Ecuador  là nước nhỏ nhất ở châu Mỹ (diện tích      270.670 cây số vuông và có  dân số khoảng 13 triệu người) nằm vắt      ngang trên  đường xích đạo,  một phần ở Bắc và một phần ở Nam bán      cầu vì thế mới có tên là Nước  Xích Đạo Ecuador.
         Ecuador  rất đa dạng về thiên nhiên và văn      hóa. Ecuador đứng đầu về đa dạng  sinh học (biodiversity) với 9.2      giống loại (species) trên một cây  số vuông. Nổi trội nhất và      biết tới nhiều nhất khắp thế giới là  quần đảo Galapagos có một      không hai trên trái đất này. 
         Quần  đảo Galapagos có 13 đảo lớn, 6 đảo nhỡ      và 40 đảo nhỏ ở cách bờ  phía Tây Ecuador 600 miles. Quần đảo do      núi lửa từ lòng biển đội  lên, gồm trên hai ngàn miệng búi lửa.      Một vài đảo non, núi lửa hãy  còn hoạt động.
         Quần  đảo Galapagos là một bảo tàng viện sống      về sự tiến hóa. Những thú  vật ở đây sống tự do, vô tư, ngây thơ,      hồn nhiên và không biết sợ  khác hẳn các loài thú ở những nơi      khác trên mặt đất này.  Cái di  thể (gene) không biết sợ      (fearless) vốn đã có từ ngàn xưa, giờ vẫn  còn tồn tại. Những      loài vật ở đây coi con người như một loài thú  hiền hòa như      chúng. Con người có nhiều kẻ còn mang thú tính thua xa  thú vật ở      đây. Nơi đây là địa đàng của thú vật. Galapagos là thiên  đường      hồn nhiên của loài vật. Thú vật sống trong tự nhiên. Những  loài      thú nhỏ thản nhiên làm mồi cho loài thú lớn theo luật tự  nhiên.      Không sợ hãi. Sống giờ phút nào “thân tâm thường an lạc”  phút      đó. Hãy ăn thịt tôi để người sống còn. Nếu không bị ăn thịt,       sống còn, tôi sẽ sống hết một cuộc đời an bình tự tại tiếp nối       vòng sinh tạo của thiên nhiên, tạo hóa.
         Năm  1835, Charles Darwin đi trên con tầu      British ship H.M.S. thăm quần  đảo này. Những chứng cớ sống ông      tìm thấy ở quần đảo núi lửa độc  đáo này khiến ông đưa ra luận      thuyết về nguồn gốc các loài vật,  luận thuyết này đã làm rung      chuyển thế giới khoa học. 
         UNESCO  đã tuyên bố Galapagos là Di Sản Thiên      Nhiên Thế Giới World Natural  Heritage nằm 1978 và sau đó là      World Biosphere Reserve vào năm  1985.
         Galapagos là nhà của nhiều giống vật bản địa      (endemic) không một nơi nào khác có (cần phân biệt bản địa      endemic với bản quán native, có nghĩa là các giống      sinh sản ở đảo này nhưng là những giống đã có ở những nơi khác      và với đem đến introduced là các giống đem từ nơi khác      tới). 
         Trong  các giống vật sống ở đây, con vật quí      hiếm nhất thế giới là loài  rùa bản địa khổng lồ, rùa voi, rùa      tượng (elephantopus Geochelone).  Dân dã gọi rùa voi, rùa tượng      này là rùa “Galapagos”. Tên loài rùa  này đã được dùng để đặt tên      cho quần đảo. Giống rùa khổng lồ này  có cái mai (carapace) phía      đầu mai dài che cổ, ở giữa có rãnh lõm  trông như chiếc yên ngựa      của người Anh mà tiếng Tây Ban Nha gọi là  ‘galapago’. Thật ra      theo biến âm g= c như gài = cài, ta có  galapa(go)=carapa(ce),      mai, mu. Yên ngựa palapago là một thứ che  chở lưng ngựa hàm      nghĩa mai, mái (vật che, tóc mai là tóc che màng  tang).      Ta cũng thấy theo c = x như còm =  xọm, car = xa,      xe, ta có car (apace) = xác. Xác là phần cứng của  thân thể (to      xác). Rùa có mai cứng carapace là loài giáp xác. Ốc sò  có vỏ      cứng thuộc loài giáp xác. Ốc sò tên Tây Ban Nha ngữ là  caracol      (có car- = xác). Galapagos là đảo Rùa  Mai Yên Ngựa.  
         Rùa voi Galapagos giống có mai trung gian, hơi      khum khum cong tròn (ảnh của tác      giả).
               Trước đây những người đánh cá voi, săn hải cẩu, thương thuyền,       tầu hải quân thường ghé quần đảo này  bắt rùa. Trên mười ngàn      con  rùa đã bị giết. Họ bắt rùa đem theo các chuyến hải hành để      bảo đảm  có thức ăn tươi hầu tránh không bị chứng thiếu sinh tố C      (scurvy)  vì rùa có thể sống còn tới 18 tháng mà không cần ăn      uống gì. Sau đó  những người tới cư ngụ tại quần đảo này mang      theo gia súc. Chó mèo  giết rùa con. Heo đào xới ăn trứng rùa,      dê, lừa tàn phá cây cỏ  khiến rùa không còn thức ăn...
          Có nhiều giống rùa voi này đã bị tuyệt chủng. Cũng may thời đó       chưa có một ông Tầu hay một ông Việt Nam nào biết tới giống rùa      này  ở đây. Nếu mà biết được thì tất cả các giống rùa ở đây đã bị      tuyệt  chủng hết rồi. Các ông đã giết rùa lấy mai đem nấu cao qui      bản để  làm thuốc bổ mu... rùa! (ăn thứ gì bổ thứ đó).
         Chúng tôi đến đảo vào tháng sáu bắt đầu mùa khô, mát và cũng là      mùa rùa từ trên núi cao xuống vùng đất thấp làm tổ.
         Rùa voi, rùa tượng này được chia ra làm ba loại chính dựa theo      hình dáng của mai:
         .Rùa voi mai bằng, dẹp như yên ngựa (saddle      back) như thấy ở đảo Española.
         .Rùa voi mai hình vòm (dome) như thấy ở đảo Pinta.
         .Rùa voi mai trung gian (intermediate) hơi khum khum tròn, nằm      lưng chừng giữa mai dẹp và mai vòm. 
         Cả ba loại thật ra có cùng một gốc tổ rùa đến từ lục địa nhưng      mai rùa đã biến đổi theo môi sinh.
         Khoảng  ba triệu năm trước, quần đảo Galapagos      thành hình do núi lửa từ  lòng Thài Bình Dương phun lên. Rồi các      hạt cây cỏ do chim muông đem  tới mọc lên thành cây cỏ. Có cây cỏ      chim muông tới ở, các loài thú  trôi dạt tới có thực phẩm nên      sống còn tại đây. Trong số đó có  loài rùa. Tùy theo môi sinh,      rùa biến dạng thành một giống có mai  có hình dạng khác nhau như      thấy qua sự phân loại dựa vào chiếc mai ở  trên. Ví dụ trên đào      Pinta khô cằn có ít cây cỏ mọc sát mặt đất  nên có giống rùa nhỏ      con, có cổ thật dài, đầu nhỏ và có mai u tròn  vun lên thành hình      vòm. Rùa nhỏ con có thể vì thức ăn không dư thừa  nhưng cũng có      thể vì thích ứng với hoàn cảnh. Rùa nhỏ con, mai nhỏ  dễ nhấc      người cao lên khỏi mặt đất. Cổ dài nên có thể vươn lên  cao. Mai      rùa hình vòm cũng giúp rùa nhấc người lên cao được dễ  dàng. Mai      vòm không dài và cạnh ở phía cổ  không sắc giúp cổ rùa  không bị      cản trở bởi phần trước của mai, do đó rùa có thể vươn cổ  lên      cao. Vì thiếu cây cỏ mọc sát mặt đất, rùa ở đây cần phải nhấc       người lên cao, vươn cổ thật cao để với tới ăn cành lá của những       cây cao. Ngược lại ở những đảo có mưa nhiều hơn, cây cỏ mọc xanh       tươi như đảo Santa Cruz và phía nam đảo Isabela, rùa rất to con,       nặng nề và có mai bằng, dẹp...
          Năm       1835 Charles Darwin tới viếng thăm các đảo này và đã nhận ra       những giống rùa có mai có hình dạng khác nhau ở những đảo khác      nhau  mặc dù chúng cùng phát xuất từ mội loại rùa đã tuyệt chủng      đến từ  đất liền. Sự quan sát này là một phần của Thuyết Tiến Hóa      Bởi Sự  Chọn Lọc Của Thiên Nhiên (Theory of Evolution by Natural       Selection).
          Tại đây có một chàng đơn thân độc mã, một mình một ngựa nổi       tiếng nhất quần đảo này và cả thế giới, đó là “Lonesome George”,       George Cô Đơn.  Năm 1972 một nhân viên Công Viên Quốc Gia đi      giết  dê (do những người tới ở đây mang đến) để bảo vệ cây cỏ cho      rùa có  thức ăn ở trên đảo Pinta, một hòn đảo nhỏ hẻo lánh ở phía      bắc quần  đảo Galapagos. Ông đã tìm thấy một chàng rùa và đem về      nuôi ở trung  tâm khảo cứu. Chàng được      đặt tên là “Lonesome George”, George Cô Đơn.  
         George Cô Đơn.
         (lưu  ý rùa nhỏ con, đầu nhỏ, cổ rất dài và      mai rùa hình mái vòm  nhằm  mục đích để nhấc người lên cao dễ      dàng và mai không làm cản trở cổ  khi cổ vươn lên cao nên có thể      với lên cao ăn cành lá ở các cây  cao).
         Geroge Cô Đơn là chàng rùa duy nhất còn sống      sót của giống ở đảo Pinta (Geochelone      elephantopus abingdoni).  Nếu chàng chết đi, giống Pinta này      sẽ tuyệt chủng. Theo sách Kỷ  Lục Thế Giới Guinness, George Cô      Đơn là “sinh vật hiếm quí nhất”  trên thế giới.      
         Câu  chuyện về George Cô Đơn lan truyền khắp      thế giới. Các sở thú treo  giải 10.000 Mỹ kim cho ai tìm thấy một      nàmg rùa Pinta để đem gả cho  George Cô Đơn. Cho tới nay vẫn chưa      tìm thấy một bóng hồng  Pinta  nào cả.
         Người  ta đã đem nhiều nàng rùa tơ đến mua vui      George nhưng anh chàng này  vẫn dửng dưng. Hiện nay chàng đang      sống với hai nàng rùa có di  truyền tính gần giống mình đem đến      từ đảo Wolf Valcano nhưng sau 35  năm mà chàng vẫn không màng tới      sắc dục, không truyền giống sinh  sản được. 
         George  Cô Đơn nổi tiếng đến độ có cả một công      ty bán đồ kỷ vật ở  Galapagos lấy tên là Lonesome George và hãng      hàng không Aerogal  (viết tất của AeroGalapagos) có chiếc máy bay      mang tên George Cô  Đơn bằng tiếng Tây Ban Nha Solitario George.     
              Ngoài  ra Galapagos còn có những loài thú bản      địa rất đặc biệt khác hẳn  các nơi khác. Xin nói qua một vài      giống đặc thù.
         -Loài thú có vú sống ở biển
          .Hải sư (sea lion).
         Những  con hải sư hồn nhiên nằm phơi nắng ngủ.      Tôi có thể tiến sát lại  gần nhưng tôn trọng giấc ngủ của các chú      các cô nên chỉ ngồi cách  một chút. Một chú phía sau lưng thức      giấc, nhấc đầu lên nhìn vào  ống kính, xin chụp chung một tấm      hình kỷ niệm.
              Một con hải sư mới sanh      (ảnh của tác giả).
         Một con hải sư sơ sinh, mới sanh, mẹ xuống      biển kiếm ăn, để con nằm một mình mà không sợ     con mình bị hãm hại  vì từ ngàn      xưa tới giờ trong di thể (gene) chưa có ghi nhớ một trường hợp      nào đã xẩy ra. 
         Cũng  cần phân biệt giữa hải sư và hải cẩu      (seal). Hai đặc tính dễ thấy  ngay là hải sư có miếng da che tai      trong khi hải cẩu chỉ có lỗ tai,  khi đi trên bờ, hải sư dùng      chân màng sau trong khi hải cẩu dùng  bụng...
         Ngoài ra cũng có các loài có vú khác như      dolphin, cá voi.
          -Chim: Galapagos là nhà của nhiều giống chim:
         .Chim boobie 
         Đây  là loài chim nước thuộc họ chim nông,      chân có màng như vịt nên có  người gọi là vịt biển. Có ba loại      boobies: một loại chân xanh (blue  footed boobies), một loại chân      đỏ và một loại có viền đen quanh  mắt và mỏ trông như đeo mặt nạ      nên có tên là boobies mặt nạ (masked  boobies).
         Một cặp boobies chân xanh đang múa điệu tình      vũ (ảnh của tác giả).
         Khi  đẻ trứng      làm tổ trên mặt đất, boobies chân xanh đánh dấu bằng một  vòng      tròn (guano ring) do chính phân của cặp vợ chồng chim. Ngửi  phân      của mình sẽ biết là nhà mình và trứng của mình. Ca dao Việt  Nam      có câu “Cứt ai vừa mũi người ấy”.
         Chim  boobies mặt nạ là giống to con nhất      trong ba giống boobies. Đặc  tính của loài chim này là “giết      con”.  Chim cái thường đẻ hai trứng  cách nhau năm ngày. Nên khi      trứng nở cũng cách nhau năm ngày. Con  nở trước chiếm hết mồi mớm      nên con nhỏ nở sau yếu đuối thường bị bỏ  rơi cho chết. Cha mẹ      không muốn tạo dựng nên một đứa con yếu đuối.
         Frigate là tên      gọi chung các chiến hạm xung kích cỡ nhỏ vì thế loài chim này có      người dịch là chim quân hạm  (Nguyễn Văn Khôn). Chúng được      gọi là “chiến hạm xung kích” vì  chúng lao mình trên mặt biển tấn      công các loài chim biển khác để  đánh cướp mồi. Vì thế chúng cũng      được gọi là chim hải tặc (Pirate  birds). Chúng quả thật là     một loài  điểu tặc, một giống      chim đạo tặc.  Không biết bơi, không biết lặn,  chúng chỉ chuyên      sống bằng cách ăn cướp những mồi cá mà các loài  chim biển khác      bắt được nhưng chưa kịp ăn.
         Chim có mỏ      dài, cánh xoải rộng và đuôi chẻ hai như chim én.      Con đực có chiếc bìu hơi đỏ trước cổ, khi tán      mái, ve mái phình lên rất đẹp.
         Một  chàng frigate đang phình cái bìu hơi đỏ      dưới cổ đê ve vãn các  nàng. Chú ý ở bên là một chàng “ván đã      đóng thuyền rồi”, thấm mệt  rồi (“hết xí quách”) nên cái bìu dưới      cổ không còn cần phải phình  to lên nữa      (ảnh của tác giả).
         . Chim cốc không biết bay (flightless      cormorants).
         Cốc không biết bay      (ảnh chụp tứ một poster).
         Chim  cốc ở đây chỉ cần nhẩy xuống biển là có      tôm cá ê hề, chẳng cần  phải bay đi đây xa.  Do đó đôi cánh teo      nhỏ lại vì không cần dùng  tới. Chúng trở thành một giống cốc      không biết bay đặc thù của  Galapagos mà không một nơi nào trên      thế giới có.
         Rất  tiếc mấy hòn đảo ghé qua, chúng tôi không      gặp một con nào, đành  phải chụp hình con cốc này từ một tấm      poster ở phi trường.
         .Hồng hạc
          Ở đây cũng là thiên đàng của loài hồng hạc      (flamingo).
    Chim nông (pelican): Chim bồ nông mầu nâu ở đây cũng được coi là      chim bản địa.
             . Hải Âu sóng ( waved Albatroses)
         Đây  là loài hải âu lớn nhất, loài chim biển      lớn nhất ở quần đảo này.  Chúng có thể sống trôi nổi trên sóng      biển, nên có thể ở ngoài khơi  hàng tháng không cần bay vào bờ.
         Hải âu sóng      (ảnh của tác giả).
         Đặc  điểm của hải âu sóng là trong đất liền      chúng phải đi bộ, không thể  lấy trớn bay lên. Phải đi bộ ra vách      đá, bờ đảo rồi phóng xuống  biển mấy lấy đà mới bay được. Vì thế      thường thấy chúng ở những nơi  có vách đảo dựng đứng. Khi ở dưới      nước chúng phải vỗ cánh đi trên  mặt nước lấy đà rồi mới cất cánh      bay lên được, giống như phi cơ cất  cánh.
              Galapagos  có 14 loại chim di với những biến      dạng theo môi sinh, đặc biệt  nhất là cái mỏ, khác với chim di ở      những nơi khác. 
         Chim di đất có mỏ chim két sống bằng thực      vật. Mỏ như chim két dùng để cắn      vỡ các hạt, đục khoét các thân cây cứng (hình trích trong      Galápagos, Preserving Darwin’s Legacy, Tui de Roy).
         Charles`Darwin cũng đã dùng các loại chim di      này làm bằng chứng cho luận thuyết tiến hóa của mình.
                   Một cặp diều hâu đang đứng nhìn     những con vật người đi trên hai      chân rất lạ lùng (ảnh của      tác giả). 
         Lưu  ý hai con diều hâu đứng chung tảng đá với      con kỳ đà biển. Sống  chung hòa bình. Diều hâu cũng ăn kỳ đà biển      nhưng chỉ ăn những con  còn nhỏ, không ăn nên không giết những      con lớn. Cũng dễ hiểu thôi.  Ăn con lớn thì còn đâu những con      trưởng thành để sinh ra những con  nhỏ dùng làm mồi mà sống. Loài      người ở nhiều nơi còn thua diều hâu ở  đây, khi đánh tôm cá chẳng      hạn bắt ăn cả những con cái đang có  trứng hay những con mới nở.
         .Mockingbird, chim nhái tiếng nhót.
         Mockingbird  là một giống chim có biệt tài bắt      chước tiếng hót của các loài  chim khác rất tài tình (vì thế mới      có tên gọi là mockingbird).
         Một  con chim mocking không sợ người cầm gậy      đứng sát cạnh cây gậy. Tổ  tiên nó hàng ngàn năm nay chưa bị ai      cầm cậy đánh nên không có di  thể (gene) sợ gậy, sợ con người cầm      gậy. Chúng chỉ biết những con  người tới đây dùng gậy để đi trên      các bờ đá cho vững.
         Chim mockingbirds tại đây ở mỗi đảo cũng khác      nhau tùy thuộc vào môi sinh.
         Ngoài ra ở đây có một loài penguins nhỏ độc      đáo, thấy nhiều nhất ở đảo Fernandina và Isabela. 
Một đàn kỳ đà biển đang phơi nắng buổi sáng (kỳ đà có máu lạnh) (ảnh của tác giả).
Cũng giống như các loài chim thú khác, kỳ đã cũng được quảng bá tận tình.
Hình kỳ đà trên gói muối, gói tiêu của hãng hàng không Aerogal (ảnh của tác giả).
.Kỳ đà đất (land igunas)
Có hai loại kỳ đà bản địa là Conolophus subcristatus và Conolophus Pellidus (chỉ thấy ở đảo Santa Fe).
Một con kỳ đà đất (ảnh của tác giả).
. Thằn Lằn đá núi lửa (lava lizard)
Một con thằn lằn đá núi lửa (ảnh của tác giả).
.Cắc kè (gecko)
Một con cắc kè (ảnh của tác giả).
.Rắn
Rắn  là loài nhút nhát rất khó gặp. Tôi là người duy nhất trong đoàn  may  mắn được rắn tới thăm. Một con rắn từ đâu không rõ bò ra chiêm  ngưỡng  đôi giầy mới của tôi.
Một con rắn bò tới chiêm ngưỡng đôi giầy mới của tôi (ảnh của tác giả). 
Người  nữ hướng dẫn viên nói rằng tôi là người có duyên mới thấy được  rắn tại  đây. Cô ta hành nghề dẫn du khách đi thăm viếng đảo này một vài  lần  một tuần mà cả năm nay chưa hề thấy rắn. Bà xã tôi cho cô ta biết  tôi  có bổn mạng rắn (tuổi rắn). Cô ta ca tụng “ông là một người thông   minh”.  Câu khen ngợi này đáng được thêm tiền ‘tip’.
Cô  ta cho biết ở đây có ba loại rắn, đều là bản địa. Rắn thường không   độc, chúng giết con mồi bằng cách quấn chặt để siết cho con mồi chết   ngạt như loài trăn.
.Cá
Galapagos là thiên đường của những ai thích lặn xem cảnh đáy biển.
Nước trong xanh như ngọc (ảnh của tác giả).
Hằng hà sa số cá đủ loại (ảnh của tác giả).
Cá mập vào tận bờ (ảnh của tác giả).
Một đàn cá đuối sát bờ (ảnh của tác giả)
.Cua
Đặc biệt nhất là loài cua nhẹ cẳng nhanh chân Sally (Sally light footed crabs) đầy mầu sắc.
Một con cua  Sally nhẹ cẳng nhanh chân (ảnh của tác giả).
Khi  còn nhỏ cua có mầu đậm đen lẫn với mầu đá núi lửa để sống còn,  càng  lớn lên càng có mầu rực rỡ, lúc này đã nhanh chân “nhẹ cẳng” (light   footed) rồi.
-Thảo mộc
Một thứ cây bản địa đặc biệt là cây xương rồng  opuntia cacti (Opuntia Echios Gigantean).
Cây xương rồng lê gai khổng lồ bản địa Opuntia Echios Gigantean (ảnh của tác giả).
Loài  xương rồng có gai khổng lồ này thuộc giống “lê gai” (Prickly  Pear  Cactus) vì nhánh có hình quả lê có gai (lưu ý phần hình quả lê là  chồi  nhánh chứ không phải là lá như thường lầm là như vậy. Lá xương rồng   chính là những gai xương rồng). Giống xương rồng khổng lồ này có cây   mọc cao tới 40 bộ (feet) là nơi cư trú và thực phẩm chính của  muông thú   như hai giống chim di, cu đất, mockingbird, rùa, kỳ đà đất…
………
Galapagos, Nơi Thiên Nhiên Có Quyền Của Thiên Nhiên.
Hiện  nay Galapagos nói riêng và Ecuador nói chung là nơi duy nhất  trên trái  đất này thiên nhiên có quyền của thiên nhiên. Quyền này do  hiến pháp  Ecuador qui định hẳn hoi.
Một  con chim mocking đậu trên bia đá  lôi cuốn sự chú ý của du khách để  nhắc nhở du khách phải tuân thủ luật  lệ bảo tồn thiên nhiên của quần  đảo (ảnh của tác giả).
Tháng  chín năm 2008, nhân dân Ecuador đã đi bầu chấp thuận đạo luật  Quyền  của Thiên Nhiên. Ecuador trở thành một quốc gia đầu tiên trên thế  giới  có Quyền của Thiên Nhiên do hiến định. Thiên Nhiên có ‘quyền  hiện  hữu, tồn tại, bảo dưỡng, tái sinh và phát triển theo chu kỳ, cơ  cấu,  chức năng và các quá trình tiến hóa của sự sống của thiên nhiên.  Đòi  hỏi mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng hay sắc tộc phải nhận biết những  quyền  lợi đối với thiên nhiên… Mọi chính phủ, sắc tộc và cá nhân Ecuador phải tuân thủ thực thi quyền này…’.
Quyền Thiên Nhiên giống như hay còn hơn cả Nhân Quyền.   Thiên nhiên không phải là tài sản riêng ai, không phải là của nhà  nước,  của những kẻ cầm quyền mà là của nhân dân một nước. Tiến xa hơn,  vượt  cả ra ngoài ranh giới quốc gia, là của nhân loại.
Hiển  nhiên quần đảo Galapagos, rừng mưa Amazonia, rặng Andes hùng vĩ  là  những kho báu vật thiên nhiên thu hút khách du lịch của Ecuador.  Thiên  nhiên là mỏ vàng của Ecuador. Nhưng Ecuador không vơ vét lấy hết  ngay  làm của riêng cho một số người quyền thế. Luật hiến định Quyền của   Thiên Nhiên sẽ giúp cho Ecuador sống lâu dài nương vào thiên nhiên và   giúp cho Ecuador trở thành một dân tộc ít thú vật nhất, giới lãnh đạo ít   súc vật nhất.
Với Quyền của Thiên nhiên luật du lịch ở đây dĩ nhiên có những điểm khắc khe đối với những du khách còn nhiều thú tính.
Số  khách du lịch tới đảo được kiểm soát theo một con số qui định.  Bước  xuống máy bay vào đảo, du khách bước đi trên những thảm ngâm thuốc  sát  trùng.
Số tầu thuyền du lịch thăm  các đảo mỗi ngày chỉ được một hai chuyến  và phải đậu thật xa bờ. Mỗi  nửa ngày chỉ cho phép một nhóm du lịch lên  thăm viếng một đảo. Mỗi  chuyến viếng đảo chỉ trong vòng ba bốn tiếng. Du  khách phải ăn uống,  dùng vệ sinh trên tầu. Tuyệt nhiên không mang theo  thực phẩm, ngoại trừ  nước lọc. Không có cơ sở vệ sinh trên đảo… (các ông  bị chứng tiểu vặt  vì chứng tuyến cửa bọng tiểu phì đại ‘hypertrophic  prostate’ nên mặc  tã).
Những hướng dẫn viên được đào  tạo rất chuyên nghiệp. Xin kể một chi  tiết nhỏ. Người nữ hướng dẫn viên  của chúng tôi có mang theo một cái túi  nhặt rác. Cô cúi xuống nhặt  từng cái nắp chai nước lọc mà một du khách  nào đó vô tình đánh rơi  nhưng cố tình không nhặt lên. Thế là chúng tôi  giúp cô một tay mỗi khi  phát hiện ra một thứ rác rưởi nhân tạo…
Hiển  nhiên công việc chính yếu của Galapagos là bảo tồn các giống  hiếm quí,  các giống trên đà tuyệt chủng. Hiện nay tại Charles Darwin  Foundation  Headquarters ở Galapagos có trung tâm bảo tồn và gây giống  phục hồi lại  giống rùa voi. Hiện đã nuôi được chừng 5.000 con.
Sau  những giờ thăm đảo dưới ánh nắng nóng cháy của xích đạo, chiều  chiều  ngồi hóng mát nhìn hoàng hôn xuống trên biển Galapagos thật là  tuyệt  vời. Thiên nhiên nơi đây dĩ nhiên, tất nhiên thật là tự nhiên,  thản  nhiên, hồn nhiên…
Hoàng hôn trên biển Galapagos (ảnh của tác giả). 
Nhưng  có một lúc bỗng thấy lòng buồn vời vợi. Ngồi nghĩ tới những nơi  mà  thiên nhiên chưa có cái quyền của thiên nhiên. Trái đất này đang hâm   nóng dần, bầu khí quyển đang ô nhiễm, rừng già kia đang biến thành đồn   điền, đang đem cho thuê, núi non hùng vĩ nọ đang bị gỡ đá đem bán, dòng   sông đó đang bị siết cổ bởi những con đập, muông thú kia đang trên đà   tuyệt chủng… Chỉ ở nơi này người và thiên nhiên mới có quyền ngang nhau.   Người và muôn sinh là tiểu vũ trụ, con của đại vũ trụ. Con người và   thiên nhiên, vũ trụ là một. Thời tiền sử con người thờ phượng Mẹ Thiên   Nhiên, Cha vũ trụ. Người Ecuador cổ thờ Mẹ Đất Pachamama và ngày nay họ   có hiến pháp tôn vinh Quyền của Thiên Nhiên.
Bao giờ quê hương Việt Nam tôi có Quyền của Thiên Nhiên.
Tôi  còn nhớ rõ trên mặt biển Vịnh Hạ Long rác rưởi nổi lều bều.  Thuyền của  chúng tôi bị một thuyền chở du khách khác chen lấn đụng vỡ  một bên mạn  thuyền…
Tôi không thể nào quên  được những  hình ảnh thấy chiếu trên truyền  hình cho người Việt hải  ngoại xem và cho cả thế giới xem những con gấu  Việt Nam bị đem làm siêu  âm để rà tìm túi mật. Người ta đâm những cái  kim lớn vào túi mật hút  mật ra để làm thuốc. Con vật quằn quại, kêu gào  thảm thiết. Cứ vài tuần  con vật lại bị tra tấn dã man như thế để lấy mật  một lần (ở Trung Hoa  bây giờ người ta đặt một cái ống thông thường trực  vào túi mật). Mật  đem pha vào rượu. Một kẻ uống ngay tại chỗ, mặt mày  hả hê đầy man rợ.  Các quốc gia Á châu theo Đông Y như Trung Hoa, Việt  Nam, Đài Loan, Đại  Hàn cho rằng ăn uống thứ gì bổ thứ đó. Uống mật bổ  mật. Uống mật gấu để  trị bịnh gan mật. Ngoài ra còn tin rằng mật gấu còn  trị được nhiều  chứng bệnh khác, kể cả cho rằng mật gấu có tính cường  dương (sic!). Một  cái mật gấu có thể bán tới 45.000 Mỹ kim.
Nhưng  điều đáng kinh tởm nhất là họ hành hạ gấu một cách man rợ đầy  thú  tính. Họ tin rằng khi con gấu tức giận, mật sẽ tiết ra nhiều, túi  mật  sẽ to lớn lên thêm. Việt ngữ có câu ‘to gan lớn mật’, ‘cả gan‘. Con  gấu  khi tức giận, cuồng nộ dám liều mình làm tất cả mọi thứ, giết người  và  ngay cả xé toạc ngực của chúng moi gan, moi mật, moi ruột lòng, moi   trái tim của chúng ra để tỏ ra…  can đảm, can trường. Việt ngữ cũng có   câu ‘giận đến ứa gan ứa mật ra’ (vì thế mà có nhiều mật, lớn mật). Pháp ngữ colère, tức giận ruột thịt với chole, mật (gan). Lúc đó quả đúng là lúc nó «to gan lớn mật».
Họ  tin rằng ăn thịt gấu nhất là bàn tay gấu (paw) tăng cường sinh  lực.  Món ăn vương giả là món tay gấu tiềm thuốc Bắc. Đại bổ! Ăn thịt gấu   khỏe như gấu, mạnh như cọp. Hùng hổ. Hùng hùng hổ hổ. Tại sao bàn tay   gấu lại quí nhất? Bàn tay gấu là biểu tượng cho sức mạnh của con gấu.   Con gấu được gọi tên theo bàn tay gấu. Anh ngữ paw chỉ chung tay chân thú có móng vuốt, bầu, cấu, cào bằng móng vuốt. Theo p=b. paw = bấu. Con gấu là con bấu, con paw. Con bear là con béo, con bẹo, con bấu, con cấu, con gấu. Paw ruột thịt với Mường ngữ pầl, con gấu đất (xem Tứ Điển Tương Đống Anh-Việt).
Một  bữa tiệc thịt gấu với sự tra tấn tàn bạo con vật trước bàn tiệc  cho  tới khi con vật hấp hối giá lên tới 9.000 Mỹ kim (Animal Parts and   Chinese Medicine http://factsanddetails.com/china). Tại sao phải hành hạ   gấu trước khi ăn thịt?  Những kẻ hung tàn này tin rằng phải tra tấn,   đánh đập con vật thật tàn nhẫn, phải rút móng tay chân gấu, phải chặt   tay chân gấu… lúc đó thịt gấu mới được cho là ngon và bổ nhất.  Con vật   bị tra tấn, bị đánh cho tới dập mật ra đúng như Việt ngữ có câu “đánh   cho dập mật nó ra”! Thịt con gấu lúc này đã được chính nó tẩm mật, ướp   mật của nó trong khi bị hành hạ đẫm lmáu và đầy nước mắt của nó.
Cái  điểm kinh tởm nhất là hành hạ loài vật. Dã man. Tàn bạo. Vô nhân  đạo.  Còn thú vật, còn mục súc hơn thú vật. Hiện nay có thiếu gì thuốc để  trị  bệnh thay cho các phần thân thể loài vật. Ôi cái tâm địa quỉ sứ của   một lũ người man rợ. Biết đến bao giờ Việt Nam noi theo Ecuador để có  được một đạo luật hiến  định về Quyền của Thiên Nhiên cho giang sơn đất  nước, muôn sinh Việt  Nam.Nguyễn Xuân Quang  
No comments:
Post a Comment