Cố tổng thống Ngô Đình Diệm đã từng chọn Tre làm quốc huy 
của  nền đệ I Cộng Hoà (VNCH). Tre là một loại cây rất đa dụng và gần gũi  với các nước Đông Nam Á châu nói chung và người Việt nói riêng. Giống  như cây dừa, toàn bộ cây tre, từ rễ cho đến ngọn đều được sử dụng trong  đời sống. Từ xa xưa, cây tre cũng gắn bó với người nông dân VN. Hình ảnh  làng quê VN từ xưa gắn liền với luỹ tre làng - những  bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng  Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược - nhân tai. Không thể kể  hết tính đắc dụng của tre đối với người nông dân VN: làm nhà cửa (vì  kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường...), làm vô số vật dụng: cái cần  câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái  cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ. Trên thế giới, Việt Nam  không phải là một quốc gia duy nhất có tre. Trừ một số ít vùng châu Úc  và châu Âu, tre gần như có mặt ở khắp nơi. Tre có rất nhiều ở nhiều nước  Châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Philippines,  Indonesia.... Tre có tên khoa học là Bambysaceae, lấy từ gốc Mã Lai là  Bambu, xếp chung cho các loài tre - trúc. Ở Việt Nam, tre mọc rất nhiều  và khắp nơi. Ngoài được trồng ở thôn xóm, làng xã, tre còn mọc tập trung  thành rừng từ Bắc chí Nam.Tre gồm hơn 40 loài và 15 giống khác nhau như: trúc, bương, lồ ồ, gai, vầu, mỡ, 
nứa,  tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le, trúc, là ngà, v.v... Ở Mỹ  có nhiều khu Vườn Tre (Bamboo Garden) như khu Vườn Tre của trường  Foothill College ở thành phố Los Altos, hay khu Vườn Tre Huntington  Library ở San Marino, khu Vườn Tre trong khu business & industrial  center ở Mira Mesa/ San Diego, tiểu bang California. Các khu vườn tre  này có khoảng 70 loại tre trên thế giới, từ các loại tre ở miền nhiệt  đới cho đến các loại tre miền ôn đới. Thông thường thì tre đươc trồng  bằng gốc. Một gốc tre được ươm trồng thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến năm  thứ ba thì mới có măng (tre non). 
nứa,  tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le, trúc, là ngà, v.v... Ở Mỹ  có nhiều khu Vườn Tre (Bamboo Garden) như khu Vườn Tre của trường  Foothill College ở thành phố Los Altos, hay khu Vườn Tre Huntington  Library ở San Marino, khu Vườn Tre trong khu business & industrial  center ở Mira Mesa/ San Diego, tiểu bang California. Các khu vườn tre  này có khoảng 70 loại tre trên thế giới, từ các loại tre ở miền nhiệt  đới cho đến các loại tre miền ôn đới. Thông thường thì tre đươc trồng  bằng gốc. Một gốc tre được ươm trồng thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến năm  thứ ba thì mới có măng (tre non). Tre  là một nhóm thực vật thường xanh đa niên thân gỗ, thuộc Bộ Hòa thảo,  Phân họ Tre, Tông Tre (Bambuseae), một số loài của nhóm này rất lớn, và  được coi là lớn nhất trong Bộ Hòa thảo. Tre có nhiều loại:
a. Tre khổng lồ (Giant Timber Bamboo-Phyllostachys), cao từ 30 -70 feet:
 Phyllostachys atrovaginata
Phyllostachys bambusoides ('Albovariegata’,'Allgold', 'Castillon', 'Castillon Inversa', 'Kawadana', 'Marliac', etc.
Phyllostachys decora
Phyllostachys dulcis
Phyllostachys edulis ‘Moso’
Phyllostachys glauca 'Yunzhu'
Phyllostachys iridescens
Phyllostachys nigra (‘Black Bamboo’, ‘Hale’, ‘Bory’, ‘Henon’, ‘Megurochiku’, etc..)
Phyllostachys nuda
Phyllostachys viridis (‘Robert Young’)
Phyllostachys vivax (‘Aureocaulis’, ‘Huangwenzhu’, ‘Huangwenzhu Inversa’ ‘Kimmei Vivax’…)
b.Tre
trung bình (Mid size Bamboo), cao từ 15 - 30 feet: 
Phyllostachys angusta
a. Tre khổng lồ (Giant Timber Bamboo-Phyllostachys), cao từ 30 -70 feet:
Phyllostachys bambusoides ('Albovariegata’,'Allgold', 'Castillon', 'Castillon Inversa', 'Kawadana', 'Marliac', etc.
Phyllostachys decora
Phyllostachys dulcis
Phyllostachys edulis ‘Moso’
Phyllostachys glauca 'Yunzhu'
Phyllostachys iridescens
Phyllostachys nigra (‘Black Bamboo’, ‘Hale’, ‘Bory’, ‘Henon’, ‘Megurochiku’, etc..)
Phyllostachys nuda
Phyllostachys viridis (‘Robert Young’)
Phyllostachys vivax (‘Aureocaulis’, ‘Huangwenzhu’, ‘Huangwenzhu Inversa’ ‘Kimmei Vivax’…)
b.Tre
trung bình (Mid size Bamboo), cao từ 15 - 30 feet: Phyllostachys angusta
Phyllostachys  aurea (‘Dr. Don’, 'Flavescens Inversa', 'Holochrysa', 'Koi',  ….)Phyllostachys aureosulcata ('Harbin’, 'Harbin Inversa',  'Spectabilis',…)Phyllostachys bambusoides ('Kawadana', 'Marliac',  'Richard Haubrich',etc.)Phyllostachys bissetii
Phyllostachys decora
Phyllostachys flexuosa 'Spring Beauty'
Phyllostachys heteroclada
Phyllostachys meyeri
Phyllostachys nidularia
Phyllostachys nigra (‘Black Bamboo’, ‘Hale’, etc...)
Phyllostachys nuda
Phyllostachys platyglossa
Phyllostachys praecox 'Viridisulcata'
Phyllostachys stimulosa
Phyllostachys violascens
c. Tre lù
n: Sasa  kurilensis, Sasa kurilensis 'Shimofuri', Sasa oshidensis, Sasa palmate,  Sasa palmate, Sasa veitchii, Sasaella masamuneana 'Albostriata',  Sasaella ramose, Sasamorpha borealis...
Shibataea chinensis, Shibataea kumasaca...
n: Sasa  kurilensis, Sasa kurilensis 'Shimofuri', Sasa oshidensis, Sasa palmate,  Sasa palmate, Sasa veitchii, Sasaella masamuneana 'Albostriata',  Sasaella ramose, Sasamorpha borealis...Shibataea chinensis, Shibataea kumasaca...
Pseudosasa owatarii
Chimonobambusa marmorea 'Variegata'
Indocalamus hamadae Indocalamus latifolius, Indocalamus tessellates 
Pleioblastus  akebono, Pleioblastus distichus, Pleioblastus fortunei,Pleioblastus  kongosanensis 'Aureostriatus', Pleioblastus pygmaeus, Pleioblastus  shibuyanus 'Tsuboi', Pleioblastus viridistriatus, Pleioblastus  viridistriatus 'Chrysophyllus'...
Còn có rất nhiều loại tre khác nhau nữa.Tre được sử dụng làm nhà (cột, kèo), làm đũa, làm máng nước, làm rổ rá, vật
dụng  nông nghiệp (gầu, cán cuốc, cán xẻng). Trúc làm sáo, cần câu cá, trang  trí nội thất và nhiều đồ thủ công mỹ nghệ. Tre non làm thức ăn (măng).  Tre khô kể cả rễ làm củi đun. Tre trồng dày đặc làm rào tự nhiên cho các  làng ở đồng bằng miền Bắc. Trong chiến tranh, tre được sử dụng làm vũ  khí rất lợi hại (chông tre, gậy, cung tên). Ngay  từ thời dựng nước, cây tre đầu làng vốn gần gũi, thân quen, thoáng chốc  trở thành vũ khí lợi hại có đủ tính cương nhu, giúp cậu bé làng Gióng  đánh tan giặc Ân, sau khi chém gãy cả thanh gươm sắt. Dân tộc ta đã biết sử dụng tre làm công cụ giữ nước, với các vũ khí lợi hại 
như  cung, nỏ, bàn chông, tầm vông vạt nhọn... Và những tiếng nổ kinh hồn  của hàng loạt pháo tre đã làm quân thù bạt vía trên chiến trường, hay  góp vui trong ngày hội liên hoan thắng trận. Lịch sử có kể về  cuộc khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuật - người đã dựa vào hàng rào cây tre  dày đặc mà đạn của Pháp không bắn xuyên qua được. Nhiều đồ thủ công mỹ  nghệ sản xuất từ mây, tre, trúc, nứa, luồng và các sản phẩm trang trí  nội thất gia đình theo kiểu truyền thống hay cách tân. Tre - loài cây có  mặt khắp nơi trên thế giới (trừ châu Âu và Bắc cực) sẽ trở thành vật  liệu xây dựng lý tưởng của thế kỷ 21.
Cây  tre đã đi vào văn hoá – nghệ thuật VN như một hình ảnh truyền thống  bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc  ngoại xâm. Trong văn chương bình dân, cây tre là hình ảnh thân thương bất khả phân ly, gợi lên bổn phận và trách nhiệm gánh vác gia đình, non nước của người làm trai:
Ba đời bảy họ nhà tre
Hễ cất lấy gánh, nó đè lên vai
Hoặc để nói lên lòng thương con vô bờ bến của tình mẫu tử thiêng liêng:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời...
Không như hầu hết các loại cây chỉ đứng riêng lẻ một mình, tre luôn mọc thành bụi, có gốc liền gốc, rễ đan rễ, thể hiện tính quần tụ, kết đoàn, tạo thành sức mạnh khó lay chuyển. Câu chuyện một người bẻ dễ dàng từng chiếc đũa tre, song không thể bẻ gãy cả bó đ
ược minh chứng. Thân  tre thẳng và cao mà không bị đổ là do thớ tre dẻo và thân tre mềm dễ  lượn theo chiều gió. Với đặc tính phối hợp cương nhu để đón gió, thuận  theo gió vừa đủ rồi ngạo nghễ vươn lên trở lại hình dáng cũ - một đặc  tính độc đáo chỉ có ở cây tre. Dưới những trận cuồng phong, tre chỉ chịu  tróc gốc cả bụi chứ không bao giờ chịu gãy ngang thân... Tính  chất nổi bật nhất trong cây tre tương ứng với kỹ thuật võ học là càng  bị uốn cong và kéo sát bao nhiêu thì sức bật lại càng mãnh liệt, dữ dội  bấy nhiêu. Điều này càng thể hiện rõ tinh thần cương nhu phối triển  trong nghệ thuật giữ nước của dân tộc Việt. Gặp đối thủ cường bạo, hung  hiểm, tạm thời ông cha ta thường lánh đi (nhu) để tránh nhuệ khí ban  đầu. Sau đó chờ cho địch lơi lỏng, chểnh mảng việc quân cơ, ta mới tập  trung đánh những trận quyết định (cương) hầu giành thắng lợi sau cùng. Trước những trận đánh quyết định để đảm bảo thắng lợi, chúng ta cần lùi lại để tạo đà thật vững chắc. Lịch sử giữ nước của bao nhiêu triều đại VN đã chứng minh cụ thể điều đó. Với biểu tượng cây tre, dân tộc ta đã nâng việc giữ gìn và bảo vệ đất nước lên hàng nghệ thuật với biết bao kinh nghiệm vô cùng sống động và phong phú.
Tre biểu tượng cho một nhân cách, một hoài bão cao thượng. Quần thể tre cho
thấy  một xã hội thuận hòa kỷ cương “tre già măng mọc”, chứ không phải tranh  sống theo kiểu “cây lớn đè cây nhỏ” giành lấy ánh sáng mặt trời. Bắt  nguồn từ các quan điểm trên, các bậc thầy Vovinam Việt Võ Đạo quan sát  cây tre ở nhiều góc độ, tư duy về lẽ sinh tồn, thành bại để đúc kết xây  dựng một lý luận về vận động võ học, một quan niệm nhân sinh. Từ đó xây  dựng một con người võ đạo biết sống yêu thương gần gũi, hòa nhập với  cộng đồng để mưu cầu hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Cho dù gặp sự ngang  trái, mâu thuẫn, hoặc lâm vào cảnh bế tắc, con người võ đạo vẫn biết  “vật cùng tắc biến”, hóa giải các mâu thuẫn bằng nguyên lý cương nhu  phối triển. Cho nên có thể nói cây tre là bài học đầu tiên để nắm các  yếu lý của võ thuật.
Với  các phẩm tính có một không hai, cây tre chứa đựng những hình ảnh sinh  động bao gồm đầy đủ tính âm dương, cương nhu và luôn hữu dụng cho con  người. Hào hùng, khoáng đạt song cũng hết sức khiêm cung, bình dị và đầy  lòng yêu thương... cũng là nét văn hóa đậm tính cách dân tộc mà cây tre  là một biểu tượng điển hình của tinh thần nhân hòa và nguyên lý cương  nhu phối triển. Tre từng được sử  dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật  dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để  gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột 
hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi,  cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày  đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái  tăm... nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay. Đấy  là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại  vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng  một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm  lược là một chứng tích đã đi  vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để  trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những  năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay  con trẻ còn chơi... tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ  thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu. 
Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở. Nhưng xem ra chỉ có ở VN là cây tre và các loại tre vẫn bị bỏ quên. Hiện nay, khoảng hơn 1.000 loài thuộc họ tre đã được trồng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các nước phát triển ngày càng coi trọng cây tre và ưa thích các loại sản phẩm chế biến từ tre. ở các nước Đông á, nơi được coi là quê hương của cây tre, đang có xu hướng quay trở lại sử dụng loại vật liệu có nhiều đặc tính quý báu này trong mọi mặt của đời sống. Một ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và đang phát triển mạnh ở một số nước châu Á.Đi đầu trong
 những nước này là Trung Quốc(*). Tre và các loại cây thuộc họ tre phát triển chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc, những năm gần đây xuất khẩu hơn nửa  triệu mét vuông mỗi năm. VN, đất nước mà cây tre, cây trúc mọc từ ngàn  đời, những năm gần đây cũng tiêu thụ không ít chiếu trúc, chiếu tre nhập  từ Trung Quốc, và xu hướng này vẫn đang tiếp diễn!!! Mỗi hécta trồng  tre chất lượng cao đem lại thu nhập 15.000 USD mỗi năm cho người nông  dân Trung Quốc. Các tác phẩm mỹ thuật tinh xảo được dệt thủ công  từ sợi tre (được chẻ nhỏ và chế biến bằng công nghệ hiện đại) xuất sang  thị trường Singapore gần đây thật đáng chú ý. Trái với quan niệm trước  đây là cây tre làm đất bạc màu,  kết quả nghiên cứu do Viện Nghiên cứu và phát triển sinh thái (trụ sở ở  Lugana, Philippines) cho thấy cây tre đã cải tạo thành công ở những  vùng đất bị tro núi lửa Pinatubô huỷ hoại. Cây tre có sức sống tuyệt vời ở cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô nhiễm. Viên nghiên cứu này cũng 
khẳng  định bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định nhất, chống xói mòn đất,  chống xói lở bờ sông, tre mọc ken dày có thể làm giảm cường độ của gió,  giảm sự tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Người Nhật đã từng trồng  thí nghiệm tre trên một vùng đất ở gần Hiroshima -thành phố bị tàn phá  bởi bom nguyên tử năm 1945. Cây tre đã đâm chồi trên đất nhiễm phóng xạ ở  đây sau khi được trồng vài tháng!  Một phương pháp sử dụng chất bảo quản có nguồn gốc thiên nhiên mới cũng  được các nhà khoa học Nhật phát minh gần đây, khi mà trong quá trình  nghiên cứu xử lý tre dùng làm đồ nội thất và làm thùng chứa, họ vô tình  phát hiện một chất có khả năng chống ôxy hoá mạnh có trong vỏ cây tre.  Nếu như cây cà kheo bằng tre được người dân miền biển VN sử dụng từ xa  xưa để đánh bắt một số loại hải sản, thì ở Australia hiện nay, môn thể  thao khá phổ biến là lướt sóng biển bằng ván gần đây có nét mới: loại  ván trượt được ưa chuộng được làm bằng tre phủ một lớp nhựa epoxy bằng  công nghệ cao.Đất nước Triều Tiên từ xa xưa cũng đã sử dụng tre, nứa trong đời sống. Loại muối 
tre  có tên là Chukyom được dùng ở nước này từ khoảng 1.000 năm, loại muối  này còn được hoà tan vào nước dùng như một thứ thuốc chữa bệnh đau dạ  dày. Người ta cho muối vào ống tre, dùng một loại đất sét đặc biệt bịt  kín lại rồi nung trong nồi đất kín trong một khoảng thời gian xác định  thu được một hỗn hợp. Hỗn hợp này hiện còn được chế biến, đưa cả vào kem  đánh răng (hiện đang bán phổ biến trên thị trường VN với tên thương mại  là Bamboo Salt). Gần VN hơn là Indonesia, đất nước có nhiều tương 
đồng  với VN về văn hoá. Một số nơi ở nước này, như ở đảo Bali đang phát  triển trồng và chế biến tre. Tre đã được sử dụng để làm những căn nhà cao  tới 8 m (dùng kèm với các loại vật liệu nhẹ khác) - một dạng nhà kính  khung tre, và một số đồ nội thất khác như bàn máy tính bằng tre. Một tổ  chức có tên là Tre bảo vệ môi trường đã ra đời ở đảo Bali nhằm cổ vũ cho  việc trồng tre và sử dụng sản phẩm từ tre trong đời sống. Tổ chức này  hiện có hơn 80 giống tre đã và đang cung cấp rất nhiều cây giống tới  nhiều vùng ở Indonesia, cùng với phương pháp chăm sóc tre với những ưu  điểm là giá thành thấp, có khả năng chống côn trùng, nấm mốc  cho tre. Tổ chức này tin rằng mình đang đi đúng hướng, khi mà hiện nay  nhu cầu tiêu thụ gỗ toàn thế giới đang lớn hơn mức cung, và cứ mỗi ngày  lại có thêm nhiều cánh rừng biến mất. Cũng dùng tre để làm nhà, nhưng ở  Hồng Kông còn có những ngôi nhà cao tới 40 tầng đã được dựng với vật  liệu chủ yếu là tre. Trong tương lai gần ở Hồng Kông sẽ mọc lên nhiều  ngôi nhà có khung bằng tre đã qua xử lý đặc biệt.
Thái Lan có nhiều nhà máy chế biến sản phẩm tre. Sản phẩm phụ của một số nhà máy như  thế lại trở thành nguyên liệu cho dân trong vùng nơi có nhà máy chế tạo  đồ thủ công mỹ nghệ và đồ dùng sinh hoạt hàng ngày. Tre cũng được trồng  từ lâu ở Nepan, ấn Độ, và ngày càng được coi trọng vì độ bền và tính  hiệu dụng trong cuộc sống người dân ở đây. Nước ta cũng như một số nước  quanh vùng đang sử dụng các cây thuộc họ tre làm nguyên liệu cho ngành  công nghiệp giấy. Đã có một thời, tre và một số cây thuộc họ tre đã được  chúng ta phát triển để chế biến xuất khẩu. Khi thị trường truyền thống với hàng mây tre VN  là Liên Xô và các nước Đông Âu không còn, ngành thủ công mỹ nghệ mây  tre lạc hậu và công nghệ của ta đã suy sụp. Sau một số năm, khi mà các  rặng tre làng đã trở nên “hiếm” thì tre nứa chỉ còn được dùng chủ yếu  làm nguyên liệu giấy và sử dụng với nhu cầu nhỏ ở thôn quê, chỉ một số  loại tre trúc được trồng làm cây cảnh được coi là “có giá trị kinh 
tế”.  Gần đây cây tre đã được quan tâm trở lại. Có một dạo, loại cây đa dạng,  thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị  thoái hoá... bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Thế nhưng trong những năm  gần đây,cây tre đã được quan tâm trở lại. Việc nghiên cứu cải tạo giống  tre trúc không biết bao giờ mới được tiến hành. Phong trào trồng cây  luồng ở một số địa phương, xuất khẩu sản phẩm trang trí nội thất và nhiều đồ thủ công mỹ nghệ bằng mây tre trúc  gần đây là một tín hiệu đáng mừng. Cây tre, loại cây có thời gần gũi  với người VN cũng như cây lúa, cây dừa, hy vọng tre sẽ tìm lại được vị  thế xứng đáng của nó.
Từ  Hawai (Mỹ) tới Việt Nam, cây tre hiện diện không còn chỉ ở những túp  lều rẻ tiền đơn sơ nữa mà đã có mặt trong các tòa nhà sang trọng lẫn các  khu nghỉ dưỡng xa xỉ, trở thành vật liệu xây dựng từ nhà thờ cho tới  các cây cầu lớn. Dưới cái nhìn của giới kiến trúc, tre là "thép thực  vật" nhưng tính năng của nó còn ưu việt hơn cả thép. Tre nhẹ hơn thép  nhưng có sức bền cao gấp 5 lần bê tông. Không như các cây lấy gỗ vốn cho  thời gian khai thác chậm, tre sinh trưởng rất nhanh và có khả năng hấp  thụ khí CO2 - thủ phạm làm môi trường trái đất ấm lên - gấp 4 lần so với  cây lấy gỗ. Kiến trúc sư người Colombia Simon Velez vừa hoàn tất một  công trình kiến trúc từ tre lớn nhất từ
Là  người Việt Nam thì ai cũng biết cây tre nhưng rất nhiều người không có  dịp để thấy được "tre nở hoa". Hoa tre bung nở từng chùm hoa vàng nhạt  như màu đất, xen giữa màu xanh của lá tre. Không bao lâu sau, những chùm  hoa tre khô cong đong đưa trong gió như những bàn tay đang vẫy chào  tiễn biệt. Những cây tre nở hoa từ màu xanh chuyển dần sang màu ngà rồi  thân tre khô lại và chết đi. Hình ảnh của quê nhà và bVới   mong muốn làm được một điều gì đó cho quê hương, tiến sĩ Diệp Thị Mỹ   Hạnh đã lập làng tre và sưu tầm hơn 200 mẫu tre thuộc 17 loài khác nhau 
Trả nợ quê nghèo 
Đưa làng tre... vượt biên giới 
Xin  giới thiệu đến các bạn 1 công trình kiến trúc của 1 KTS trẻ bên nhà với  vật liệu là TRE mà tôi đã có dịp ghé qua xem.  Tôi thích conceptual  design và structure khá đơn giản, hoà hợp giữa truyền thống mộc mạc  nhưng rất độc đáo, hiện đại khi sử dụng vật liệu sẳn có của quê mình.Làng   tre Phú An nằm tại 124 ấp Bến Giãng, xã Phú An, huyện Bến Cát - Bình   Dương. Hàng ngàn bụi tre lớn nhỏ chen nhau trong một màu xanh ngút ngàn   là công trình sưu tầm, bảo tồn của tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh, giảng viên   Khoa Sinh học Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM.
Trả nợ quê nghèo Chúng  tôi gặp tiến sĩ Hạnh khi bà đang tất bật ở khu thí nghiệm để đánh  dấu  tên gọi địa phương, tên khoa học, thời gian và tọa độ tìm thấy của   những loài tre vừa được bà sưu tầm về.
Vuốt mái tóc bạc bết mồ hôi, bà nói: “Làm như thế mới phân biệt được loài nào có tên trong danh sách, loài nào không có tên để từ đó định danh cho phù hợp. Nhiều người đến đây khi ngắm nhìn những bụi tre đều khen đẹp nhưng ít ai biết rằng để tre có tên, nơi sưu tầm, chúng tôi đã rất vất vả”.
Vuốt mái tóc bạc bết mồ hôi, bà nói: “Làm như thế mới phân biệt được loài nào có tên trong danh sách, loài nào không có tên để từ đó định danh cho phù hợp. Nhiều người đến đây khi ngắm nhìn những bụi tre đều khen đẹp nhưng ít ai biết rằng để tre có tên, nơi sưu tầm, chúng tôi đã rất vất vả”.
Trước  khi trở thành giảng viên của Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM,  bà  từng là Phó Viện trưởng phụ trách khoa học kỹ thuật của Viện Nghiên  cứu  cây có dầu, đã lai tạo thành công giống dừa PB 121 hiện đang được   nhiều người dân trồng bởi năng suất cao, cơm dày.
Cơ duyên đưa bà đến với nghiệp trồng tre là vào năm 1999, trong một lần về quê tại xã Phú An, huyện Bến Cát - Bình Dương. Bà kể: “Khi ấy, gặp lại tôi, nhiều bà con trách móc: mày học cao, hiểu rộng, từng là tiến sĩ ở Tây về mà sao không làm gì cho quê hương? Câu nói bất ngờ của những người dân quê đã khiến tôi giật mình, trăn trở. Đúng là sau chiến tranh quê mình vẫn còn nghèo quá”.
Cơ duyên đưa bà đến với nghiệp trồng tre là vào năm 1999, trong một lần về quê tại xã Phú An, huyện Bến Cát - Bình Dương. Bà kể: “Khi ấy, gặp lại tôi, nhiều bà con trách móc: mày học cao, hiểu rộng, từng là tiến sĩ ở Tây về mà sao không làm gì cho quê hương? Câu nói bất ngờ của những người dân quê đã khiến tôi giật mình, trăn trở. Đúng là sau chiến tranh quê mình vẫn còn nghèo quá”.
Suy  nghĩ phải làm một điều gì đó cho quê nhà luôn nung nấu trong lòng  bà.  Một lần, khi đi dạo trong xóm, bà nhận ra vùng đất quê mình có thật   nhiều tre. Ý tưởng hình thành làng tre khiến bà viết ngay dự án “Bảo vệ   tài nguyên thiên nhiên” trong đó loài cây được bảo vệ chính là loài tre   quê hương. Xã cho đất, dân góp được 10 triệu đồng và làng tre Phú An   hình thành. 
Để  có kế hoạch phát triển lâu dài, bà gõ cửa nhiều nơi để xin tài trợ.   Khi đến Tổng Lãnh sự quán Pháp tại TPHCM, bà được nhận xét rằng dự án   quá nhỏ nên bà phải viết lại dự án mang tầm quốc tế với tên gọi “Vườn   thực vật” để kêu gọi tài trợ của vùng Rhône Alpes (Pháp).
Bà kể: “Đó là năm 2001. Khi dự án hoàn tất thì ở Pháp tiến hành bầu cử. Chính quyền mới không muốn tiếp tục thực hiện dự án nên cử Phó Chủ tịch vùng Rhône Alpes là ông Jean Philipe Bayon mới đắc cử đến làng với ý định bác bỏ việc tài trợ. Suốt từ TPHCM đến đây, ông ta không nói lời nào. Nhưng khi đến làng, nhìn những bụi tre được chúng tôi sưu tầm, khung cảnh thiên nhiên thoáng mát giống như một khu vườn thực vật, ông ấy thay đổi ngay ý định. Ngay sau đó, bà được mời sang Pháp để trình bày ý tưởng về làng tre tại vùng Rhône Alpes. Bằng tất cả tâm huyết, bà đã thuyết phục được nhiều người dân trong vùng Rhône Alpes hưởng ứng.
Năm 2003, một dự án được hình thành với sự hợp tác giữa 4 đơn vị là vùng Rhône Alpes, tỉnh Bình Dương, Vườn thiên nhiên Pilat và Trường ĐH Khoa học Tự nhiên. Ngoài việc vùng Rhône Alpes tài trợ 600.000 euro, tỉnh Bình Dương còn cấp 10 ha đất và thêm một phần kinh phí để xây dựng nhà bảo tàng trên làng tre Phú An.
Bà kể: “Đó là năm 2001. Khi dự án hoàn tất thì ở Pháp tiến hành bầu cử. Chính quyền mới không muốn tiếp tục thực hiện dự án nên cử Phó Chủ tịch vùng Rhône Alpes là ông Jean Philipe Bayon mới đắc cử đến làng với ý định bác bỏ việc tài trợ. Suốt từ TPHCM đến đây, ông ta không nói lời nào. Nhưng khi đến làng, nhìn những bụi tre được chúng tôi sưu tầm, khung cảnh thiên nhiên thoáng mát giống như một khu vườn thực vật, ông ấy thay đổi ngay ý định. Ngay sau đó, bà được mời sang Pháp để trình bày ý tưởng về làng tre tại vùng Rhône Alpes. Bằng tất cả tâm huyết, bà đã thuyết phục được nhiều người dân trong vùng Rhône Alpes hưởng ứng.
Năm 2003, một dự án được hình thành với sự hợp tác giữa 4 đơn vị là vùng Rhône Alpes, tỉnh Bình Dương, Vườn thiên nhiên Pilat và Trường ĐH Khoa học Tự nhiên. Ngoài việc vùng Rhône Alpes tài trợ 600.000 euro, tỉnh Bình Dương còn cấp 10 ha đất và thêm một phần kinh phí để xây dựng nhà bảo tàng trên làng tre Phú An.
Bảo tàng sinh thái về cây tre đầu tiên của VN
Khu  bảo tàng và bảo tồn sinh thái tre đầu tiên của Việt Nam tại xã Phú An,  tỉnh Bình Dương. Với diện tích 10ha, đây là "ngôi nhà chung" của hơn 300  giống tre Việt.
Ông  Võ Thanh Giàu, giám đốc trung tâm Bảo tàng cho biết, đây không chỉ là  nơi tập hợp nhiều nhất các loại tre, mà còn là bảo tàng sinh thái tre  đầu tiên của khu vực Đông Nam Á.
Không  gian ngoài trời của bảo tàng là nơi để du khách khám phá thiên nhiên và  thư giãn. Có nhiều khu vực tái hiện cảnh đẹp vùng sông nước đồng bằng  Nam Bộ, khu vườn thực vật, giải trí, giúp du khách có thể tìm hiểu những  nhạc cụ làm từ tre, thưởng thức các món trái cây miền Nam... Đặc biệt  là vườn bảo tồn gồm bộ sưu tập hơn 200 mẫu tre sống, thu thập từ nhiều  vùng khác nhau từ Bắc đến Nam...
Không  gian thứ hai là bảo tàng trong nhà, được thiết kế với nhiều kiến trúc  làm từ tre, phòng chiếu phim tài liệu về hình ảnh của cây tre, phòng thí  nghiệm là nơi để các nhà khoa học và sinh viên làm việc.
Theo  Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh, giảng viên Đại học Khoa học tự nhiên, trưởng  dự án Bảo tàng sinh thái tre và bảo tồn thực vật ở Việt Nam, mục đích  của việc xây dựng công trình này là nhằm bảo tồn sự đa dạng sinh học của  cây tre Việt, cùng nhiều loài cây bị đe dọa tuyệt chủng ở Vùng Đông Nam  Bộ.
Khu  Bảo tàng bảo tồn là kết quả hợp tác của 4 nơi: Vùng Rhône Alpes (Pháp),  tỉnh Bình Dương, Vườn thiên nhiên Pilat Cộng hòa Pháp, và đại học Khoa  học tự nhiên TP HCM, với vốn đầu tư 11 tỷ đồng.
Du khách có thể tìm đến địa chỉ: 124, đường 774, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương để tham quan bảo tàng.Đam mê mãnh liệt
Hiện làng có gần 2.000 bụi tre của 200 mẫu thuộc 17 loài. Nếu như ở khu tre Bắc Bộ có các loài: tre sặc, tre mai, cây gầy, lộc ngọc, Phù Đổng, hóp... thì tại khu tre Tây Nguyên những loài: vầu, nứa, le, lèn èn, tre xiêm, lồ ồ vàng, lồ ồ đen... chiếm không gian rộng lớn.
Riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long, ngoài chiếc cầu khỉ bắc qua mương, bà còn cho trồng tre gai, tầm vông... tạo nên khung cảnh yên bình. Đặc biệt, làng còn có những loài tre quý hiếm như vàng sọc, mại muồi, tre mét, tre vuông, vietnamosasa... Niềm đam mê tre khiến bà không ngại khó khăn để tìm ra giống tre mới, làm phong phú khu bảo tồn. Những chuyến xa đến Kon Tum, Đắk Nông, Quảng Ngãi, Huế, Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn..., bà đều có mặt dù tuổi cao, sức yếu.
Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh cho biết bà đang nghiên cứu ứng dụng tre trong cuộc sống như dùng tre hấp thu chì, kim loại nặng để giải phóng đất bị ô nhiễm hay dùng sợi tre để làm nguyên liệu thay thế composite, nguyên liệu chống thấm nước, túi ni lông sinh học... Nếu những đề tài này thành công, tre không chỉ góp phần làm thay đổi đời sống người dân mà còn bảo vệ môi trường hiệu quả.
Hiện làng có gần 2.000 bụi tre của 200 mẫu thuộc 17 loài. Nếu như ở khu tre Bắc Bộ có các loài: tre sặc, tre mai, cây gầy, lộc ngọc, Phù Đổng, hóp... thì tại khu tre Tây Nguyên những loài: vầu, nứa, le, lèn èn, tre xiêm, lồ ồ vàng, lồ ồ đen... chiếm không gian rộng lớn.
Riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long, ngoài chiếc cầu khỉ bắc qua mương, bà còn cho trồng tre gai, tầm vông... tạo nên khung cảnh yên bình. Đặc biệt, làng còn có những loài tre quý hiếm như vàng sọc, mại muồi, tre mét, tre vuông, vietnamosasa... Niềm đam mê tre khiến bà không ngại khó khăn để tìm ra giống tre mới, làm phong phú khu bảo tồn. Những chuyến xa đến Kon Tum, Đắk Nông, Quảng Ngãi, Huế, Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn..., bà đều có mặt dù tuổi cao, sức yếu.
Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh cho biết bà đang nghiên cứu ứng dụng tre trong cuộc sống như dùng tre hấp thu chì, kim loại nặng để giải phóng đất bị ô nhiễm hay dùng sợi tre để làm nguyên liệu thay thế composite, nguyên liệu chống thấm nước, túi ni lông sinh học... Nếu những đề tài này thành công, tre không chỉ góp phần làm thay đổi đời sống người dân mà còn bảo vệ môi trường hiệu quả.
Sau đây là vài hình ảnh tại Làng tre Phú An, tỉnh Bình Dương trong ngày đầu tiên khánh thành:
| Bảo tàng sinh thái tre đầu tiên tại Việt Nam. | 
| Các nhà khoa học Pháp và Việt Nam đi dạo trong khuôn viên bảo tàng. | 
| Không gian tái hiện cảnh vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. | 
| Chị Isabelle Mangione, sinh viên đại học INPG, Pháp, hiện đang thực tập tại TP HCM cho biết chị rất thích thú với công trình bảo tàng sinh thái tre. "Đây là một nơi lý tưởng để người nước ngoài tìm hiểu về một nét lịch sử văn hóa rất Việt Nam", Isabelle nói. | 
| Một góc gian phòng trưng bày các vật dụng, nông cụ làm từ tre của người Việt. | 
| Một loại tre vàng sọc, giống tre của tỉnh Phú Thọ nằm trong khu Bảo tàng sinh thái. | 
| Em Hanameelle, học sinh lớp 2 trường tiểu học Colette, TP HCM cho biết, em từng xem biết về cây tre Việt Nam qua hình vẽ trong sách, nhưng đây là lần đầu tiên em được nhìn thấy và sờ vào một cái măng tre. | 
Người đàn bà say mê tre
TTCT  - Kể từ sau chuyến đi New York (Mỹ) nhận giải  thưởng của UNDP trao cho  dự án làng tre Phú An, tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh  lại tất bật với dự  định nghiên cứu phát triển những tính năng của cây  tre vào đời sống  kinh tế, qua đó góp phần nâng cao giá trị hoạt động bảo  vệ môi trường. 
| Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh, giảng viên Trường đại học Khoa học tự nhiên, dành phần lớn thời gian làm việc ở làng tre - Ảnh: Thuận Thắng | 
Trong  những ngày tháng 9-2010 trên đất Mỹ, tại buổi lễ  trao giải, tiến sĩ  Diệp Thị Mỹ Hạnh đã nói với chúng tôi về mong muốn  phát triển hơn nữa  khu bảo tồn tre. Ngay khi về nước, bà đã dành phần  lớn thời gian cuối  năm cho hành trình tìm kiếm các giống tre mới với sự  trợ giúp của người  dân địa phương. Ra Hà Nội rồi đáp máy bay đi Luang  Prabang (Lào), sau  đó bà lần ngược lên Điện Biên Phủ, xuôi về Quảng Trị,  vào Kon Tum rồi  về lại Phú An (Bình Dương). 
Chuyến đi hơn một  tháng đã giúp bà bổ sung hơn 70 giống  tre mới cho vườn ươm và sưu tập  (hiện làng tre Phú An trồng trên 175  giống). Chỉ chúng tôi xem một thân  tre thật to trồng trong vườn sưu tập,  bà nói: “Đây là tre nước, tên  gọi như vậy vì ở Thái Nguyên người ta  dùng nó làm ống dẫn nước”.
Từ ước mơ giữ lại lũy tre làng
Ngày   21-2, Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích phát triển ngành   mây tre, trong đó có biện pháp miễn giảm thuế sử dụng đất cho các tổ   chức, cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư đầu tư trồng rừng nguyên   liệu mây, tre và áp dụng thuế suất nhập khẩu 0% đối với máy móc, thiết   bị chuyên dùng cho sản xuất hàng mây tre trong nước chưa sản xuất được   theo danh mục do Bộ Công thương ban hành. Quyết định này có hiệu lực từ   ngày 5-4-2011 cũng nêu rõ việc ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí   để thực hiện việc điều tra trữ lượng, diện tích các giống mây tre, ứng   dụng công nghệ sinh học vào các khâu bảo quản, chế biến...  | 
Dự  án khởi đầu cách nay gần 10 năm, phát triển trên ý  tưởng của dân làng  Phú An “muốn được sống trong môi trường sạch, đẹp và  yên tĩnh” - theo  lời bà Hạnh - trên địa bàn rộng hơn 3.000ha ở thời điểm  chính quyền địa  phương quyết định không phát triển nhà máy tại khu vực  vốn đã có quá  nhiều khu công nghiệp. Nhưng sâu xa hơn, như bà tâm sự, là  mong muốn  được góp phần vào việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và bảo  vệ môi  trường tại quê hương Bến Cát, Bình Dương, trong đó có hình ảnh  của làng  quê Việt Nam vùng Đông Nam bộ với lũy tre làng. 
Triển  khai trên diện tích 10ha, dự án nhận được tài trợ  600.000 euro của  vùng Rhône-Alpes thông qua vườn Pillat, một khu bảo  tồn tài nguyên  thiên nhiên ở Pháp, với hai đối tác ở Việt Nam là Trường  đại học Khoa  học tự nhiên (Đại học Quốc gia TP.HCM) và tỉnh Bình Dương.
Với  giải thưởng Xích đạo của UNDP, dự án cần được quảng  bá nhiều hơn để  tạo hiệu quả lan tỏa. Đó là điều mà các sinh viên Pháp  tại Đại học  Lille III đang đóng góp. Cô Marion Langlois, nghiên cứu sinh  năm 2 thạc  sĩ chuyên ngành quan hệ văn hóa và hợp tác quốc tế đang thực  tập tại  làng tre, nói: 
“Chúng tôi có khá nhiều dự án về  phát triển bền vững  nhưng muốn tạo sự liên thông với dự án làng tre,  nhất là trong việc  quảng bá địa điểm và giúp cư dân địa phương tham gia  dự án ở góc độ bảo  vệ môi trường sống của chính mình. Hiện chúng tôi  đang làm các brochure  giới thiệu bộ sưu tập tre cho du khách, đặc biệt  là tiếp xúc với các tạp  chí, cơ quan, đại học, viện nghiên cứu ở Pháp,  Québec (Canada), Thụy  Sĩ, Anh, Mỹ... để giúp họ biết đến làng tre này  và tiến tới các quan hệ  hợp tác”. 
Tốt nghiệp  ngành sinh lý thực vật Đại học quốc gia Sài  Gòn năm 1974, bà Hạnh lấy  bằng tiến sĩ về khoa học môi trường tại Đại  học Paris 12 (Pháp) năm  1994. Hiện là giảng viên của Đại học Khoa học tự  nhiên, nhưng đa số  thời gian bà Hạnh làm việc ở làng tre. Nơi đây đang  trở thành địa điểm  lý tưởng cho học sinh, sinh viên trong nước và quốc  tế đến tìm hiểu,  nghiên cứu, thậm chí làm đề án. 
Trên đường hướng  dẫn tham quan vườn sưu tập, thỉnh  thoảng bà Hạnh ngừng giải thích bởi  các cuộc điện thoại. Gần như ngày  nào cũng có khách tham quan, phần  nhiều đến từ TP.HCM (cách làng tre  42km). Đối với các đoàn, trong đó có  cả trường học, thì phải hẹn trước.  “Thứ năm này sẽ có 60 học sinh đến  đây. Các em thường vẽ tranh về tre  sau khi được giải thích sự khác biệt  giữa các giống tre” - bà nói. 
| Vườn ươm tre tập trung nhiều giống được ưa chuộng - Ảnh: Q.Thái | 
Tre chữa bệnh và xử lý nước thải
Khi  được hỏi về những câu chuyện thú vị trong hành  trình tìm tre, bà Hạnh  cười bảo: “Ô, nhiều lắm, chẳng hạn cây lèng eng  đây”. Chỉ một bụi tre  thấp nhỏ có lá xanh tốt, bà cho biết đây là giống  tre lấy về từ Quảng  Trị. Gần đây có đoàn dân tộc Vân Kiều trên 20 người  thuê xe vào tham  quan, nghe bà bảo ở đây có tre Quảng Trị gọi là lèng  eng, họ cười rần  lên. 
“Tên đúng của nó là Làng An, nhưng người miền  Trung  phát âm là “lèng eng”. Thế là họ bảo cứ gọi nó là lèng eng cho  vui”. Đây  là loại tre có bộ rễ phát triển ngầm dưới đất nên các bụi tre  mọc lên  cách nhau cả vài mét.
Ngay sau cổng vào  khu vườn thực vật có vài bụi tre gai.  Theo Từ điển bách khoa dược thảo  Larousse của Pháp (Larousse  Encyclopédie des Plantes médicinales), gần  như tất cả bộ phận của tre  gai, từ rễ, lá đến măng đều được sử dụng  trong y học cổ truyền Ấn Độ.  Nước ép từ thân tre gai chứa rất nhiều  silice, có tác dụng tốt trong  việc làm tăng sức chịu đựng của các mô  xương và sụn. 
“Tôi đang phối hợp với trường dược  để thử dược tính một  số giống tre trong điều trị bệnh, chẳng hạn làm hạ  nhiệt, giảm căng  thẳng. Nếu triển khai thành công thì rất tốt” - bà  Hạnh nói.
Tre còn có tính năng xử lý nước thải.  Công ty Sài Gòn  Tantec do Đức đầu tư ở Khu công nghiệp Việt Hương,  chuyên sản xuất và  cung cấp da thuộc cho các hãng thời trang thế giới,  đã đặt hàng đề tài  này với bà Hạnh. 
“Tôi cho xây  cái hồ, đổ đất vào và áp dụng nguyên tắc  lọc gồm có đá lớn, đá nhỏ, cát  rồi trồng tre ở bên trên. Nước thải từ  nhà máy sẽ thẩm thấu qua bãi  trồng tre, rễ tre sẽ hút và cho ra nước xử  lý rất tốt. Tôi đã thử làm  với lục bình và vetiver, nhưng hai loại cây  này chịu không nổi với nước  thải. Chỉ có tre là tốt nhất”. Thử nghiệm  thành công này đã được công  ty đưa vào ứng dụng. 
| Tiến sĩ Hạnh giới thiệu với sinh viên Trường ĐH Sư phạm TP.HCM một loại tre kiểng (tên khoa học là Bambusa multiplex) có tác dụng xử lý chất độc trong đất và nước - Ảnh: Thuận Thắng | 
Giá trị môi trường
Thế  giới có hơn 1.200 giống tre, theo Wikipedia. Ở khu  vực châu Á, nghiên  cứu về tre và trồng rừng mạnh nhất là Trung Quốc với  những rừng tre bạt  ngàn mà phim ảnh đã cho thấy. Bà Hạnh nhấn mạnh: “Ở  Trung Quốc là tre  ôn đới. Việt Nam có chiều dài với hai hệ thực vật rõ  rệt: ở miền Bắc là  tre liên quan đến phả hệ Trung Quốc, trong khi miền  Nam gắn với phả hệ  Indonesia và Malaysia”.
Giá trị kinh tế của tre đã  được biết đến nhiều trong  chế biến thực phẩm, xây dựng, làm hàng nội  thất, thủ công mỹ nghệ...  Nhưng giá trị về mặt môi trường còn lớn hơn  nhiều, nhất là trong việc  giáo dục ý thức bảo vệ sinh thái ở người dân.  Trồng tre thành rừng trên  đất đồi trọc sẽ giúp chống xói mòn, đồng  thời bán được chỉ số carbon cho  thế giới. 
Tre  trồng khai thác lần đầu tiên sau ba năm, các năm  sau đó cứ liên tục  khai thác. Một hecta trồng 400 bụi tre đến tuổi khai  thác, theo tính  toán của bà Hạnh, mỗi năm có thể thu hoạch 4-5 cây/bụi.  Nhưng thuyết  phục được người dân về lợi nhuận của tre so với các cây  trồng khác, như  cao su chẳng hạn (từ 6-7 năm đã khai thác mủ), là chuyện  không đơn  giản. 
Trong dân gian người ta nói trồng tre làm hư  đất vì  không trồng được thứ gì khác. Sở dĩ có chuyện này là vì tre mọc  quá  mạnh, tán lá che hết ánh sáng không cho cây khác phát triển. Bà  Hạnh đã  cho sinh viên làm đề tài chứng minh trồng tre không làm hư đất.  Bà giải  thích: “Rễ tre đa số phát triển xung quanh bụi chứ không đi  xa, ngoại  trừ cây lèng eng. 
Khi phân tích so sánh  dinh dưỡng của đất trong vườn cao  su, điều, tre và đất không trồng  loại cây nào thì cây tre là loài thực  vật lấy dinh dưỡng của đất ít  nhất. Bởi vậy người trồng cao su phải bón  phân nhiều, trong khi trồng  tre thì không cần. Trong vườn tre có rất  nhiều trùn đùn đất lên. Khi  phân tích đất trồng tre sau năm năm, kết quả  cho thấy hàm lượng hữu cơ  tăng lên rất cao so với ban đầu”.
Thực tế làng tre  Phú An gần như đã xong giai đoạn sưu  tập và bảo tồn các giống tre. Việc  góp phần phát triển cộng đồng theo  hướng tìm đầu ra sinh lợi cho người  trồng tre và đa dạng hóa sản phẩm  vẫn còn chờ thời gian. Trước khi gặp  chúng tôi, bà Hạnh vừa tiếp nhóm  khách đến đặt vấn đề cung cấp măng và  tầm vông. Cũng đã có cơ quan, xí  nghiệp đặt làm hàng rào bằng tre  nhưng bà Hạnh không lấy sản phẩm ở làng  tre mà đi tìm trong dân, hướng  dẫn họ làm giống để cung cấp. “Đây cũng  là một cách giúp người dân có  thu nhập từ tre” - bà nói. 
Bà Hạnh dự kiến cuối  năm 2012 làm một lễ hội tre Việt  Nam nhằm một mặt giới thiệu loài thực  vật đa dạng này, mặt khác tìm  nguồn kinh phí để tiếp tục công việc  nghiên cứu và mang lại giá trị  thặng dư cho cây tre. “Tôi cũng dự kiến  có một mô hình làng nghề sản  xuất các dụng cụ bằng tre. Vải được chiết  xuất từ tre có sợi rất mịn và  mặc rất mát. Ở Pháp, một chiếc áo vải tre  có giá khoảng 30 euro” - bà  nói.
Trong câu chuyện  trao đổi hào hứng với chúng tôi về  những dự định tương lai, thỉnh  thoảng tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh không  giấu được sự lo âu trước những  rắc rối về mặt quản lý và cả những khó  khăn trong việc tạo nguồn thu  cho hoạt động của đội ngũ nhân viên làng  tre. 
Cũng  dễ thông cảm cho một phụ nữ rất ngại nói về bản  thân, ít nhắc đến  chuyện gia đình và chỉ chuyên tâm vào hướng nghiên cứu  gắn liền với  việc tăng giá trị cho một sản vật quê hương. Nhưng chúng  tôi tin bà  không bỏ cuộc, vì xung quanh bà luôn có những cộng sự đang và  sẽ chung  tay góp sức cho dự án. 
“Tôi là nô lệ công việc của  cô ấy” - giáo sư Gurgand  hiền hậu cười nói với chúng tôi trong căn nhà  lá treo lủng lẳng rất  nhiều vật dụng làm bằng tre.
| Các mẫu anagyre làm từ tre - Ảnh: Q.Thái | 
Anagyre: chỉ quay đúng hướng
“Đây  là một món đồ chơi quay được trên một mặt phẳng,  nhưng chỉ quay được  theo chiều kim đồng hồ. Nếu dịch chuyển theo chiều  trái, nó sẽ chao đảo  rồi tự động tìm lại hướng đúng, tức quay ngược lại  theo chiều phải.  Trong khoa học, người ta gọi đây là động năng hoặc năng  lượng chuyển  động”. Ông Bruno Minguet, một nghệ nhân điêu khắc gỗ, giải  thích với  chúng tôi về cái anagyre có hình êlip làm bằng tre ông đang  chế tác tại  làng tre Phú An. 
“Với một miếng gỗ bằng phẳng thì  dễ làm ra anagyre,  nhưng với cái mắt tre này tôi phải tìm cách tạo ra  một định dạng thích  hợp, với phần mũi hơi nhô cao hơn. Cái khó là phải  phối hợp phần hợp lý  của miếng tre để nó quay được như anagyre và phần  tự nhiên của nó, tức  cái mắt tre, còn giữ lại vài cành nhỏ nhô lên”. 
Làm nghề điêu khắc gỗ từ 35 năm nay ở Pháp, ông Bruno hoạt động sáng tác tại Puy du Fou (xem trang web www.sculpture-minguet.com), một khu công viên giải trí có các phân xưởng giới thiệu hoạt động làng nghề. 
Ông  kể: “Khi đến tham quan công viên này và phát hiện  đặc tính kỳ lạ của  anagyre, bà Hạnh hỏi tôi liệu có thể làm nó bằng tre.  Tôi nghĩ rằng  không, vì đối với tôi cây tre quá nhỏ và lại mỏng. Thế là  bà ấy mang  đến vài mẩu tre để tôi làm anagyre, trong đó có cả rễ tre,  rồi đề nghị  tôi giúp hướng dẫn vài nhân viên sẽ đưa sang đây học nghề.  Tôi trả lời  tốt nhất là tôi đến Việt Nam nên mới có chuyến đi này”. 
Giới  thiệu anh Huyền, một học trò khéo tay mà ông có  dịp hướng dẫn làm  anagyre bằng gỗ dừa ở Bến Tre, ông Bruno nói thêm:  “Anh ta nắm bắt  nguyên tắc anagyre rất nhanh và vận dụng nó trong các  sản phẩm làm ra  dưới nhiều hình dạng, trong đó có cả máy bay, tàu”. Bà  Hạnh cho biết sẽ  mở phân xưởng để anh Huyền làm các anagyre như một cách  đa dạng hóa  sản phẩm từ tre. 
Ông Bruno nói: “So với xã hội  Pháp vốn đã bảo hòa, tôi  thấy ở Việt Nam vẫn còn nhiều thứ để khởi đầu,  để sáng tạo. Những  anagyre do làng tre làm ra có thể bán cho du khách  và sẽ thu hút nhờ đặc  tính độc đáo của nó”.
Độc đáo Bar “Gió và  nước”
Khoảng  1  năm trở lại đây, công trình cafe Gió và Nước tại số 6/28T khu 3 Phú  Thọ,  Thủ Dầu Một, Bình Dương đã trở nên nổi tiếng khắp giới kiến trúc  bởi  thiết kế độc đáo. Chủ nhân của công trình này là KTS Võ Trọng Nghĩa  và  các cộng sự.
Chàng  KTS trẻ với khuynh hướng  kiến trúc “tranh tre nứa lá” này, sau thành  công vang dội cả ở trong và  ngoài nước với Café Gió và nước lại gây bất  ngờ lớn với Bar “Gió và  nước”. Quán bar này đã giành giải Nhì (không  có giải Nhất) trong Giải  thưởng kiến trúc Quốc gia năm 2008, vừa được  công bố ngày 8/2 vừa qua.
Quán  bar wNw với kiến trúc mái vòm đặc biệt, hoàn toàn bằng tre  đã "xuất  hiện" tại thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đây là công trình  thân thiện  với môi trường, không cần máy điều hòa vẫn tạo được không khí  mát mẻ.
Công trình Bar  “Gió và nước” nằm trên khuôn viên đất rộng 5.000 m2, đã được  hoàn thiện trong vòng 3 tháng, từ tháng 10/2007 đến tháng 1/2008.
Công trình này có thể chứa được 150 người, dùng làm quán bar,  hoặc nơi tổ chức sự kiện, hội thảo... 
Đây là công trình thứ hai của kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa ứng  dụng nguyên tắc khí động học và xây dựng bằng tre, sau wNw Cafe  hoàn  thiện năm 2005, từng nhận được nhiều giải thưởng trong nước và  quốc tế.  Tuy nhiên, điểm độc đáo của công trình mới này là hệ kết cấu  vòm, cao 10  m và vượt nhịp tới 15 m.
"Thi  công một công  trình bằng tre vượt nhịp lớn là một đột phá về kỹ thuật  nhưng lại có  khả năng nhân rộng vì đã được đơn vị hóa, dễ tháo lắp, tái  sử dụng cao,  có thể giải quyết vấn đề sơ tán cư dân khi có thiên tai  lớn xảy ra, cũng  có thể dành cho mục đích kinh doanh", tác giả cho  biết.
Ngoại  trừ phần nền móng, công trình hoàn toàn không sử dụng sắt  thép mà chỉ  là tre (cho hệ khung chính) và vọt (lợp mái), hai loại cây  sinh sản  nhanh, có thể khai thác ở nhiều vùng miền, vừa rẻ, lại vừa thân  thiện  với môi trường. Vật liệu được ngâm bùn và hun khói theo phương  pháp dân  gian giúp kéo dài tuổi thọ.
Quy  mô Bar Gió và nước tuy nằm trong khuôn viên quán café nói  trên, nhưng  tính kỹ thuật và quy mô kết cấu của nó lại lớn hơn. Công  trình này làm  bằng tre và không có cột, nhưng vòm của nó lại tới 15m.  Khổ vòm như vậy  là rất lớn, phải là một kỹ thuật rất hiện đại mới có thể  thực hiện  được. Không những kỹ thuật khó, mà các cấu kiện của công  trình này còn  được chế tạo và lắp ghép như các chi tiết của một cỗ máy.  Sau khi được  sản xuất ở nhà xưởng, chúng mới được mang ra “lắp ghép”  trên thực địa. 
Điều  đặc biệt nữa của quán bar là hệ thống làm mát tự nhiên ứng  dụng nguyên  tắc khí động học. Công trình nằm trên một hồ nước nhân tạo,  sử dụng  gió và khả năng làm mát không khí từ hồ nước, thông qua những  cửa sổ  sát mặt nước. Trên đỉnh mái có một lỗ hở với đường kính 1,5 m.  Không  khí nóng bên trong sẽ được hút lên cao và thoát ra bên ngoài. Khi  nhiệt  độ ngoài trời 
Việc  dùng tre và thi công theo  dạng lắp ráp sẽ tiết kiệm chi phí, nhân công  và thời gian, cùng với việc  không sử dụng máy điều hòa nên sẽ giúp  tiết kiệm năng lượng khi đầu tư  và cả vận hành.
Theo KTS Nguyễn Tấn Vạn, Chủ  tịch Hội KTS Việt Nam:   “Bar Gió và nước với những kiến trúc đơn sơ mà tinh tế, những vật liệu   rẻ tiền mà bền vững, giàu sức biểu cảm, những bài trí tiết kiệm mà  tiện  nghi, ấm cúng”.
Cận cảnh phía trong của công trình, mọi vật liệu đều được làm bằng tre. Một quầy bar nho nhỏ ở tầng lửng trong không gian toàn tre.
Special thanks to:
http://www.caytreviet.com
  |               ||
Bám rễ cứng Đến   chân núi Dài (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), hàng ngàn, hàng triệu bụi   tầm vông đập vào mắt. Tầm vông sống trên triền dốc, vườn nhà, chúng  mọc  thành bụi, chẳng cần chăm sóc vẫn xanh um, tươi tốt. Những cây tầm  vông  vươn mình trong nắng gió, trong cát núi vàng vàng, trong cái khắc  nghiệt  miệt đất Tri Tôn này tựa như con người xứ núi.  Dẫn   chúng tôi thăm vườn tầm vông lâu đời xứ này, chú 3 Lũy (Diên Văn Lũy,   80 tuổi, ngụ ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn) bảo rằng: “Cây  tầm  vông này ngày trước chỉ để làm đồ lặt vặt trong nhà như cán búa,  cán  dao hay cột kèo nhà lá. Khoảng chục năm nay, người ta mua tầm vông   nhiều, thương lái dọ hỏi quá trời. Nói thiệt, phần nào cũng nhờ bán cây   tầm vông mà tui nuôi 5 đứa con đỗ đạt thành tài. Tụi nhỏ dựng vợ gả   chồng về thành phố, lên Sài Gòn hết, hai vợ chồng già quây quần bên vườn   tầm vông này sống khỏe”. Từ vườn tầm vông gần 3 ha, chú 3 Lũy thu về  cả  trăm triệu đồng mỗi năm. Trải rộng bóng râm Tại   bến Xã (xã Lương Phi) có bãi tầm vông lớn nhất vùng. Trên bờ, hàng  chục  lò uốn đang hoạt động hết công suất, hàng trăm con người đang  nhanh tay  uốn thẳng những ngọn tầm vông phất phơ trên ngọn lửa hồng.  Hàng trăm  con người đang tất bật chặt, róc, uốn, đẻo thang… để kịp  những chuyến  hàng.  Bến   Xã có 5 trại: Hai Ngọc, Bảy Sách, Hai Mẫn, Sáu Kiểng, Ba Bul. Mỗi trại   có từ 4 đến 7 lò uốn, thu hút trên chục nhân công làm việc mỗi ngày.   Ngoài Bến Xã, còn có các bãi ăn hàng tầm vông như bến Bò, bến đầu lộ ba   Chúc… mỗi ngày tiêu thụ khoảng 10 ngàn cây tầm vông đi các tỉnh đồng   bằng, nhiều nhất là Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng.  Chị   7 Nguyệt (ấp An Ninh), một trong những thợ uốn tầm vông lành nghề, tâm   sự: “Năm nay, tầm vông ăn hàng mạnh, vựa luôn đầy hàng nên nhân công   uốn, róc như chúng tôi thu nhập cũng khá”. Là lao động nghèo, lại đến 8   mặt con, vợ chồng chị ngày trước làm biết bao nghề mà cái nghèo cái khó   vẫn cứ đeo đẳng. Khi cây tầm vông bắt đầu chạy hàng, sẵn biết cách uốn   tầm vông từ thuở bé, vợ chồng chị bắt đầu đeo nghề uốn tầm vông quanh   năm suốt tháng. Bây giờ vợ chồng chị đã cất được căn nhà để ở, mấy đứa   con đều cắp sách đến trường.  Những thợ uốn lành nghề mỗi ngày có thể uốn từ 200 đến 800 cây. Giá công uốn mỗi cây là 500 đồng.  Tầm   vông tầm hai năm tuổi bắt đầu thu hoạch. Tầm vông thu hoạch gần như   quanh năm, khoảng tháng 6 - 7, tầm vông măng lên thì ngưng bớt.  Sau   khi róc lá, cành, tầm vông sẽ được uốn thẳng - khâu quan trọng nhất,   quyết định chất lượng và độ sắc xảo của tầm vông. Cây thẳng, ít đốm (do   quá lửa) sẽ có giá cao và ngược lại. Người thợ lành nghề mới biết cách   đảo chiều tầm vông tạo dáng thẳng, nhìn ngọn lửa, chiếu thổi của gió mà   dàn điều thân từ gốc đến ngọn. Mỗi mẻ tầm vông ăn thước củi được trăm   cây. Tầm vông thành phẩm chia làm nhiều loại theo kích thước, từ 4 - 9   mét, giá 4.000 - 6.000 đồng/mét.  Nhìn   cảnh bến Xã ghe xuống tấp nập lên hàng, chủ vựa Hai Ngọc vui mừng:  “Làm  ăn được vầy hoài, chẳng mấy năm nữa, cây tầm vông miệt này sẽ trở  thành  cây làm giàu cho coi. Lúc đó, sẽ chẳng còn ai dám bảo cuộc sống  bấp  bênh phất phơ như ngọn tầm vông nữa rồi!”.   | 
Cây lồ ô (Bambusa procera A. Chev. & A. Cam., 1922; Họ: Hoà thảo – Poaceae) Hình thái: Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm thành bụi thưa, thường không thẳng, chiều cao cây 14- 18m, ngọn cong rủ, đường kính phổ biến 5-6cm, to hơn là 7-8cm; chiều dài trung bình của lóng 40-60cm, các lóng giữa thân dài đến 80-90cm, các lóng gốc chỉ dài 30-50cm; vách thân dầy 1,1cm. Thân tròn đều, nhẵn, vòng mo nổi rõ, được phủ bằng một lớp lông màu nâu xám bạc. Lúc non thân tre màu xanh bạc do được phủ bằng một lớp lông trắng; khi già thân màu lục và có địa y trắng mọc loang lổ từng đốm. Cành chính 1, to, dài 2-3m, đường kính 2-3cm; gốc cành phát triển và ít cành nhỏ. Phiến lá thuôn dài, dài 20-30cm, rộng 2-4cm, đầu nhọn, đuôi hơi thuôn, có 1 gân chính và nhiều gân bên song song, nổi rõ. Bẹ mo hình thang cân, đáy rộng 20-30cm, đầu bẹ mo rộng 5-8cm hơi lõm, cao 28cm; mặt ngoài bẹ mo được phủ một lớp lông màu nâu, mặt trong nhẵn bóng; lá mo hình mũi giáo dài 20cm rộng 4cm, có gân sọc cả 2 mặt; tai mo không phát triển, có dạng lông cứng; lưỡi mo xẻ sâu. Cụm hoa phân nhánh nhiều, ở mỗi nhánh, trên các đốt có 3-5 bông nhỏ, xếp thành hình đầu. Bông nhỏ nhọn đầu, hơi dẹt, màu vàng xanh hay tím, dài 1,5-2,5cm, rộng 5-8mm, mang khoảng 5-7 hoa. Các hoa lưỡng tính ở giữa, các hoa trên ngọn và dưới gốc phát triển không đày đủ. Gốc bông nhỏ mang 2 lá bắc lớn màu vàng nhạt. Mày nhỏ ngoài màu cỏ úa, mày nhỏ trong 8-10mm. Hoa lưỡng tính. Nhị 6, rời; nhuỵ có 2 vòi.
Các thông tin khác về thực vật: Loài tre này trước đây được định nhầm tên khoa học là Schizostachyum zollingeri Steud. Thực ra tên khoa học này là của một loài nứa mo tím phân bố ở Đà Nẵng. Nay đã định lại tên khoa học của loài lồ ô là Bambusa procera A. Chev & A. Camus vì hoa lồ ô có các đặc điểm của chi Tre (Bambusa), chứ không mang đặc điểm của chi Nứa (Schizostachyum). Cần chú ý là tên lồ ô thường được dùng để chỉ rất nhiều loài tre khác nhau của nhiều địa phương ở các tỉnh phía Nam, giống như tên nứa dùng để chỉ nhiều loài tre của miền Bắc. Vì vậy một số loài tre của Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng... có tên địa phương là lồ ô, nhưng không phải là loài lồ ô chính thức - Bambusa procera được giới thiệu trong bài viết này.
Phân bố: Việt Nam: Lồ ô là cây đặc hữu của phần Nam Đông Dương gồm Nam Việt Nam, Nam Lào và Cămpuchia. Ở Việt Nam lồ ô mọc phổ biến từ tỉnh Quảng Nam trở vào; tập trung nhất ở phần Nam Tây Nguyên (tỉnh Lâm Đồng) và vùng Đông Nam Bộ. Đặc biệt mọc thành rừng có diện tích lớn (được gọi là biển tre) ở tỉnh Bình Phước và Bình Long – Riêng huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước rừng lồ ô chiếm tới 40% diện tích toàn Huyện. Ở hầu hết các tỉnh khác của vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ đều thấy lồ ô mọc rải rác. Thế giới: Nam Lào và Cămpuchia.
Đặc điểm sinh học: Lồ ô phân bố ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, chịu ảnh hưởng rõ rệt của gió mùa: Nhiệt độ trung bình năm dưới 270C, lượng mưa hàng năm 1500-2000mm tập trung từ tháng 4 đến tháng 11. Độ cao so với mặt biển 100-400m. Địa hình là những đồi thấp, nhấp nhô, lượn sóng. Đất mầu đỏ hoặc nâu vàng, thành phần cơ giới thịt hoặc sét, thoát nước tốt, không có đá lẫn, lớp đất dấy trên 100cm, độ phì cao. Cây rất ưa đất phù sa cổ, đất nâu trên ba zan có tầng dày, sâu và ẩm. Rừng lồ ô đựơc hình thành trong quá trình diễn thế do khai thác rừng gỗ; có khả năng phát triển ở mọi vị trí của các dạng địa hình nhưng tập trung nhất là ở sườn và đỉnh đồi. Chúng mọc tự nhiên thành các khu rừng lớn, thuần loại hoặc hỗn giao với một số loài cây gỗ như: gáo (Adina sp.), đỏ ngọn (Cratoxylon sp.), thị (Diospyros sp.), cò de (Grewia paniculata) hoặc các loài tre khác như mum, nứa … Người dân cho biết lồ ô ra hoa kết hạt ở từng khóm hoặc từng cây trong khóm rồi chết, những cây hoặc những khóm còn lại vẫn sinh trưởng bình thường. Chưa gặp cây ra hoa hàng loạt. Hàng năm măng mọc từ tháng 6 đến tháng 10. Đầu vụ, măng mọc rải rác, tỉ lệ phát triển thành thân khí sinh rất thấp. Giữa vụ (từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 8), măng lên nhiều, bình quân một ngày thêm 70-100 măng trên 1ha, rộ nhất vào đầu tháng 8, tới 230 măng trên 1ha một ngày, măng đều to, khoẻ ít bị chết. Cuối vụ (tháng 9 tháng10), măng mọc rải rác và chết nhiều nhất. Lượng măng trên 1ha tuỳ thuộc trạng thái rừng: Rừng già thường 2.500-3.000 măng/ha, rừng ổn định sau khai thác thường 3.500-4.000 măng/ha, sau chặt trắng lên tới 6.000-7.000 măng/ha. Măng thường chết ở độ cao 30cm,tỉ lệ măng chết trong cả vụ khoảng 30-40% nhưng với lượng măng sinh ra cũng đủ cho rừng lồ ô phục hồi ổn định đạt mật độ 6.500 cây/ha. ở rừng nguyên mới hình thành sau khai thác rừng gỗ đến 10.500 cây/ha ở trạng thái rừng sau khai thác đang trong quá trình phục hồi với số khóm từ 550-900 khóm/ha. Phân bố số cây theo tổ tuổi ở rừng già thường là: Tuổi non 19%, tuổi vừa 15%, tuổi già 66% - những rừng này cần phải đưa vào khai thác. Điều cần được quan tâm là sau khi bị tác động, tốc độ phục hồi, tuy nhanh nhưng chất lượng cây (chiều cao, đường kính) giảm mạnh. Thời gian sinh trưởng của măng lồ ô khoảng 70 ngày. Tuổi thành thục của thân tre là sau 3 năm. Tuổi thọ không quá 8-10 năm.
Công dụng :Thân lồ ô có tỉ lệ cellulose trên 50%, lignin 22,37%, chiều dài sợi đạt 1,9-2,2mm; vì vậy được dùng làm nguyên liệu tốt cho sản xuất giấy trắng cao cấp, có độ dai cao. Lồ ô có tỷ trọng (khô kiệt) là 785kg/m3, độ bền nén dọc thớ 598,7kg/cm2, độ bền uốn xuyên tâm là 3448kg/cm2. đọ bền uốn tiếp tuyến 2499kg/cm2 (Đoàn Thị Thanh Hương - 2001), đáp ứng yêu cầu trong xây dựng. Cây có lóng dài thích hợp để chế biến ván ép. Trong cuộc sống hàng ngày lồ ô được dùng phổ biến từ việc làm đồ dùng đến măng ăn.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Nhân giống:Lồ ô là loài tre phổ biến khắp nơi, lại thường mọc thành rừng, nên tới nayn vẫn chưa có công trình nào về việc nghiên cứu trồng lồ ô. Thực tế thì lồ ô cũng dễ trồng bằng gốc như các loài tre mọc cụm khác. Để phát triển lồ ô trên qui mô lớn có thể nghiên cứu trồng bằng cành, vì quan sát thấy, trong điều kiện rừng ẩm thường xuyên, đôi khi dưới gốc cành chính cũng xuất hiện rễ. Trồng và chăm sóc:
Khai thác, thu hoạch, chế biến và bảo quản Nghiên cứu cấu trúc rừng lồ ô của Lâm Xuân Sanh (1981), cho biết: trong 1ha rừng lồ ô thuần loại cây non (1 năm tuổi) chiếm 20%; cây trung niên (2-4 tuổi) chiếm 38,7% và cây già (trên 5 tuổi) chiếm 23,7%. Cũng trong 1ha rừng trên có 4.438 cây sống (83,3%) và 887 cây lồ ô chết, do quá già (16,7%). Vì vậy nếu để rừng lồ ô quá già, không khai thác sẽ gây lãng phí. Khi khai thác cần theo phương thức sau: Tuổi chặt: Tốt nhất là chặt các cây trên 3 năm tuổi. Chu kỳ và lượng chặt: chu kỳ chặt 1-3 năm tuỳ điều kiện và yêu cầu. Nếu chu kỳ 1 năm, nên chặt hết các cây trên 4 tuổi và một phần các cây trên 3 tuổi.Tỷ lệ chặt trung bình 25-35%. Chu kỳ này chỉ áp dụng trong điều kiện rừng vườn. Chu kỳ 2 năm thích hợp nhất để khai thác rừng lồ ô, chặt cây 3-4 tuổi và chừa lại cây 1-2 tuổi để sinh và nuôi măng.Tỷ lệ chặt trên 50% trữ lượng ở những khu rừng ổn định và 40-50% ở các khu rừng đang trong quá trình phục hồi. Khai thác cũng là biện pháp đẩy nhanh tốc độ phục hồi cho các khu rừng này. Chu kỳ 3 năm: chặt các cây trên 3 tuổi (3-5năm) với tỷ lệ sản phẩm khoảng 55-65% trữ lượng rừng. Phương thức này tốt về kinh tế, nhưng ảnh hưởng đến chất lượng rừng vì rừng bị mở tán quá mạnh, tạo nhiều khoảng trống. Năng suất rừng lồ ô. Sản lượng rừng thay đổi tuỳ theo điều kiện đất đai và trạng thái của rừng. Ở trạng thái phục hồi, rừng đạt sản lượng 2-2,5 tấn/ha/2năm; rừng hỗn giao lồ ô + gỗ 5-5,5 tấn/ha/2năm. Đây là mức năng suất phổ biến của rừng tre trên thế giới. Do rừng lồ lô thường là đối tượng kinh doanh nguyên liệu giấy hay làm nguyên liệu chế biến thủ công mỹ nghệ, nên việc khai thác măng cần rất hạn chế; đồng thời sau khai thác phải tiến hành dọn vệ sinh, phòng trừ sâu hại cho rừng.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn Lồ ô là loài LSNG đặc hữu và đa tác dụng, là một trong những loài tre quen thuộc nhất đối với người dân các tỉnh phía Nam. Càng ngày người ta càng tìm ra nhiều giá trị sử dụng mới của lồ ô (làm đũa, làm ván sàn…). Vì vậy cần phải nghiên cứu, bảo vệ và phát triển loài tre có nhiều giá trị này. Đặc biệt chú ý khả năng gieo trồng bằng hạt của lồ ô để phát triển chúng trên qui mô lớn trong tương lai. Hiện nay nhu cầu sử dụng lồ ô rất nhiều, nhưng việc quản lý còn nhiều lỏng lẻo, khai thác quá lượng cho phép, không đảm bảo vệ sinh sau khai thác... Tình trạng khai thác như hiện nay thì phải sau 10 năm rừng mới có thể phục hồi như ban đầu. Hơn nữa lượng măng cũng bị lấy quá mức cho phép. Vào mùa măng người dân vẫn tự do vào rừng lấy măng. Với các tác động trên, rừng lồ ô ngày càng cạn kiệt về số lượng, suy giảm về chất lượng; đó là chưa kể đến rừng còn bị xâm lấn để sử dụng vào mục đích khác. Vì vậy đối với rừng lồ ô cần áp dụng các biện pháp sau: - Cần quản lý chặt chẽ, khai thác hợp lý để đảm bảo tái sinh rừng, đáp ứng nhu cầu sử dụng lồ ô một cách lâu dài. - Cần có quy hoạch vùng phát triển lồ ô, khoanh nuôi chăm sóc các rừng thứ sinh có lồ ô để tăng thêm diện tích, trữ lượng và chất lượng rừng. - Tiến hành nghiên cứu kinh doanh lồ ô một cách khoa học hơn và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật, làm cơ sở cho công tác chỉ đạo sản xuất.Quá trình sản xuất ván ép thân tre
Tre nứa với khoảng 1.300 loài phân bố rộng rãi trên cả Bắc và Nam bán cầu, từ độ cao ngang mặt biển đến độ cao 4000 - 5000m, là một trong những nhóm Lâm sản ngoài gỗ có giá trị nhất của nhiều nước như: Trung Quốc,Nhật Bản, các nước vùng Nam và Đông Nam châu A, trong đó có Việt Nam.
Tre ở Việt Nam đã được sử dụng rộng rãi từ rất lâu đời trong xây dựng nhà cửa, trong giao thông ( làm cầu phà, thuyền, mảng), trong hầm mỏ thay gỗ chèn, trong nông nghiệp làm nông cụ... Rất nhiều đồ dùng thông thường trong mỗi gia đình người Việt Nam như : giường, chiếu, bàn ghế, mành, thúng mủng, rổ rá, đến đũa ăn, tăm xỉa răng đều làm bằng tre. Hàng thủ công mỹ nghệ, nhạc cụ sản xuất từ nguyên liệu tre ngày càng nhiều và trở thành hàng hoá tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu. Măng tre là món ăn phổ biến của mỗi người dân. Gần đây tre được sử dụng trong công nghiệp sản xuất giấy, chế biến ván thanh, ván ép, than hoạt tính... Việc phát triển gieo trồng, chế biến các mặt hàng tre nứa đã góp phần xoá đói, giảm nghèo, mang lại công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người dân, đặc biệt người dân vùng nông thôn và miền núi.
Với những giá trị và lợi ích nêu trên, tre đã được xác định là một trong những nhóm Lâm sản ngoài gỗ cần được ưu tiên trong quá trình phát triển rừng và LSNG của Việt Nam trong thời gian tới. Để cung cấp những kinh nghiệm về chế biến tre trúc của các nước trên thế giới rất mong các kinh nghiệm về chế biến tre của này sẽ được áp dụng một cách sáng tạo tại Việt Nam và góp phần
phát triển một mặt hàng có nhiều giá trị về kinh tế, xã hội và môi trường này.
Sau đây là nội dung cơ bản của quá trình sản xuất ván ép lớp thân tre như sau: Cưa đoạn thân tre chuốt sạch gọt mắt xẻ rãnh xử lý mềm hoá trải sấy định hình bào tiện bề mặt xếp lớp quét keo nén nhiệt cắt ngang dọc đánh bóng thành phẩm.
1. Cưa đoạn thân tre: Căn cứ vào độ dài sản phẩm mà cưa thân tre thành từng đoạn, thường trên 8cm, dày trên 5cm.
2. Cạo vỏ và ruột: Căn cứ vào lực học, cần cắt bỏ vỏ 0,2-0,5mm, bỏ ruột 0,5-1mm, đồng thời cắt bỏ mắt trong. Sau đó bổ ra 2 - 3 mảnh để dễ trải. Cần chú ý độ sâu và độ rộng để đảm bảo các kẽ hở khi xếp lớp, ngoài ra còn khắc tuyến, rãnh để tránh nứt sau này, tăng cường lực ép ngang.
3. Xử lý mềm hoá: Mục đích của xử lý mềm hoá là nâng cao tính co giãn của tre, khi trải ra ít kẽ hở. Do cường độ chống kéo ngang thấp (vân dọc 1630kg/cm2, hướng ngang 62kg/cm2). Bán kính độ cong lúc trải rộng rất nhỏ, cho nên, khi trải rộng ứng lực bên trong vượt xa cường độ chịu kéo ngang, dễ xẩy ra nứt. Căn cứ vào tính chất của lignin và hemicenlulose nâng cao hàm lượng nước thân tre và nhiệt độ bản thân thân tre, như vậy có thể tăng cường tính đàn hồi của thân tre, giảm bớt được sự nứt nẻ. Cho nên trước tre trải rộng cần phải xử lý nhiệt, chủ yếu là nâng cao hàm lượng nước và nhiệt độ của bản thân thân tre. Căn cứ vào nghiên cứu và kinh nghiệm sản xuất, đối với thân tre nhất thiết phải áp dụng xử lý mềm hoá trước lúc cắt sẽ tốt hơn. Nhiệt độ xử lý nhiệt cần đạt được 120-140oC. Phương pháp tăng nhiệt độ rất nhiều, có thể áp
dụng đun sôi hoặc chưng cất hoặc xử lý dịch kiềm nhiệt độ cao để làm mềm xenluloza.
4. Trải thân tre, sấy định hình: Dựa vào tác dụng nén sau khi xử lý mềm
hoá trải tre bán nguyệt thành dạng phẳng. Sau trải phẳng vẫn có tính đàn hồi nhất định, hàm lượng nước vẫn còn cao. Cho nên sau khi trải vẫn phải giữ nén vừa đề phòng biến dạng trở lại, lúc đó tiến hành sấy làm sao cho hàm lượng nứơc đạt đến yêu cầu công nghệ dán ( khoảng 6-10%) để bảo đảm hình dạng ổn định.
5 Bào mặt, tiện mép: Sau khi trải tre, sấy định hình bề mặt và độ dày không đều, cần phải gia công bào mặt và tiện mép, cho mặt phẳng và đồng màu. Đồng thời để thoả mãn yêu cầu xếp lớp hai bên mép phải thẳng.
6. Xếp lớp quét keo: Dựa vào các phương pháp tạo ván quét keo để tạo thành ván khác nhau. Thân tre là loại có hướng đặc biệt để làm cho ván ổn định, đề phòng uốn, biến dạng và khuyết tật đồng thời bảo đảm cho chúng có cường độ lớn độ cứng lớn, mảnh tre cần phải bảo đảm những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc đối xứng: Nghĩa là tầng đối xứng với hai bên trung tâm, độ dày, loài tre, hướng sợi, hàm lượng nước, số tầng đều như nhau. Như vậy mới bảo đảm tấm ván ổn định.
- Nguyên tắc số lớp lẻ, do kết câu ván keo tre theo hướng sợi vuông góc lại vừa phù hợp với nguyên tắc đối xứng, cho nên tổng số tầng phải lá một số lẻ, như vậy khi tấm ván cong vênh ứng lực sẽ phân bố đều trên các mảnh tre.
- Ván tre là một loại kết cấu công trình nên có tính năng chịu đựng khí hậu, cho nên chất dính keo thường chọn keo nhựa cây phenolaldehit để bảo đảm tính chịu nước và chịu khí hậu. Lượng keo quét khoảng 350-400g/m2.
7. Nén nhiệt định hình: Ván tre nhiều lớp tuy dày, nhưng số lớp ít, nói chung là 3 lớp và 5 lớp. Cho nên có thể áp dụng công nghệ kéo, nén nhiệt ván dày. Lực nén là 20-30kg/cm2, nhiệt độ nén là 135-145oC, thời gian nén là 14-24phút (tuỳ theo độ dày mà xác định). Để bảo đảm chất lượng gắn keo, hạ nhiệt có thể chia ra 3 giai đoạn, nhất là áp lực cao chuyển sang cân bằng, phải giảm áp từ từ, để có đủ thời gian hơi nước trong ván dần dần thoát ra, bảo đảm chất lượng gắn keo ở các lớp tre. Sau khi thành ván, cần xếp lớp dày một thời gian để keo từ từ đông rắn, bảo đảm nâng cao rắn háo nhựa keo, cân bằng hàm lượng nước, thanh trừ ứng lực trong, đề phòng biến dạng.
8. Cắt mép đánh bóng: Tuỳ theo yêu cầu kích thước của ván mà tiến hành cưa mép ngang dọc và đánh bóng nhẵn, nâng cao chất lượng bề mặt.
9. Tính năng cơ lý chủ yếu của ván tre nhiều lớp:
- Dung trọng quan hệ với loài tre, tuổi tre, nhiệt độ nén, lực nén, nói chung khoảng 0,74-090.
- Hàm lượng nước, dùng phenolaldehit hàm lượng nước không vượt quá 10%
- Cường độ gắn keo, sau khi đun nước sôi 3 giờ lớn hơn 30kg/cm2.
- Cường độ uốn hướng dọc vào trong 1653 kg/cm2, hướng ngang 266 kg/cm2
- Cường độ va đập kết cấu 3 lớp 8,3 tấn/cm2, kết cấu 5 lớp 7,59 tấn/cm2.
- Lượng ma sát đàn hồi 1.01x105 zhaobo Tính bền ở nhiệt độ 50oC, ngâm trong 1 giờ- phun hơi nóng 3 giờ- để lạnh(-12oC) 20 giờ- sấy khô (100oC) sau 3 giờ, tất cả 27 giờ là một chu kỳ xử lý tăng tốc xử lý như vậy sau 288 giờ độ đàn hồi của ván 3 lớp giảm xuống 19,87%, cường độ va đập giảm 24,9%.
Phụ: Giới thiệu một số thiết bị sản xuất ván dán tre Xưởng sản xuất lâm nghiệp Tô Châu có máy bóc vỏ thân tre ZQ, máy bóc ruột ZH, máy làm mềm hoá thân tre ZBC, máy trải thân tre BY, máy bào nén MB, máy sấy định hình ZG, máy nén nhiệt thân tre 19Y, máy cắt mép dọc BCZ 1112, máy cắt mép ngang BCZ 2121.
ReplyDeletevé máy bay eva air khuyến mãi
ve may bay di my eva
hãng máy bay korean airline
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
mua vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich
vé máy bay đi canada