Ốc Đá, Ốc ruộng và Ốc ma
Ốc  đá, ốc ruộng và ốc ma là những tên gọi dành cho                một loài  ốc nước ngọt, sinh sống dưới nước, thở bằng mang (thủy                 sản), đẻ con Tên ốc ruộng thiếu sự chính xác vì tại Việt Nam, hầu                 như không có sự phân biệt rõ ràng giữa các loài ốc..bắt được  tại                các ruộng lúa. Tên ốc ma được giải thich là do sự  xuất hiện bất                ngờ của ốc không từ những đám trứng như ốc  bươu, ốc bươu vàng..Danh                mục của Bộ Thủy sản VN gọi loài  ốc này dưới tên là ốc đá.
Tên khoa học và các tên thường gọi                :
Bellamya chinensis thuộc họ Viviparidae
Tên đồng nghĩa : Cipangopaludina chinensis hay C. malleata ; Viviparus                chinensis malleatus.
Tên Anh-Mỹ : Chinese mystery snail, Japanese mystery snail, black                snail, trapdoor snail
Loài Bellamya japonica có những đặc tính gần như tương tự  với B.                chinensis, rất khó phân biệt với nhau. Có nhiều  nhà sinh vật học                xem hai loài này là một.
Vài đặc tính sinh học :
Ốc cỡ lớn to đến 6.5 cm.Vỏ láng và cứng, gần như một màu,  không                có đốm hay vạch. Mảu của mặt ngoài vỏ thay đổi từ  xanh oilve-nhạt                đến xanh-đen hoặc nâu, có những khía dọc.  Vỏ có 5.5 đến 6 vòng xoắn.                Các vòng xoắn phồng nổi có  rãnh sâu. Chiều cao của tháp ốc gần bằng                với lỗ miệng của  vỏ, làm cho ốc có dạng thấp với bề ngang rộng.                Lỗ miệng  của vỏ tròn hay hơi bàu, vành miệng sắc. Lớp sứ bờ trụ                 mỏng, màu xanh tím.
Miệng có lưỡi gai (radula) : gai rià  hình tấm vuông có 9 đến 11                răng; gai trung gian có trụ  giữa phẳng, mỗi bên có 4 răng; gai giữa                hình chữ nhật,  mỗi bên có 5 răng tròn. (Radula là cấu trúc đặc biệt                của  nhuyến thể, cấu tạo là một khối kitin hay protein lát thành                 dưới của thực quản, mặt trên lưỡi gai co nhiều dãy răng kitin).                 Nắp miệng có một 'cấu tạo' kiểu 'cửa bẫy = trap door' giúp ốc  có                thể đóng kín khi gặp môi trường nước không thích hợp :  do đó khó                diệt ốc bằng hóa chất vì chúng đóng vỏ chờ đến  khi hóa chất phân                tán hết rồi mới mở ra lại.
Ốc đá sinh sống tại hồ, sông, suối, ruộng lúa, những hào, rặch ven                 đường , nơi đáy bùn .Chúng ăn rong rêu, bã hữu cơ và các  thực vật                thủy sinh nhỏ.
Ốc đẻ con : ấu  trùng nở bên trong cơ thể ốc mẹ, phát triển thành                ốc  sơ-sinh, trước khi được sanh ra. ốc con trưởng thành sau 6 tháng.
Ốc đá phân bố rộng trong vùng Đông Á, rất nhiều trong vùng  nhiệt                đới Nam Trung Hoa, Việt Nam. Ốc được xem là phát  xuất tại Miến điện                (Myanmar), Thái Lan và cả tại Nhật,  Korea, Taiwan, Philippines ốc                đá đã được du nhập vào Bắc  Mỹ và chúng thích nghi nhanh chóng với                nhiều vùng sinh  thái mới : Tại Hoa Kỳ, Ốc đá sống được nhập cảng                vào San  Francisco từ 1892 dùng làm thực phẩm chi di dân người Hoa.                 Đến năm 1911, ốc phát triển thành những quần tụ quanh vùng Vịnh                 San Francisco. Chúng xuất hiện tại Boston (Massachusetts) năm  1915                và tại Florida năm 1950. Từ 1965, ốc đá lan dần đến  các vùng ven                biển Tây Bắc, Đông Hoa Kỳ và các Tiểu bang  vùng Vịnh như Louisiana..hiện                nay , chúng có mặt tại trên  37 Tiểu bang Hoa Kỳ, 4 Tỉnh Canada..
Thành phần dinh dưỡng :
Theo một phân chât thực hiện tại các ĐH Dhaka, Rajhashi (Bang ladesh)                công bố trên Journal of Scientific Research Số-2010 :
Thành phần trong thịt Ốc đá (Bellamya bengalensis),                tinh theo % :
- Độ ẩm                                   82.1
- Tro                                        3.64
- Chất đạm                              8.96
- Chất béo                               0.98
- Carbohydrate        4.3
- Chất sơ (thô)                        0.035
Thành phần khoáng chất trong thịt khô, tinh                theo mg/100 g :
- Calcium                                166. 4
- Phosphorus                           128.8
- Sắt                                         100.7
- Sodium                                  53.6
- Potassium                              39.3
Thành phần khoáng chất trong vỏ ốc (mg/100                g) :
Calcium (705.4); Phosphorus (1680.5); Sắt (300.1) ; Sodium (200.89);                Potassium (40.83)
Các tác giả ghi nhận thịt ốc đá chứa nhiều chất dinh dưởng  hơn Ốc                sên (Pila), và chứa lượng khoáng chất cao nhất  trong các loài ốc                nước ngọt (trong phần thịt và cả trong  vỏ ốc) Ốc đá được khai thác                như một nguồn thực phẩm để  nuôi vịt và để chuyển thành thức ăn nuôi                tôm, cá tại các  trại dưỡng ngư.
Ẩm thực :
Ốc đá được dùng làm thực phẩm tại nhiều nơi ở Á châu (Trung  Hoa,                Việt Nam, Thái..) và tại Âu-Mỹ ở những nơi có di  dân Tàu, Việt..như                Hoa Kỳ. Thịt ốc đá đông lạnh thường  được đóng gói chung với các                loài ốc khác, không phân biệt  vả chỉ ghi nhãn là snails nên có thể                gồm nhiều loài khác  nhau..
Tại Việt Nam, những bài viết về ẩm thực cũng  'quảng cáo' những món                ăn địa phương từ ốc đá và xếp vào  loại 'đặc sản' như ốc đá Quế Sơn                (Quảng Nam), ốc đá Trà  Bồng..ốc ruộng Miền Nam..
Theo Tác giả Tiêu Đình  (baoquangnam.com) thì :'..ở quê tôi muốn                ăn ốc đá đúng  giá trị ốc đá phải đặt mua từ tuốt trong xã Quế Hiệp                ra,  hay trên Quế Phương xuống, cách hàng chục cây số. Bởi vì ốc                 đá chủ yếu ăn rêu nên thường sống ở những vùng sông, khe suối sâu                 có nhiều đá, không dễ gì tìm thấy ốc đá ở những ao, đồng  bình thường..                Theo kinh nghiệm, ốc sống ở những vùng càng  sâu, càng xa trong núi                thì càng sạch sẽ, to và dài con,  có màu vỏ đen nhánh, thịt thơm                và béo ngọt. Ốc sống ở nơi  nước cạn vỏ thường bị nhạt nâu dần..Cho                nên đã gọi là Ốc  đá thì phải mua cho 'đúng sách' ốc đá ăn mới ngon..
Sau  khi liệt kê một số địa phương Quảng Nam có ốc đá, tác giả cho                 rằng :..' theo tiêu chuẩn chât lượng ốc, thì không đâu bằng Ốc đá                 Chợ Việt An' và các món ăn được kể ra gồm : ' nấu canh,  nấu cháo,                luộc chấm mắm muối, hong dầu..Canh nấu với ốc  đá thường là mit non,                đu đủ xanh..thêm it rau thơm.'Với  người Quảng Ngãi thì món ăn đặc                biệt từ ốc đá sẽ là 'Rau  ranh, ốc đá', và ốc đá Trà Bồng sẽ là loại                ngon nhất :  '..các quán cơm ở Thị trấn Trà Xuân hầu hết đều có bán                 món ốc đá luộc sả ớt hoặc món canh rau ranh, ốc đá...' :Tại huyện                 miền núi Trà Bồng có nhiều sông và suối đổ ra các sông Trà Khúc                 và Trà Bồng. Đây chính là chỗ trú ngụ, sinh sôi nẩy nở  của ốc đá.                Ốc đá có màu đá đen, chuyên bám vào đá. Trong  thời gian tháng 8                và 9 hàng năm khi trời mưa giông, ốc đá  xuất hiện rất nhiều..Rau                ranh (Gnetum griffithii=Rau  bép) là một loài cây rừng lớn, lá và                đọt non có thể dùng  làm rau. Để chế biến ốc, người ta thường giã                ớt tươi hơạc  hòa ớt bột vào nước ngâm rửa ốc trong 10-15 phút. Vớt                ốc  ra, rửa lại và dùng kềm hay dao chặt đuôi ốc, sau đó nâu chín                 ốc trong nước có thêm sả ớt..Nấu sôi khoảng 20-30 phút là..ăn  được.                Để nấu canh Rau ranh, thì ốc đá sau khi chặt đuôi  được nấu với gạo                và đậu xanh đến chin Lấy lá Rau ranh  non, vò nhẹ rồi bỏ vào cho                sôi..rồi nêm thêm gia vị..'.
Tác giả Nguyễn Kim trong ốc ruộng đầu mùa'  (thatsonchaudoc.com)                mô tả cách ăn ốc ruộng của 'Miền Tây  Nam Bộ' đơn giản như sau :'                ốc đầu mùa, toàn bộ thịt  vàng tươi, dầy, chắc và ngon ngọt..Ngoài                phương thức dể  nhất là luộc, lấy thịt chấm nước mắm ớt..còn có rất                nhiều  cách chế biến : ốc luộc, gở lấy thịt chà sơ qua muối, dùng                 nấu canh chua lá me non, rau quế hoặc xào sả ớt, cà ri.
Theo Saigon Tiếp Thị, thì món ốc đá húp trứng chế biến từ ốc đá                 Tri Tôn mới là 'món ngon, vật la' ốc đá Tri Tôn tại vùng biên  giới                Việt Miên còn được gọi là ốc Campuchia..chỉ cần dùng  trứng..quậy                đều, rồi thả ốc vào và sau đó chưng cách  thủy đến..chín và ăn ốc                chấm nước mắm tỏi, chanh, sả..
Những nghiên cứu khoa học về ốc đá                :
Ảnh hưởng trên môi sinh :
Ốc đá, từ Á châu đã xâm nhập và ổn định thích ứng với nhiều  điều                kiện môi sinh tại Hoa Kỳ, Canada và Âu châu (như  Hòa Lan) nên các                nhà khoa học, nhất là Hoa Kỳ, đã tìm  hiểu về ảnh hưởng chúng có                thể tạo ra cho các hệ sinh  thái địa phương.
Theo nghiên cứu của Steve Kroiss tại ĐH  Wisconsin : ốc đá được xem                là loài ốc lớn thứ nhì tại Mỹ  (6.5cm) và có thể tập trung sống với                mật độ lên đến 25  con/m vuông. ốc tuy lan tràn qua nhiều nơi tại                Bắc Mỹ  nhưng đòi hỏi điều kiện môi trường nước phải có trên 5ppm                 Calcium..Tại Hoa Kỳ, tuổi thọ của ốc đá từ 4-5 năm. Toàn bộ ốc (100                 %) cái mang mầm thai trong mùa xuân và mùa hè. Mỗi ốc cái có  thể                có khoảng 100 phôi (tối đa 170). Đẻ con trong các  tháng 6-10. Vào                tháng 10, ốc di chuyển về những khu vực  nước sâu để sống qua mùa                đông..Cho đến nay, tại Wisconsin  tuy ốc có mật độ sinh sản cao nhưng                chưa tạo thành một  nguy hại cho môi sinh: ốc có thể (?) làm nước                trở nên  trong do ăn các rong bám nơi tầng đáy, không gây trở ngại                 cho thuyền bè..và có thể trong tương lai khai thác thành một nguồn                 thực phẩm để nuôi thủy sàn..
Ốc đá và Sức khỏe :
Ốc đá được ghi nhận là ký chủ trung gian của một số ký sinh  trùng                có khả năng gây bệnh nơi người tại các quốc gia  nhiệt đới. Ký sinh                trùng thường gặp nhất là  Angiostrongylus cantonensis và một số sán                thuộc họ  Echinostomatidae như Echinostoma citenorchis là loài gây                 bệnh đường ruột nơi người. Bệnh co thể gặp tại Việt Nam, Triều Tiên,                 Nhật do ăn ốc chưa luộc chín (Journal of Parasitology Số  85-1999).
Chất Kháng sinh mới, ly trich từ Ốc đá :
Từ Bellamya bengalensis, các nhà nghiên cứu tại Viện Kỹ  thuật Kharagpur,                Ấn độ đã ly trích một một chất kháng  sinh loại peptide có trọng                lượng phân tử 1676 Da. Kháng  sinh này có hoạt tính diệt được vi                khuẩn Staphylococcus  epidermitis đã kháng ampicillin và chloramphenicol                ở các  liều thử nghiệm 8 mcg và 16 mcg/ ml. Kháng sinh loại peptid                 này tác động vào màng tế bào của vi khuẩn. (Peptides Số 32-2011)
Chất ức chế men ACE từ ốc đá :
Theo kết quả nghiên cứu tại ĐH Nam Yangtse, Trung Hoa : từ  thịt                ốc đá Bellamya purificata, thủy giải , có thể trích  được một peptide                có hoạt tính ức chế men  Angiotensin-1-converting (ACE) Peptide này                thuộc loại  tetrapeptide với sự sắp xếp kiểu Lys-Glu-Ile-Tryp (KEIW),                 có những đặc tính tương tự như các peptide ức chế ACE khác ly trích                 từ bắp thịt của các loài sò, ốc..
Ốc đá trong Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền Việt Nam và Trung Hoa dùng ốc đá làm  thuốc gần                như tương tự với ốc bươu, ốc nhồi. Ốc đá thường  được gọi là Điền                loa.
Thịt ốc đá được  xem là có vị ngọt, tính hàn, tác động vào các kinh                mạch  thuộc Can và Bàng quang với các tính cách 'tán Nhiệt' trừ 'Thấp',                 giúp 'Minh mục' (sáng mắt).
Khoa dinh dưỡng trị liệu Trung Hoa ghi :
Trị sốt nóng, giúp 'tiêu khát' : ăn ốc đá nấu với gạo thành  cháo                loãng, dùng với rượu kê (millet wine)
Giúp đi tiểu khi bị bí tiểu do Nhiệt Hỏa : Nấu ốc đá với rượu kê.
Trị mắt đỏ, mắt mờ do Hỏa vượng :Ăn ốc đá nấu với hoa cúc.
Trong Nam dược :
Nước nhớt hay rãi của ốc đá = Điền loa duyên được dùng làm  thuốc                trị tiểu đường hay 'tiêu khát'. Ốc đá nấu với chuối  chát hay chuối                hột cũng được dùng để tri tiểu đường.
Tại Việt Nam, kinh nghiệm dân gian                dùng ốc đá để :
Chữa nhiệt tích, tiểu tiện không thông : sắc ốc lấy nước  uống hay                thiêu 'tồn tính' thành than, tán thành bột  uống..
Trị nôn mửa, đau bao tử, tiểu ra máu; trẻ em kinh  phong : Nung vỏ                ốc đá thành bột và uống mỗi lần 4-8  gram.
Tại Ấn độ : ốc đá (Bellamya spp) được                dùng trong dân gian để trị một số bệnh như :
Suyễn : Thịt ốc đá nấu thành cháo .
Sưng mắt đỏ : Bắt ốc đá, ngâm trong nước sạch và dùng nước làm thuốc                nhỏ mắt.
Quáng gà : Ốc đá nấu cà ri.. ăn hàng ngày.
Tài liệu sử dụng :
Aquatic Invasive Species : Chinese Mystery Snail (USGS)
Bellamya chinensis, a new alien snail species for the European fauna                (Menno Soes)
The Mystery of the Chinese Mystery Snail : Ecological Impacts of                an Invader (Steve Kroiss)
Species Account : Bellamya japonica (Freshwater Gastropods of North                America)
Ốc  nhồi và Ốc bươu là hai loài ốc nước ngọt thường được sử dụng làm               thực phẩm tại nhiều nơi trên thế giới. Hai loài này có một số đặc               tính rất tương đồng. Bên cạnh đó còn có loài ốc bươu vàng  tuy hình              dạng tương tự nhưng trên thực tế thuộc môt chi  động vật khác, ốc bươu              vàng hiện đang là một vấn đề gây  'đau đầu' cho nông dân Việt Nam do              tác hại ghê gớm gây ra  cho cây lúa và nhiều cây trồng khác..
(Xin đọc bài 'Các đặc tính chung của nhóm động vật 'thân-bụng' (gastropoda)
Tên khoa học và các tên khác :
Ốc nhồi : Pila polita
Ốc bươu : Pila conica
Cả hai thuộc họ Pilidae
Tên Anh-Mỹ : Large edible snail, Black apple snail. Pháp : Grand escargot              comestible.
Ốc bươu vàng : Pomacea cananiculata thuộc họ Ampulla riidae
Tên Anh-Mỹ : Golden apple snail. Channeled apple snail.
Vài đặc điểm sinh học :
Ốc nhồi (Pila polita) thuộc  loại ốc có kích thước              lớn, có thể đến 12.5 cm, (trung bình  khoảng 7-8 cm, nặng 20 gram).              Vỏ dày, hình tương đối tròn,  bóng, mặt ngoài màu nâu đen hoặc xanh              vàng, mặt trong tím  nhạt có nhiều vòng xoắn. Các vòng xoắn hơi phồng              ở giữa và  có rãnh nông. Vòng xoắn gần miệng ốc lớn và chiếm đến 5/6               chiều cao của vỏ. Các vòng xoắn càng vòng lên phía chóp gần tháp của               ốc càng nhỏ đi và vòng xoắn cuối cùng thuôn nhọn dài. Lỗ miệng  của              vỏ dài và hẹp, có vành sắc, không lộn trái. Nắp che  miệng dài, hình              thận, hai đầu tròn, không bằng nhau. Ốc  nhồi sinh sống ở ao, ruộng              lúa, bò trên mặt bùn, rong, ăn  thực vật thối rữa, nổi lên mặt nước              để thở. Khi thời tiết  thay đổi như lạnh giá hay nóng bức, ốc nhồi              cũng thường nổi  trên mặt nước. Sinh hoạt thay đổi trong ngày : buổi              sáng  ăn cạn nơi gần bờ, buổi trưa rút xuống đáy và xa bờ.
Pila  polita phần bố trong các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như               Đông Nam Á và Nam Trung Hoa, Indonesia. Tại Việt Nam, ốc nhồi có mặt               trên toàn quốc.
Ôc bươu đen = Ốc lác (Pila conica),  lớn khoảng 5cm,              có hình dạng rất giống với ốc nhồi, với  một số khác biệt như lỗ miệng              loe rộng, tháp ốc lùn và vỏ  không bóng. Phía bên trong của nắp miệng,              nơi dinh với ốc  cứng do hóa vôi. ốc bươu đẻ trứng tụ thành đám màu              trắng  sữa. Ốc phân bố rộng tại Philippines, Ấn độ, Tháì, Việt Nam.
Ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata)
Vỏ hình cầu, kích thước lớn : rộng 4-6 cm, cao 4.5-7.5 cm và  nặng,              5 hay 6 vòng xoắn được chia rõ rệt bằng rãnh sâu.  Nắp mở to hình tròn              hay bàu dục Màu sắc của vỏ thay đổi từ  vàng-lục có khi nâu nhạt. Đầu              có 2 đôi xúc tu, một đôi dài  và một đôi ngắn. Ốc rụt vòi vào trong              vỏ khi ở vị thế nghỉ.  Chân rộng, hình dĩa, màu trắng kem, nằm ở phía              bụng. Đầu  và chân thường thò ra ngoài khi ốc di chuyển. Ốc bươu vàng               leo lên giá thể cao để đẻ trứng, thường vào buổi chiều tối. Trứng               bám thành chùm, màu hồng, mỗi chùm từ 200-500 trứng. Trứng nở sau               12-15 ngày và nở hết trong 5-7 ngày. Ốc bươu vàng sống  được khoảng              2-3 năm.
Ốc bươu vàng : một thảm họa sinh thái cho các              quốc gia trồng lúa 
Đối với các chuyên viên của FAO thì ốc bươu vàng là một  trong 100              loài sinh vật, khi di chuyển từ nơi sinh hoạt gốc  đến một nơi mới              có hệ sinh thái mới không bị kiểm soát,  trở thành một tai họa gây              những nguy hại ghê gớm..
Ốc bươu vàng, nguồn gốc tại Nam Mỹ (vùng Đông-Nam Brazil,  Argentina,              Paraguay và Bolivia) đã bị du nhập vào các nước Á  châu trong mục đich              làm thực phẩm, hiện gây hại cho nền  nông nghiệp nhất là lúa gạo cho              Philippines, Thái Lan,  Indonesia và Việt Nam..
Ốc bươu vàng được nhập từ Nam Mỹ  vào Việt Nam trong khoảng 1986-1988              với mục đích làm thực  phẩm và lấy thịt xuất khẩu. Năm 1992, hai công              ty tại Nam  Việt Nam đã 'liên doanh' với Đài Loan để nuôi ốc trong              23  hecta ruộng..và kết quả ngày nay là ốc xuất hiện từ Bắc đến Nam               gây tác hại cho nền nông nghiệp VN trong các mùa vụ lúa  Hè-Thu..Theo              ước tính của các chuyên viên nông nghiệp VN  thì năm nay (2011), ốc              bươu vàng đã phá hại hàng trăm nghìn  hecta lúa non trên khắp các tỉnh-thành              phố toàn  quốc..(trung bình mỗi năm, ốc sơi hết trên 200 ngàn hecta               lúa).
..'Sự tàn phá của ốc bươu vàng rất khốc liệt. Đặc  tính của ốc bươu              vàng là thich ăn lá non và lá bánh tẻ. Lúa  non bị ốc ăn là chết ngay              mà không thể hồi phục lại được  vì khi cắn ngang thân cây lúa, loài              ốc này còn tiết ra loại  chất nhờn bám vào vết cắn làm cho cây lúa              không thể tiếp  tục sinh trưởng được..'
Tốc độ sinh sản và tăng trưởng  của ốc bươu vàng cũng là một vấn đế              đáng ngại : Số liệu ghi  nhận tại một xã (thí điểm= Hương Ngãi, Thạch              Thất) năm  2010, chỉ tại 297 hecta trồng lúa đã gom bắt được 40 tấn              ốc  và 2 tấn trứng ốc..
Chinh phủ VN đã phải ra Chỉ thị số 528-TTg ngày 29 tháng 9 'Cấm nuôi              và Trữ ngay loại ốc bươu vàng..'
Thuốc diệt ốc đang được sử dụng là Baycide 70WP với tỷ lệ  hoạt chất              là Niclosamide 70 %. Một số tên thương mãi khác :  Clodan Supe 700WP,              Mossade 70WP.
Một vấn đề  đang được các nhà nghiên cứu quan ngại là 'nguy cơ lai              tạo  giữa các loài bươu đen và bươu vàng'. Tuy nhiên cho đến nay, sự               giao phối giữa ốc bươu đực và ốc bươu vàng cái đã không tạo ra sự               thụ tinh có lẽ do những khác biệt về phương diện di  truyền..
Tại Hoa Kỳ, việc điều hành xuất và nhập các loài  ốc (sống) tuy thuộc              quyền của USDA nhưng Chính phủ Liên  bang tùy thuộc vào quyết định              của từng Tiển bang :
Mississipi cấm đưa vào Tiểu bang mọi loài ốc apple snails thuộc  họ              Ampullariidae, gọi chung là loài ốc gây hại cho cây cỏ.
Texas, Hawaii, California và Louisiana cấm ốc bươu vàng.
Florida xem ốc bươu vàng như thuộc hệ sinh thái tự nhiên  nhưng lại              cấm đưa vào Tiểu bang ốc tươi sống các loài dùng  làm thực phẩm tại              Âu châu như ốc sên chi Helix spp, ốc sên  hoa chi Achatina spp.
Thành phần dinh dưỡng và Ẩm thực :
Thành phần dinh dưỡng :
Kết quả phân chất của Viện Dinh dưỡng Việt Nam ghi :
Ốc nhồi chứa 11.9% protid, 0.7% lipid, các muối Ca 1357mg % P  191mg%              ; các vitamin B1 0.01mg%, B2 0.006mg%, PP 1mg% và  cung cấp 80 calo/100g              (Cây thuốc và Động vật làm thuốc ở  Việt Nam, Tập 2, trang 1186- Viện              Dược liệu)
Theo Bảng Electronic Database of China Food Composition (CFGD) của              ĐH Bắc Kinh công bố năm 2002 thì :
Trong 100 g ốc ruộng (hay ốc nhồi) có :
- Phần ăn được :                          26 g
- Độ ẩm                                       82 g
và trong phần ăn được :  Chất đạm                            11 g
Chất béo                             0.2 g
Tro                                     3.2 g
- Thành phần khoáng chất : mg/100 g
Calcium                              1030
Phosphorus                         93
Sắt                                   19.7
Kẽm                                   2.71
Cũng theo CFCD thì thành phần acid amin (mg/ 100 g) trong  Chất đạm              của thịt ốc nhồi cao nhất là Glutamine (1554),  Aspartic acid (970),              Arginine (782), Leucine (764), Lysine  (692), Alanine (626), Glysine              (532)...
Kết quả phân chất Pila globosa tại các ĐH Dhaka, ĐH Rajshani (Bangladesh              ghi nhận:
Thịt Pila chứa 85 % nước, 8.27% chất đạm, 0.72% chất béo,  2.90% carbohydrates.              Thành phần muối khoáng (mg/100 gram) ;
Calcium 304.4, Phosphorus 133.3, Sắt 99.1, Sodium 43.4 và Potassium              31.8.
Thành phần khoáng chất trong vỏ ốc : (mg/100g)
Calcium 721.4, Phosphorus 1360.2, Sắt 50.56, Sodium 200.6 và Potassium              60.55
(Journal of Scientific Research Số 2-2010)
Xét chung về phương diện dinh dưỡng, thịt ốc nhồi, ốc bươu  được xếp              vào nhóm ít chất béo, tốt cho những người cần ăn  kiêng (diet) để giảm              cân. Thành phần acid amin với Arginin,  Threonine, Aspartic acid..tốt              cho hệ tim mạch. Trong ốc có  nhiều khoáng chất nên có thể xem là một              trong những thực  phẩm bổ xương..
Ẩm thực :
Ốc nhồi, ốc bươu..đã được nhiều tác giả viết về ẩm thực, mô  tả trong              món ăn độc đáo 'bún ốc' của người Việt.. Người  miền Bắc, nhất là Hà              Nội hay ca tụng các món bún ốc Khương  thượng, bún ốc bà Sáu ở đường              Mai Hắc Đế, bún ốc Phủ Tây  Hồ.. và liệt kê đến hàng chục quán chuyên              bán bún ốc. Tuy  nhiên, ngoài bún cũng còn khá nhiều món khác như luộc,              hấp  (hấp lá sả, lá chanh, lá gừng, hấp hèm), nướng, xào (xào nghệ,               xào hành)..bung.
Đối với người miền Nam ốc có thể chế  biến, thay đổi tùy địa phương              như các món 'kiểu Sàigòn = à  la Saigon' : ốc bươu chiên dòn, Ôc bươu              xào sa tế, Ôc bươu  tay cầm, Cà ri ốc bươu, Gỏi ốc bươu.
Tuy nhiên, có lẽ  theo tác giả Văn Thảnh Lê trong bài viết về Đà Nẵng              của ông  thì ốc bươu Bàu Nghè là to nhất và ngon nhất (?) Việt Nam               (Bàu Nghè là một đầm lầy, rộng khoảng 75 ha, nằm tại Hòa Vang, phia               Tây Bắc Thành phố Đà Nẵng). 'Bàu Nghè được xem là ngon nhất  khi              đánh bắt trong các tháng Giêng và Hai Cũng theo tác  giả thì món ngon              nhất khi chế biến ốc Bàu Nghè là món 'um' :  'ốc, sau khi ngâm qua              nước vo gạo một đêm để sạch các chất  nhờn và giảm bớt mùi đồng ruộng,              được chùi rêu mốc bám  trên mình, rửa sạch lần cuối cùng trươc khi              chặt đit, đua  vào luộc nhẹ trong ít phút rồi đổ ra cho ráo nước. Trộn              đều  ốc đã luộc với các gia vị như ớt, sả, tiêu, dầu..rồi um để các               gia vị thấm vào thịt ốc. Bi quyết của món ốc um nằm ở chỗ, nếu luộc               hoặc um lâu quá, thịt ốc sẽ co vào sâu trong vỏ, khó lấy  ra khi thưởng              thức, nhưng nhanh quá thì gia vị chưa kịp  ngấm sẽ giảm đi vị ngon..'             
Các người  sành ăn cho biết : thịt ốc bươu khi luộc hay xảo vẫn chắc,               giòn và thơm, không tanh.. trong khi đó thịt ốc bươu vàng nhạt, tanh               và hơi nhão. (Việt Nam xuất cảng ốc bươu dưới dạng ốc đông  lạnh nguyên              con, đóng gói trong các bao từng chục, và dạng  thịt ốc bươu lấy sẵn,              không vỏ.. tuy nhiên không thể phân  biệt ốc bươu đen hay.. vàng?).
Ốc nhồi trong Dược học cổ truyền :
Dược học cổ truyền tại nhiều nước Á đông như Việt Nam, Trung  Hoa,              Ấn độ..dùng ốc nhồi và óc bươu để làm thuốc:
Tại Việt Nam :
Ốc nhồi hay ốc ruộng còn được gọi là Điền loa. Phần được dùng là toàn              thân con ốc.
Theo Tuệ tĩnh (Nam dược Thần hiệu) : Điền loa-Ốc bươu, vị  ngọt, tính              hàn, không độc, tiêu thũng, thông lâm, trừ thấp  nhiệt, đau mắt, lỵ,              không ăn uống được và tràng nhạc.
Theo Hải thượng Lãn ông (Lĩnh nam Bản thảo) :
- Quyển thượng : 'Điền loa tên tục gọi ôc nhồi                  
Không độc, ngọt mà lạnh it thôi
Tiêu thũng, thông lâm, trừ thấp nhiệt
Mắt đau, tràng nhạc, lỵ đều thôi..'
- Quyển hạ : 'Điền loa giống ấy có nhiều danh
Tính mát lương hàn chữa nhiệt thanh
Ốc đá, ốc bươu thời lấy vỏ
Ốc nhồi dùng nước chữa đồng minh (sáng mắt)
Đi đường cảm nắng, trong ngoài nóng
Nước uống thời yên, kẻo nặng mình..'
Tại Trung Hoa :
Thịt ốc nhồi được xem là có vị ngọt, tính hàn, có các tác  dụng tiêu              thũng, thông và lợi đại-tiểu tiện, giải uất  nhiệt.
Vỏ ốc nhồi có vị ngọt, tính bình có tác dụng giải tâm phiền.
Theo Hong-Yen Hsu trong Oriental Materia Medica thì ốc đã  được làm              thuốc tại Trung Hoa từ lâu đời và được ghi chép  trong Danh Y biệt              lục, tuy nhiên ốc được dùng lại là loài  ốc sên Eulota peliomphala.              Vị thuốc được mang tên là  Oa-ngưu= Kua-Niu, Wo-Niu
Tại Ấn độ :
Trứng của ốc nhồi và ốc bươu được dùng để nấu cà ri trị bệnh  ốm còi              nơi trẻ em. Thịt ốc dùng chữa các chứng bệnh về mắt  như quáng gà và              được xem là bổ mắt, chữa bệnh tim..
Tài liệu sử dụng :
Từ điển Động vật và Khoáng vật làm thuốc ở Việt Nam (Võ văn Chi)
Apple Snails (Technical Bulletin No 8- Division of Aquacul ture Florida).
Frsehwater Snail Database
The apple snail website : Pila conica, Pomaceacanaliculata.Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng 
 Publié par DAT NGUYEN   à 18:43 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Cám ơn vì bài viết rất hay
ReplyDelete------------------------------------------------
Gà Đông Tảo giống
Web: http://sieuthigadongtao.com
Xem thêm Gà Đông tảo giống : Gà Đông Tảo giống
Xem them Gà Đông tảo giống : Ga dong tao giong
Cám ơn vì bài viết
ReplyDelete------------------------------------------------
Gà Đông Tảo TPHCM
Web: http://sieuthigadongtao.com
Xem thêm các loại Gà Đông Tảo TPHCM : Gà đông tảo tphcm
Xem them cac loai Ga dong tao tphcm : Ga dong tao tphcm