Bánh cam. Rạch Giá, Kiên Giang.
Bánh canh bột gạo. Cai Lậy, Tiền Giang.
Bánh nậm. Huế.
Bánh nậm. Tân Thạnh, Long An.
Bánh nậm, bánh bột lọc. Tân Thạnh, Long An.
Bắp nướng. Cai Lậy, Tiền Giang.
Bún bò giò heo chả cua. Huế.
Bún cá. Cam Ranh, Khánh Hòa.
Bún cá. Cam Ranh, Khánh Hòa.
Bún cá. Ninh Hòa, Khánh Hòa.
Bún cá. Phú Quốc, Kiên Giang.
Bún cá. Rạch Giá, Kiên Giang.
Bún kèn. Phú Quốc, Kiên Giang.
Bún nhâm, bún kèn, bún thịt nướng. Phú Quốc, Kiên Giang.
Bún lá. Ninh Hòa, Khánh Hòa.
Bún nhâm. Phú Quốc, Kiên Giang.
Cà ri cá. Sài Gòn.
Chè. Huế.
Chè bột lọc. Huế.
Chè bột lọc. Huế.
Chè đậu bánh lọt nước cốt dừa. Chợ Đất Sét, Đồng Tháp.
Nữ sinh ăn chè. Chợ Đất Sét, Đồng Tháp.
Chuối chiên. Tân An, Long An.
Chuối xào dừa. Cao Lãnh, Đồng Tháp.
Cơm bình dân. Cao Lãnh, Đồng Tháp.
Cơm bình dân. Huế.
Cơm bình dân. Phan Rang, Ninh Thuận.
Cơm gà tam kỳ. Tam Kỳ, Quảng Nam.
Gỏi cá lạt. Đà Nẵng, Quảng Nam.
Gỏi cá mai. Nha Trang, Khánh Hòa.
Gỏi cá mai. Nha Trang, Khánh Hòa.
Lẩu cá và mực. Đại Lãnh, Khánh Hòa.
Lẩu lươn. Huế.
Rau câu dừa. Cai Lậy, Tiền Giang.
Trái bần. Chợ Lách, Bến Tre.
Trái bình bát. Cần Đước, Long An.
Trái chuối la ba Đà Lạt. Phan Rang, Ninh Thuận.
Trái dừa. Lái Thiêu, Bình Dương.
Trái me keo. Đại Hòa, Bình Thuận.
Trái sầu riêng. Cai Lậy, Tiền Giang.
Trái vú sữa. Cái Bè, Tiền Giang. Vùng đất Nam Bộ ruộng lúa mênh mông, sông  ngòi chằng chịt là nơi sinh sôi của bao nhiêu loài tôm cá, thủy sản:  “Ruộng đồng mặc sức chim bay – Biển hồ lênh láng mặc bầy cá đua”. Chính  vì vậy cái thú tát đìa bắt cá về chế biến món ăn đã trở thành một kiểu  thưởng thức ẩm thực độc đáo ở miền Tây Nam Bộ. Trong đó, Đồng Tháp là xứ  mà cá lóc nhiều và ngon đặc biệt.                                                
 Mỗi lần tát đìa, đến lúc nước cạn  là giai đoạn gay cấn nhất, đám trê, rô cố chúi sâu vào lớp bùn đáy để  trốn, còn cá lóc thì cố vượt lên để lách qua bờ thoát thân, nhưng đìa đã  cạn, cứ lên tới nửa thành đìa thì rớt xuống. Người dưới đìa cứ thấy con  lóc nào phóng lên là lập tức chộp con đó. Tại bàn tiệc dã chiến, những  tàu lá chuối xanh mượt đã được xếp dài ở giữa. 
 Bên trên xấp lá chuối là những xấp bánh tráng dẻo trắng phau,  đọt xoài, lá lụa, quế vị, húng lủi v.v. tươi roi rói, xen lẫn là những  lát chuối chát, khế chua, đôi khi còn có thêm những trái điều chín vàng  ươm v.v.. Cạnh đó là tô mắm me cay hoặc muối ớt để chuẩn bị cho một món  ăn dân dã nhưng cực kỳ ngon và được người dân Nam Bộ rất mê, món Cá lóc  nướng trui.

Cá lóc rửa sạch, lựa con chừng 1 kg là vừa, thịt cá vừa ngọt, thơm, lại dễ nướng. Xiên một thanh trúc hoặc thanh tre tươi vót sẵn từ miệng cá cho đến đuôi. Nhiều khi nguời ta còn dùng dao chặt bỏ phần đuôi cá vì như vậy thì khi nướng chín phần bụng và xương cá sẽ không bị ứ máu, thịt cá sẽ không tanh khi để nguội. Sau đó cắm những thanh tre đã xiên cá xuống đất và phủ rơm khô lên, người nướng cá “có nghề” phải lượng sao cho rơm vừa đủ để khi rơm vửa tàn thì cá cũng vừa chín. Rơm dư thì cá khét hoặc chín quá, mất ngọt; rơm thiếu thì cá lại nhão, tanh v.v.
Nhìn đụm rơm cháy đỏ, tiếng mỡ nổ lốp bốp, thật sướng tai, sướng mũi vì cá lóc nướng trui có mùi thơm rất đặc trưng, không giống với loại cá nào khác. Mùi thơm toả ra từ lớp vẩy, thớ thịt và có cả mùi hơi khét của da. Cá chín đặt nguyên con lên tàu lá chuối, cạo bớt lớp vảy cá bị cháy, xẻ lằn dài theo bụng cá, mở ra làm đôi là ăn được. Lấy miếng cá còn bốc khói cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm vào nước mắm hoặc mắm nêm, bạn sẽ thấy thật sướng miệng khi mùi thơm, vị ngọt béo của cá hoà lẫn với các hương vị của khế chua, chuối chát, ăn hoài không ngấy. Hãy nhai thật chậm rãi để nghe bao nhiêu hương vị của rau cỏ, đồng ruộng như ngấm vào tận ruột gan, ăn một lần nhớ mãi.
Cá lóc đắp bùn
Thay vì nướng trui, dân gian còn có món Cá lóc đắp bùn, cá rửa sạch, để nguyên con, dùng bùn dẻo đắp kín, sau đó chất lên rơm rạ đốt. Khi đất khô nứt ra là cá chín, có mùi thơm ngọt, phảng phất chút ít bùn, thường dùng chấm với muối tiêu rất ngon.
Cá lóc hấp bông so đũa
Nói đến các món đặc sản từ cá lóc ở Đồng Tháp còn phải kể đến món Cá lóc hấp bông so đũa, món ăn có thể chinh phục những thực khách khó tính nhất. Cá lóc làm sạch, ướp với bột ngọt, tiêu, củ hành và ít muối, để trong 10 phút. Hái khoảng 14 - 18 bông so đũa (non vừa búp nở) ở đọt, rửa sạch, lần lượt sắp phân nửa vào đĩa lớn, đặt cá lên, rồi sắp phân nửa phần bông còn lại phía trên, để trong nồi hấp cách thủy, đậy nắp đun sôi trong 30 phút là cá chín. Nước chấm là nước mắm dầm ớt. Mang dĩa cá nóng ra, lấy bông so đũa phía trên đi, để lộ một phần thân cá khói lên nghi ngút thật hấp dẫn. Món này đặc biệt ở chỗ bông so đũa đã thấm hết mùi vị thơm ngọt của cá tiết ra khi hấp, nên nếu nhai chầm chậm bông so đũa bạn sẽ cảm nhận được vị ngon rất lạ. Dùng hết bông so đũa rồi đến cá, hương vị cá hấp do được nhuỵ bông so đũa bao bọc kín nên rất dịu ngọt và thơm ngon. Ai đã một lần thưởng thức món ăn này do chính người nội trợ Đồng Tháp chế biến hẳn sẽ không thể nào quên.
Cá lóc nướng lá sen
Một món ăn khác, độc đáo không kém cá lóc hấp bông so đũa là cá lóc nướng lá sen, cái tên mà chỉ nghe thôi cũng cảm thấy xao xuyến chất bưng biền Nam Bộ, nơi có những cánh đồng sen bát ngát, cá lóc táp mồi có lúc phóng nằm trên những lá sen. Thế là nguời dân miệt vườn sáng chế ra món cá lóc nướng lá sen đơn giản, không đòi hỏi nhiều công phu nhưng lại đậm đà hương vị miền sông nước.
Khác với những món cá lóc nướng khác, cá lóc nướng lá sen đặc biệt ở chỗ nước chấm. Mắm nêm nguyên chất có vị mặn và chát, phải pha thêm đường, bột ngọt, chanh, bằm nhuyễn thơm rồi dùng khăn vắt nước cốt dừa hòa chung cho sền sệt là được.
 Về khâu nướng cá, phải chọn con cá còn tươi sống, rửa sạch cho vào thau rồi rải đều lớp muối lên trên, đậy kín lại. Trong thau con cá lóc càng vùng vẫy bao nhiêu thì càng sạch chất nhờn chừng ấy. Bắt cá xiên từ miệng đến đuôi bằng một que tre vót nhọn rồi dùng lá sen gói kín lại hai, ba lớp. Lá sen phải là lá sen già, còn tươi có màu xanh thẫm, cứ thế cho con cá lên bếp than cháy đỏ mà nướng, vừa nướng vừa xoay trở mình cá. Lá sen cháy cho mùi thơm thanh thoát, nồng đượm. Khi lá cháy hết cũng là lúc cá chín đều, cá chín nhờ sức nóng của lá sen còn tươi. Cách nướng này không làm da cá bị khét như cách nướng trui, trái lại còn làm da cá vàng ươm, sống lưng cá nứt ra, dùng tay hoặc đũa tách làm đôi, rút bỏ xương, rưới mỡ hành cùng đậu phộng, cuốn với bánh tráng mỏng, các loại rau ghém, bún chấm nước mắm nêm tạo cho người ăn niềm thích thú riêng. Da cá vừa béo vừa giòn thoang thoảng hương sen, thịt cá rất ngọt hòa trong vị nước chấm đặc trưng... không gì hấp dẫn bằng.
Cá lóc kho: Cá làm sạch, cắt ra từng khứa, cho vào mẻ kho. Kho cá lóc cũng như kho các loại cá khác, có thể kho khô hoặc kho nước. Nếu kho khô thì cho tiêu thật nhiều, còn kho nước thì có thể để vào vài trái ớt sừng trâu. Ăn kèm với các loại rau, dưa leo, chuối chát, nếu bằm xoài sống cho vào nước kho thì ăn cảng ngon.
Canh chua cá lóc: Đây là một trong những món ăn đặc trưng mà người Nam Bộ từ thành thị đến nông thôn đều ưa thích. Cá lóc làm sạch, cắt ra từng khứa to nấu với me, giá, bạc hà, ngò gai, cà chua v.v. phi thêm chút tỏi cho thơm. Ăn canh chua cá lóc muốn ngon thì nước chấm phải là nước chấm trong (chưa pha chế), dầm ớt vào cho cay. Tô canh chua cá lóc nóng nghi ngút, hấp dẫn với màu trắng của thịt cá, màu vàng của thơm, màu đỏ của cà, màu xanh của ngò gai v.v. cùng lớp tỏi phi vàng nổi trên mặt khiến ta chỉ nhìn thôi cũng muốn ăn ngay…
Chỉ với con cá lóc người dân Đồng Tháp còn có thể chế biến ra hơn một chục món ăn ngon khác, món nào cũng độc đáo, hấp dẫn, đậm đà hương vị miền Nam. Chắc chắn rằng, cá lóc nướng trui, canh chua cá lóc, cá lóc nướng lá sen v.v. vẫn luôn là những món ăn thấm đẫm hồn quê mà nguời dân đất phương Nam vẫn luôn lưu giữa trong tâm khảm mình, dù có đi bất cứ nơi đâu.
về mổ bụng, xẻ thịt, lấy ruột gan ra, đem ướp muối phơi. Nếu trời nắng gắt, phơi khoảng vài nắng là được. Khi cá đã khô, người ta thường treo lủng lẳng ở nhà bếp, dùng để ăn lâu dài, khi ăn ta có thể nướng hoặc chiên giòn lên. Khô cá lóc thường dùng ăn với cơm, cháo trắng hoặc làm mồi nhậu. Khi ăn cơm, người ta thường chấm với nước mắm me có dầm ớt, nhưng ngon nhất vẫn là chấm với nước mắm xoài. Nhâm nhi vài ly rượu đế, vị chua của xoài, vị mằn mặn của khô cá hoà quyện với nhau, ta chợt nhận thấy món ăn tuy đơn giản nhưng ngon vô cùng. hai loại mắm chính là mắm đồng và mắm biển (các loại thủy sản). Nhưng nói đến những chủng loại mắm dồi dào phong phú nhất, phải nói đến miền Nam.
 Người Nam Bộ  trên bước đường khẩn hoang đã tìm được nguồn thực phẩm trời cho là những  loại cá ngon trên khắp các sông ngòi, biển cả, cá nhiều đến mức tiêu  thụ không hết, nên họ đã tìm tòi, sáng tạo nhiều loại mắm độc đáo để làm  lương thực dự trữ. Với các món mắm đa dạng, dĩ nhiên cách chế biến món  ăn với mắm cũng hết sức đa dạng
 “Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm”
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm”
 Ở miệt quê Đồng Tháp, không ai lại không  biết đến bông súng chấm mắm kho, món ăn dân dã nhưng hương vị đậm đà khó  quên mà không phải nơi nào cũng có. Mỗi năm, hễ ăn tết xong là bà con  bắt đầu tát mương, vũng, đìa để bắt cá đồng, con to đem bán, con nhỏ  mang về làm mắm, chờ qua mùa nước nổi thì giở ra ăn dần v.v. 
Muốn kho mắm cho ngon, nhiều người đổ nước dừa nạo vào xâm xấp, cao hơn mắm cỡ vài phân rồi bắc lên bếp cho tới khi thịt con mắm nhuyễn nhừ rồi mới nhắc xuống lọc kỹ, bỏ xương. Sau đó nêm nếm gia vị và đừng quên ớt, sả - hai thứ không thể thiếu trong món mắm kho, vài trăm gram thịt ba rọi, kho với tép bạc, cá rô, cá trê v.v. càng ngon.
Mắm kho ngon nhất là chấm với bông súng ở đìa, mà không phải bông súng nào cũng ngon như nhau, chỉ có loại bông súng trắng, cọng nhỏ cỡ chiếc đũa ăn cơm, ăn mới mềm, có “hậu” ngọt v.v.. Mùa nước về bông súng càng lên nhanh trắng đồng, nhổ về để nguyên cọng rửa sạch, tước vỏ bên ngoài, ngắt mỗi cọng độ dài chừng hai gang tay, để trong rổ cho ráo nước. Mắm dỡ ra có màu đỏ thẫm thơm lừng, bông súng bỏ vào chén, chan nước mắm kho lên trên. Chất cay của ớt, the của sả, ngọt của tép, cái giòn của bông súng tạo thành món ăn tuyệt vời, đơn sơ, ít tốn kém mà vẫn đậm đà hương đồng gió nội.
 Nếu ai đã ghé qua Mỹ Tho mà chưa ăn một tô hủ tiếu nơi đây thì  xem như họ chưa đến, hoặc thật uổng phí vì chưa cảm nhận được một món ăn  cực kỳ ngon của thành phố Mỹ Tho. 
Đã ăn hủ tiếu Mỹ Tho rồi, dù bạn có đi những nơi khác, ăn ở những nhà hàng sang trọng thì hủ tiếu của họ vẫn còn thiếu những hương vị rất riêng của Mỹ Tho. Tôi đã ăn hủ tiếu ở Hà Nội, Sài Gòn... nên mới có thể rút ra một kết luận như thế.
Hủ tiếu Mỹ Tho có những thành phần chính như thịt, bánh bột, nước súp. Song lại khác rất cơ bản với hủ tiếu Tàu, hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò Huế... Chẳng hạn, hủ tiếu Mỹ Tho không ăn với xà lách, dấm, rau ghém mà dùng giá sống, chanh, ớt, nước tương. Tuy nhiên, điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tiếu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng và nhiều người "bén mùi" kể từ thập niên 60 là nhờ sự hoàn thiện từ khâu hột gạo làm ra cọng bánh tới nồi nước lèo với tuyệt kỹ pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho, như: Phánh Ký, Tuyền Ký, Nam Sơn... cùng các lớp thợ nấu sau này.
Điều làm nên nét đặc trưng riêng của món ăn này là do sợi hủ tiếu nơi đây đã được nhiều thợ nấu trứ danh khám phá.
Sở dĩ sợi hủ tiếu ở Mỹ Tho ngon hơn những sợi hủ tiếu nơi khác, bởi cọng hủ tiếu được làm từ loại gạo Gò Cát (đặc sản như gạo Tàu Hương, gạo nàng thơm chợ Đào). Đây là vùng trồng lúa thơm địa phương của xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho. Sợi hủ tiếu làm bằng gạo Gò Cát, thường dai, trong và giòn hơn những loại gạo khác.
Bên cạnh đó, vị ngon của tô hủ tiếu còn do cách pha chế nước lèo. Gia vị một nồi nước lèo phải ngọt, thanh và cùng một số mùi vị đặc trưng khác mà chỉ khi nào nhấm nháp mới có thể cảm nhận hết được. Thông thường, nồi nước lèo ngọt là do hầm chung với xương tủy heo, mực sống cùng với những loại rau củ như củ cải, cà rốt...
Bên cạnh đó, cách người bán trổ tài thành thạo cũng khiến người ăn cảm thấy thích thú. Từng thao tác thật tài tình, chính xác. Vắt một nhúm hủ tiếu khô chỉ cần làm một lần là từng sợi hủ tiếu đứt ra và mỗi lần vắt đều bằng nhau như một. Rồi cho hủ tiếu khô vào một cái vợt cán tre, nhúng vài lần vào nước sôi. Sau đó vẩy cho ráo nước, cho hủ tiếu vào tô, bỏ vào đó một ít mỡ hành rồi trộn đều. Cuối cùng là rưới lên một vá nước lèo, bỏ vài lát thịt cùng với giá và một ít nước chanh là đã có một tô hủ tiếu thật bắt mắt.
Điều đặc biệt là khi đến Mỹ Tho, bạn không cần phải vào những hàng quán sang trọng vẫn có thể dùng được một tô hủ tiếu ngon chỉ với vài ngàn đồng. Hủ tiếu Mỹ Tho được bày bán ở dọc đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, công viên Lạc Hồng và cả ở những con hẻm nhỏ...
 Hủ tiếu Mỹ Tho: Bến xe đò đi các tỉnh khác vào cuối thập niên 50  còn ở chợ Mỹ Tho, bên hông xã Điều Hòa ngay cổng sau Trường Trung Học Nguyễn  Đình Chiểu. Bến xe chỉ đông người và náo nhiệt nhất từ sáng sớm cho tới khoảng  ba giờ chiều.
 Chừng sáu giờ tối là hầu hết xe đò đều rời bến,  chỉ còn neo lại vài chiếc lẻ tẻ vì nhà xa, nên ban đêm lơ xe phải ngủ lại để giữ  xe. Bến xe buổi tối không vì thế mà vắng vẻ đìu hiu.
 Nhiều gánh hàng rong và xe hủ tiếu, nước đá,  nước mía, xe bán cóc ổi, khô, mực nướng ép... quy tụ xung quanh khu vục nầy. Lâu  lâu, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất địa phương cho tổ chức vài đêm  thuyết pháp tại đây và rất được đông đảo người dân Mỹ Tho hưởng ứng nồng nhiệt.
 Trên lề dọc theo hàng rào sắt xã Điều Hòa, có  nhiều kiosque buôn bán cho khách đi đường, chúng tôi thích nhất là quán phở Bắc  mang bảng hiệu nhỏ treo lơ lửng rất khiêm nhượng: Tư Phở, ở gần góc đường  Lê Lợi. Sở dĩ tôi biết quán nầy là do mấy chị tôi thỉnh thoảng buổi sáng dẫn tôi  đến đây ăn. Phải công nhận quán phở này ngon tuyệt và chỉ bán từ sáng sớm cho  đến trưa mà thôi.
 Sau nầy, vì nhu cầu xe cộ ngày càng nhiều hơn  nên bến xe được dời ra trên Giếng Nước một đỗi, nhường chỗ cho ngôi chợ Hàng  Bông bán trái cây được xây cất lên. Lúc đầu, chị em tôi cũng thấy buồn buồn vì  quán Tư Phở đã dẹp mất.
 Sau đó tôi phát hiện quán nầy là vì tôi nhận  dạng được ông chủ quán có cái thẹo to ở một bên thái dương mà hầu như lúc nào  tôi cũng thấy ông đứng nấu phở. Quán đã dời ra dãy phố lầu hai tầng và kiến  thiết xong nằm ngay mạt lộ, đối diện là bến Bến Xe Mới, nhưng quán được đổi tên  là Hy Lạp với cái bảng hiệu lớn chữ đỏ thật oai. Đúng ra thì tiệm phở  phải dùng loại bánh phở bản to, ướt và mềm, nhưng phở Hy Lạp thì lại nấu  với Hủ Tiếu Mỹ Tho ăn không chỗ nào chê được, nhất là nước súp được pha  chế có mùi thơm ngon hết sức đặc biệt mà không nơi nào sánh bằng, nên tiệm lúc  nào cũng có nhiều khách vãng lai, mà lại còn đông khách quen thuộc vào buổi sáng  từ các khu phố khác trong thành phố đến ăn.
 Trên mỗi bàn, bên trong lẫn vài bàn phía ngoài,  luôn bày sẵn nhũng hủ nhỏ và dĩa đựng các thứ như nước mắm, tương ngọt, tăm xỉa  răng, chanh, ớt hiểm, ớt sừng trâu xắt xéo mỏng, ngò gai, rau quẽ, giá sống,  chanh... Thỉnh thoảng có những khách đang ăn ngon miệng lại kêu một chén mỡ gầu  hay nạm, gân hoặc củ cải để ăn thêm một cách ngon lành, vừa ăn vừa suýt xoa đổ  mô hôi bởi nước súp nóng, ớt cay lẫn trời nóng nực bên ngoài. Sau khi Bến Xe Mới  được thành lập, thì “giang sơn” của đoàn xe lô Minh Chánh chạy tuyến đường Sài  Gòn - Mỹ Tho và ngược lại được phân phối ở góc phải khi từ phía Giếng Nước vừa  quẹo vào bến xe. Kế bên quầy bán vé có một xe hủ tiếu, nhưng hủ tiếu, mì và  hoành thánh nơi nầy ăn chỉ được thôi chớ không ngon lắm! Nếu nói đến quán và xe  hủ tiếu ở Mỹ Tho lúc bấy giờ thì mỗi một góc chợt khu phố đều thấy nhan nhản.  Nói chung là quán nào ăn cũng tương đối ngon hết! Tuy nhiên có vài nơi ngon đặc  biệt ngon đến đỗi đã vang danh khắp nơi thành tên gọi: Hủ Tiếu Mỹ Tho mà  mãi cho đến ngày nay, có nhiều tiệm ăn ở hải ngoại vẫn mượn “đầu heo” Hủ Tiếu  Mỹ Tho để “nấu cháo” cho tô hủ tiếu của mình.
 Gia đình chú thím bà con của tôi ở bên sông gần  xóm Đập Đá trước năm 1975 là lò sản xuất hủ tiếu nổi tiếng lớn nhất Mỹ Tho. Hồi  nhỏ, tôi thường qua chơi với mấy đứa con của chú thím, luôn tiện xem công nhân  bên ngay nấu, vớt, phơi và cắt hủ tiếu bằng máy thấy cũng thích thú lắm! Mỗi lần  đi về, thím đều lấy giấy báo gói cho tôi cả bao hủ tiếu mới ra lò, nói là mang  về để mẹ tôi xào cho cả nhà ăn.
 Đặc điểm của Hủ Tiếu Mỹ Tho là cọng nhỏ,  khô, dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tiếu ở một nơi  nào khác. Những quán hủ tiếu thật ngon ở Mỹ Tho kể ra không nhiều. Thường thì  nơi nào bán hủ tiếu đều có kèm theo mì và hoành thánh. Bên cạnh đó còn có một xe  nước đá để giải khát. Có khi khách ăn hủ tiếu với mì hoặc không ăn hủ tiếu mà  chỉ ăn mì hay hoành thánh với mì. Nhưng dù sao thì hủ tiếu vẫn luôn được thiên  hạ ưa chuộng nhiều hơn. Hoành thánh được xem là ngon, ngoài da bao phải mỏng và  giòn, thịt nạc bằm bọc bên trong ướp cho thơm cần trộn thêm ít mỡ, nếu có pha  lẫn thêm thịt cua nữa thì ăn khỏi chê!
 Mì ngon có tiếng lâu đời ở Mỹ Tho phải kể là  tiệm Phánh Ký gần Bót Cảnh Sát đầu cầu quay phía bên Chợ Cũ. Sợi mì vàng óng lớn  và nhỏ, hai loại do chính chủ nhân làm ăn phải nói là “hết xẩy”! Lúc nhỏ khi tôi  còn học chữ Tàu ở trường tiểu học Sùng Chánh gần đó, ông Hiệu trưởng rất “mê” mì  của tiệm Phánh Ký. Tôi là học trò “cưng” nên thỉnh thoảng “được" ông sai... cầm  tô sang Phánh Ký mua mì và gói thuốc Bastos bao xanh ở tủ kiếng thuốc hút của  người bán lẻ trước tiệm. Mỹ Tho có mì Phánh Ký, còn bên Cần Thơ đối diện với rạp  hát Minh Châu thì mì của tiệm Khung Ký cũng “oanh liệt” ở miền Tây Đô.  Thời  gian trong quân đội, có dạo tôi thuyên chuyển vê đây nên đã “làm quen” với khá  nhiều tiệm ăn. Ngoài quán nhậu đặc sản nổi danh Vĩnh Ký ở cuối đường Phan Đình  Phùng, tôi chỉ “chấm” có mì Khung Ký mà thôi!
 Sau nầy, kế tiệm hủ tiếu mì Phánh Ký phía trong  lề đường, có xe hủ tiếu của chú Phúc cũng “nổi đình, nổi đám” không kém nhờ hủ  tiếu có đặc điểm là sườn chéo chặt ra từng khúc nhỏ, tôm khô được chấy với mỡ  rất giòn và thật thơm ngon. Đối diện với hiệu Phánh Ký còn có tiệm phở, hủ tiếu  bò kho Đồng Thanh nấu ăn cũng khá và rất đông khách. Từ khi có hai “đại hiệp”  nầy xuất hiện, tiệm mì Phánh Ký mất khách thấy rõ. Tuy nhiên, tiệm nầy “sống  được” là nhờ còn khá nhiều khách trung thành vẫn chưa quên được cọng mì ngon tại  đây. Con gái ông chủ tiệm, chị Huỳnh Hảo là bạn học chung luyện thi lớp Đệ Thất  với tôi ở trường Hùng Vương vào năm 1951. Dáng chị đô con và mặt tròn, mới nhìn  biết ngay là..”A Muối” nên thường bị các bạn trai chọc ghẹo là “xì dầu” nhưng  tánh chị rất hiền hòa nên không giận, chỉ cười hè hè thôi. Tôi cũng là người  Hoa, nhưng nhờ ăn... nước mắm nhiều, nên nói tiếng Việt rành và viết chính tả  khá hơn mà may mắn không bị các bạn phát hiện.
 Cạnh xe hủ tiếu của chú Phúc là một tiệm nước  lớn lâu đời có bán mì, hủ tiếu, Dim Sum (điểm sấm) như bánh bao, há cảo, xíu  mại... Tiệm nầy hầu như mỗi buổi sáng đều đông khách quen thuộc ngồi tập trung  thành từng nhóm nhỏ đầy những bàn bày ra phía trước cửa để tán gẫu, bàn chuyện  làm ăn, áp phe, đoán số đề, cá độ đá gà hay hút thuốc nhìn xe cộ dập dìu qua  lại. Đa số chỉ uống cà-phê mà thôi! Họ rất lớn tiếng và xem thiên hạ xung quanh  như không có, thỉnh thoảng lại còn chửi thề và cãi vã nữa. Bởi thế, giới dân  chơi Mỹ Tho đặt tên cho ngả tư gần đó là “Ngả Tư Quốc Tế” vì nơi đây thường tập  trung nhiều thành phần xã hội phức tạp, nhất là khi trời về đêm.
 Ở ngoài dãy Bar bờ sông đường Trưng Trắc đối  diện xéo với tiệm kem Mỹ Duyên thì có quán hủ tiếu Xường “đóng đô”. Quán nầy  thật ra chỉ “có tiếng mà không có miếng” của giới trẻ người Hoa thường đi chơi  ban đêm... đói bụng tụ tập đến ăn uống, trong đó có tôi, chớ dân ăn mì, hủ tiếu  sành điệu ít khi tới đây.
 Còn trong lãnh địa chợ Hàng Bông, không kể tiệm  nước bán cà-phê, hủ tiếu ở góc đường phía cổng sau trường Nguyễn Đình Chiếu, thì  ở khoảng giữa dãy phố có tiệm bán hủ tiếu rất nổi tiếng Hưng Ký của ông chú và  bà thím tôi.
 Tiệm nầy buổi sáng luôn có đây khách ngồi ra tới  những bàn bên ngoài. Nhiều người đến ăn đôi khi sốt ruột phải đứng... nhìn đồng  hồ đeo tay mà đợi bàn trống. Chiếc xe nấu được đặt ngang phía trái tại cửa ra  vào. Nước lèo ở đây nấu thơm ngát rất đặc biệt không nơi nào ngon hơn. Một tô hủ  tiếu hay mì trước khi bưng ra cho khách đều được múc chừng 1/3 vá to thịt nạc  bằm ướp rất ngon vào một cái tô cạn đáy. Sau đó múc gần một vá nước lèo thật  nóng đã nấu bằng xương heo, khô mực, tôm khô đổ vào tô rồi dùng vá đập nhè nhẹ  để thịt bằm rời ra và vừa mới chín tới ăn mới ngọt. Liền sau đó đổ ngay vào tô  hủ tiếu đã làm sẵn phủ đầy trên mặt nào: Phèo heo, tôm khô chấy, tép mỡ, gan  heo, thịt xá-xíu xát mỏng, ngò tây, hành lá, cải bắc thảo.
 Giá một tô hủ tiếu và mì ở tiệm nầy đắt hơn các  nơi khác một ít, nhưng vẫn được nhiều thực khách chiếu cố. Thực khách của tiệm  ngay đa số là giới thương gia và công chức.
 Ngoài ra, ở gần đầu ngả tư bùng binh đường Phan  Văn Trị đi vô lò heo, bên phải có một quán hủ tiếu xương rất lè phè của chú Tiểu  khá ngon. Đối diện với quán nầy lại có một tiệm phở Bắc nấu ăn cũng khỏi chê.  Nghe đâu ông chủ quán là em của chú Tư tiệm phở nổi tiếng Hy Lạp thì phải!
 Cũng như Hy Lạp, tiệm nầy bắt đầu khoảng từ 6  giờ chiều là bán lai rai cho đến tối. Nhưng thực sự thì nồi nước súp to tướng  vừa nấu xong buổi chiều là để chuẩn bị bán cho sáng ngày hôm sau. Rất tiếc hai  tiệm nầy không có thời nên ít được người ta biết đến.
 Về sau, ngoài ngả ba Trung Lương cũng có quán hủ  tiếu tôm và cật heo ăn cũng có mùi vị đặc biệt lắm! Nhưng vì địa điểm hơi xa  thành phố nên dân Mỹ Tho ít khi ra tới đây, nên quán chỉ bán cho khách đi xe đò  tuyến đường Sài Gòn và các miền lục tỉnh khi dừng chân nghỉ mệt mà thôi.
 Gia đình tôi khi xưa buôn bán tại chợ Mỹ Tho,  phía trước cửa tiệm của ba mẹ tôi có đến hai xe hủ tiếu và hai xe nước đá xếp  hàng ngang xen kẽ với nhau. Xe hủ tiếu ngay cửa tiệm là của vợ chồng chú Ngầu  được đẩy từ nhà đến vào ba giờ sáng khi chợ bắt đầu nhóm. Trong lúc chú bày trí,  sắp xếp các thứ từ trong xe ra thì vợ chú đi vô nhà lồng chợ gần đó mua thịt và  xương heo. Liền sau đó, xương được nấu với khô mực và tôm khô trong một cái nồi  khổng lồ với lửa than chậm cho đến khoảng bảy giờ là bắt đầu bán. Hầu hết khách  đến ăn là thành phần lao động buôn gánh bán bưng và người đi chợ. Khách quen của  chú Ngầu rất đông. Những người đàn ông vác mướn khỏe mạnh tại chợ hầu như ngày  nào cung đều ghé ăn, nhưng họ không ăn bình thường như thiên hạ mà mua khoảng  nửa ký hủ tiếu mang lại nấu thành một tô lớn đầy vun và ăn một cách ngon lành.  Sau đó còn kêu thêm một tô “xí quách” vớt vài con khô mực thơm phức được vớt ra  từ thùng nước lèo để nhậu với một xị rượu đế. Cũng nên nói thêm vê hai chữ “xí  quách” mà người ta thường nghe nói là nguồn gốc của tiếng Quảng Đông, có nghĩa  là xương heo dùng để nấu nước lèo hủ tiếu, người Việt Nam ăn thấy ngon nên nói  theo không đúng giọng mà lệch đi thành “xí quách”. Tiếng hủ tiếu cũng do âm từ  lơ lớ tiếng Hoa mà ra.
 Trước năm 1975, tôi rất thích “ngao du sơn thủy”  và đi chơi gần hết các tỉnh thành miền Nam. Ở miền Trung thì tôi chưa thấy,  nhưng nơi thành phố sương mù Đà Lạt có bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho. Là người  lữ khách đến từ sông Tiền hiền hòa, tôi cảm thấy rất thân thương với bốn chữ quá  quen thuộc nầy nơi xứ lạnh hoa anh đào mộng mơ nên liền vào tiệm “ủng hộ” ngay,  nhưng...
 Ở Sài Gòn, tiệm bán hủ tiếu và phở dĩ nhiên là  nhiều đếm không hết, nhưng chỉ có một số tiệm có tiếng được người ta biết đến,  chẳng hạn như trên con đường Huỳnh Thúc Kháng có tiệm mang tên Hủ Tiếu Mỹ Tho,  nhưng ăn vào chỉ thấy mùi... không khí nhộn nhịp của Sài Gòn mà thôi!
 Trên con đuớng lớn Võ Tánh số nhà 79 có tiệm phở  mang bảng hiệu với con số 79 thật to ăn cũng khá nhưng rất tiếc tiệm nầy không  gây được tiếng vang.
 Còn tiệm phở bò, phở gà Hiền Vương ở đường Hiền  Vương nấu ăn rất ngon, đã một thời làm “dậy sóng” trong giới sinh viên học sinh  Sài Gòn.
 Ở đường Minh Mạng Chợ Lớn, thuộc khu vực ngả sáu  tấp nập xe cộ lưu thông thì có “tướng lãnh đầu bò” phở Tương Lai “trấn  giữ”. Ngoài bảng hiệu tiệm lớn treo ngang phía trên có vẽ hình đầu con bò trông  thật vui mắt, phía dưới đất lại còn dựng thêm một cái bảng nhỏ quảng cáo nữa.  Chiếc xe nấu phở “án ngữ” ngay trước cửa ra vào được bày trí trông sạch sẽ rất  xôm tụ. Những miếng thịt bò nạm và gân khổng lồ đã luộc chín trông phát thèm  được treo lên phía ngoài xe để câu khách. Tiệm nầy nấu bằng bánh phở bản lớn và  mềm. Nhờ nước súp khá ngon ngọt nên được nhiều người biết đến. Ngoài phở bò,  tiệm còn có bán thêm bánh ướt chả lụa và các loại chè ngọt nước đá rất ngon. Đối  diện phở Tương Lai bên kia lề đường trước hàng rào sắt của trường học,  ban đêm ở khu vực nầy huyên náo cũng không kém bởi những hàng quán bình dân đặc  biệt bán nghêu sò, hột vịt lộn, khô, mực nướng bia, rượu thuốc...
 Trong China Town Chợ Lớn ở đường Nguyễn Trãi,  gần đại lộ Tổng Đốc Phương thì có tiệm phở Tâm Tín ăn khá đậm đà, nhưng nước súp  quá nhiều mỡ và bột ngọt. Đó cũng là sở thích của người Hoa vậy.
 Nói đến tô phở Sài Gòn năm xua, người ta không  quên nhắc đến tiệm phở Tàu Bay trên đường Trần Quốc Toản, Chợ Lớn. Tô phở  bằng thủy tinh trong suốt tuy lớn thật nhưng nhìn kỹ lại thì thấy nước súp nhiều  hơn bánh phở và thịt. Cái bảng hiệu tiệm với hai chữ to Tàu Bay hình như  có một ma lực để thu hút thực khách thì phải, chớ thật ra nước súp tô phở chỉ  nặng mùi đinh hương và tai-vị hơn là mùi thơm ngon của xương và thịt bò. Địa  điểm của tiệm cũng gợi cho người ta nhớ lại, vì đối diện bên kia đường gần đó là  chợ cá Trần Quốc Toản nổi tiếng... dơ nhất thủ đô Sài Gòn có mùi... tanh nồng  nực muốn bể lỗ mũi mỗi khi thiên hạ đi bộ hay chạy xe qua đây.
 Trước thập nên 70, ở Sài Gòn, Chợ Lớn có rất  nhiều tiệm Hủ Tiếu Nam Vang, nước lèo không thơm ngon, chỉ tầm thường thôi.  Nhưng bước sang năm 1975, làn sóng người tỵ nạn bên Miên ồ ạt tràn sang Việt  Nam. Một số người Triều Châu đã hành nghề bán hủ tiếu ở thủ đô bên đó liền sắm  vợt, vá, tô chén, dĩa, đũa, muỗng v.v... để mưu sinh. Danh từ Hủ Tiếu Nam Vang  được “vang dội” mạnh từ đấy nhờ cách nấu và pha chế nước lèo thơm ngon rất đặc  biệt. Tôi đã có dịp chứng kiến một ông Tiều bên Cam Bốt mới sang, mở quán bán Hủ  Tiếu Nam Vang ở ngoài quốc lộ ngả tư quận Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho. Cứ mỗi lần  nấu một tô hủ tiếu cho khách, ông đều biểu diễn tài nghệ khá đẹp mắt cho thiên  hạ xem bằng cách: Khi vớt hủ tiếu được trụng từ nồi nước sôi lớn ra bằng cái vợt  lưới to, ông liền đập nhè nhẹ phần giữa cán tre của vợt mấy cái nơi mép nồi cho  hủ tiếu ráo nước, sau đó ông ta cầm vợt để ra ngoài nhún nhún vài cái lấy trớn  rồi bất thần hất mạnh vợt lên cho vắt hủ tiếu bay cao trên không, hơi nghiêng  mình ông nhanh nhẹn lòn tréo tay phải đang cầm chiếc vợt ôm sát phía sau lưng  đưa sang bên trái, để kịp hứng lấy vắt hủ tiếu từ trên đang rơi xuống một cách  tài tình, rồi đổ ngay vào cái tô ông cầm bên tay trái. Mỗi lần ông biểu diễn như  thế đều được tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhiều người hiếu kỳ đứng xem. Cũng nhờ  nghệ thuật hấp dẫn mà quán hủ tiếu thiết bị rất đơn sơ này bán rất đắt. Phải  công nhận là hủ tiếu của ông khá ngon nhờ nước lèo thật ngọt và nhiều tôm, thịt  và cật heo. Có người vì thích xem ông “hát xiệc” mà thường đến ăn. Tội nghiệp  cho đám con nít nghèo không có tiền, chỉ đừng trước quán để xem ông biểu diễn  một cách rất thích thú.
 Xe hủ tiếu ở Việt Nam trước năm 1975 phần lớn  đều thu gọn trong một chiếc xe đẩy. Tuy là xe nhưng không đẩy đi bán dạo như  những xe mì gõ của người miền Trung bây giờ ở Sài Gòn mà người ta thường thấy.
 Còn hủ tiếu ở Chợ Lớn bản to và mềm, thậm chí  hơi nhão, khác với cọng hủ tiếu khô, dai như Hủ Tiếu Mỹ Tho hay hủ tiếu  Nam Vang sau này. Tô hủ tiếu bao giờ cũng lền mỡ, lăn tăn những thịt nạc bằm và  luôn có một hai lá cải xà-lách to nằm chễm chệ, ít cọng hẹ, bên cạnh là những  lát thịt xá-xíu và gan heo xát mỏng phủ kín mặt tô, chen chúc là những miếng tép  mỡ cỡ bằng hạt đậu phộng vàng rực.
 Hủ tiếu là món ăn buổi sáng khá quen thuộc của  người Hoa ở Chợ Lớn. Tuy nhiên, đối với người bình dân lao động thì thỉnh thoảng  mới ăn mà thôi. Các xe hủ tiếu bán đắt nhất là trong mấy ngày Tết cổ truyền,  giới trẻ được nhiều tiền lì-xì nên tha hồ kéo nhau đi ăn hầu như mỗi ngày. Hồi  nhỏ tôi cũng vậy, trong khi đồ ăn thức uống khá ngon ở nhà ắp lẫm trong ba ngày  Tết thì không mấy “thiết tha” mà vẫn không quên được tô hủ tiếu.
 Lạ một điều là cho tới ngày nay, mặc dù có rất  nhiều vật dụng phục vụ nấu nướng bằng inox, nhôm, sắt, xi... bóng loáng, nhưng  nhan nhản ở Việt Nam, người ta vẫn còn thấy những chiếc xe hủ tiếu kỳ cựu mà chủ  nhân nó luôn “chung thủy" với những đũa, muỗng, tô, vợt lưới to vớt mì bằng  thau, vá nấu hủ tiếu bằng nhôm có lỗ tròn hay bằng lưới, ghế xếp mặt ngồi bóng  lưỡng bằng gỗ và chân sắt mộc mạc cũ kỹ, nhưng chắc chắn v.v... Bên nồi nước lèo  thơm ngon nghi ngút khói, thực khách dù là bình dân hay quý tộc đều ngồi ăn xì  xụp một cách vô tư.
 Sẽ rất thiếu sót khi nói đến chiếc xe hủ tiếu  với nét đặc trưng riêng có tính “hoài cổ” của người Hoa nếu không đề cập đến  những hình ảnh được trang trí trên mặt kính xung quanh xe, mô phỏng những điển  tích cổ đại của Trung Hoa như Tiết Nhơn Quí, Nhạc Phi, ông Châu Liệt Quốc, Phong  Thần, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký v.v... mà hồi nhỏ tôi rất say mê ngắm nhìn mỗi khi  ngồi trước bàn xếp dài dính liền theo xe cầm đũa sẵn để chờ đợi... Những hình  ảnh sinh động nầy được khắc khá rõ nét với nhiều màu sắc lòe loẹt.
 Gần cuối thập niên 70, khi vừa đặt chân đến xứ  lạnh Đức Quốc không bao lâu, tôi có sang China Town ở khu 13 bên Paris/Pháp tìm  đến bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho ăn thử cho biết nhưng rất thất vọng……..
 Ở thành phố lớn nhất Hòa Lan là Amsterdam và  Rotterdam, khu phố Tàu hoạt động rất mạnh, có nhiều tiệm bán hủ tiếu, nhưng mức  độ thơm ngon vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn cao như hủ tiếu của thành phố Mỹ Tho  năm xưa.
 Mấy lần sang Mỹ lân la ở các tiểu bang CA, TX,  LA, PA, MA tôi đều không quên thăm viếng vài bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho và  những tiệm phở nổi tiếng tại đây. Tình thiệt mà nói, không phải tôi là dân Mỹ  Tho mà luôn bênh vực cho nhũng gì của quê nhà mình. Có lẽ tôi đi không tới và  tìm chưa được nơi nào có mùi phở thơm ngon đạc biệt như phở Hy Lạp, mùi hủ tiếu  ngọt ngào như hủ tiếu Hưng Ký hay của chú Phúc ngày nào chăng?
 Bên Toronto/Canada, khu China Town của người Hoa  quá nhiều và ngành ẩm thực phát triển vô cùng phồn thịnh.
 Nhiều tiệm ở đây nấu mì ăn ngon hơn mì của Phánh  Ký là nhờ nước lèo. Có tiệm xào mì “tài dách lầu” còn thơm ngon hơn quán mì xào  giòn ban đêm “vang bóng một thời” trước hàng rào dinh thự của chú Hỏa ở đường Hồ  Văn Ngà, Sài Gòn, năm xưa.
 Nhớ lại lần đầu tiên sang thăm nhóm bạn chơi  thân hồi nhỏ nơi quê nhà ở Toronto. Các bạn dẫn tôi đến một tiệm ăn lớn bán đầy  đủ không thiếu một món ăn thuần túy nào của Trung Hoa và Việt Nam. Nhiều năm  chết... thèm bên trời Âu, trước hết tôi “xực” một tô Hủ Tiếu Mỹ Tho,  nhưng mới ăn vài đũa liền phải bỏ ngang vì dở quá! Sau đó tôi giựt giải... quán  quân vê số dĩa và tô đã... ăn sạch được xếp chồng lên nhau khiến các bạn tôi  ngạc nhiên và cười vỡ bụng cho tới bây giờ mỗi khi nhắc đến tôi.
 Vài lần trở vê thăm quê nhà tôi đã đi khắp hết  các nẻo đường góc chợ của thành phố thân yêu để tìm lại dấu chân kỷ niệm năm xưa  của mình. Việt Nam bây giờ thay đổi quá nhiếu! Qua lăng kính tâm hồn, tôi nhận  thấy Mỹ Tho ngày nay đã đối thay không còn vẻ đẹp hiền hòa của 30 năm về trước  nữa! Những tháng ngày về thăm gia đình tôi thường yêu cầu thân nhân dẫn tôi đến  những hàng quán nào bán phở, mì và hủ tiếu ngon nhất để “chấm điểm” lại. Tự  nhiên tôi cảm thấy buồn buồn vì những hương vị thơm ngon thật ngọt ngào năm nào  của phở Hy Lạp, hủ tiếu Hưng Ký... đã bay mất từ lâu lắm rồi!
 Hai mươi bảy năm tha phương nơi đất khách, mặc  dù thức ăn Âu Châu có khá nhiều dinh dưỡng nhưng đối với khẩu vị của người Việt  vẫn chưa quen. Trong nhà bếp gia đình, ngoài hàng khối dụng cụ máy móc để phục  vụ cho nấu nướng của bản xứ, bên cạnh đó còn có không ít những nồi, chảo, dao,  thớt, chén, đũa, muỗng v.v... quen thuộc từ thuở nào. Thực phẩm và gia vị đậm  nét quê hương là không bao giờ thiếu. Ở các quốc gia có đông đảo tập thể người  Việt và người Hoa thì thức ăn Á Châu không thiếu một món ngon vật lạ nào. Ngược  lại, những nước có ít người Việt định cư thì mới là vấn đề. Có lẽ vì vậy mà các  bà nội trợ giỏi vê nấu ăn nhờ chịu khó học hỏi tìm tòi. Những ngày cuối tuần hay  nghỉ lễ, bữa ăn trong gia đình có phần ngon hơn.
 Phở và hủ tiếu là hai món thường được nhắc đến.  Tuy nhiên, rất hiếm có trường hợp “trưởng bếp” nào nấu ngon đạt đến hàng siêu  đẳng.
 Ngày xưa, tôi là đứa cháu... dễ thương nhất của  những chú bác bán phở, hủ tiếu nơi quê nhà nhờ cái miệng... ăn hàng nhiều. Ngày  nay sống nơi xứ người, mỗi lần ăn hai món này ở bất cứ nơi nào đều không vừa ý,  tâm trí tôi luôn tưởng nhớ đến hình ảnh các chú bác thân thương đó. Mãi đến bây  giờ, tôi vẫn còn rất thích ăn hủ tiếu, nhưng tìm đâu cho ra được đúng với hương  vị của Hủ Tiếu Mỹ Tho ngày xưa?
  Hủ Tiếu Mỹ Tho ngày xưa
  Vang danh khắp chốn vẫn chưa phai mờ.HUỲNH QUỐC MINH
 Chuối quết dừa
 Nghe tên thì các bạn cũng đoán được  nguyên liệu chính để làm món này chính là chuối và dừa rồi phải không?  Và cụ thể là thế này: chuối được nấu cho chín, để nguội lột vỏ, tán  nhuyễn sau đấy trộn với cái dừa đã nạo sẵn, rắc lên trên đậu phộng thêm  vàng thế là bạn đã có thể thưởng thức món chuối quết dừa tuyệt ngon rồi.
 Chuối chín thơm vàng ngát, cộng  thêm cái vị bùi bùi, béo béo của cái dừa, đậu phộng , ăn kèm với rau  sống để lên 1 miếng bánh tráng cuốn tất cả lại, chấm vào chén nước mắm  chua chua ngọt ngọt đảm bảo bạn sẽ ăn cho đến khi no căng bụng mà vẫn  không biết ngán.
Bây giờ, là luc trổ tài pha nước mắm bằng chanh, tỏi ớt cùng nước dừa xiêm sao cho chua chua, mằn mặn mà lại có vị ngọt thanh. Chuẩn bị rau sống có sẵn trong vườn nhà như đọt săng máu, đọt điều, càng cua, rau má cùng dấp cá, húng lủi, ngò gai..., nói chung tất cả các lọai rau mọc trong vườn nhà đều có thể dùng được cả.
Để món ăn thêm hấp dẫn, có thể rắc lên mặt đĩa chuối quết dừa một ít đậu phộng rang vàng giã to. Và cuối cùng, một ít rau đủ lọai để lên miếng bánh tráng, kèm theo một ít nhân là chuối quết dừa chấm nước mắm chua ngọt, ngồi ăn trong một gian nhà lá bên bờ sông vắng lặng vào một buổi trưa đầy gió mát, dịu dàng hương bưởi, hương cau thì có lẽ chẳng có cao lương mỹ vị nào có thể sánh bằng, phải không các bạn?
 Bún gỏi già 
 Bên cạnh món hủ tíu Mỹ Tho vốn đã  được các bạn biết đến và yêu thích thì Mỹ Tho còn có món Bún Gỏi Già  ngon ngon nữa đấy các bạn! 
 Ảnh: thvl
 Bún gỏi già cũng hao hao giống với  bún mắm vì đều có chung nguyên liệu là mắm cá linh. Bún gỏi già có cái  vị chua chua vì được nấu với nước me, những chú tép đỏ được lột kĩ trông  thật hấp dẫn làm sau, ăn kèm với rau muống , bông chuối bào và đặc biệt  là phải được ăn kèm với hẹ…món nước chấm đi kèm là nước cốt mắm cá linh  nguyên chất tạo nên một mùi vị khó lòng nào có thể cưỡng lại được. Tớ  và mấy nhỏ bạn thì cực kì kết món này, lần nào ăn xong thế nào cũng phải  mua về cho cả gia đình cùng thưởng thức nữa .
Bún gỏi già thực ra cũng hao hao giống bún mắm thôi. Nói là giống,  nhưng vị của nó khác nhau xa. Bún mắm và bún gỏi già có chung nguyên  liệu là mắm cá, (hình như là mắm cá linh thì phải). Bún gỏi già phải nấu  chung với me, mới cho ra vị nước lèo chua chua ngọt ngọt ăn không ngán  là vì vậy. Đặc biệt, nó chỉ ăn chung với tép là ngon nhất. Tép bạc, tép  lột, hay tôm sú lột đều được cả. Những con tép đỏ au, được lột vỏ kỹ  càng trông hấp dẫn làm sao.  Bún gỏi già chua chua ngọt ngọt ăn ghém với rau muống và bông chuối  bào... Nhưng mà nó ngon nhờ hẹ đấy. Nếu không có cọng hẹ nào thì cái tô  bún của bạn coi như tiêu. Thêm nữa phải có nước chấm đặc biệt nó là nước  cốt mắm cá linh nguyên chất, rất thơm và có vị ngọt đậm đà. Bạn không  cần nêm nếm gì vào tô mà vẫn cảm thấy vừa miệng.... Nếu có khi nào về Mỹ  Tho, thì các bạn nên thử qua.    
 Bánh bèo   
Mắm còng xứ rẫy Gò Công
Nhà nào ở miệt rẫy cũng đều biết làm món mắm còng. Bà con làm để ăn, tặng bạn bè thân hữu. Nhà nào có dư thì đem ra chợ bán kiếm thêm chút đỉnh. Ðến mùa còng lột, người ta hay chọn bắt những con vừa lớn vừa có mầu sắc đỏ tươi để làm mắm. Còn các loại còng khác ít ai bắt, có chăng chỉ để nuôi đàn vịt tàu đẻ mà thôi.
 Bánh giá chợ Giồng   
Ở huyện Gò Công Tây, món bánh giá chợ Giồng là đặc sản trứ danh với cách chế biến rất đổi công phu. Đấu tiên là chọn gạo, đậu xanh loại ngon đem xay thành bột, hòa vào trứng gà, bột mì, gia vị. Khi chiên bánh đặt thêm vào thịt, tôm, giá đã băm, đậu phộng, mỗi thứ một ít. Bánh còn nóng hổi, tỏa mùi thơm phức ăn kèm rau sống và nước mắm tỏi ớt thì thật là tuyệt vời.
Ở huyện Gò Công Tây, món bánh giá chợ Giồng là đặc sản trứ danh với cách chế biến rất đổi công phu. Đấu tiên là chọn gạo, đậu xanh loại ngon đem xay thành bột, hòa vào trứng gà, bột mì, gia vị. Khi chiên bánh đặt thêm vào thịt, tôm, giá đã băm, đậu phộng, mỗi thứ một ít. Bánh còn nóng hổi, tỏa mùi thơm phức ăn kèm rau sống và nước mắm tỏi ớt thì thật là tuyệt vời.
 Về Tiền Giang thì nhất định các  bạn phải ghé qua Chợ Giồng thuộc Huyện Gò Công Tây để thưởng thức món  bánh vá ( bánh giá) nổi tiếng ở đây.. 
 Ảnh: saigontre
 Bánh được làm từ những nguyên liệu  rất quen thuộc như là bột gạo, bột năng, gan heo, giá sống, dầu ăn...  Cầu kỳ hơn thì thêm óc heo quậy tan vào trong bột.  
 Bước chiên bánh là thú vị nhất, Bạn  sẽ cho thật nhiều dầu vào chảo, ngập bánh và bắt lửa cho dầu sôi lên.  Sau đó để giá sống, gan heo, tôm vào trong vá với số lượng tùy thích vào  1 chiếc vá, rồi múc bột cho ngập các loại nguyên liệu này và nhúng vá  vào trong chảo dầu một lát để cho bánh dính kết lại rồi từ từ rút vá  không ra. Ăn kèm với bánh vá không thể thiếu bún, rau sống, nước mắm tỏi  ớt quen thuộc của vùng quê Miền Tây sông nước được. Ngoài ra, bánh vá  còn có cả bánh chay được làm bằng đậu hũ, nấm rơm, nắm mèo... ăn kèo với  nước tương tỏi ớt nữa. Các bạn muốn gọi là bánh giá hay bánh và đều  được cả, gọi là bánh giá vì trong bánh có nguyên liệu là giá còn gọi là  bánh vá vì dùng vá để chiên bánh và độ to - nhỏ của chiếc bánh đều phụ  thuộc vào chiếc vá cả.
 Sam biển Gò Công - Tiền Giang   
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.
Có dịp về Gò Công để thưởng thức món sam trứng, bạn sẽ có một ấn tượng khó quên!
Ngoài các loại cá tôm thiên nhiên ưu đãi, ở vùng biển xã Vàm Láng, Tân Thành, huyện Gò Công Ðông (Tiền Giang) có đặc sản khá hiếm: sam biển. Với hình thù lạ mắt: vỏ cứng như mai cua, mình tròn dẹt, đường kính độ gang tay, tám chân càng nhỏ dưới bụng, phần đầu là mũi nhọn ba cạnh rất linh hoạt dài cỡ 20 cm. Khoảng từ tháng 10 cho tới tháng 2 âm lịch, sam bắt cặp phối giống và sau đó sam cái mang bụng đầy trứng nhỏ như hạt tiêu đợi ngày sinh nở. Gió chướng thổi về, người dân ven biển chúng tôi sáng sớm đi dọc bờ thỉnh thoảng vẫn bắt được những cặp sam tấp mé.
Có dịp về Gò Công để thưởng thức món sam trứng, bạn sẽ có một ấn tượng khó quên!
 Các loại trái cây      
Ngoài những đặc sản trên, Tiền Giang còn nổi tiếng với những loại trái cây đặc trưng, thường được mua về làm quà biếu. Phổ biến nhất là: sầu riêng, vú sữa Lò Rèn, sapôchê, xoài cát Hòa Lộc, bưởi long, cam sành...
 Cây lá giang, hay giang chua, dây dang còn gọi là dây đực (danh pháp khoa học: Aganonerion polymorphum), là một loài cây thuộc họ La bố ma (Apocynaceae).
 Lá giang là cây mọc hoang dại họ dây leo có mủ trắng, lá đơn, hình  trứng mọc đối, có vị chua dịu. Hoa mọc thành chùm, màu hồng lợt, 5 cánh  đều nhau; đài hoa hình ống, tràng hình chuông, 5 nhị ngắn, nhiều noãn.  Quả có hai đai. Hạt có chùm lông ở đỉnh.
Là một loài cây có dược tính cao, chất saponin trong lá giang có tính kháng sinh với các chủng khuẩn Salmonella typhi và Klebsiella. Người ta có thể dùng lá giang để nấu canh hoặc xào với thịt gà, cá nước ngọt, thịt bò.... Canh chua lá giang là một món ăn ngon. Nấu lá giang, cũng như các loại canh chua khác không nên sử dụng nồi  nhôm mà nên dùng các loại nồi như inox, tráng men không rỉ. Nếu dùng nồi  nhôm, phải nấu nhanh và ăn ngay do chất chua có thể ăn mòn nhôm và làm  nồng độ nhôm trong canh chua tăng cao, có thể gây ngộ độc. Nói tóm lại  khi nấu canh lá giang trong một số nồi kim loại thì nên múc ra dùng ngay  khi canh chín.Lá giang (lá vang) không chỉ được dùng để nấu canh chua, lẩu gà…  ngon, mát mà còn được dùng chữa viêm đường tiết niệu, có sỏi, viêm thận  mạn tính, viêm ruột, phong thấp, sưng tấy…  Công dụng
 Lá giang tên khoa học là Ecdysanthera rosea, thuộc họ trúc đào, mọc  hoang ở vùng đồi núi, bìa rừng. Lá có vị chua, tính bình, không độc, có  tính năng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, kháng viêm diệt khuẩn, giảm  đau… nên thường được dùng để nấu canh chua và làm thuốc giải nhiệt.
 Đặc biệt, nó còn có tác dụng chữa viêm đường tiết niệu, có sỏi, viêm thận mạn tính, viêm ruột, phong thấp, sưng tấy…
 Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong cây lá giang có nhiều saponin,  flavonoid, sterol, coumarin, tamin, chất béo, axit hữu cơ và 12 nguyên  tố vi lượng.
 Về mặt sinh học, cao lỏng lá giang được chiết xuất không thấy có độc  tính, có tác dụng ức chế 9 loại vi khuẩn, tiêu viêm cấp tính cả khi uống  và tiêm.
 Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên 31 bệnh nhân từ 25 – 65 tuổi ở cả  nam và nữ được chẩn đoán viêm đường tiết niệu (do sỏi) cho thấy: Ở cả 3  liều dùng khác nhau (liều thấp 3g/kg thể trọng/ngày chia hai lần sáng,  chiều, liều trung 5g/kg và liều cao 8g/kg dược liệu khô), bệnh nhân được  uống thuốc lá giang có số lần và lượng nước tiểu tăng so với không uống  thuốc, cơn đau và các triệu chứng viêm đều giảm nhanh sau 10 ngày và  hết sau 15 ngày, không thấy phản ứng phụ.
 Một số bài thuốc chữa bệnh
 Chữa sỏi tiết niệu: Lá giang tươi (có thể dùng cả dây) 200g. Sắc uống  ngày một thang, chia nhiều lần uống trong ngày. Uống liên tục trong  nhiều ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy dùng nước sắc lá giang cho bệnh  nhân sỏi thận uống trong 1 tháng liên tục thì 67% số bệnh nhân đã tiểu ra sỏi.
 Sỏi và viêm đường tiết niệu: 10g thân lá giang thái mỏng, phơi khô,  đổ ngập nước, đun nhỏ lửa 1 tiếng, chắt lấy nước, sắc tiếp 2 lần nữa,  sau đó lấy 3 nước nhập lại sắc tiếp còn 200ml. Uống mỗi lần 100ml, ngày 2  lần sáng chiều liên tiếp 2 – 3 tuần.
 Chữa viêm bàng quang bằng món ăn: Canh chua cá lá giang và canh gà lá  giang có tác dụng phòng chữa viêm đường tiết niệu với triệu chứng đái  dắt, đái buốt…
 Canh gà nấu lá giang ngon nhất khi ăn nóng  cùng với cơm gạo tẻ, ngoài ra có thể ăn kèm với mỳ. Cái vị chua chua ,  ngọt ngọt và dai dai của thịt gà, càng ăn càng thấy ngon
 Lá giang gắn liền với cuộc sống của người miền trung  du quê tôi từ thời khai hoang, mở đất. So với các loại rau dân dã khác,  lá giang được nhiều người ưa nhất. 
 Phổ biến nhất là lá giang nấu canh với cá biển tươi,  bỏ thêm một ít khế, hành, ngò, ớt để tăng thêm vị đậm đà. Hay mỗi khi  nhà đến giỗ, chạp, trong mâm cơm cúng ông bà không thể thiếu món cá suối  nướng lá giang. Và có lẽ, những người con khi xa núi rừng khó có thể  quên được tô canh gà nấu lá giang nóng hổi được chuyền từ đôi bàn tay  gầy gò của mẹ. 
 Món canh gà nấu lá giang vốn là món đặc sản, giàu  can-xi, mát lại bổ dưỡng nhưng hơn cả là tấm lòng thơm thảo của phụ nữ  dành cho gia đình họ. Tuy chỉ là phụ liệu, nhưng chính cái vị thanh chua  của lá giang đã tạo nên một nét rất riêng cho bát canh. 
 Không phải ai cũng biết nấu ngon món canh này. Thường  phải chọn loại gà ta (gà thả vườn) hoặc gà rừng (gà tơ thì thịt sẽ thơm,  mềm hơn) và nồi nước canh được nấu bằng chính nước luộc gà càng ngon. 
 Gà làm sạch, để ráo, chặt miếng vừa ăn. Ướp gà với  hành tím (không ướp tỏi vì sẽ tạo mùi hăng khi nấu), nước mắm, tiêu, hạt  nêm vừa ăn. Để chừng mươi phút cho thịt gà thấm gia vị. Lá giang hái về  lựa bỏ những lá già hoặc sâu, rửa sạch, để ráo. 
 Phi thơm hành tím với ớt màu, đổ thịt gà đã ướp vào  xào, rim đến khi thịt săn lại thì tắt bếp. Đổ hỗn hợp trên vào nồi nước  luộc gà đang sôi. Sau cùng, cho lá giang vào, đợi nồi canh sôi lại. Để  nồi canh thêm vị thanh, chua phải vò nhẹ lá giang trước khi nấu và hạ  lửa riu riu cho lá giang ra hết nước chua. Mùi thơm thân thuộc của lá  giang bay lên là nồi canh đã chín. Chỉ cần múc canh ra tô, rắc ớt, hạt  tiêu và ngò om, rau răm vào là dùng được.
 Canh gà nấu lá giang ngon nhất khi ăn nóng cùng với  cơm gạo tẻ, ngoài ra có thể ăn kèm với mỳ. Cái vị chua chua , ngọt ngọt  và dai dai của thịt gà, càng ăn càng thấy ngon. Trong tiết trời tháng  mười se se lạnh, mùi thoang thoảng của lá giang rừng lẫn hương tro nồng  nàn từ bếp lửa củi tạo nên một thứ mùi đặc trưng khó tả, vừa giản dị,  quen thuộc mà nồng nàn ấm áp. Cái ấm áp ấy cứ vấn vương bước chân những  người con xa xứ… 
 Cá ngừ kho dứa 
 Gắp một miếng cá, bên trên là miếng dứa (thơm) ăn cùng  cơm nóng hổi thật ngon không gì bằng. Vị chua chua ngọt ngọt của thơm  thấm vào cá làm tôi ăn mãi quên cả no.
 Quê tôi nằm ở miền duyên hải miền Trung nên tôm cá  quanh năm, lúc nào cũng tươi roi. Bữa cơm gia đình không bao giờ vắng  món cá kho hay cá chiên nước mắm chua ngọt. Thế nhưng khi xa nhà, trong  ký ức của tôi luôn hiện về món cá ngừ kho thơm mẹ nấu năm xưa. 
 Cá ngừ thịt rất dai và ngọt, có thể chế biến thành  nhiều món ăn như cá ngừ nấu chua ngọt với thơm và cà chua hay chiên vàng  ăn cùng rau sống. Tuy vậy khi nào đi chợ tôi cũng vòi mẹ mua cá về kho  với thơm.
 Sau khi làm sạch cá, mẹ cẩn thận rửa cá qua nước muối  rồi khứa ngang mình cá tạo thành những rãnh nhỏ. Sau đó mẹ ướp gia vị và  bảo tôi giã hành tím cho nhuyễn để nhét vào từng khứa cá. Để cá thấm  khoảng 15 phút, mẹ bắc chảo lên chiên vàng 2 mặt cá. Tiếp đến mẹ cho vào  một ít nước mắm tỏi ớt và vặn nhỏ lửa cho cá thấm đều. Kế đến cho thơm  xắt lát hơi dày vào rim đến khi thơm có màu vàng sậm. 
 Món ăn được dọn ra lúc nào cũng “hết veo” trong chốc  lát. Tôi thích ăn phần thịt cá màu nâu vì nó rất ngọt và mềm. Phần thịt  màu trắng thì dai và bùi hơn. Gắp một miếng cá, bên trên là miếng thơm  ăn cùng cơm nóng hổi thật ngon không gì bằng. Vị chua chua ngọt ngọt của  thơm thấm vào cá làm tôi ăn mãi quên cả no.
 Mỗi khi trời mưa tôi lại thèm món cá kho của mẹ. Chạy  ra chợ tìm mua cá ngừ và thơm về nấu. Nhưng dù có làm kỳ công đến đâu  tôi cũng không thể tìm lại hương vị ngày xưa. Thế mới biết chỉ có cá mẹ  kho là ngon nhất.
 Chả lụa
- 1kg thịt nạt bầm(có thể mua loại thịt đả xay sẳn trong các siêu thị) - 7 muổng súp nước ấm - 3 muổng súp nươc mắm ngon - 2 muổng súp dầu ăn - 3 muổng súp bột năng - 3 muổng caphê đường - 1 muổng càphê bột nổi - Tiêu ,bột ngọt (tùy ý thích) Cách làm: Quậy đều nước mắm,dầu ăn,bột năng,đường, bột nổi, tiêu,bột ngọt chung với nươc ấm, sau đó cho thịt vào quết cho đều gia vị, đem để vào tủ đá khỏang 45 phút,lấy ra dùng máy xay thịt, xay thịt đả trộn gia vị , xay càng lâu thịt sẻ càng trắng hồng và mịn. Lấy lá chuối cuộn thịt sống lại tròn xong bỏ vào giấy bạc quấn lại cho chặt rồi đem hấp 1 tiếng là sẻ có chả lụa ăn. Nếu các bạn muốn ăn chả chiên thì thay vì quấn trong lá chuối, các bạn dùng giấy bạc bỏ giò sống vào nắn tròn lại cho vô nồi hấp 10 phút lột bỏ giấy bạc hấp tiếp , trong khi đó chuẩn bị một nồi dầu ăn sôi , dầu phải nhiều để lúc chiên chả mới đủ cho chả vàng đều, cứ để chả đang hấp trong nồi thấy chả nở phòng lên gắp ra từng cái bỏ vô nồi dầu đang sôi trở đều, nhớ đừng chiên lâu quá chỉ cần thấy chả hơi có màu vàng tươi thì vớt ra và củng đừng chiên một lúc nhiều cái sẻ làm giảm nhiệt độ dầu chả sẻ không nở đều  Thạch trứng gà  Nguyên liệu:  Rau câu: 10g, nước ấm: 0,8 lít, đường cát: 150 g, sữa đặc: 1/4 hộp, trứng gà: 15 quả, bí đỏ: 200g, vani: một ống. Cách làm: - Ngâm bột rau câu với nước khoảng 10 phút. Nấu rau câu với lửa lớn, 30 phút cho đường vào, đường tan hẳn cho sữa vào sau cùng vani vào. - Dùng muỗng múc bí đỏ viên cỡ 1,5cm. Hấp cách thuỷ chín mềm. - Trứng gà đập đầu lớn, lấy ruột ra, rửa sạch. Luộc vỏ trứng với nước sôi có lá dứa 15 phút. - Múc thạch đổ vào nửa khuôn trứng, đợi một chút cho viên bí vào, đổ rau câu vào đầy trứng. Cho trứng vào tủ mát ít nhất hai giờ để thạch đông đặc hãy lấy ra.  Canh sườn cùi sầu riêng  | 


























No comments:
Post a Comment