Đường đi rất nhỏ hẹp, sình lầy nhưng nhà thờ đã được tu bổ khang trang hơn nhiều. La Vang ngày nay là một thánh địa và là nơi hành hương quan trọng của người Công giáo Việt Nam, nằm ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Các tín hữu tin rằng, Đức Mẹ Maria hiển linh ở khu vực này vào năm 1798 và một nhà thờ đã được xây dựng gần nơi 3 cây đa, nơi Đức Mẹ hiện ra. Thánh địa La Vang được Tòa thánh Vatican phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961. Vào thăm thánh địa La Vang, chúng tôi có thể thấy vết đạn loang lổ trên di tích nhà thờ cũ. 3 cây đa, nơi Đức Mẹ hiện ra nay đúc lại bằng ximăng. Chúng tôi chụp hình và cầu nguyện xong rồi đến xem lá vằng - một loại cây lá chữa bệnh và cũng là tên gọi cho La vang hôm nay. Xem ra Quảng Trị vẫn là 1 trong những tỉnh nghèo nhất nước cho dù Đông Hà đã phát triển thành 1 trung tâm thương mại khá sầm uất. Khi ghé Đông Hà để ăn trưa và mua bán, tôi vẫn chưa thấy được dấu hiệu lạc quan nào cho 1 tương lai tươi sáng hơn vì hầu hết hàng hoá vẫn từ Thái Lan & TQ tràn sang chứ không hề được sản xuất tại đây cho dù Đông Hà đã nổi tiếng về buôn lậu từ Lào, từ Thái Lan ?
Từ quốc lộ 1A chuyển qua đường 9 Nam Lào ngang qua Làng Vây, trước khi đến Khe Sanh thì chuyển qua đường Trường Sơn đến liên tỉnh lộ 20, tôi đến tham quan động Phong Nha. Người Vân Kiều mới định cư sống tập trung ở đây.Đi qua đường xa lộ Hồ Chí Minh/ Trường Sơn, chúng tôi chỉ thấy rừng Trường Sơn chập chùng xen lẫn với vài rừng cao su mới trồng và vài rừng thông lẻ loi do di dân từ miền Bắc mới trồng sau khi mới định cư. Đến trưa, chúng tôi mới đến Phong Nha. Chủ nhà hàng chỉ cho chúng tôi thấy mới tuần rồi nước lụt ngập hết tầng trệt, Chủ nhà hàng phải dồn hết gia đình lên lầu ở suốt mấy ngày liền. Xuống tàu, Chủ tàu cũng nói là họ phaỉ neo tàu trên núi ở suốt mấy ngày liền vì lũ lụt và chỉ cho chúng tôi ngấn nước còn hằn trên vách núi đá vôi. Sau đó, chúng tôi đến tham quan động Phong Nha.Lần này, chúng tôi may mắn được đến tham quan cả 4 hang(hang Cung Đình, hang Tiên và hang Kỳ Bí, sau đó lên thăm hang Khô) cho dù rất tối và hơi khó thở vì không đủ ánh sáng và oxygen. Từ bãi cát đi sâu vào cả 4 hang động (hang Cung Đình, hang Tiên và hang Kỳ Bí, sau đó lên thăm hang Khô),chúng tôi mới thấy được vẻ đẹp kỳ bí tuyệt vời của thiên nhiên. Chụp hình, quay phim, tham quan xong, chúng tôi ngồi thuyền trở ra bến tàu. Ngồi nhìn cảnh đẹp 2 bên bờ sông Son, xa xa là tháp chuông nhà thờ và văn phòng khu bảo tồn công viên quốc gia Kẽ bàng - Phong Nha, tôi thấy quê hương VN của mình đẹp thật. Nói chuyện với anh Chủ tàu về cuộc sống hôm nay của gia đình anh: ngày xưa sống trôi nổi trên tàu; nay thì đã tạm ổn định hơn sau khi đã sắp xếp lại bến bãi, không còn giành giựt du khách hỗn loạn như trước nữa, rồi chuyện lũ lụt, chuyện ngày xưa du kích chống Tây đã từng trốn trong hang động, etc...
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một vườn quốc gia tại huyện Bố Trạch, và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.
Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 200.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào   tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng  200.000  ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một  vùng đệm  rộng 195.400 ha. Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ  một trong hai vùng carxtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
Kiến tạo carxtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là carxtơ cổ nhất ở châu Á.
Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực[4]. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có lẽ là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp nhất về sự kiến tạo carxtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất,   địa mạo năm 2003, Phong Nha-Kẻ Bàng đang hướng tới mục tiêu được  UNESCO  công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học.
Động Phong Nha còn có tên khác như Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Trùa (Hang Chùa).
Vị trí, diện tích, dân số
Trước  khi trở thành một vườn quốc gia, khu vực này đã là một khu bảo  tồn tự  nhiên. Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng có diện tích 5000 ha đã được  Chính  phủ Việt Nam chính thức công bố ngày 9 tháng 8 năm 1986 và đã  được mở  rộng thành 41.132 ha vào năm 1991. Ngày 12 tháng 12 năm 2001,  Thủ tướng  Chính phủ đã có quyết định số 189/2001/QĐ-TTg chuyển Khu bảo  tồn thiên  nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng thành vườn quốc gia với tên gọi như hiện nay.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tọa độ   từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông, nằm   trong địa bàn các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và   Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Phong Nha-Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc[2], cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía bắc. Phía tây vườn quốc gia này giáp khu vực bảo tồn Hin Namno, một khu vực carxtơ nằm ở tỉnh Khăm Muộn, Lào.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm:
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha
 - Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha
 - Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha.
 
Trong khu vực vùng đệm   của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của 12 xã với tổng diện  tích  thuộc vùng đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa (các xã Dân  Hóa, Hóa  Sơn, Trung Hoa, Thượng Hóa); Bố Trạch (các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Xuân Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh   (xã Trường Sơn). Các khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn   như sông Chày, sông Son và các các thung lũng có suối phía đông và đông   bắc của vườn quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng   xa của Quảng Bình,   có điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, ý tế   kém phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm   sản.
Khí hậu
Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ   nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói riêng, khí hậu ở vườn quốc gia này   mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Nhiệt độ trung   bình hàng năm là 23-25 °C, với nhiệt độ cao nhât là 41 °C vào mùa hè và   mức thấp nhất có thể xuống 6 °C vào mùa đông. Thời kỳ nóng nhất là vào   tháng 6-8 với nhiệt độ trung bình 28 °C, còn từ tháng 12 đến tháng 2 có   nhiệt độ trung bình 18 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm đo được là   2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7-12.   Mỗi năm có hơn 160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%.
Địa chất, địa mạo
Quá trình hình thành
Hệ  thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do  những  kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách  đây  hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ Sinh.   Trải qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt   gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do   chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng   vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về   địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú   về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng  phát  triển từ Devon đến Carbon - Trecmi[16].
Khu  vực Phong Nha-Kẻ Bàng hiện tại là kết quả tổng hợp của 5 giai  đoạn  phát triển lớn trong lịch sử phát triển vỏ Trái Đất trong khu vực:
- Giai đoạn Kỷ Ordovic muộn - giai đoạn Siluri đầu (450 triệu năm)
 - Giai đoạn Kỷ Devon giữa và muộn (khoảng 340 triệu năm)
 - Giai đoạn Kỷ Than Đá - Kỷ Permi (300 triệu năm)
 - Giai đoạn Orogen
 - Giai đoạn Đại Tân Sinh (250-65 triệu năm)
 
Lịch sử nghiên cứu địa chất địa mạo
Lần đầu tiên, Đoàn Địa chất 20, một cơ quan trực thuộc Tổng cục Địa chất Việt Nam đã hoàn thành công trình đo vẽ bản đồ địa chất tỷ lệ 1:500.000 miền Bắc Việt Nam vào năm 1965 với sự trợ giúp của các chuyên gia Liên Xô, trong đó khu vực tỉnh Quảng Bình được xếp vào đới tướng cấu trúc Trường Sơn. Đây là lần đầu tiên các đặc điểm địa chất như địa tầng, hoạt động magma và cấu trúc - kiến tạo   của khu vực này đã được các nhà khoa học Việt-Xô mô tả một cách hệ   thống và chi tiết. Sau đợt khảo sát và đo vẽ đó, Tổng Cục Địa chất Việt   Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) đã tiếp tục tiến hành   đo vẽ địa chất ở tỷ lệ trung bình và lớn để chính xác hoá cấu trúc địa   chất và xác định tiềm năng khoáng sản ở vùng lãnh thổ này và đã hoàn  tất  vẽ bản đồ địa chất 1:200.000 tờ Mahaxay - Đồng Hới kèm theo thuyết  minh  "Địa chất và khoáng sản tờ Mahaxay - Đồng Hới", đây là công trình  bổ  sung nhiều kết quả nghiên cứu mới về địa tầng và khoáng sản ở trong   vùng. Năm 2001, bản đồ địa chất 1:50.000 tờ Minh Hoá kèm theo Báo cáo   thuyết minh "Địa chất và khoáng sản tờ Minh Hoá" được hoàn thành và đã   đưa được nhiều kết quả nghiên cứu mới về cổ sinh địa tầng Mesozoi và các   khoáng sản phosphat   và vật liệu xây dựng của vùng. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã thực   hiện công bố nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về ranh giới  Frasni -  Famen (Devon thượng).
Đặc điểm tự nhiên
Phong Nha-Kẻ Bàng có một cấu trúc địa chất phức tạp, với lịch sử phát triển vỏ Trái Đất từ thời kỳ Ordovicia (464 Ma). Điều này đã tạo ra 3 loại địa hình và địa mạo. Một trong số đó là các kiến tạo không phải carxtơ với các ngọn núi thấp tròn với các thềm đất tích tụ mài mòn dọc theo các thung lũng sông Son và sông Chay   và tại các mép khối núi đá vôi trung tâm. Loại kiến tạo lớn khác là  các  kiến tạo carxtơ có đặc trưng là các carxtơ nhiệt đới cổ chủ yếu là  từ Đại Trung Sinh, nhưng 2/3 của khu vực này là carxtơ từ Đại Tân Sinh. Đá vôi chiếm một diện tích khoảng 200.000 ha, với một khu vực tương tự ở tỉnh Khăm Muộn của Lào.   Quá trình kiến tạo carxtơ đã tạo ra nhiều đặc điểm như các sông ngầm,   các động khô, các động bậc thang, động treo, động hình cây và động cắt   chéo nhau. Các động có sông được chia thành 9 động của hệ thống Phong   Nha đổ vào sông Son và 8 động của hệ thống động Vòm đổ vào sông Chay.
So  với các khu vực carxtơ khác trên thế giới đã được công nhận là di  sản  thế giới, khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có đặc điểm tự nhiên có nhiều dị   biệt do điều kiện khí hậu và cấu trúc địa chất khác nhau. Khu vực Phong   Nha-Kẻ Bàng nằm trong vành đai tạo núi Alpi, một đai núi trẻ phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Kainozoi. Vì vậy, các khối đá vôi   tại khu vực này bị biến dạng cơ học khá mạnh do đứt gãy. Khí hậu khu   vực này là nhiệt đới gió mùa nên các hiện tượng carxtơ tại đây không   giống với các khu vực ôn đới về cường độ quá trình carxtơ cũng như các   dạng địa hình mà nó tạo ra trên bề mặt và khu vực ngầm.
Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo điều kiện cho nước   dễ thấm vào các khối đá làm tăng khả năng hòa tan do trong nước có  chứa  các chất axít có phản ứng với đá vôi (cácbonat canxi). Hệ thống  hang  động hùng vĩ của Phong Nha được tạo ra do quá trình các khe nứt  kiến  tạo, sau đó là quá trình phong hoá   vật lý và hoá học đã gặm mòn, hoà tan, rửa trôi qua hàng triệu năm.   Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, quá trình carxtơ hoá rất mạnh mẽ về cường   độ và tốc độ phá huỷ. Ngoài hệ thống núi đá vôi, vùng núi đất có nền đá mẹ chủ yếu là đá mácma axít, đá sét, đá biến chất và phù sa cổ.
Về thổ nhưỡng, khu vực Phong Nha có nhiều hoại đất hình thành từ các nguồn đá mẹ khác nhau. Đất chủ yếu là đất feralit đỏ vàng trên núi đá vôi, đất Feralit vàng trên đá mácma axít, đất Feralit vàng nhạt và đất phù sa bồi tụ ven sông.
Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có hang động có tuổi cổ nhất Đông Nam Á, với thời gian bắt đầu hình thành hang động là 35 triệu năm trước đồng thời với pha tách giãn hình thành Biển Đông.   Các hướng chạy của hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng   trùng với hướng các đứt gãy mang tính khu vực và địa phương.
Lũ  ở trong các khu vực thung lũng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11  nhưng  trong mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 thì hầu như các con suối đều  khô  cạn.
Hệ thống hang động
Sa bàn vị trí động Phong Nha và động Tiên Sơn trong vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
So với 3 vườn quốc gia khác đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới khác ở Đông Nam Á (Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Malaysia, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palawan của Philippines và Vườn quốc gia Lorentz ở Tây Irian của Indonesia) và một số khu vực carxtơ khác ở Thái Lan, Trung Quốc, Papua New Guinea   thì carxtơ ở Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi già hơn, cấu tạo   địa chất phức tạp hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và phức tạp hơn[19].
Lịch sử khám phá hang động
Thạch Nhũ và măng đá trong động Phong Nha
Các văn tự khắc trên vách đá bằng ngôn ngữ Chăm Pa cổ cho thấy động Phong Nha được người Chăm phát hiện từ thời xa xưa khi vùng đất này còn thuộc Vương quốc Chăm Pa.
Năm 1550, Dương Văn An là người đầu tiên viết về động Phong Nha. Động Phong Nha đã được chạm lên một trong Cửu Đỉnh Đại Nội triều Nguyễn ở Huế.
Năm 1824, động Phong Nha được vua Minh Mạng sắc phong là "Diệu ứng chi thần". Ngoài ra còn được các vua nhà Nguyễn "Thần Hiển Linh".
Cuối thế kỷ 19, ông Léopold Michel Cadière,   một linh mục người Pháp, thám hiểm động, khám phá các chữ viết của   người Chăm và ông đã suy tôn Phong Nha "Đông Dương đệ nhất động". Tháng 7   năm 1924, nhà thám hiểm người Anh Barton sau khi khảo sát Phong Nha đã   đánh giá rằng động Phong Nha có thể sánh ngang với các hang động nổi   tiếng trên thế giới như động Padirac (Pháp), động sông Drach (Tây Ban Nha) về vẻ đẹp kỳ vĩ của hang động
Năm  1935, một người dân địa phương đã tình cờ phát hiện ra một động  khô có  cửa động nằm cách cửa động Phong Nha 1000 m, trên độ cao 200 m.  Động  này nằm trong khối núi đá vôi Kẻ Bàng thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Đây là động có cảnh quan kỳ vĩ không kém động Phong Nha nhưng lại không có sông ngầm.
Năm 1937, Phòng du lịch của Khâm sứ Pháp   (ở Huế) đã ấn hành một cuốn tập gấp giới thiệu du lịch ở Quảng Bình,   trong đó có giới thiệu về động Phong Nha. Địa điểm du lịch này đã được   xếp hạng nhì ở Đông Dương thuộc Pháp.   Trước năm 1990, đã có nhiều cuộc thám hiểm hang động của các nhà khoa   học Việt Nam và nước ngoài nhưng chưa hé lộ nhiều về hệ thống hang động   Phong Nha.
Năm 1992, một nhóm gồm 12 nhà  khoa học Anh và 6 giáo sư của Đại học  Tổng hợp Hà Nội tiến hành cuộc  thám hiểm thứ hai và đã hoàn tất thám  hiểm 7.729 m thuộc động Phong Nha  và 13.690 m thuộc động Vòm và các hang  động lân cận.
Cuộc thám hiểm thứ 3 vào năm 1994 bao gồm 11 nhà khoa học Anh và 5 nhà khoa học Việt Nam thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Các  kết quả thám hiểm, nghiên cứu này đã mang đến một sự hiểu biết  toàn  diện về hệ thống hang động ở Phong Nha-Kẻ Bàng và đã được làm cơ sở  cho  bảo vệ, quy hoạch và phát triển du lịch cũng như hoàn thiện hồ sơ  để  trình lên UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Các  nhà khoa học đã khám phá và nghiên cứu 20 hang động với tổng  chiều dài  70 km hang động, trong số đó có 17 hang động tại khu vực Phong  Nha và 3  hang động tại khu vực Kẻ Bàng. Năm 1999, các nhà khoa học của Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga cũng tiến hành các khảo sát về hệ động thực vật ở khu vực Kẻ Bàng. Động Phong Nha dài 7.729 m, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 m. Các thạch nhũ trong động trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ nước có hòa tan đá vôi (CaHCO3) mà tích tụ thành những hình tượng lạ mắt như hình sư tử, hình ngai vàng, hình đức Phật v.v.
Hang động trong Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Năm 2005, Hội hang động Anh phát hiện một hang động khô, đặt tên Động Thiên Đường, lớn nhất và đẹp nhất tại Phong Nha-Kẻ Bàng[23]. Theo đánh giá, hang động Thiên Đường còn to lớn và đẹp hơn cả động Phong Nha.
Ngày 1 tháng 6 năm 2006, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam đã phát hành bộ tem chọn lọc Phong Nha-Kẻ Bàng.
Giai  đoạn từ năm 2007-2008, đoàn khảo sát hang động của Hội hang động  hoàng  gia Anh đã khảo sát khu vực thượng nguồn sông Chày, khu vực hang  Vòm,  hố kast ở km12 trên đường 20 và một số hang động mới ở Thượng Hóa,  Hóa  Sơn, Dân Hóa, Trọng Hóa (thuộc huyện Minh Hóa), Trường Sơn (huyện  Quảng  Ninh). Họ cũng đã đo vẽ lại hệ thống hang động Phong Nha.
Tháng  4 năm 2009, đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động hoàng gia  Anh đã  tiến hành thám hiểm khu vực vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng và  các khu  vực phụ cận. Họ đã phát hiện thêm 20 hang động mới với tổng  chiều dài  56 km. Trong đợt khảo sát này, hội hang động hoàng gia Anh và  Trường  đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố  phát  hiện mới về hang Cha Lo (Minh Hóa) dài trên 5km. Đoàn cũng công bố  mới  về độ dài của các hang động chính như Phong Nha trên 57km (trước đây  là  45km), Vòm trên 35km, đồng thời phát hiện hang Khe Ri là hang sông   ngầm dài nhất thế giới.  Đặc biệt, đoàn thám hiểm cũng đã phát hiện một  hang mới và tạm đặt tên  là Sơn Động. Theo kết quả khảo sát, hàng này  dài 6,5km, rộng hơn 150m và  vòm hang chỗ cao nhất hơn 200m, kích thước  gấp 4-5 lần so với hang  Phong Nha, lớn hơn nhiều so với hang Deer tại vườn quốc gia Gunung Mulu tại Sarawak, Malaysia   vốn được xem là hang động lớn nhất thế giới. Con sông ngầm ở hang này   cũng lớn hơn nhiều lần so với sông ngầm ở hang Phong Nha. Hang này có   dòng sông ngầm. nước và dòng chảy ngầm trong hang rất mạnh nên hiện đoàn   thám hiểm chỉ khảo sát được một phần [26]   Đoàn thám hiểm cũng đã tiến hàng khảo sát hố sụt karst (đá vôi) ở khu   vực hang Vòm có tên là vực Tang với kết quả cho thấy hố sụt có độ sâu   đến 255m. Tuy nhiên, đoàn thám hiểm vẫn chưa thể đo hết độ sâu của hố   sụt này, nhưng qua đó đánh giá đó là hố sụt sâu nhất VN 
Hệ thống động Phong Nha
Cho đến nay, các nhà khoa học đã khảo sát 44,5 km hang động nhưng du khách bình thường chỉ có thể vào được 1500 m. Hệ thống động Phong Nha có các hang động đáng chú ý sau:
- Hang Tối: nằm trên thượng lưu sông Son. Hang này có chiều dài 5.258 m và cao 83 m,dài 736 m.
 - Hang Chà An: dài 667 m và cao 15 m.
 - Hang Thung: có sông ngầm dài 3351 m.
 - Hang Én: dài 1645 m và cao 78,6 m, có bãi cát bên trong, là nơi sinh sống của én.
 - Hang Khe Tiên: tọa lạc phía nam Phong Nha, dài 520 m.
 - Hang Khe Ry: tọa lạc ở phía nam Phong Nha.
 - Hang Khe Thi.
 
Hệ thống động Vòm
- Hang Vòm: dài 15,05 km và cao 145 m có nhiều thạch nhũ và măng đá đẹp.
 - Hang Đai Cao: dài 1645 m và cao 28 m.
 - Hang Duột: dài 3,927 km và cao 45 m, có bãi cát mịn.
 - Hang Cá: dài 1.500 m cao 62 m.
 - Hang Hổ: dài 1.616 m và cao 46 m
 - Hang Over: dài 3.244 m và cao 103 vời chiều rộng trong khoảng 30–50 m.
 - Hang Pygmy: dài 845 m.
 - Hang Rục Caroòng: nơi sinh sống của người thiểu số Arem. Họ sống trong hang động và săn bắn hái lượm tự nhiên.
 
Động Tiên Sơn
Cửa vào động Tiên Sơn hay động Khô
Động  Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp nổi tiếng ở khu vực Phong  Nha-Kẻ  Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng  1.000  m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có  chiều  dài là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng  10  m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm  nên  du khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng   cách 400 m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban   đầu, cư dân địa phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần   tiên của nó. Sau này động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt   với động Phong Nha là động nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ   và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động Phong Nha nhưng lại có nét   riêng là các âm thanh phát ra từ các phiến đá và cột đá khi được gõ vào   vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Theo các nhà khoa học   thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên Sơn được hình thành cách   đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng,   bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa chất khối núi này   hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá đổ sụp  ngăn  chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có sông  ngầm  chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động  Tiên Sơn  nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông  nhau. Cư dân  địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ  di chỉ của  người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa động.
 
Động Thiên Đường
Động  Thiên Đường được đánh giá là động lớn và dài hơn động Phong Nha.  Đây  là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha.  Theo  kết quả khảo sát sơ bộ của các nhà khoa học, so với động Phong Nha  thì  động Thiên Đường có chiều dài và quy mô lớn hơn nhiều. Trong động  Thiên  Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động  là  đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám  hiểm.  Trong khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37 °C thì nhiệt độ  trong  động Thiên Đường luôn ở 20-21 °C[28].
Sơn Đoòng
Sơn Động hay Sơn Đoòng là một trong những hang mới nhất được phát hiện tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bang. Hang này do nhóm thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh phát hiện và tiến hành thám hiểm. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m. Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia,   lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Do dòng nước   của sông ngầm ở động này chảy xiết nên các nhà thám hiểm Anh không thể   thám hiểm hết động này. Họ đã ước lượng chiều dài của hang bằng cách  sử  dụng đèn nháy. Đoàn thám hiểm đã báo cáo chính quyền tỉnh Quảng Bình  về  phát hiện này nhưng cho rằng chưa thể khai thác du lịch ngay. Họ sẽ  quay  lại khám phá hang này vào năm 2011.
Trên  thực tế, một người dân địa phương đã phát hiện ra hang này năm  1991  nhưng ông đã không nhớ lối vào hang cho đến tháng 1 năm 2008. Từ  cuối  tháng 3 đến 11 tháng 4 năm 2009, ông đã giúp đoàn thám hiểm Anh  vượt  rừng, núi khoảng 10 km để đến cửa hang.
Hệ thống sông ngòi và đỉnh núi
Sông ngòi
Sông ngầm tại lối vào động Phong Nha
Ngoài  hệ thống hang động, Phong Nha-Kẻ Bàng còn có các sông ngầm dài  nhất.  Đặc trưng núi đá vôi của khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo ra một  hệ  thống sông ngòi trong vùng khá phức tạp, có rất ít sông suối có nước   thường xuyên. Có 3 con sông chính trong vườn quốc gia này là sông Chày,   sông Son và sông Troóc. Nguồn nước cung cấp cho các con sông này là hệ   thống các sông suối ngầm dưới lòng đất, các suối này đều nổi lên mặt  đất  tại các hang động như Én, Vòm, Tối và Phong Nha. Cả ba con sông  chính  trong vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đều chảy vào sông Gianh, sau đó đổ ra biển Đông ở thị trấn Ba Đồn thuộc huyện Quảng Trạch.
Khu  vực Phong Nha-Kẻ Bàng còn có hàng chục con suối và thác nước đẹp  như:  Thác Gió, Thác Mệ Loan, Suối Mọc phun lên từ chân một dãy núi đá  vôi,  Suối Trạ Ang.
Các đỉnh núi
Các  núi ở vùng carxtơ của vườn quốc gia này có chiều cao điển hình  trên  800 m và tạo thành một dãy núi liên tục dọc theo đường biên giới  hai  nước Việt Nam và Lào, trong đó đáng chú ý là các đỉnh: Phu Tạo (1174   m), Co Unet (1150 m), Phu Canh (1095 m), Phu Mun (1078 m), Phu Tu En   (1078 m), Phu On Chinh (1068 m), Phu Dung (1064 m), Phu Tu Ôc (1053 m),   Phu Long (1015 m), Phu Ôc (1015 m), Phu Dong (1002 m). Nằm xen giữa các   đỉnh này là các đỉnh có chiều cao từ 800-1000 m: Phu Sinh (965 m), Phu   Co Tri (949 m), Phu On Boi (933 m), Phu Tu (956 m), Phu Toan (905 m),   Phu Phong (902 m), núi Ma Ma (835 m).
Vùng  địa hình phi carxtơ chiếm một tỷ lệ nhỏ, chủ yếu nằm ở vòng  ngoài về  phía bắc, đông bắc và đông nam của Phong Nha-Kẻ Bàng với các  đỉnh núi  cao 500-1000 m với độ dốc 25-30 độ và sự chia cắt cao. Có một  số thung  lũng hẹp dọc theo các con suối và khe như: khe Am, khe Cha Lo,  khe Chua  Ngút và một thung lũng nằm dọc theo Rào Thương ở rìa cực nam.  Theo  hướng bắc-nam có các đỉnh núi đáng chú ý như: Phu Toc Vu (1000 m),  Mã  Tác (1068 m), Cổ Khu (886 m), U Bò (1009 m), Co Rilata (1128 m) (đỉnh   cao nhất của vườn quốc gia này, nằm ở rìa cực nam của vườn quốc gia).
Động thực vật
Hệ thực vật
Thực vật trên núi đá vôi, dạng thực vật điển hình tại vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Vườn quốc gia này là một bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn.   Cho đến nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là rừng thường xanh  ẩm,  rậm nhiệt đới trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2%  diện  tích khu vườn quốc gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7% (110.476 ha) khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới   thường xanh trên đá vôi có độ cao dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là rừng   ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên 800 m; 8,3%  (12.220  ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất núi đất có cao độ dưới 800 m,  1,3%  (1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950  ha) là  cỏ, bụi cây và cây rải rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa  và mây  song; thảm cây nông nghiệp 521 ha.
Theo  số liệu thống kê mới nhất, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là  rừng  nguyên sinh trên núi đá vôi điển hình với các loại thực vật đặc  trưng  như: nghiến (Burretiodendron hsienmu), chò đãi (Annamocarya spp.), chò nước (Plantanus kerii) và sao (Hopea spp.). Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch, trong dó có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu Việt Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae).
Ở  vườn quốc gia này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên  đỉnh  núi đá vôi có diện tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với   mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng   có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3 loài bách xanh đã   được nhận diện. Đây là quần thể bách xanh núi đá (Calocedrus rupestris)   lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định   tại công văn số 3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho   nghị định 48 của Chính phủ, thuộc nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác.
Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội,   phối hợp với Trung tâm nghiên cứu khoa học và Cứu hộ của Vườn quốc gia   Phong Nha-Kẻ Bàng phát hiện thêm tại vườn quốc gia này 1.320 loài thực   vật mới, trong đó có một số quần thể thực vật lớn được đánh giá là đặc   biệt quý hiếm.
Các nhà khoa học cũng phát hiện 3 loài lan hài quý hiếm, và rừng bách xanh núi đá duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Lan Hài ở đây có ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 3 loài: lan hài xanh (Paphiopedilum malipoense), lan hài xoắn (Paphiopedilum dianthum), lan hài đốm (Paphiopedilum concolor).   IUCN (Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới) trong năm 1996 đã xếp lan   hài là loài đang đứng trước nguy cơ diệt vong rất cao (tuyệt chủng  trong  tương lai gần).
Hệ động vật
 Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng, một loài mới được các nhà khoa học Đức phát hiện ở Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú thuộc 31 họ và 10 bộ, nổi bật nhất là hổ và bò tót,   loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có ít nhất 43   loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới;   81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài bướm; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996,   ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 loài linh   trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài   nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang.   Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong   tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế   giới.
Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á. Năm 2002, nhà khoa học Đức Thomas Zegler đã phát hiện ra một loài thằn lằn tai mới có tên là Tripidophrus Nogei   tại vùng núi Karst thuộc khu vực Chà Nòi. Loài thằn lằn này đã được   đăng trên số báo 114 (2) phát hành tháng 7 năm 2007 của tạp chí Revue Suise De Zoologie. Các nhà khoa học đã đặt tên loài này là Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng (danh pháp khoa học: Cyrtodactylus phongnhakebangensis). Các nhà khoa học Đức đã xây dựng một khu giới thiệu Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng tại Vườn thú Köln để giới thiệu sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia này, ở đây cũng phát hiện ra loại rắn mai gầm  mới.  Qua một thời gian khảo sát, các nhà khoa học Đức, Nga và Việt Nam  đã  phát hiện thêm 10 loài mới trong vườn quốc gia này, trong đó bao  gồm 5  loài rắn, 5 loài tắc kè, thằn lằn, nhiều loài trong số mới phát  hiện này  là động vật đặc hữu ở đây.
Các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học Nga thuộc Viện Động vật hoang dã Sankt-Peterburg, các nhà khoa học Đức của Vườn thú Köln đã phát hiện thêm tại vườn quốc gia này hơn 100 loài mới trong khu hệ cá. Mười loại cá chưa từng thấy ở Việt Nam đã được phát hiện ở vườn quốc gia này.
Trong 3 loài cá ở Phong Nha-Kẻ Bàng được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam thì đã có 2 loài cá chình. Đó là cá Chình hoa (Anguilla marmorota) và cá Chình mun (Anguilla bicolo).
Tổ  chức Bảo tồn Động vật hoang dã Thế giới (FFI) đã tiến hành khảo  sát và  đã có báo cáo cho rằng Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 4 loài  được  xếp vào diện nguy cấp trên phạm vi toàn cầu, đó là voọc Hà Tĩnh, voọc đen tuyền, voọc ngũ sắc và vượn đen má trắng.
Ngày 27 tháng 2 năm 2005, một đàn bò tót với số lượng lớn xuất hiện tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Giá trị khảo cổ, lịch sử, văn hóa
Vườn  quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng chứa đựng nhiều di vật khảo cổ.  Các  bằng chứng về sự sinh sống của con người ở khu vực này là các đầu  rìu  thuộc Thời kỳ Đồ đá mới và các hiện vật tương tự đã được các nhà khảo cổ Pháp và Việt Nam tìm thấy trong các hang động[3].   Năm 1899, một giáo sĩ truyền đạo người Pháp tên là Léopold Cadière đã   khảo sát và nghiên cứu về về văn hoá và phong tục, tập quán của người   dân vùng thung lũng sông Son. Trong thư viết cho Trường Viễn Đông bác cổ, ông khẳng định: “Những gì còn lại của nó đều rất quí giá đối với sử học. Giữ nó là giúp ích cho khoa học”.
Đầu thế kỷ 20, các nhà thám hiểm hang động và và học giả Anh, Pháp đã đến Phong Nha và họ đã phát hiện ở đây một số di tích Chăm và Việt cổ như bàn thờ Chàm, chữ Chàm khắc trên vách đá, gạch, tượng đá, tượng phật, mảnh gốm và nhiều bài vị v.v.
Năm 1995, Viện Khảo cổ học Việt Nam   nhận định động Phong Nha có dấu hiệu là một di tích khảo cổ học vô  cùng  quan trọng. Viện này cho rằng có khả năng dấu tích ở hang Bi Ký  trong  động là một thánh đường Chăm Pa từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 11. Tại  động  Phong Nha, người ta đã phát hiện nhiều mảnh thân và miệng các bình  gốm  có tráng men của Chàm với các mảnh gốm thô sơ có lõi đen, có vòng  miệng  loe rộng so với thân, tạo một góc gần vuông. Ngoài ra, người ta  còn phát  hiện ra các mảnh gốm hoa văn miệng hình cánh sen, màu xanh  ngọc, màu  lông thỏ hồng nhạt.
Động Phong Nha là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kỳ thực hiện Chiếu Cần Vương kháng chiến chống thực dân Pháp.
Các di tích lịch sử cách mạng có: Bến phà Xuân Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh   và đường 20 Quyết Thắng, Mụ Giạ, A.T.P, Trà Ang, Cà Tang, cua Chữ A,   Khe Ve... hay các di tích Hang Tám Cô, hang Chín Tầng, bến phà Nguyễn   Văn Trỗi, các kho hàng hoá trong hệ thống hang động ở Tuyên Hoá, Minh   Hóa trong thời kỳ Chiến tranh Việt NamDi sản thế giới lần 1: tiêu chí địa chất, địa mạo
Hồ sơ đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới đã được Chính phủ Việt Nam trình lên UNESCO năm 1998.   Lý do đưa ra để đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới   bao gồm: sự đa dạng sinh học cao, sự độc đáo và vẻ đẹp của hệ thống  hang  động và phong cảnh núi đá vôi.
Ban đầu, Chính phủ Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận Khu bảo tồn Phong Nha năm 1998 và IUCNđã tiến hành kiểm tra tại hiện trường trong tháng 1 và 2 năm 1999.
Tại  cuộc họp bình thường vào tháng 7 năm 1999, Ủy ban đánh giá của  UNESCO  đã kết luận rằng Khu bảo tồn Phong Nha được đề cử sẽ đáp ứng được  tiêu  chí (i) và (iv) của UNESCO cho ứng cử viên di sản thế giới nếu như  ranh  giới được mở ra thành vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng rộng hơn. Ủy  ban  này cũng đề nghị hai nhà nước Việt và Lào thảo luận và kết nối hai  khu  bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng (Việt Nam) và Hin Namno (Lào) thành một khu bảo tồn liên tục để phối hợp bảo tồn.
Trong  lần đề nghị thứ hai của Chính phủ Việt Nam gửi UNESCO vào năm  2000,  phạm vi khu vực đề cử gồm cả khu vực rừng Kẻ Bàng như ý kiến năm  1999  của UNESCO.
Tuy nhiên, vào thời điểm này, Chính phủ Việt Nam cũng tuyên bố xây dựng đường Hồ Chí Minh và đường nối quốc lộ 20 với đường Hồ Chí Minh cắt qua vùng lõi của vườn quốc gia này. Nhiều tổ chức quốc tế như IUCN   và Tổ chức động thực vật quốc tế đã thuyết phục và khuyên Chính phủ   Việt Nam thận trọng trong việc xây dựng các con đường này qua Vườn quốc   gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Trong một  bức thư của Tổ chức động thực vật gửi UNESCO ngày 15 tháng  12 năm 2000  ước tính cần 4,5 tấn thuốc nổ cho mỗi km đường. Do đó việc  xem xét đánh  giá để công nhận là di sản thế giới đối với vườn quốc gia  này không  tiến triển gì hơn. Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam cung  cấp thêm  thông tin cho UNESCO về việc nâng cấp Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ  Bàng  thành Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng với diện tích rộng hơn hai  lần đề  cử trước (85.754 ha) kèm theo kế hoạch bảo tồn (quyết định của  Chính  phủ tháng 12 năm 2001).
Chính phủ  đã thay đổi tuyến đường Hồ Chí Minh và UNESCO đã đánh giá  tuyến mới  không ảnh hưởng đến vườn quốc gia này do tuyến đường được xây  với mức  độ trách nhiệm đối với môi trường cao, ngoài ra tuyến đường này  cung  cấp đường tiếp cận khu vực vườn nhưng vẫn cho rằng đường nối đường  Hồ  Chí Minh và đường 20 đi qua khu lõi vườn quốc gia này là không cần   thiết và tác động xấu đến hệ động thực vật ở đây (chặt cây, xe cộ gây   xáo trộn cuộc sống sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho săn bắt động   vật và chặt cây). Ủy ban đánh giá cho rằng tiêu vườn quốc gia này được   đề nghị theo hai tiêu chí i (lịch sử Trái Đất và nổi bật địa chất) và iv   (đa dạng sinh học và các loài bị đe dọa) chưa đạt do chưa có bằng chức   thực về địa chất địa mạo được cung cấp trong hồ sơ và khu vực vườn  quốc  gia này chưa đủ rộng để bảo tồn các loài quý hiếm.
Chính  phủ Việt Nam đã bổ sung thông tin về giá trị địa chất địa mạo  khu vực  vườn quốc gia này. Tại kỳ họp toàn thể lần thứ 27 từ 30 tháng 6 đến 5 tháng 7 năm 2003, đại diện 160 quốc gia thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, cùng với 30 địa danh khác trên toàn thế giới, là di sản thiên nhiên thế giới.   Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thế   giới vì đạt tiêu chuẩn viii “là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn   của lịch sử trái đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa   chất đang diễn ra đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các   kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa văn”.
Đề nghị công nhận lần 2: tiêu chí đa dạng sinh học
Năm 2007, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Việt Nam đã thống nhất đề nghị Thủ tướng cho phép Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam   ký trình hồ sơ gửi UNESCO công nhận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là   Di sản thiên nhiên thế giới lần 2 về tiêu chí đa dạng sinh học. Bộ hồ  sơ  trình lần này đã được bổ sung các tư liệu quý về hệ động thực vật  tại  vườn quốc gia này. Hồ sơ trình UNESCO lần này cũng đã nêu rõ tính  nổi  bật toàn cầu về đa dạng sinh học, và tính toàn vẹn của vườn quốc  gia  Phong Nha-Kẻ Bàng.
Nhiều  chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng nếu Việt Nam hoàn  thiện hồ sơ  thì có nhiều khả năng UNESCO sẽ công nhận Vườn quốc gia  Phong Nha-Kẻ  Bàng là di sản thiên nhiên thế giới lần 2 với hai tiêu chí  địa chất địa  mạo và đa dạng sinh học, so với một tiêu chí được công nhận  năm 2003.  Tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia này sánh ngang với  các khu vực  đã được công nhận là di sản hay các khu đề xuất ở châu Á và  châu Úc,  đặc biệt so sánh với các khu di sản hoặc đang đề xuất có chứa  núi đá  vôi như khu vực núi Emi và núi Phật Lạc Sơn (Trung Quốc), vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palwan của Philippines - một di sản thế giới tại Philippines. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được các nhà khoa học đánh giá là là trung tâm của khu vực miền trung Việt nam. WWF thừa nhận khu vực vườn quốc gia này có tính đa dạng sinh học cao nhất hành tinh.
Cuộc bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới mới
 Cùng với Vịnh Hạ Long và Phan Xi Păng, Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong 3 địa danh tại Việt Nam đã lập Ban vận động chính thức, đóng tiền hàng tháng và tham gia ứng cử trong Chương trình bình chọn bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới mới của New Open World (New 7 Wonders). Đây là cuộc bầu chọn qua mạng Internet do tổ chức New Open World (NOWC), một tổ chức phi tư nhân và có trụ sở tại Thụy Sỹ đứng ra tổ chức trên mạng kết nối toàn cầu nhưng không được hậu thuẫn và chấp nhận bởi UNESCO.   Theo kết quả sơ bộ, và sẽ còn thay đổi, do New7Wonders công bố lúc 6   giờ sáng ngày 22 tháng 2 năm 2008 (giờ Việt Nam), Phong Nha-Kẻ Bàng lần   đầu tiên vượt lên đứng thứ nhì trên bảng xếp hạng 7 kỳ quan được bình   chọn nhiều nhất thế giới, chỉ xếp sau Vịnh Hạ Long.
Ngày 14 tháng 4 năm 2008, tổ chức NewOpenWorld đã loại Phong Nha-Kẻ Bàng ra khỏi danh sách bình chọn của họ với lý do "Quảng Bình không gửi đăng ký hồ sơ cho nhà tổ chức"[50]. Trong thời gian này hai địa danh khác của Việt Nam là Vịnh Hạ Long và đỉnh Phan Xi Păng   cũng bị gỡ ra khỏi danh sách bầu chọn của NewOpenWorld với lý do một  số  trang web của Việt Nam trong quá trình vận động bầu chọn đã sử dụng   logo và thông tin của họ để tuyên truyền[51]. Theo Ban quản lý vịnh Hạ Long thì tổ chức này đòi các trang web khác muốn sử dụng các nội dung trên phải trả phí 5000 USD một tháng, vì mức phí vô lý này nên Ban quản lý đang phải tiếp tục thương lượng với NewOpenWorld để giải quyết vụ việc[51]. Tuy nhiên cuộc bình chọn của tổ chức này cũng gây nhiều tranh cãi về tính thương mại và thực tiễn bảo hộ thiên nhiên.
Ngày 1 tháng 8, các địa danh của Việt Nam đã có trong danh sách với các thứ hạng là Vịnh Hạ Long xếp thứ 3, Động Phong Nha xếp thứ 11, núi Fansipan thứ 12, sông Mêkông thứ 30.
Ngày  7 tháng 1 năm 2009, tổ chức New7Wonders (N7W) đã công bố danh  sách 261  ứng viên đủ tiêu chuẩn đi tiếp vòng hai của cuộc bầu chọn,  trong đó có  địa danh vịnh Hạ Long của Việt Nam, sông Mê Kông   có một phần chảy qua Việt Nam. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng bị loại   khỏi danh sách bầu chọn vòng hai do mỗi quốc gia chỉ được chọn một ứng   cử viên có số phiếu cao nhất trong danh sách ứng cử vòng 1
Hoạt động du lịch
Thuyền phục vụ du khách tham quan Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng
Sau khi vườn quốc gia này  được công nhận là di sản thế giới, chính  quyền tỉnh Quảng Bình đã bổ  sung ngành du lịch là một trong 4 ngành kinh  tế mũi nhọn của địa  phương. Với những ưu thế về hệ thống hang động và  đa dạng sinh học,  Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã được khai thác để  phát triển du lịch  với các loại hình du lịch:
- Du lịch khám phá hang động bằng xuồng.
 - Du lịch sinh thái, khám phá hệ động thực vật.
 - Leo núi mạo hiểm: ở đây có hang chục đỉnh núi có độ cao tương đối trên 1.000 m, dốc đá vôi dựng đứng phù hợp cho các họat động leo núi thể thao mạo hiểm.
 
Một trong  những tuyến du lịch mới là đi bằng du thuyền theo dòng sông  Chày để  ngược vào rừng sâu. Càng đi ngược dòng sông Chày, dòng chảy  sông này  càng khúc khuỷu, đi qua nhiều thác ghềnh và đến khu vực rừng  Trộ Mợng.  Tuyến này đã được các đơn vị kinh doanh du lịch khảo sát và đề  nghị mở  tuyến du lịch sinh thái rừng Phong Nha-Kẻ Bàng để sớm đưa vào  phục vụ  khách du lịch ngoài tuyến tham quan các hang động Phong Nha và  Tiên  Sơn. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có thác Chài cao khoảng 50 m, có bãi  Ràn  Bò... Tên gọi Ràn Bò do đây là nơi bò tót sinh sống và sinh đẻ ở  đây.
Tuy  nhiên, do công tác quảng bá, cung ứng dịch vụ, tiện ích cho khách  du  lịch đến thăm vườn quốc gia này hầu như chưa có nên từ năm 2005 đến   nay, khách đến tham quan Phong Nha-Kẻ bàng bắt đầu chững lại và giảm   dần, chủ yếu là khách nội địa, trong đó lượng khách đến Phong Nha-Kẻ   Bàng đến lần thứ hai chỉ chiếm 10%.
Việc  bố trí đèn chiếu sáng trong các hang động vẫn chưa được thực  hiện một  cách khoa học, không làm nổi bật nét đẹp huyền ảo tự nhiên của  thạch  nhũ. Bên trong hang động vẫn chưa bố trí hợp lý nhà vệ sinh dành  cho du  khách tham quan.
Ban  quản lý dự án vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện có đội ngũ  nhân  viên 115 người bao gồm các chuyên gia về động vật học, thực vật  học,  lâm sinh học, kinh tế-xã hội học nhưng lại không có thẩm quyền xử  lý  các vi phạm và thiếu các phương tiện quản lý hữu hiệu đối với các mối   đe dọa đối với vườn quốc gia này.
Hiện  có một khu bán hoang dã dành cho linh trưởng với diện tích 18 ha  tại  vườn quốc gia này với hàng rào điện tử. Dự án này do Hội động vật Frankfurt (Zoologische Gesellschaft Frankfurt) (Đức) đầu tư dành riêng cho Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng để bào tồn 10 loại linh trưởng, trong đó có voọc Hà Tĩnh, voọc chà vá chân nâu quý hiếm. Khu vực này có có hệ sinh cảnh với đầy đủ thức ăn cho linh trưởng phát triển tốt.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ bàng được đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn 1997-2010. Vườn quốc gia này cũng được đưa vào kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học xuyên biên giới Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno giữa Lào và Việt Nam. Nhiều cuộc hội thảo đã được chính quyền hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn tổ chức để phối hợp bảo tồn khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno của Lào.
Có  hai làng người dân tộc thiểu số Arem và Ma Coong sinh sống ở trong   vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Bên trong vùng đệm của   vườn quốc gia này, có 52.001 người đang sinh sống, chủ yếu là người Kinh   và một số nhỏ người Chứt và Vân Kiều, nhiều người trong số họ mưu sinh   bằng cách khai thác lâm sản.
Núi  đá tại khu vực Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng bị dân địa phương  khai  thác, đục đẽo để lấy đá bán khiến cho nhiều triền núi bị nham nhở  còn  chính quyền địa phương thì làm ngơ].
Kể từ khi trở thành di sản thể giới, lượng khách du lịch đến đây tăng vọt, các hoạt động của lâm tặc,   tình trạng săn bắn động vật hoang dã là mối nguy cho vườn quốc gia   Phong Nha-Kẻ Bàng, trong khi lực lượng kiểm lâm lại khá mỏng.  Sự gia  tăng du khách thăm quan khu vườn quốc gia này cũng gây ra vấn đề  cho  môi trường ở đây như các rác thải, ô nhiễm nước do hoạt động du  lịch,  ảnh hưởng của con người lên hang động (nhiều người bẻ các măng đá  mang  về, khắc chạm linh tinh lên vách động…), nhưng đặc biệt ảnh hưởng  nhất  là đe dọa đến sự đa dạng sinh học. Nhiều cộng đồng dơi ở trong các  hang  động cũng bị tác động xấu do sự tham quan của du khách.
Việc xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá tại thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch,   cách Phong Nha-Kẻ Bàng 40 km về hướng đông bắc với công suất 3.600 MW   được nhiều người đánh giá là có thể gây ô nhiễm không khí và nước ở khu   vực vườn quốc gia này.
Cháy rừng trong mùa khô cũng là một mối đe dọa thường trực đối với toàn khu vực.
Hoạt động xây dựng đường nối đường Hồ Chí Minh   và quốc lộ 20 chạy xuyên qua lõi vườn quốc gia này và cũng gây ra mối   đe dọa về môi trường, làm ảnh hưởng đến khu vực sinh sống của nhiều  loài  động thực vật, họat động nổ mìn phá đá làm đường khiến nhiều loài  động  vật phải di dời khỏi nơi sinh sống, dù Chính phủ Việt Nam đã có quyết định xây dựng đường Hồ Chí Minh chạy theo tuyến đường 15 và 12A,   cũ dọc theo ranh giới phía đông của khu vườn quốc gia này chứ không  cắt  ngang qua khu vườn này để giảm thiểu ảnh hưởng đến hệ động thực vật   cũng như địa hình khu vực.
Do  công tác quản lý còn yếu kém, những khu vực rừng ở vùng đệm của  vườn  quốc gia này bị tàn phá nặng nề, nhiều vùng gần như bị chặt trắng,  các  loài gỗ quý bị khai thác đến cạn kiệt.  Hoạt động khai thác và buôn bán  gỗ quý từ khu vườn quốc gia này được tổ  chức thành hệ thống hoàn chỉnh,  ước tính mỗi ngày có khoảng 1 tấn gỗ bị  khai thác cho mục đích thương  mại, đặc biệt các loại gỗ quý có giá cao  như gỗ mun Diospyros spp., Giáng Hương Pterocarpus macrocarpus.
Tình  trạng săn bắt ồ ạt thú rừng hoang dã trong vườn quốc gia này để  bán  cho các quán ăn, nhà hàng địa phương rất nghiêm trọng. Động vật  hoang  dã ở đây bị săn bắt, mua bán, giết thịt do ý thức của người dân  kém,  các cơ quan có thẩm quyền địa phương làm ngơ, thậm chí một số cán  bộ  lãnh đạo thôn xã lại là lái buôn động vật hoang dã, có cán bộ công an   địa phương làm chủ một nhà hàng thịt rừng chuyên phục vụ các món ăn từ   động vật hoang dã được săn bắt từ Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Vườn  quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện không còn có ý nghĩa đối với bảo tồn hổ Panthera tigris, voi Elephas maximus và các loài bò hoang dã.
Các  giống cá chình quý ở đây là cá chình hoa và cá chình mun cũng bị  cư  dân địa phương săn bắt ồ ạt phục vụ cho các nhà hàng, quán ăn do mọi   người tin rằng ăn thịt các loại cá chình này có tác dụng tráng dương bổ   thận.
Công tác quy hoạch khu vực phụ cận
Công  tác quy hoạch khu vực phụ cận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng  hầu như  không được thực hiện bài bản. Công tác quản lý quy hoạch xây  dựng trong  khu vực phụ cần này cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Điều này dẫn  đến việc  cấp sổ đỏ tràn lan cho dân địa phương, hàng lọat ngôi nhà và  hàng quán  được dân xây dựng một cách tự phát, lộn xộn. Các chủ đầu tư đo  thị mới  và khu du lịch trong khu vực này cũng đăng ký dự án để chiếm  đất và  không triển khai dự án. Bản quy hoạch tổng thể và chi tiết với  diện  tích 200 ha do Trung tâm quy hoạch tỉnh Quảng Bình thực hiện và  chưa  được phê duyệt được nhiều người đánh giá là không có tầm nhìn tương  lai.   Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố sẽ thuê tư vấn nước ngoài   quy hoạch xây dựng và phát triển du lịch khu vực phụ cận Vườn quốc gia   Phong Nha-Kẻ Bàng.
Hỗ trợ quốc tế
Năm 2005, chính phủ Đức hỗ trợ hơn 12,6 triệu euro cho việc bảo vệ đa dạng sinh học của Phong Nha – Kẻ Bàng[73].
Năm  2007, chính phủ Đức đã ủng hộ cho Việt Nam 1,8 triệu euro để giúp  bảo  vệ đa dạng sinh học, cải thiện thu nhập cho cư dân ở vùng đệm.
Vườn  quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng nhận được tài trợ 132.000 USD  cho công  tác bảo tồn loài linh trưởng trong vườn quốc gia này cũng như  khu vực  vùng đệm từ Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI).
Năm  1998, Tổ chức Bảo vệ Động Thực vật Quốc tế (FFI) đã thực hiện dự  án  đào tạo cho cán bộ quản lý vườn quốc gia này. Ban Phát triển Quốc tế   của Anh cũng hỗ trợ vốn cho Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế Giới (WWF) để   thực hiện dự án bảo tồn song hành vườn quốc gia này và khu bảo tồn Hin   Namno. Tổ chức FFI cũng cũng nhận được sự tài trợ từ quĩ môi trường và   quĩ các loài tiêu biểu thuộc phòng Môi trường, Bộ Nông thôn và Lương thực Anh quốc để thực hiện dự án nâng cao nhận thức bảo tồn cho học sinh địa phương cũng như du khách.
Hang Sơn Đoòng là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới. Hang này nằm trong quần thể hang động Phong Nha-Kẻ Bàng. Nó là một phần của hệ thống ngầm nối với hơn 150 động khác ở Việt Nam tọa lạc gần biên giới với Lào.[1]
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã công bố trước Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình việc phát hiện ra hang động lớn nhất thế giới. Hang có chiều rộng 200 mét,   cao hơn 150 mét, dài ít nhất là 6,5 km. Hang có thể còn dài hơn nữa,   tuy nhiên do điều kiện kỹ thuật, các nhà thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang   động Hoàng gia Anh đã không thể đi hết chiều dài của hang để kết luận   hang dài bao nhiêu.
Với kích thước như thế, hang Sơn Đoòng đã vượt qua hang Deer ở Vườn quốc gia Gunung Mulu của Malaysia (với chiều cao 100 m, rộng 90 m, dài 2 km) để chiếm vị trí hang động tự nhiên lớn nhất thế giới[2][3] .
Hang  động này do Hồ Khanh, một người leo núi địa phương tìm ra và  hướng dẫn  đoàn thám hiểm Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh tìm tới, và  chính ông  cũng đã đặt tên cho hạng động này.
Ngoài ra ở một số đoạn hang Sơn Đoòng còn có kích thước lớn tới 140 m x 140 m, trong đó có các cột nhũ đá cao tới 14 m. Một bức ảnh lộng lẫy do nhiếp ảnh gia   Carsten Peter chụp vào tháng 5 năm 2010 ghi nhận đoạn hang có bề rộng   khoảng 91,44 m, vòm hang cao gần 243,84 m - có thể chứa lọt một tòa nhà   cao 40 tầng của thành phố New York (Mỹ).
Trong hang các nhà nghiên cứu còn tìm thấy một dòng sông ngầm dài 2,5 km và có cả những cột nhũ đá cao tới 70 m.
Được biết miệng hang đá vôi   Sơn Đoòng được một người nông dân tìm thấy vài năm trước, nhưng cho  tới  tháng 4 năm 2009 nó mới được thám hiểm. Hang nằm sâu trong cánh  rừng  già trong một địa hình khá hiểm trở, cách xa đường lớn và không  thể phát  hiện thấy trên Google Earth.
Vào tháng 1 năm 2010, các nhà thám hiểm đã trở lại Sơn Đoòng để tìm hiểu thêm về hệ thống hang động nàyCave systems at Phong Nha - Ke Bang
No.  |  Cave name  |  Commune  |  Invetgated year  |  Length of cave (m)  |  Heigh of cave (m)  | 
I  |  Phong Nha cave system  |  50776  |  |||
1  |  Phong Nha Cave  |  Son Trach  |  1992  |  7729  |  83  | 
2  |  Toi cave  |  Son Trach  |  1992  |  5258  |  80  | 
3  |  E cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  845  |  -   | 
4  |  Cha An cave  |  Thuong Trach  |  1992  |  667  |  15  | 
5  |  Thung cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  3351  |  133  | 
6  |  En cave  |  Thuong Trach  |  1994,1997  |  2490  |  49  | 
7  |  Khe tien cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  520  |  -15  | 
8  |  Khe Ry cave  |  Thuong Trach  |  1997,1999  |  18902  |  120(+58-62)  | 
9  |  Khe Thi cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  35  |  -20  | 
10  |  Dry Phong Nha cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  981  |  -  | 
11  |  Lanh cave  |  Thuong Trach  |  2001,2005  |  4718  |  -101,9  | 
12  |  Doi cave  |  Thuong Trach  |  2001  |  539  |  17,3  | 
13  |  Nuoc Nut cave  |  Thuong Trach  |  2003  |  2205  |  -  | 
14  |  So Doi cave  |  Thuong Trach  |  2003  |  1124  |  |
15  |  Ca cave  |  Thuong Trach  |  2001  |  361  |  -  | 
16  |  Cay Nghien cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  162  |  -52,5  | 
17  |  Lau cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  481  |  22,3  | 
18  |  Moi cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  408,2  |  -21,2  | 
Vom cave system  |  36063  |  ||||
19  |  Vom cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  15870  |  145  | 
20  |  Dai Cao cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  1645  |  28  | 
21  |  Duat cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  3927  |  45  | 
22  |  Ca cave  |  Thuong Trach  |  1994  |  1500  |  60  | 
23  |  Ho cave  |  Thuong Trach  |  1997  |  1616  |  46  | 
24  |  Over cave  |  Thuong Trach  |  1997  |  3244  |  103(+93-10)  | 
25  |  Pyging cave  |  Thuong Trach  |  1992  |  845  |  -94  | 
26  |  Ruc Croong cave  |  Thuong Trach  |  1992  |  2800  |  45  | 
27  |  Klung cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  1086  |  -73,3  | 
28  |  Kling cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  120  |  -14,7  | 
29  |  A Cu cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  650  |  42.1 (22.7-19.3)  | 
30  |  Me Be Con cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  733  |  -49,1  | 
31  |  Duc cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  1335  |  4,6  | 
32  |  Hop cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  188  |  5,9  | 
33  |  Da Trang cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  270  |  -37,6  | 
34  |  Bin Dap cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  64,4  |  -0,7  | 
35  |  Doi cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  86,4  |  17,3  | 
36  |  Nuoc cave  |  Thuong Trach  |  2005  |  83  |  -17,8  | 
Source: The British Royal Cave Association (from 1992 to 2005)
All outstanding geology and caves have been inscription as the Criterion (vii) (former criterion (i)) by UNESCO in 2003. 
No comments:
Post a Comment