bức tường thành phía ngoài,  vì thế hai bức tường thành này có        đường nét uốn lượn theo địa  hình chứ không băng theo đường thẳng như bức        tường thành trung  tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để        dùng sông  này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn         bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm  ở        phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ  họp cho đến cả        hàng trăm thuyền bè.
Chất         liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ.  Đá được        dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành  ven sông, ven đầm        được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là  loại đá tảng lớn và đá cuội        được chở tới từ các miền khác. Xen  giữa đám đất đá là những lớp gốm được        rải dày mỏng khác nhau,  nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống        sụt lở. Các cuộc  khai quật khảo cổ học đã tìm        thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm  ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói.        Ngói có nhiều loại với  độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp,        có cái được  nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa        văn  ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa  theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ        trên dấu  tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong         đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu  vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng        trong 1,6 km, diện tích  trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo        phương pháp đào đất  đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây        đến đó. Mặt  ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó,         trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến         8 m-12 m. Chân lũy rộng 20 m-30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng  đất        đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
 Một đoạn tường thành mùa lễ hội
Thành        nội  hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng         từ 6 m-12 m, chân rộng từ 20 m-30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn  vào        tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành        trung  là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi         cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các  hướng        đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn  thông với sông        Hoàng.
Thành        ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000 m, cao trung bình        3 m-4 m (có chỗ tới hơn 8 m).
Mỗi         vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung  bình từ 10m        đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông  với nhau và thông với        sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và  tường thành không có hình dạng        nhất định, khiến thành như một mê  cung, là        một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho  phòng thủ.
Sông  Hoàng        được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía  Tây Nam và Nam.        Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ  gò Cột Cờ đến Đầm Cả.        Con hào này nối với hào của thành Trung ở  Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa        Cống Song nối với năm con lạch có  hình dáng như bàn tay xòe, và với một        nhánh của con lạch này,  nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội.
Thuyền  bè        đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc  ra sông Hoàng        và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền  thuyết, An Dương Vương thường        dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra  sông Hoàng.
Giá trị của thành Cổ Loa
Trong         cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong  phú thêm        tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất        dài  họặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành         Ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được  dân        chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các ụ, lũy  này được dùng        làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền  vệ, phối hợp với thành,        hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây  cũng là một điểm đặc biệt của        thành Cổ Loa.
Về mặt        quân sự,  thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ         trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố,         với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ  vững chắc        để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là  một căn cứ kết hợp        hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng  hào thông nhau dễ dàng, thủy        binh có thể phối hợp cùng bộ binh để  vận động trên bộ cũng như trên nước        khi tác chiến.
Về        mặt xã hội,  với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính,        thành  Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ         này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo  vệ        chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường.  Xã hội đã có        giai cấp rõ ràng và xa hội có sự phân hóa giàu nghèo  rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
Về        mặt văn hóa,  là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở        thành  một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ         thuật cũng như văn hóa của người Việt Cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa         thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và  nhất là địa        hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều làm  chứng nghệ thuật và văn        hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào  ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để         tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để  ghi ơn        An Dương Vương.
Hiện        nay Cổ Loa là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia        Việt Nam
Di vật khảo cổ
Trên         địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ  cổ, hàng        vạn mũi tên đồng ba cạnh, rìu lưỡi xéo bằng đồng, và  trống đồng.       
Giai thoại Cổ Loa thành
Loa  Thành hay Cổ Loa Thành, còn có tên khác là Tư Long Thành, người Trung  Quốc thường gọi là Côn Lôn Thành, chính là kinh thành của nước ta thời  An Dương Vương. Di tích Loa Thành nay vẫn còn ở huyện Đông Anh, ngoại  thành Hà Nội. Truyền thuyết nói Loa Thành gồm đến chín vòng, được đắp  theo kiểu xoáy hình trôn ốc, nhưng di tích còn lại chỉ thấy có ba vòng,  dài tổng cộng hơn mười sáu cây số. Loa Thành là công trình kiến trúc lớn  nhất của nước nhà thời cổ đại, là chứng tích bất diệt của ý chí và năng  lực sáng tạo của tổ tiên ta. Việc đắp thành khó khăn này đã được tiến  hành như thế nào? Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỷ, quyển 1, từ tờ  6a đến tờ 7b) chép rằng:
Thành này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở khiến nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi công đắp lạí' .
...''Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi cười mà nói rằng:
- Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?
Vua liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói :
- Cứ đợi Giang Sứ đến.
Xong, cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông, từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang Sứ, bàn được chuyện tương lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:
- Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ, ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hoá thành. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ tự nhiên xây được bền vững.
Nhà vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán nói:
- Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc hoạ. Nhà vua cười nói:
- Sống chết đều có số mệnh cả, ma quỷ mà làm gì nổi?
Nói rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin vua đuổi theo chúng. Tới núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để đem đi chôn. Thấy nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:
- Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.
Vua xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn. Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về. Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:
- Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống giữ?
Rùa vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:
- Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì không lo gì.
Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ.
Lời bàn:
Nước bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu, đã thế, trình độ kỹ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà nhà vua dám dốc sức xây thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại, ở một góc độ nào đó, cũng có thể coi là biểu tượng của những thách thức chất chồng đó thôi.
Việc nhà vua nghênh đón Giang Sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang Sứ không chút quản ngại, cùng vua lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết lòng phò tá chí lớn của nhà vua!
Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỷ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng; Việc làm của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh, thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi thần giáng mà suy� (Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỷ, quyển 1, tờ 10-b).
Như An Dương Vương, thần minh giáng lần đầu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc gia Âu Lạc hùng mạnh; thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.
TTO  - Ai từng đọc lịch sử nước nhà thì không thể không biết đến thành Cổ  Loa, Thục Phán An Dương Vương. Và ai đã từng đọc các câu chuyện cổ tích,  truyền thuyết Việt Nam thì không thể không biết đến truyền thuyết Mỵ  Châu - Trọng Thủy. Tôi đến Cổ Loa vào một ngày nắng đẹp, với một chút tò  mò lẫn khao khát được quay trở lại với nguồn cội lịch sử đã tồn tại  hàng ngàn năm.Thành này cứ hễ đắp xong lại bị sụt lở khiến nhà vua rất lấy làm lo. Nhà vua bèn trai giới sạch sẽ, khấn trời khấn đất và các vị thần núi, thần sông, rồi khởi công đắp lạí' .
...''Mùa xuân, tháng ba, chợt có thần nhân đến trước cửa thành, trỏ vào thành rồi cười mà nói rằng:
- Đắp như thế thì đến bao giờ mới xong?
Vua liền mời vào điện để hỏi. Thần nhân nói :
- Cứ đợi Giang Sứ đến.
Xong, cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, Vua ra cửa thành, thấy có con rùa bơi trên sông, từ phía Đông đến, nói được tiếng người, xưng là Giang Sứ, bàn được chuyện tương lai. Nhà vua mừng lắm, để lên mâm vàng rồi đặt mâm lên điện và hỏi về nguyên nhân khiến cho thành bị sụt lở. Rùa vàng đáp:
- Ấy là bởi tinh khí núi sông của vùng này bị (hồn thiêng) của con vua thuở trước phụ vào để trả thù cho nước. Nó nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có con quỷ, ấy chính là (hồn thiêng) của người con hát thuở trước chết chôn ở đấy hoá thành. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không. Ông ta có đứa con gái và một con gà trắng, đó chính là hư khí của tinh, phàm ai là người qua lại và ngủ đêm tại đó đều bị chết vì bị quỷ ám. Chúng có thể gọi nhau, họp đàn họp lũ, làm cho sụp cả thành. Nay nếu giết được con gà trắng ấy để trừ tinh khí đi thì thành sẽ tự nhiên xây được bền vững.
Nhà vua nghe vậy, liền đem rùa vàng đến quán, giả làm người xin ngủ trọ. Chủ quán nói:
- Ngài là bậc quý nhân, vậy xin đi ngay kẻo ở đây là mắc hoạ. Nhà vua cười nói:
- Sống chết đều có số mệnh cả, ma quỷ mà làm gì nổi?
Nói rồi, vẫn cứ ngủ lại quán. Đêm khuya, nghe tiếng quỷ từ ngoài vào gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng khiến lũ quỷ không sao vào được. Gần sáng, khi nghe tiếng gà gáy thì chúng bỏ chạy tan tác. Rùa vàng xin vua đuổi theo chúng. Tới núi Thất Diệu, tinh khí của lũ quỷ biến mất. Nhà vua cùng rùa vàng trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng nhà vua đã chết rồi, bèn gọi người đến khâm liệm để đem đi chôn. Thấy nhà vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán sụp lạy mà thưa rằng:
- Ngài được như thế này ắt phải là thánh nhân.
Vua xin gà trắng đem giết để tế lễ. Gà chết, con gái của chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi (Thất Diệu), thấy ở đó có nhạc khí cổ và xương người, liền sai đốt thành tro rồi đổ xuống sông. Yêu khí ma quỷ từ đó mất hẳn. Cũng từ đó, thành đắp chưa quá nửa tháng đã xong. Rùa vàng liền cáo từ ra về. Nhà vua cảm tạ và hỏi rằng:
- Đội ơn ngài đã giúp đắp thành vững chắc. Nhưng, nay mai nếu có giặc đến thì lấy gì mà chống giữ?
Rùa vàng liền trút chiếc móng đem cho vua và nói:
- Nước yên hay nguy đều do trời định đoạt, nhưng người cũng nên phòng bị. Nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này mà làm lẫy nỏ, nhằm thẳng giặc mà bắn thì không lo gì.
Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (cũng có sách chép là Cao Thông) chế nỏ thần, lấy móng rùa vàng làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ.
Lời bàn:
Nước bấy giờ còn nhỏ, dân bấy giờ còn thưa, tiềm lực quốc gia bấy giờ cũng còn yếu, đã thế, trình độ kỹ thuật bấy giờ lại chưa cao, thế mà nhà vua dám dốc sức xây thành Cổ Loa, chí lớn thật đáng sánh ngang với trời đất. Việc lớn, khó khăn lớn, hình ảnh của lũ yêu quái phá hoại, ở một góc độ nào đó, cũng có thể coi là biểu tượng của những thách thức chất chồng đó thôi.
Việc nhà vua nghênh đón Giang Sứ có cái gì đó phảng phất hình ảnh các vị minh quân hồ hởi đón lời hay trong thiên hạ. Việc Giang Sứ không chút quản ngại, cùng vua lên tận núi Thất Diệu để diệt yêu quái, sau lại còn thanh thản trút móng tặng vua, tất cả nào có khác gì hình ảnh những người vô danh trong trăm họ, đã hết lòng phò tá chí lớn của nhà vua!
Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà (thế kỷ thứ XV) là Ngô Sĩ Liên nói rằng; Việc làm của thần là dựa theo ý người, thần nhập vào vật mà nói. Khi nước sắp thịnh, thần minh giáng xuống để xem đức hóa, khi nước sắp mất, thần minh cũng giáng xuống để xét tội. Cho nên, cũng có khi thần giáng mà thịnh, lại cũng có khi thần giáng mà suy� (Đại Việt sử kí toàn thư, ngoại kỷ, quyển 1, tờ 10-b).
Như An Dương Vương, thần minh giáng lần đầu thì đắp xong Loa Thành, dựng nên quốc gia Âu Lạc hùng mạnh; thần minh giáng lần thứ hai, quân thua nước mất. Người xưa tin như vậy và đã trịnh trọng chép vào sử như vậy. Gấp sách lại, xin bạn chớ bao giờ tự hỏi rằng đáng tin hay không đáng tin, mà tốt hơn cả, bạn nên tự hỏi rằng cổ nhân muốn kí thác điều gì.
- Các phát hiện khảo cổ mới về những mũi tên đồng Cổ Loa đã chứng tỏ trình độ kỹ thuật và tư duy bậc thầy của các nghệ nhân luyện kim thời Việt cổ.Đô thị Cổ Loa ngày xưa đã là kinh đô của nhiều triều đại, từ An Dương Vương với tên nước là Âu Lạc (273 trước Công nguyên) đến Ngô Quyền (933). Những vị vua này đã để lại trong lịch sử Việt Nam nhiều trang oai hùng. Cổ Loa còn mang dấu ấn về mối tình oan trái của Trọng Thủy và Mỵ Châu, cùng huyền thoại nỏ thần Kim Quy phản ánh một sức võ trang cường mạnh. Những huyền thoại ấy có phần phai nhạt đôi chút theo thời gian, nhưng gần đây lại được bật sáng nhờ sự khai quật của các nhà khảo cổ học, tìm thấy hàng ngàn mũi tên đồng Cổ Loa. Số lượng lớn những mũi tên này đã đặt ra nhiều câu hỏi từ vài năm nay mà bây giờ mới giải đáp được vài phần. Nguồn gốc những mũi tên đồng Cổ Loa Khi phân tích bằng những phương pháp vật lý hiện đại, giáo sư Hà Văn Tấn cùng các nhà khảo cổ khác thấy những mũi tên có chứa các thành phần kim loại tương tự như thành phần các trống đồng thời Đông Sơn, kể cả trống đồng Ngọc Lũ.
 
Lẫy nỏ Cổ Loa.
Khoá nỏ bằng  đồng có đinh  tán
Những nguyên tố chính tìm được là đồng, chì, thiếc và không có kẽm. Những kết quả tương tự cũng tìm thấy trong các vòng chân nữ tướng đào được ở một số vùng lân cận. Kết quả này khác hẳn với các gương đồng, phần nhiều chỉ chứa nhiều nguyên tố đồng.
Khi so sánh tỉ mỉ kết quả phân tích nguyên tố (kể cả các nguyên tố phụ mà thành phần bé hơn một phần trăm) trong những mũi tên đồng với các hiện vật và quặng trong các vùng địa dư khác nhau thì thấy rằng tên đồng là những sản phẩm bản địa.
.
Kỹ thuật luyện kim các mũi tên đồng
Những nguyên tố chính tìm được là đồng, chì, thiếc và không có kẽm. Những kết quả tương tự cũng tìm thấy trong các vòng chân nữ tướng đào được ở một số vùng lân cận. Kết quả này khác hẳn với các gương đồng, phần nhiều chỉ chứa nhiều nguyên tố đồng.
Khi so sánh tỉ mỉ kết quả phân tích nguyên tố (kể cả các nguyên tố phụ mà thành phần bé hơn một phần trăm) trong những mũi tên đồng với các hiện vật và quặng trong các vùng địa dư khác nhau thì thấy rằng tên đồng là những sản phẩm bản địa.
.
Kỹ thuật luyện kim các mũi tên đồng
Muôn ngàn mũi  tên Cổ  Loa.
Khuôn đúc mũi  tên
Riêng trong các mũi tên đồng, còn tìm thấy nguyên tố sắt. Sự có mặt của sắt chứng tỏ người Việt cổ đã biết luyện kim (chứa một nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy trên 1.500oC). Mục đích của họ là làm cho những mũi tên cứng mạnh, dễ xuyên sâu vào mục tiêu. Căn cứ trên những bài được đăng trên các tạp chí chuyên môn của thế giới, có thể thấy họ đã chú ý đến kỹ thuật luyện kim thời Việt cổ từ một thế kỷ nay.
Kỹ thuật luyện kim tân tiến thời Việt cổ còn tìm thấy trong những chiếc dao găm nữ tướng. Các phương pháp phân tích vật lý đã tìm ra nguyên tố titan trong hiện vật này. Người Việt cổ có lẽ chưa biết đích xác tên nguyên tố đó nhưng họ chắc chắn nó sẽ đem lại một hợp kim cứng và nhẹ, thích ứng cho bàn tay người nữ tướng.
.
Phân đoàn tay nỏ trong binh lực
Nếu căn cứ trên những lẫy nỏ Cổ Loa mà các nhà khảo cổ học tìm thấy gần đây cùng với số lượng lớn các mũi tên đồng, chúng ta có thể khẳng định ở thời Việt cổ, vùng Cổ Loa đã có một lực lượng quân sự được phân thành đoàn tiểu xạ gồm nhiều tay nỏ. Những lẫy nỏ này tinh vi và bé hơn những nỏ tìm thấy ở các vùng thượng du, nơi các đồng bào tộc Mường hay nhiều tộc khác cư trú. Thời đó ở Bắc phương hay dùng cung trong lúc người tộc Việt hay dùng nỏ.
Riêng trong các mũi tên đồng, còn tìm thấy nguyên tố sắt. Sự có mặt của sắt chứng tỏ người Việt cổ đã biết luyện kim (chứa một nguyên tố có nhiệt độ nóng chảy trên 1.500oC). Mục đích của họ là làm cho những mũi tên cứng mạnh, dễ xuyên sâu vào mục tiêu. Căn cứ trên những bài được đăng trên các tạp chí chuyên môn của thế giới, có thể thấy họ đã chú ý đến kỹ thuật luyện kim thời Việt cổ từ một thế kỷ nay.
Kỹ thuật luyện kim tân tiến thời Việt cổ còn tìm thấy trong những chiếc dao găm nữ tướng. Các phương pháp phân tích vật lý đã tìm ra nguyên tố titan trong hiện vật này. Người Việt cổ có lẽ chưa biết đích xác tên nguyên tố đó nhưng họ chắc chắn nó sẽ đem lại một hợp kim cứng và nhẹ, thích ứng cho bàn tay người nữ tướng.
.
Phân đoàn tay nỏ trong binh lực
Nếu căn cứ trên những lẫy nỏ Cổ Loa mà các nhà khảo cổ học tìm thấy gần đây cùng với số lượng lớn các mũi tên đồng, chúng ta có thể khẳng định ở thời Việt cổ, vùng Cổ Loa đã có một lực lượng quân sự được phân thành đoàn tiểu xạ gồm nhiều tay nỏ. Những lẫy nỏ này tinh vi và bé hơn những nỏ tìm thấy ở các vùng thượng du, nơi các đồng bào tộc Mường hay nhiều tộc khác cư trú. Thời đó ở Bắc phương hay dùng cung trong lúc người tộc Việt hay dùng nỏ.
Gương đồng và  dao găm nữ  tướng.
Bao chân bao  tay bằng  đồng
Phải chăng những tay nỏ này rất thiện xạ, gây cho đối phương ấn tượng hãi hùng, như những nỏ thần, mà Kim Quy là một huyền tượng.
Cách bắn nỏ tài ba đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong vùng Cổ Loa, có khi dùng trong quân đội chính triều, có khi trong những lực lượng đối lập. Như ta đã biết, hơn mười thế kỷ sau An Dương Vương, vua Ngô Xương Văn, một trong hai vua anh em đồng kế vị Ngô Quyền, đã chết vì một mũi tên, cũng gần Cổ Loa, kinh đô thời ấy.
Những lẫy nỏ Cổ Loa tìm được cũng bằng hợp kim đồng. Khi bật - một lần lẫy chỉ phát một mũi tên. Tuy những lẫy nỏ này không phải từ nỏ của An Dương Vương nhưng cũng giúp làm sáng tỏ được huyền thoại nỏ thần. Cơ cấu đơn tiễn này làm nhẹ một phần nào tội lỗi của Mỵ Châu. Vận nước Âu Lạc tuy nổi chìm theo thời gian qua mối tình cay đắng của Mỵ Châu - Trọng Thủy, nhưng không làm quên được thực tế Cổ Loa đã là kinh đô của một nước có tổ chức lớn, có kỹ thuật cao, kể cả kỹ thuật quân sự, bao hàm thêm khía cạnh nhân bản và tình người.
.
(GS. Phạm Văn Hường, Thứ tư, 29 Tháng mười một 2006 )
.
Phụ lục : Một số hiện vật Đông Sơn từ RPVA (Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Bảo tồn cổ vật Việt Nam)
Phải chăng những tay nỏ này rất thiện xạ, gây cho đối phương ấn tượng hãi hùng, như những nỏ thần, mà Kim Quy là một huyền tượng.
Cách bắn nỏ tài ba đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong vùng Cổ Loa, có khi dùng trong quân đội chính triều, có khi trong những lực lượng đối lập. Như ta đã biết, hơn mười thế kỷ sau An Dương Vương, vua Ngô Xương Văn, một trong hai vua anh em đồng kế vị Ngô Quyền, đã chết vì một mũi tên, cũng gần Cổ Loa, kinh đô thời ấy.
Những lẫy nỏ Cổ Loa tìm được cũng bằng hợp kim đồng. Khi bật - một lần lẫy chỉ phát một mũi tên. Tuy những lẫy nỏ này không phải từ nỏ của An Dương Vương nhưng cũng giúp làm sáng tỏ được huyền thoại nỏ thần. Cơ cấu đơn tiễn này làm nhẹ một phần nào tội lỗi của Mỵ Châu. Vận nước Âu Lạc tuy nổi chìm theo thời gian qua mối tình cay đắng của Mỵ Châu - Trọng Thủy, nhưng không làm quên được thực tế Cổ Loa đã là kinh đô của một nước có tổ chức lớn, có kỹ thuật cao, kể cả kỹ thuật quân sự, bao hàm thêm khía cạnh nhân bản và tình người.
.
(GS. Phạm Văn Hường, Thứ tư, 29 Tháng mười một 2006 )
.
Phụ lục : Một số hiện vật Đông Sơn từ RPVA (Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Bảo tồn cổ vật Việt Nam)
Bình rượu  bằng đồng
.
Bộ nhạc khí  bằng  đồng
.
Ấm đun (đồ  gốm Đông  Sơn)
.
Đồ trang sức  bằng  đồng
.
Muôi đồng
.
Rìu đồng mũi  hài
.
Thố đồng và  quả cân  đồng
.
Tượng chim  đồng trên đầu  gậy
.
Đèn đồng
.
Vũ khí Đông  Sơn (1)
.
Vũ khí đông  Sơn(2)
.
Mảnh giáp  Đông Sơn
.
Dong Son  bronze  blade
.
Thạp đồng  Đông Sơn
.
Qua  cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Qua  cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã ba rẽ  phải, đi tiếp 2km nữa là vào khu di tích Cổ Loa.
Cổ  Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương  vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới  thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên. Đây là thủ đô thứ hai của  Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay), là thủ đô thời các vua  Hùng. 
Theo các tài  liệu khảo cổ học, xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên  nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải  than bùn lớn, những cây cổ thụ... kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi  qua Cầu Cả, Đại Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê.
Khu  di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc  huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 17km về  phía bắc.
Khác  với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích có diện  tích trải rộng trên một địa bản rộng lớn. Thành Cổ Loa theo tương truyền  gồm chín vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các  nhà khoa học thấy thành có ba vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể  được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. 
Chu  vi vòng ngoài thành là 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện  tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến  đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy,  dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì  dễ. Lũy cao  từ 4 m-5m, có chỗ cao 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt  lũy rộng 6m-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu m3.
Từ  vòng trong - trung tâm của khu di tích Cổ Loa - tôi men theo các con  đường làng để “xoáy” trở ra đến vòng ngoài. Trải qua hàng ngàn năm với  những thắng trầm của lịch sử, với những sự thay đổi của thiên nhiên tạo  hóa, những bờ tường kiên cố ngày xưa, nay chỉ còn những gò đất cao trung  bình khoảng 2m, tuy nhiên theo lời các cụ bô lão trong làng thì muốn đi  được hết được cả ba vòng tường thành phải mất gần nửa ngày trời. 
Cụm  di tích Cổ Loa hiện nay thuộc vòng trong, bao gồm chủ yếu các đình, đền  thờ, tiêu biểu như đền thờ Thục Phán An Dương Vương (đền Thượng), giếng  Ngọc, am Bà Chúa và dinh Ngự triều di quy.
Qua  cổng làng, cũng là cổng thành trong, là tới đình làng Cổ Loa. Theo  truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội  ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy”.
Cạnh đình là am Bà Chúa -  miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé  bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương với "trái tim  lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, ai  cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
Tượng  bà chúa Mỵ Châu là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu.  Huyền thoại kể rằng: sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi  Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng  về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại  chỗ.
Qua am Mỵ Châu  tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền dựng trên nền nội  cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng  đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê Sơ. Trong đền có  tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền  là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thủy tự tử vì hối hận. Nước  giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần!   
Trong  quần thể khu di tích lịch sử Cổ Loa, đền Thượng (đền Thục Phán An Dương  Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Đền được xây dựng năm 1687  đời vua Lê Hi Tông, đứng trên một quả đồi xưa có cung thất của vua. 
Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.
Qua  cửa tam quan, bước vào trong đền những hàng cây xanh hai bên đền là một  không gian thoáng đãng, trong lành khiến ai cũng cảm thấy tâm hồn sảng  khoái, thanh thản.Bước vào bên trong ngôi đền là một không gian khá rộng với lần lượt  những ban thờ của các vị bá quan văn võ, tứ trụ triều đình, thần Kim Quy  và bàn thờ của Thục Phán An Dương Vương.
Đá kè chân thành, gốm rải  rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất  là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo. Cổ Loa ngày nay không chỉ đã trở  thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ  thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và  chống ngoại xâm,mà nó còn là một điểm đến lý tưởng cho các du khách thập  phương muốn khám phá những giá trị văn hóa,những hình ảnh quen thuộc  của một làng quê Bắc Bộ thanh bình.
Hằng  năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ hội  trang trọng để tưởng nhớ những người đã có công xây thành, nhất là để  ghi ơn An Dương Vương, người khai sinh ra nhà nước phong kiến Âu Lạc.
Bài, ảnh: NGUYỄN KHÁNH
Khu  di tích Cổ Loa ở huyện Đông Anh là một vùng thành trì lớn, một dấu tích  vật chất về kiến trúc quân sự và đô thị cổ cách ngày nay gần hai thiên  niên kỷ.
| Bản đồ khu di tích Cổ Loa. Ảnh: tư liệu | 
Di  tích nằm về phía đông bắc của Thủ đô Hà Nội. Từ trung tâm Thủ đô qua  cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1, đến cây số 11, qua cầu Đuống, theo  quốc lộ 3, đi tiếp đến cây số 18 là tới khu vực di tích. 
Khu  vực Cổ Loa là một khu thành đất đồ sộ với 3 vòng thành, chiều dài cả 3  vòng thành tổng cộng hơn 16 cây số. Không có tài liệu nào ghi lại cụ thể  niên đại xây dựng, nhưng có lẽ thành được tạo lập vào khoảng thế kỷ III  trước Công nguyên. Thành Cổ Loa gắn liền với câu chuyện An Dương Vương  và nhà nước Âu Lạc. Chuyện kể rằng: vào cuối thời Hùng Vương, vua nước  Thục tên Phán, chiếm được nước của Hùng Vương, lập nước Âu Lạc, xưng là  An Dương Vương, định đô ở Cổ Loa ngày nay, cho xây ở đây 1 thành hình ốc  gọi là Loa Thành. Câu chuyện xây thành đã trở thành huyền thoại. Thành  cứ ngày xây, đêm đổ, nên chỉ khi vua được thần Kim Quy (Rùa Vàng) cho  móng và mách kế diệt tinh Bạch Kê (Gà trắng) thì thành mới xây xong.  Chiếc nỏ thần mà lẫy nỏ chính là móng rùa vàng, trăm phát trăm trúng, đã  giúp vua tiêu diệt giặc, giữ được thành. Sau khi Trọng Thủy là con  Triệu Đà từ phương Bắc tới đánh lừa lấy mất nỏ thần, mở đường cho quân  xâm lược, thì An Dương Vương đã phải dẫn con gái Mỵ Châu chạy loạn.  Những chiếc lông ngỗng Mỵ Châu rắc trên đường là dấu hiệu giúp cho Trọng  Thủy theo tìm đến mối tình đầu, nhưng cũng đưa dắt kẻ thù truy đuổi nhà  vua thất thế, khiến vua cha phải giết Mỵ Châu. Thất vọng vì mất người  yêu, Trọng Thủy gieo mình xuống giếng trong Loa Thành. Khách tham quan  ngày nay đến Cổ Loa còn được chỉ cho xem 1 cái giếng mang tên “giếng  Trọng Thủy”.
Đi  từ trong ra ngoài, thoạt tiên là vọng “Thành Trong”, hình chữ nhật mà  chu vi là 1650m, nơi được xem là chỗ ở của nhà vua. Truyền thuyết còn  tặng cho di tích cái tên là “Thành Nội”. Nhà cửa hay cung điện không còn  nữa. Cái còn lại là vết tích của rãnh đào cống thoát nước. Cổng chính  của “Thành Nội” ở giữa bờ thành phía nam. Từ cổng này nhìn vào, trước  kia hẳn có nhà ở hay cung điện mà tiếng dân gian gọi là “Điện Ngự triều  di qui”. Hai bên cổng có đắp 2 ụ công sự cao hơn mặt thành và nhô hẳn về  phía trước. Ở bên góc “Thành Nội” còn đếm được 18 ụ công sự. Bao quanh  thành là hào sâu và rộng.
Vòng  thành giữa hay “Thành Trung” bao ngoài “Thành Nội”. Chu vi của nó là  6.500m. Từ cửa Nam (chợ Sa ngày nay) thành vòng về phía đông theo Đầm  Cả, qua gò Voi ở phía bắc, vòng lại phía nam theo bờ sông Hoàng.
Vòng  thành ngoài hay “Thành Ngoại” có chu vi là 8.000m. Một đoạn dài của  sông Hoàng chảy từ tây nam đến đông nam, bao quanh thành từ đông bắc đến  đông nam.
Ngoài  khu thành đất đồ sộ có giá trị lớn đối với việc nghiên cứu lịch sử quân  sự, xã hội… thời thượng cổ trên đất miền bắc nước ta. Năm 1982, chiếc  trống đồng Cổ Loa được phát hiện tại gò Mả Tre, và bộ sự tập lưỡi cày  đồng nổi tiếng thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay hơn 20 thế kỷ. Hai kho  mũi tên đồng gồm hàng vạn chiếc cũng được phát hiện tại đây vào giữa thế  kỷ 20.
Trong khu vực “Thành Nội”, nhân dân ta đã xây dựng một số công trình tưởng niệm An Dương Vương: Đền Thượng và Ngự triều di qui.
| Giếng Ngọc thành Cổ Loa. Ảnh: tư liệu | 
Đến  nay vẫn chưa biết đền được xây dựng từ bao giờ, chỉ biết đã được sửa  chữa lại vào năm 1687, và đến năm 1893 lại được trùng tu lớn.
Đền  còn giữ một số di vật: tượng An Dương Vương bằng đồng hun, đúc năm  1897, 2 con ngựa “hồng – bạch” làm năm 1716, các đồ tự khí bằng đồng,  sứ, gỗ, vải… Trước cổng đền có 2 con rồng đá, thân uốn lượn, tay vuốt  râu, phô ra những nét chạm tinh tế - tài nghệ của những người thợ thủ  công Việt Nam thế kỷ XVII.
Còn  “Ngự triều di qui” là một ngôi đình được chuyển từ nơi khác về, và dựng  lại hồi cuối thế kỷ XVIII lên trên khu đất tương truyền là “Khu ngự  triều di qui” – nơi xa xưa vua Thục “thiết triều”. Giữa đình, còn bức  cửa võng chạm hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) và tứ quý (đào, cúc,  trúc, mai). Bức chạm khá tinh tế, thếp vàng rực rỡ.
Bên  trái đình, “cây đa nghìn tuổi” nay đã không còn. Sau gốc đa, hé ra cửa  tò vò vào am thờ nàng Mỵ Châu. Am thờ một hòn đá, trôi dạt về phía đông  vòng thành giữa, dân thấy hòn đá kỳ dị, bèn rước về thờ.
Xã  Cổ Loa có khu di tích lớn và là di tích duy nhất còn lại đến nay về một  thủ phủ lớn. Một Thủ phủ mà cha ông ta đã thiết lập trên đồng bằng Bắc  Bộ, thoạt đầu tiên hẳn là Thủ phủ của một thủ lĩnh quân sự lớn. Đây còn  là di tích duy nhất về kiến trúc quân sự thời viễn cổ ở nước ta. Khu di  tích đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa ở đợt đầu trên toàn quốc  năm 1962.
No comments:
Post a Comment