Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam
Bài   viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số  sách cũ của các   học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn  Gốc Địa Danh   Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu  biết của các   tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình. Xin mời các bạn cùng tham khảo và  đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ  và phong phú hơn.
Phần 1
Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay  nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện). 
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Luơng đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Luơng đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?
 Truông
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô 
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
 Phá
là lạch  biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước  xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè.   Phá Tam  Giang thuộc tỉnh ThừaThiên, phía bắc của phá Tam Giang là  sông  Ô Lâu đổ  ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An. 
 Bàu
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”. 
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
 Láng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Trảng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Trảng
chỗ trống trải vì không có  cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở   Tây  Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia  có  nhiều  cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng  Bom,  Trảng  Táo.
 Đồng
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
chỗ đất  trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở    Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà   có  Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập    nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn
Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần Thơ
không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa.Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Sóc TrăngTrường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Một số địa danh khác
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “prha  trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng. 
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”,là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hoá của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”,là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hoá của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
Phần 3
Địa danh do  công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau;
- Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
- Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
- Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về    các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm   chỉ  còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị. 
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi tằm).
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi tằm).
Miền   Nam là đất mới đối với  người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được   hình thành trong vài thế kỷ  trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có   thể truy nguyên ra nguồn gốc  và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến   nay thì rất nhiều địa danh chỉ  còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết   nguyên thuỷ đã biến mất theo  thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần   Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ  biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán,   nhà thương Chợ Quán…chứ còn  cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra   được. Hoặc Chợ Đũi (có một số  người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn   bán hay bị nhân viên công lực  rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là   một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn  sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất   nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài  ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều   nên có nhiều cầu, sau này thành phố  được xây dựng một số sông rạch bị   lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân  vẫn còn dùng tên cây cũ ở nơi đó   để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng  có một số địa danh do phát âm   sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi  nhưng người ta đã quen với cái   tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép  lại, vẫn giữ cái tên đã được   đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt  là tên đúng lúc ban đầu,  vì  nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng  nguyên thủy chỉ bán mặt hàng   bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên  được viết khác đi).
Hồ Đình Vũ
Người  Sài Gòn ăn Tết không cầu kỳ  bằng người Hà Nội, mâm cỗ đón xuân cũng  đơn giản và không nhiều món như ở  Huế… Sài Gòn ăn Tết bằng bánh tét.  Nhà nào rộng rãi, đông người thì 27  Tết đã thấy lục đục sửa soạn nồi  nấu bánh, trước là để cúng ông bà, sau  biếu hàng xóm láng giềng.
Người  ta trải gạo nếp trên lá chuối, rải  lớp đỗ xanh lên, rồi mới đặt một  miếng thịt mỡ to gần bằng ngón chân  cái chạy dài suốt đòn bánh như một  sợi bấc, xong cuộn tròn lại, buộc lạt  thật chặt rồi đem nấu. Nhiều nhà  cầu kỳ còn trộn thêm tôm khô, lạp  xưởng, trứng vịt vào gạo nếp để gói  bánh hoặc băm nhuyễn lá dứa, vắt lấy  nước, trộn vào nếp để bánh có màu  xanh và hương thơm dịu.
Gà  luộc xé miếng trộn với hoa chuối hoặc  bắp cải tươi thái mỏng, thêm rau  răm, lá chanh cùng một ít gia vị như  hành, ớt, tỏi, dấm và chút nước  mắm ngon không gì bằng. Còn để mời khách  lai rai, chủ nhà lúc nào cũng  chuẩn bị sẵn vài ba món nhắm đã được chế  biến sẵn như cá cơm kho khô,  thịt bò sấy, mực tẩm hoặc tôm khô… khi cần  là dọn lên dùng ngay mà đỡ  công nấu nướng lích kích.
Sang ngày  mồng bốn, muốn cho đỡ ngán vì  thịt mỡ, người Sài Gòn thường nấu một nồi  cháo cá ám để thay đổi khẩu  vị. Nồi cháo đúng hương vị ngày Tết phải  được nấu với cá lóc và thịt ba  rọi. Khi ăn, chủ nhà vớt cá ra, gỡ lấy  nạc cá bày lên đĩa cùng với từng  lát thịt ba rọi, ăn chung với rau  ghém, cải cú, cần nước, chuối cây xắt  mỏng, bông súng non hay đọt vừng…  Gắp một đũa vừa thịt vừa cá vừa rau,  chấm vào chén nước mắm nhĩ dầm ớt  đỏ lừ rồi đưa lên miệng, chưa ăn, chỉ  ngửi thôi cũng đã thấy thèm.  (Theo SGGP )
Ăn Tết chủ yếu là ngày nào?
Câu  hỏi làm cho nhiều người ngạc nhiên,  vì ai cũng đã từng ăn nhiều cái  Tết. Theo nhà văn Sơn Nam ăn Tết cơ bản  vẫn là cúng vái tổ tiên. Không  bàn thờ ông bà thì không ra ngày Tết  được. Nhiều gia đình nghèo, nhà  cửa chật hẹp nhưng vẫn cố gắng tìm cái  bàn nhỏ, đặt lên bàn cái chén,  cái ly làm nơi cắm hương, thêm vài cái  đĩa đựng bánh, đựng trái cây.  Nếu cuộc sống gia đình ổn định, họ lo lau  chùi lương hương, chân  đèn,  tranh thờ, hình của người quá cố. Ðể cúng  vái, lễ vật tối thiểu là phải  có đủ 4 món gọi là “hương đăng hoa quả”,  tức phải có nhang, đèn, bông  tươi và trái cây (không dùng đồ nhựa). Về  thức ăn cần thiết phải có  bánh chưng, bánh dày, tưởng nhớ đến vua Hùng  mới lập quốc. Ở  Nam bộ,  bánh tét cũng mang chất lượng tương  tự. Phải  có chút rượu cúng ông bà,  thêm những món chế biến như thịt heo, dưa giá,  củ kiệu (không nên cúng  bia, cá mòi hộp vì tổ tiên chưa có dịp thưởng  thức). Bánh mứt cho trẻ  con, trà để tiếp khách.
Xưa kia, điều đáng lo nhất trong gia đình là may quần áo cho trẻ, trước Tết một tháng là cha mẹ ra chợ mua vải, dẫn con đến thợ nhờ đo may dùm. Nay ngày 30 tháp chạp, chỉ việc ra sạp chợ lựa lúc nào cũng có vì hàng đã may sẵn.
Lễ đưa ông táo về trời  ngày nay chỉ còn  tượng trưng. Theo truyền thuyết Táo quân về trời có  nhiệm vụ báo cáo  tình hình làm ăn sinh sống trong gia đình mà mình cư  ngụ. Phương tiệnTáo  đi là  “cò bay, ngựa chạy” một loại giấy hàng mã  bày bán ngày 20 Tết ở  chợ.
Trọng tâm ngày tết
Ngày   30 (tháng thiếu là ngày 29) là ngày quan trọng diễn ra buổi lễ khá cảm   động. Chủ nhà cúng mâm cơm đơn sơ, thỉnh ông bà khuất mặt về với con   cháu. Sẽ rất buồn khi ngày này trong gia đình vắng mặt vài người như con   phải đi làm ăn xa chưa về kịp, hoặc báo cáo lý do không về, lại nhớ  ông  bà, cha mẹ lớn tuổi vừa mới mất trong năm.  Buổi chiều, rửa hoặc  quét  nhà cho sạch lần cuối cùng vì ngày hôm sau, mùng 1 kiêng cữ không  quét  nữa vì cho  rằng ngày đầu năm quét nhà không khác gì đưa của cải  ra  đường. Ðón giao thừa là nghi thức quan trọng, thường cử hành ngoài  sân,  trên bàn thờ Thông Thiên, dành cho vị quan nhỏ, gọi là Thiên quan  (có  dán chữ “thiên quan tứ phước”), cúng vái vị quan này ban phước cho  gia  đình. Nhiều người không biết  cho rằng đây là bàn thờ trời. Trời là  đấng  tối cao, chẳng lẽ thờ trên cái bàn sơ sài quá nhỏ, lại chịu mưa  nắng(?)
Cúng giao thừa, chủ nhà phải  mặc áo quần  tươm tất, tay cầm nén nhang rồi ra giữa sân, hoặc trước  cửa cái (nếu  nhà không có sân), đến bàn thờ Thông Thiên nhìn trời cao  mà khấn, xin  trời và đất ban phúc cho gia đình  mình, đất nước mình.  Ðiều quan trọng  là cái tâm của người khấn vái, nếu có lòng thành thì  cảm thấy như mình  có trách nhiệm với gia đình.Tục hái lộc đêm giao thừa  ngày nay vẫn còn.  Người đi chùa đầu năm được hái những nhánh, chồi non  của cây gọi là lộc.  Chữ này đồng âm với tài lộc, nguồn lợi do cơ hội  bất ngờ bỗng dưng đưa  đến. Ngày nay, chẳng có đình chùa nào có đủ lộc  non để cho hàng ngàn  người đến hái, nên chùa thường đặt mua lộc ở các  chợ hoa (chồi cây phát  tài) để sẳn tại bàn trước cửa chùa để khách đến  thỉnh, cứ tùy hỷ cúng  chút tiền, ít nhiều cũng được. Mấy năm gần đây có  người bày ra cây nhang  thật to có hình rồng phụng hoặc chữ Hán: Phước  Lộc Thọ khách đến cúng  chùa mang nhang ấy đến thắp, sau đó lấy cây  nhang khác đang  cháy trên  bàn thờ, rước đưa về nhà xem đó là lửa  thiêng sẽ được ấm nhà, ấm cửa.
Trước  đây, người ta thường chưng bày bá   hoa, bá quả, tức trăm hoa, trăm  quả.Thật ra chỉ cần một dĩa trái cây và  một bình hoa tượng trưng, tùy  theo giàu nghèo mà dĩa trái cây, bình hoa  to hay nhỏ. Dân miền Tây  thích chưng bày 4 loại trái cây bình dân như  mảng cầu đu đủ trái dừa,  trái xoài gợi ý cầu vừa đủ xài” đó là cách chơi  chữ. Họ không có trái  chín tốt thì tìm trái non hoặc lá mà thay thế, có  nhà chưng một chùm  sung, cầu mong được sung túc.
Trưa mùng 1 có thể xem như hết tết
Sáng  mùng l, có thể thức dậy lúc nào tùy  ý vì đêm qua đã thức trò chuyện  với mọi người trong nhà hoặc xem ti vi  đón giao thừa. Sáng nấu nước pha  trà chờ đãi khách.Thời xưa, đầu năm  kiêng cữ đón tiếp người có tên xấu  do quan niệm đó là điềm gở có thể xui  cả năm, vì vậy ngày đầu năm ít  có người đến nhà bạn bè, chỉ đến nhà bà  con thân quyến thăm hỏi chúc  Tết. Ðến trưa mùng l có thể xem như hết  Tết, tiệm buôn có thể bày ra  khai trương bán lấy ngày, quán ăn, rạp hát,  nhà xe lại hoạt động mạnh  vì là cơ hội kiếm thêm tiền.
Thời  xưa, người dân làm việc quanh năm  không có ngày nghỉ, ngoài việc ngoài  đồng, khi ở nhà còn phải sửa lại  nông cụ, vay nợ, đi  tìm giống mới  thậm chí còn phải đuổi chuột. Quan  chức làm việc cho đến khi có lệnh  vua mới nghỉ Tết, tức khoảng sau rằm  tháng chạp mới lau ấn xếp đặt ngay  ngắn trong hộp cất để rồi qua Tết  (ngày mùng 7 tháng giêng )hạ nêu mới  cử hành lễ khai ấn, bắt đầu giải  quyết đơn từ. Những ngày dài trong  Tết, chính quyền chỉ giải quyết những  vụ quan trọng, ngoài ra hoàn toàn  nghỉ việc, kiện cáo đánh lộn trong  xóm không được chú ý. Bởi vậy, ngày  xưa cha  mẹ dạy con ngày Tết ra  đường phải cố nhịn đề phòng trộm cắp  vì việc xảy ra không ai xử. Ngày  nay, làm việc theo dương lịch, tuần  nghỉ 2 ngày, vị chi một năm nghỉ hơn  trăm ngày chưa nói đến ngày kỷ  mệm, tức đã nghỉ hơn 3 tháng!
Do vậy  để tiết kiệm thời gian, nghỉ Tết  càng ở mức tối thiểu là phải, còn ăn  ngon, mặc đẹp thì trong năm thiếu  gì dịp tiệc tùng, liên hoan, lễ cưới.  Các món ăn ngày Tết đã có quanh  năm, nếu có sẵn tiền muốn ăn bao giờ  chẳng được! ăn Tết, là dịp để nhìn  lại công việc năm cũ, chuẩn bị tinh  thần tìm ra sáng kiến để gia  đình,đơn vị có kế hoạch mới làm ăn tốt  hơn, không được dậm chân tại  chỗ.  (SN)
Ngày  xửa… Ngày xưa… Có một cô bé  rất giàu lòng  yêu thương. Cô yêu bố mẹ  mình, chị mình đã đành, cô còn  yêu cả bà con  quanh xóm, yêu cả ba ông  Táo bằng đá núi đêm ngày chịu  khói lửa để nấu  cơm, hầm ngô, nướng thịt  cho mọi người ăn. Một lần,  thương ba ông Táo,  trời đã nóng lại chịu  lửa suốt ngày đêm, cô bé mới  lên năm ấy đã lấy một  gáo nước to dội  luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc  lên mù mịt. ông Táo  già nhất vụt  hiện ra nói:
- Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất.
- Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:
- Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây!
Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời…
Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo:
- Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!
Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay:
- Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.
Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ… Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo:
- Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.
Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già:
- Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.
Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:
- Cháu thấy con quái có sợ không?
- Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.
Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:
- Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?
Cô gái nhỏ liền đáp:
- Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!
Người cha nói:
- Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.
- Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.
- Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.
Cô gái nhỏ liền thưa:
- Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay.
Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:
- Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?
Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:
- Con rất thích màu vàng!
Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị:
- Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa…
Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:
- Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.
Ông Táo liền hiện ra nói:
- Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về…
Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha:
- Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi.
Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.
Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:
- Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.
- Cha cứ yên tâm.
Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ.
Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:
- Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại…
Ông Táo đá núi liền hứa:
- Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu…
Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay:
- Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.
Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con:
- Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày.
Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi:
- Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được?
- Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.
- Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!
- Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!
- Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!
Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Chị ơi!
Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má.
Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi… Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi… Năm nào cũng thế.
Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong.
Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước.
Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm. (ST)
Một chút tình Xuân ủ má hồng
Áo dài duyên dáng lụa Hà Đông
Ngỡ là hoa nở trên môi thắm
Tưởng ánh sao trời giữa mắt trong
(Thu Hà)
Model: Trang
Một số địa điểm vui chơi, chụp ảnh đẹp ở Sài Gòn như khu du lịch Bình Quới, khu du lịch Nam Phương, khu du lịch Cần Giờ, công viên Đầm Sen, Khu du lịch Suối Tiên,…
Một số địa điểm khác:
1.Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 65 Lý Tự Trọng, Quận 1, TP.HCM
2.Nhà Thờ Đức Bà
Địa chỉ: Quảng trường Công xã Paris, Quận 1,TP.HCM
3.Thảo Cầm Viên
Địa chỉ: 2B Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1,TP.HCM
4.Công viên văn hoá Ðầm Sen
Địa chỉ: Số 3 đường Hòa Bình,Quận 11,TP.HCM
5.Khu du lịch Suối Tiên
Địa chỉ: Xa lộ Hà Nội, Ấp Tân Nhơn, Phường Tân Phú, Quận 9,TP.HCM
6.Khu du lịch Kỳ Hoà
Ðịa chỉ: 12 Đường 3/2, Quận 10,TP.HCM
7.Khu du lịch Văn Thánh
Địa chỉ: 48/10 Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh,TP.HCM
8.Khu du lịch Suối Mơ
Địa chỉ: Phường Long Bình, Quận 9 ,TP.HCM
9.Khu du lịch Văn hoá các dân tộc thiểu số Củ Chi
Địa chỉ: Xã Nhuận Đức, Huyện Củ Chi,TP.HCM
10.Khu du lịch Bình Quới 1
Địa chỉ: 1147, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Q.Bình Thạnh, TP HCM
11.Khu du lịch Bình Quới 2
Địa chỉ : Cuối đường Bình Quới, P. 28, Bình Thạnh, TP. HCM
12.Khu đô thị Phú Mỹ Hưng: nằm dọc đại lộ Nguyễn Văn Linh , quận 7, TP.HCM với những địa điểm nổi tiếng là đẹp và có nhiều người tới chụp ảnh. Bạn và gia đình sẽ có những bức hình kỉ niệm thật đẹp, rất thiên nhiên nữa đấy. Đặc biệt cảnh ở đây rộng và xanh nên bạn có khung hình rất thoáng và các mẫu nhí nhà mình tha hồ làm dáng nữa.
Những địa điểm đáng tới của Phú Mỹ Hưng là: Cầu Ông lớn, Khu cỏ lau Trung Sơn , công viên ở Nam Sài Gòn, đồi cỏ thấp và con đường Hàn Quốc. Các địa điểm này rất nổi tiếng nên đến đây bạn chỉ hỏi thăm là ai cũng biết và chỉ tận tình cho bạn .
Đặc biệt Cầu Ánh Sao vừa mới khai trương gần đây, thu hút rất nhiều bạn trẻ dạo chơi mỗi cuối tuần, nhất là buổi tối.
Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, từ thời khai hoang lập ấp những cư dân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ đã biết gói bánh tét bằng gạo lúa nổi để cúng tạ ơn trời đất, tạ ơn ông bà tổ tiên.
Ngày  nay, mặc  dù thị trường bánh mứt  Tết phong phú nhưng đối với người dân  vùng đất  phương Nam đòn bánh tét  là thứ không thể thiếu được trong  những ngày Tết  cổ truyền. Với người  dân Nam Bộ, bánh tét tượng trưng  cho sự ấm no từ  đời này qua đời khác.
Bánh  tét vốn khá quen thuộc với người  dân miền Nam, thế nhưng cách  làm  bánh tét thì không phải nơi nào cũng  giống nhau. Nếu ở Sài Gòn bánh   tét chỉ thuần túy dùng gạo nếp và đậu  xanh thì xuống đến miền Tây bánh   tét trở nên “đa sắc” hơn với bánh tét  ngũ sắc, bánh tét lá dứa, bánh  tét  gấc, ra đảo Phú Quốc thì có bánh tét  mật cật… Và góp phần vào sự   phong phú đa dạng của bánh tét miền đất  Nam bộ, người Cần Thơ có một   loại bánh tét rất nổi tiếng là bánh tét lá  cẩm.
Muốn  có một đòn bánh tét lá cẩm ngon,  người gói bánh phải mất nhiều giai   đoạn công phu: “Trước hết, phải chọn  được loại nếp mù u dẻo tròn, lá   cẩm hái về rửa sạch rồi nấu lấy nước.  Trước khi gói, nếp phải vo sạch,   để ráo, sau đó đem xào với nước cốt  dừa, dằn thêm tí muối, sau đó tiếp   tục xào nếp với nước lá cẩm. Nhưn  dành cho loại bánh tét lá cẩm này  cũng  hết sức phong phú, có thể là  nhưn chuối, nhưn đậu xanh, nhưn  thịt, nhưn  mỡ, giò heo bắc thảo, trứng,  đậu phộng, nắm đông cô… Phần  nhưn luôn  tùy theo yêu cầu của khách mà  mình làm. Cũng có cả bánh tét  nhưn chay!”
Thông thường phải mất từ  4-5 tiếng để  nấu một nồi bánh tét, muốn bánh  tét “ăn lâu” khi gói  phải buộc thật  chặt. Khi bánh chín, cắt ra một  khoanh sẽ thấy sự phối  màu thật đẹp  mắt: bên trong khoanh bánh màu tím  thẫm là một chút màu  vàng của đậu,  màu trắng của mỡ, màu hồng của thịt  nạc, màu đỏ cam của  tròng đỏ trứng  vịt muối. Trung bình một đòn bánh tét  lá cẩm có thể để  trong năm ngày  đến một tuần, nếu muốn để lâu hơn thì  phải cất vào ngăn  đá tủ lạnh, khi  ăn đem ra “hấp lại” bánh tét vẫn ngon  như mới nấu.
Bánh  tét lá cẩm không chỉ dùng để đãi  khách những ngày đầu năm đậm đà   hương vị quê hương mà có thể mang tặng  những người thân quen một cặp   bánh tét lá cẩm có màu tím thủy chung với  ý chúc một năm mới tràn đầy   hạnh phúc và thịnh vượng.
Bánh Tét rất nhiều cách làm, tùy theo  miền, nếu làm bánh mặn thì có  nhân đậu xanh, thịt mỡ.  Nếu làm bánh  ngọt thì có chuối xiêm, nước dừa,  và đậu trắng.Nguyên liệu:
Phần vỏ bánh:
 - 2 kg nếp dẻo (không lộn gạo)
 
-  800 gr dừa khô
 
-  2 muỗng cafê muối
 
-  3 xấp lá chuối hột
 
-  1 bó dây lạt
 
-  1 bó lá cẩm
 
Phần nhân bánh:
-  600gr đậu xanh cà
 
-  200gr mỡ thịt
 
-  5 tép hành lá
 
-  5 muỗng cafê mỡ nước
 
-  ½ muỗng cafê muối
 

1/ Nhân bánh:
- Dừa khô vắt lấy 2 chén nước cots và 4 chén nước giảo.- Đậu xanh ngâm nở, đãi vỏ, nấu chín với nước giảo dừa, rồi đánh cho nhuyễn.
- Hành lá xắt nhuyễn.
- Mỡ thịt trần qua nước sôi, xắt sợi dài 10cm, vuông 1cm
- Bắt chảo lên bếp, chế vào 5 muỗng mỡ nước, mỡ vừa nóng cho hành lá vào, tiếp đến cho đậu xanh, muối vào, tất cả trộn đều khoảng 5 phút, nhắc xuống chia làm 30 phần
Cánh thực hiện:
- Lá cẩm nhặt lấy lá, rửa sạch, cho 2 chén nước lã vào, bắc lên bếp nấu đến khi còn khoảng 1 chén, lọc lấy nước lá cẩm, bỏ xác lá.
- Bắc chảo lên bếp, chế vào 1 chén nước lá cẩm và 2 chén nước cốt dừa nấu cạn bớt 1/3, còn lại khoảng 2 chén, cho nếp và 1,5 muỗng muối vào xào đến khi nếp ráo hơi có nhựa, nhắc xuống, chia làm 30 phần bằng số lượng nhân
3/ Gói bánh: - Lá chuối xé hình vuông 25cm, lá bọc ngoài.
- Lá nhỏ khoảng 15cm đặt phía trong.
- Lá bịt đầu cắt ngang 5cm, chiều dài 15cm.
- Tất cả đem phơi héo hoặc trụng qua nước sôi, lau sạch cắt bớt sống lá.
- Trải lá ngoài, lá phía trong đặt mặt phải đặt ngược chiều với lá ngoài.
- Cho nếp vào, dàn mỏng ra đều 4 cạnh, sau đó đặt nhân vào giữa
- Lá nhỏ khoảng 15cm đặt phía trong.
- Lá bịt đầu cắt ngang 5cm, chiều dài 15cm.
- Tất cả đem phơi héo hoặc trụng qua nước sôi, lau sạch cắt bớt sống lá.
- Trải lá ngoài, lá phía trong đặt mặt phải đặt ngược chiều với lá ngoài.
- Cho nếp vào, dàn mỏng ra đều 4 cạnh, sau đó đặt nhân vào giữa
Gấp 2 mí lá ngoài lại với nhau, cuốn tròn, dùng dây lạt cột ở giữa
Tiếp đến bẻ 1đầu lá dằn xuống cho dẽ nếp, dùng kéo cắt bớt lá dư. Gấp đầu lá thành hình vuông, đặt hai miếng lá bịt đầu chéo nhau
Dùng dây lạt buộc lại cho chặt, đầu còn lại làm tương tự
Tiếp tục dùng dây lạt buộc giống đầu đòn bánh – tức buộc 2 đầu chéo nhau theo chiều dọc đòn bánh để giữ cho lá 2 đầu không bung ra
Dùng dây lạt buộc từ 6 đến 8 vòng ngang hay còn gọi là nứt bánh
Phần dây nứt bánh còn thừa xoắn cho dây cuộn lại
4/ Nấu bánh: Bắt nước thật sôi, xếp bánh vào hấp, đun lửa sôi liên tục, không đứt quãng. Đun khoảng 5 giờ cho bánh chín.
5/ Yêu cầu thành phẩm:
- Bánh gói đều tay, nếp dẽ chặt, nhân phải ngay giữa
- Bánh có vị béo, mặn, ngọt vừa ăn .
Dạo phố phường Sài Gòn bạn bỗng cảm thấy khát khô cổ họng. Đừng lo, có rất nhiều thức uống “ngon, bổ, rẻ, mát” đang chờ bạn.
Xứ  sở nhiệt  đới này có vô vàn những loại trái cây giải khát khiến  con  người và cả  tâm hồn bạn dịu mát trước cái nắng oi ả của phố phường.
Quán   nước vỉa hè không chỉ đơn thuần là giải khát mà còn là nơi  người ta  tìm  đến để chuyện trò vui vẻ, không bị cái không gian chi phối  như  ngồi  trong nhà hàng, người ta cứ thế tự nhiên với nhau, bao nhiêu  vui  buồn  cuộc sống cũng theo tiếng xe ngoài phố trôi tuột đi.
Hầu   như quán nước vỉa hè nào đã bán  nước sâm rồi thì chắc chắn sẽ bán kèm   nước rau đắng và Atiso, 3 món  giải khát này giống như bạn đồng hành   không thể thiếu của một quán nước  giải nhiệt. Dường như trên đường phố   Sài Gòn, đâu đâu cũng có thể bắt  gặp những xe nước như thế này.
Mà   nước sâm, rau đắng cũng ít khi đặt  chân vào các quán nước sang trọng.   Người ta vẫn là thích dừng lại bên  đường, uống một cốc nước giải  nhiệt  tức thì, cho mình vài phút thảnh  thơi ngắn ngủi xua đi mệt nhọc  của công  việc và thời tiết rồi lại phút  chốc hòa vào dòng người hối  hả.
1. Thơm mát nước dừa
Nước   dừa Sài Gòn được bán phổ biến  trên những chiếc xe rong ruổi đường  dài,  hoặc nơi góc đường, quán  vắng…Muốn uống nước dừa, chỉ cần chịu  khó chờ  chốc lát, bạn cũng có thể  thấy xe nước dừa đẩy ngang qua nhà.  Tuy  nhiên, chỉ uống nước dừa trong  quả thôi mà bỏ đi phần cơm dừa xem  như  đã bỏ phí mất một món ngon. Bởi  vậy, nhiều người Sài Gòn thích  uống nước  dừa pha sẵn, có cơm dừa hòa  trong ly nước dừa mát lạnh.
Sài Gòn có 1 góc đường chuyên bán nước dừa pha sẵn này. Chỉ là 1 đoạn nhỏ cuối đường Pastuer đã có đến 5,6 xe nước dừa pha. Đây là con đường nước dừa nổi tiếng nhất Sài Gòn.
Hàng   nước dừa chỉ là 1 xe bán nước  lưu động đứng sát mặt đường, phía trong   vỉa hè để nhiều chiếc ghế con  con cho khách ngồi. Vỉa hè ở góc đường  này  tương đối rộng và thoáng  mát, rất thích hợp để ngồi ngắm cảnh dòng  xe  hối hả. Dù là giữa trưa  hay chiều muộn đều tấp nập khách đến đi.  Mặt  hàng bán chạy nhất ở đây  là dừa tắc (dừa pha với nước quất) và dừa  thơm  (dừa trộn mứt thơm). Cả  hai loại đều có 1 điểm chung là ngọt lịm  và mát  lạnh. Giá một ly nước  dừa rất rẻ, chỉ 5.000 đồng là có thể có  một ly  lớn đầy cơm dừa.
Dừa  tắc  là ly nước dừa pha sẵn, bỏ thêm  một muỗng mứt tắc ngọt lịm. Vị ngọt   của mứt tan trong vị ngọt thanh  của nước dừa lại dậy lên mùi thơm của   vỏ tắc thanh tao. Dừa  thơm cũng  giống như dừa tắc, chỉ là một muỗng  mứt thơm ngọt đến gắt cổ  dung hòa  với vị ngọt của nước dừa lại thành  một mỹ vị vừa miệng.
Việc   pha chế hai món này tương đối  đơn giản, lấy nước dừa nguyên chất  trong  trái dừa trộn lẫn với cơm dừa  thái nhỏ rồi bỏ đá viên vào là có  ngay 1  món giải khát dân dã. Chủ   hàng không đợi khách đến mới pha  từng ly mà pha chung trong một bình   lớn, giữ lạnh. Vì vậy bất cứ lúc  nào khách đến cũng luôn có sẵn 1 ly   nước dừa mát lạnh.
Uống ly nước dừa, nghe cái mát lạnh chảy tràn trong khoang miệng, chảy cả vào lòng xua đi cơn nóng của Sài Gòn khói bụi.
2. Khỏe khoắn nước sâm
Nếu   như nước dừa với vị thơm của trái  tắc, bùi bùi của miếng cùi non làm  ta  cảm thấy no bụng, thì nước sâm  là một thứ “tăng lực” vừa rẻ, vừa  bổ.
Nước sâm bán ven đường được nấu từ thành phần chính là mía lau, rau bắp, rễ tranh, hoàn toàn không có nhân sâm như tên gọi của loại thức uống này.
Mía  lau  có tác dụng thanh nhiệt, làm  cho hết khát. Rễ tranh và râu bắp có  tính  lợi tiểu, dùng hỗ trợ mía lau  để thanh nhiệt, đồng thời đẩy  nhiệt ra  khỏi cơ thể qua đường tiểu  tiện. Đi xe trên đường vào giữa  trưa nắng nóng, ghé uống 1 ly “sâm lạnh”  thấy sảng khoái tươi tỉnh hẳn  ra.
3. Thanh mát Atiso
Bên canh nước dừa, nước sâm, nước atiso cũng là một trong những món giải khát ưa chuộng của người Sài Gòn.
Atiso   là một loại nước nước giải khát tiêu nhiệt rất tốt. Atiso có  tính  đắng,  hậu hơi ngọt, rễ và bông atiso có giá trị dinh dưỡng cao.
Thông   thường những quán vỉa hè dung rễ atiso để nấu nên giá thành  rất rẻ,  chỉ  5.000đ đã có một ly Atiso mát lạnh uống ngay hoặc mang đi.
4. Tốt như nước đắng
Đúng   như tên gọi của loại thức uống,  nước đắng rất đắng. Nhưng cái đắng ở   đây rất có lợi cho sức khỏe mà lại  chẳng đắt tiền. Uống nước đắng  không  phải dễ dàng cho những ai chỉ hảo  ngọt, nhưng khi đã uống được  rồi thì  lại đâm ghiền, bởi tác dụng thanh  nhiệt và giải độc, mát gan  của nó.
Cầm   ly nước đắng đen nâu sóng sánh  như màu thuốc bắc, người mới tập tành  le  lưỡi nhắm mắt uống một hơi,  chưa kịp nhận biết gì trong đấy đã được   người bán đưa ngay cho ly nước  sâm uống cái ực, để trung hoà vị giác.  Người  đã xem nước đắng là món  khoái khẩu thì nhấm nháp từ từ nhưng  vẫn uống ly  nước sâm sau đó. Nếu  không thể nếm được vị đắng nào thì  nên gọi một ly  nước pha gồm một ít  nước đắng pha nhiều nước sâm, uống  cũng rất ngon và  mát.
5. Thơm mát nước mía
Sẽ   thật là thiếu sót nếu không liệt  kê nước mía vào danh sách những món   giải khát vỉa hè ở Sài Gòn. Một ly  nước mía ép nguyên chất thơm thơm  mùi  tắc lại nhẫn nhẫn vị đắng của vỏ  tắc hòa tan trong cái lạnh của đá  viên  thật là một món giải khát tuyệt  vời.
Từ   các bạn trẻ tuổi teen đến người  trưởng thành đi làm đều cùng ngay bên   một chiếc bàn nhỏ, dưới tàn cây  lộng gió mà rôm rả những câu chuyện   trong ngày.
Thật  khó để có  thể đưa ra kết luận là  hàng nước giải khát nào là ngon nhất ở  Sài Gòn,  chỉ xin mách bạn hai  địa chỉ nước sâm, rau đắng, atiso được  nhiều  người ưa chuộng nằm ở góc  đường Đinh Tiên Hoàng giao với Điện Biên   Phủ, Q.3. Hai cửa  hàng nước  giải khát này mở ra đã hơn mười năm, mỗi  ngày đều mở cửa đều  đặn từ  sáng đến đêm và luôn luôn có những cô áo  vàng, áo cam phục vụ  nhiệt  tình, thân thiện. Khách đến đây có thể ngồi  uống trên vỉa hè hoặc  là  đứng uống ngay bên cạnh đường.
Dù   biết là có gây cản trở giao thông chút ít, nhưng du khách vẫn  không  thể  cưỡng lại vị ngọt mát của 3 loại nước thanh nhiệt này.                
Đầu   tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước  của con rạch Thị Nghè   quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú  do Phan Văn Thị sáng   tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa.
Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
Ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu. Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều…Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Quả tình, gắn với tên ông thì còn nhiều lắm, nhưng xin tạm dừng ở đây.

Nguồn gốc tên gọi
Có hai giả thuyết:
1. Trong thế kỷ 17-18, vùng Bình Dương-Lái Thiêu là nơi định cư của nhiều dân triều Minh chạy trốn triều Thanh, phần đông làm nghề gốm, ít học vấn. Họ gọi vùng đất nầy là Thụ Dầu Mục hoặc Thú Dầu Mục, vì vùng này có mọc nhiều cây có tên địa phương là Thù du mộc (茱萸木). Dân Bình Dương gọi hai loài thực vật, một cây ngắn ngày là bụp giấm (Hibiscuss abdarffa) và cây thầu dầu (Ricinus communis) bằng cùng một tên là cây Thù du. Đây là nguyên nhân có từ Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương.
2. Có giải thích khác là nơi có cây Dầu Một, là “cây dầu đứng một mình ở đầu con đường”. Không hợp cách đặt tên của miền Nam. Trường hợp này sẽ gọi là: ngã ba, ngã tư Cây Dầu, nếu có đất gò thì gọi Gò Dầu.
Thủ Dầu Một nguyên cũng nổi tiếng sản xuất hàng sơn mài gốm sứ, mây tre đan.
Ngoài ra: cơ khí lắp ráp, vật liệu xây dựng, hóa chất, cơ điện, may mặc, sản xuất đường mía, chế biến thực phẩm;
Khu liên hợp công nghiệp, dịch vụ, đô thị 4.200 ha đang được xây dựng.
 
Coi  ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Nội ô Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh  còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu,   nằm trên  địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này   có cái chợ  cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có   câu ca dao,  nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung  quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm.    Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc    Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương  Định   từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo,  là khu  vực gồm  các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường Cách  mạng  Tháng Tám  nối liền đường Trường-Chinh lên Tây Ninh, vọt thẳng  biên giới  với  Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì  quẹo trái  (rẽ)  vào.
Hay Bà Đô,  là con  rạch ở  phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến  Nghé, nay bị  lấp rồi.  Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử  bắc qua rạch Bà  Đô (còn  gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi  trước, qua đây hay  hát:
Kể  từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên  kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định  phú có câu ví rất hay: Giếng Bà Nhuận rạch cam  tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp… cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp… cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ  Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ  để ông già gùi độiDưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa.
Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
Bà Ký  là đường trên địa  bàn  phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường  Phạm Văn Chí với Lò  Gốm,  nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân  Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường Bà  Lê Chân. Bà Triệu   nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp  có tên là Merlande. Năm 1955 mới   đổi thành Bà Triệu… Chắc là còn nhiều  “bà” nữa mà người viết chưa có   vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm  thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt  tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu,  hay địa danh  một vùng đất gắn  với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu  hát, câu ví  dí dỏm. Nhưng,  với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả  thơ phú, câu  vè, câu đố  nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu  ông nghe như  trống trải  trong lòng vậy.Ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị  Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ăn ve, lên Ông Tố.
 Ve  mà nướng  lên ăn cũng thơm  như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông  Trương Vĩnh  Tố có làm quan  chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất  cao (gọi là  giồng)có lẽ là  của ông chăng?
Bốn là Ông Tạ. Là  chợ mang tên  một thầy thuốc nam  nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ  Thủ). Chợ Ông Tạ  còn là vùng đất  thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận  Tân Bình. Nói  thêm: Dân ghiền thịt  chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay  đến các hàng  thịt chó nằm trên  đường Cách mạng Tháng Tám treo lủng  lẳng cả chục con  thui vàng rực, coi  bắt mắt lắm.Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu. Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều…Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Quả tình, gắn với tên ông thì còn nhiều lắm, nhưng xin tạm dừng ở đây.
Nguyễn Trí Đức
Thủ Dầu Một  là thị xã tỉnh Bình Dương, cách Thành  phố Hồ Chí Minh khoảng 20 km về  phía bắc. Trước 1975, thị xã thuộc quận  Châu Thành. Hiện thị xã Thủ Dầu  Một là thị xã có số dân đông nhất và  phát triển nhất Việt Nam.Nguồn gốc tên gọi
Có hai giả thuyết:
1. Trong thế kỷ 17-18, vùng Bình Dương-Lái Thiêu là nơi định cư của nhiều dân triều Minh chạy trốn triều Thanh, phần đông làm nghề gốm, ít học vấn. Họ gọi vùng đất nầy là Thụ Dầu Mục hoặc Thú Dầu Mục, vì vùng này có mọc nhiều cây có tên địa phương là Thù du mộc (茱萸木). Dân Bình Dương gọi hai loài thực vật, một cây ngắn ngày là bụp giấm (Hibiscuss abdarffa) và cây thầu dầu (Ricinus communis) bằng cùng một tên là cây Thù du. Đây là nguyên nhân có từ Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương.
2. Có giải thích khác là nơi có cây Dầu Một, là “cây dầu đứng một mình ở đầu con đường”. Không hợp cách đặt tên của miền Nam. Trường hợp này sẽ gọi là: ngã ba, ngã tư Cây Dầu, nếu có đất gò thì gọi Gò Dầu.
Địa lý, dân số
- Thị xã nằm bên tả ngạn sông Sài Gòn. Phía Đông giáp các huyện Tân Uyên và Thuận An, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh, Nam giáp huyện Thuận An, Bắc giáp huyện Bến Cát và Tân Uyên.
 - Diện tích: 118,812 km²
 - Dân số: 211.068 người (8/2009)
 
Kinh tế
Có địa hình đồng bằng thích hợp với việc trồng lúa, cây ăn quả, mía, sắn; chăn nuôi các loại gia súc như lợn, bò.Thủ Dầu Một nguyên cũng nổi tiếng sản xuất hàng sơn mài gốm sứ, mây tre đan.
Ngoài ra: cơ khí lắp ráp, vật liệu xây dựng, hóa chất, cơ điện, may mặc, sản xuất đường mía, chế biến thực phẩm;
Khu liên hợp công nghiệp, dịch vụ, đô thị 4.200 ha đang được xây dựng.
Hành chính
Thủ Dầu Một gồm 14 đơn vị hành chính, đó là các phường (Phú Cường, Hiệp Thành, Chánh Nghĩa, Phú Thọ, Phú Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Định Hòa, Hiệp An, Hòa Phú, Phú Tân) và 3 xã (Tân An, Chánh Mỹ, Tương Bình Hiệp). Thị xã này đang có đề án nâng cấp lên thành phố.Di tích và danh thắng
- Chùa bà Thiên Hậu, hội vào rằm tháng riêng âm lịch
 - Khu Đại Nam thế giới du lịch
 - Chợ Thủ Dầu Một
 - Chùa Hội Khánh
 - Chùa Ông
 - Làng sơn mài Tương Bình Hiệp
 - Làng nghề gốm sứ
 - Nhà tù Phú Lợi
 - Nhà cổ tại chợ Thủ Dầu Một
Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
Đêm rằm mười sáu trăng treoNăm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu (Ca dao)
Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.
Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!
Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.
Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?
Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.
Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.
***
Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trái. Lái Thiêu xưa là nơi hò hẹn của người Sài Gòn. Lái Thiêu là nơi người Sài Gòn cuối tuần đi đổi gió.
Lái Thiêu giờ đây ngày nào cũng phải đón khách, và đang chịu sự hủy hoại môi trường!
Lái Thiêu của người Sài Gòn xưa giờ đây phải chăng chỉ còn là kỹ niệm để nhớ để thương? Tiếc thay!
Tác giả: Nam Sơn Trần Văn Chi
Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa
Đêm rằm mười sáu trăng treoNăm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu (Ca dao)
Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.
Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!
Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.
Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?
Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.
Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.
***
Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trái. Lái Thiêu xưa là nơi hò hẹn của người Sài Gòn. Lái Thiêu là nơi người Sài Gòn cuối tuần đi đổi gió.
Lái Thiêu giờ đây ngày nào cũng phải đón khách, và đang chịu sự hủy hoại môi trường!
Lái Thiêu của người Sài Gòn xưa giờ đây phải chăng chỉ còn là kỹ niệm để nhớ để thương? Tiếc thay!
Tác giả: Nam Sơn Trần Văn Chi
 
ReplyDeleteeva air ticket
mua ve may bay eva di my
korean air việt nam
vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich
ve may bay di canada gia re