Sông Nile, Mekong, Amur... là những dòng sông dài như vô tận và mang vẻ đẹp vừa kỳ vĩ vừa thơ mộng.
(Xem: http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_s%C3%B4ng_d%C3%A0i_nh%E1%BA%A5t_th%E1%BA%BF_gi%E1%BB%9Bi)
 Sông Amazon:  (tiếng Tây Ban Nha: Río Amazonas; tiếng Bồ Đào Nha: Rio Amazonas) là một dòng sông ở Nam Mỹ. Amazon là sông dài thứ nhất trên thế giới với chiều dài 6.800km (theo kết quả mới khảo sát, vì thế sông Nile  đã tụt xuống vị trí thứ 2) và là sông có lưu vực lớn nhất thế giới.  Sông Amazon chiếm khoảng 20% tổng lưu lượng nước ngọt cung cấp cho các  đại dương.  Chỗ rộng nhất của sông vào mùa khô khoảng 11km (6.8 dặm). Vào mùa mưa  lũ, chỗ rộng nhất của sông có thể lên đến 40 km (24.8 dặm) và khu vực  cửa sông có thể rộng tới 325 km (202 dặm). Do độ rộng của sông như vậy, người ta còn gọi là sông biển.
 Sông Amazon được Francisco De Orellan phát hiện năm 1542,  ban đầu nó được đặt tên là Riomar. Con sông Amazon thuộc hàng dài nhất  thế giới nằm ở khu vực Nam Mỹ được xác định đã 11 triệu năm tuổi. Nó có  hình dạng như hiện nay từ 2,4 triệu năm trước. Đây là kết quả nghiên cứu  của những nhà khoa học tại Đại học Liverpool Anh, Đại học Amsterdam Hà  Lan và công ty dầu mỏ quốc gia Brazil Petrobras. Họ đưa ra kết luận này  nhờ nghiên cứu những mẫu trầm tích lấy từ hai lỗ khoan ở cửa sông  Amazon.
 Trước nghiên cứu này, độ tuổi chính xác của sông Amazon vẫn là một bí  ẩn. Các nhà nghiên cứu vốn không thể xâm nhập vào Amazon Fan - một cột  trầm tích dày tới 10 km - ở con sông này. Công ty Petrobras đã quyết  định khoan hai lỗ ở cửa sông Amazon - một cái sâu tới 4,5km dưới mực  nước biển - để lấy trầm tích phục vụ cho nghiên cứu.
 "Trầm tích của sông cung cấp dữ liệu về khí hậu và địa lý thời cổ đại  của khu vực", Jorge Figueiredo - thuộc khoa nghiên cứu đại dương và  trái đất Đại học Liverpool - cho biết. "Nghiên cứu này cũng có ý nghĩa  quan trọng trong việc cung cấp hiểu biết cho chúng ta về địa lý học Nam  Mỹ cũng như sự tiến hóa sinh vật biển ở khu vực Amazon và vùng bờ biển  Đại Tây Dương".
 Tuy nhiên, Amazon, dù được xem là dài nhất thế giới, vẫn khá "trẻ" so  với nhiều con sông khác trên thế giới. "Sông New ở Bắc Mỹ và Nile ở  châu Phi được cho là đã hàng trăm triệu năm tuổi", Carina Hoorn, thuộc  Đại học Amsterdam, cho hay.
 Lưu vực sông bao phủ phần lớn rừng Amazon, khu rừng nhiệt đới lớn nhất trên thế giới, chiếm diện tích 6.144.727 km² (phần lớn ở Brasil).
 Amazon có lưu vực rộng nhất thế giới với hơn 1.000 sông nhánh  đan chéo nhau dệt thành một mạng sông dày đặc, trong đó có hơn 17 nhánh  có chiều dài 1.500 km. Lưu vực Amazon chiếm khoảng 40% tổng diện tích đại lục Nam Mỹ, lớn gấp đôi diện tích lưu vực sông Congo ở châu Phi. 
 Ở Nam Mỹ, chiều dài 6.800km, Amazon trở  thành niềm tự hào của bất kỳ quốc gia nào mà nó chảy qua. Sông Amazon  chiếm khoảng 20% tổng lưu lượng nước ngọt cung cấp cho các đại dương.
 Cho đến nay, độ tuổi chính xác của sông  Amazon vẫn là một bí ẩn. Amazon có lưu vực rộng nhất thế giới với hơn  1.000 sông nhánh đan chéo nhau dệt thành một mạng sông dày đặc, trong đó  17 nhánh có chiều dài 1.500km.
 Thượng nguồn
 Vào tháng 5 năm 2007, nhằm xác định thượng nguồn của con sông, các nhà khoa học Brazil và Peru  đã làm một cuộc hành hành trình vất vả. Và họ thấy con sông này bắt  nguồn từ vùng núi trẻ An-đét (5000 mét so với mực nước biển).Lưu vực  sông Amazon và lòng sông là nơi sinh sống của rất nhiều loại  động vật có kích thước khổng lồ như trăn Nam mỹ (Anaconda), cá trê  (catfish) lớn. Đã từng bắt được con cá thuộc loại này có khối lượng tới  200 pounds (90,7 kg). Hoặc cá pirarucu (Arapaima gigas) là một trong  những loại cá nước ngọt lớn nhất thế giới, có chiều dài tới 3 m và nặng  200 kg.Phần lớn Rừng Amazon có núi, các loại khoáng sản có kim cương  (phân bố ở Bolivia), vàng ở Brazil, và các kim loại khác. 
| Một phần của sông Amazon. Ảnh: Vivirlatino. | 
  Sông Nile: Cách  biển Địa Trung Hải khoảng 200km, sông Nile chia thành 2 nhánh và mở ra  giữa vùng sa mạc nóng bỏng một châu thổ hình tam giác rộng lớn. Sông  Nile là con sông dài nhất thế giới với tổng chiều dài 6.690km.
 Từ  xa xưa, dòng sông này đã đem lại phù sa màu mỡ cho Ai Cập. Nó êm đềm  chảy qua thành phố Cairo với dọc hai bên bờ sông là con đường rợp bóng  mát cây xanh.
 Những khách sạn mọc lên rất nhiều ở  hai ven đường này. Đứng trên khách sạn lúc bóng chiều đổ xuống, du khách  có thể tận hường những giây phút tuyệt vời của dòng sông Nile, những  làn sóng tỏa trên mặt nước, êm đềm và bình yên đến lạ.
 Sông Amur
 Sông  Amur hay còn gọi là Hắc Long giang dài khoảng 2.744km, là một trong  những con sông dài nhất thế giới, tạo thành biên giới tự nhiên giữa miền  Viễn Đông của đất nước Nga và vùng Mãn Châu của Trung Quốc.
 Sông  Amur được tạo thành bởi sự trộn lẫn giữa hai dòng Argun và Shilka, sau  đó đổ vào vịnh Tartar của Thái Bình Dương. Dòng sông này có vẻ uốn lượn  rất đẹp. Bên sông có loài cò trắng nguồn gốc từ phương Đông và còn có  rất nhiều loại chim và sếu khác khiến du khách vô cùng thích thú.
 Sông Trường Giang
 Trường  Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc, bắt nguồn từ vùng cao nguyên  tỉnh Thanh Hải chảy về hướng Nam theo cao nguyên Tây Tạng vào Vân Nam,  qua Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tô... rồi đổ ra biển giữa Hoàng Hải và Đông  Hải.
 Với  chiều dài khoảng 6.385km, Trường Giang được xem như điểm phân chia giữa  hai miền Hoa bắc và Hoa nam Trung Quốc. Dòng sông xinh đẹp mang nhiều  tên gọi khác nhau, tùy theo khu vực mà nó chảy qua, chẳng hạn như Đương  Khúc hà, Kim Sa giang, Xuyên giang, Dương Tử giang...
 Nếu  có dịp đến các địa phương nơi Trường giang chảy qua, du khách sẽ cảm  nhận được vẻ đẹp đa dạng biến hóa muôn hình của dòng sông nổi tiếng đã  đi vào thi ca từ bao thế kỷ.
 Sông Congo
 Congo  là một con sông ở miền Tây Trung Phi, được hai quốc gia lấy theo tên  của nó là Cộng hòa dân chủ Congo và Cộng hòa Congo.
Toàn bộ chiều dài  của con sông nằm bên trong CHDC Congo hoặc tạo thành một phần biên giới  của nó.
 Chiều  dài 4.700 km, con sông này chỉ đứng thứ 2 sau sông Nile và là một trong  những con sông có lưu vực và lưu lượng nước lớn nhất trên thế giới. Đây  là con sông có vẻ đẹp hoành tráng và vô cùng đặc biệt. Ở đoạn hạ lưu  của con sông này, du khách sẽ thấy Kinshasa (thủ đô CHDC Congo) và  Brazzaville (thủ đô Cộng hòa Congo) nằm đối diện với nhau.
 Sông Mackenzie
 Con  sông được lấy từ tên Alexander Mackenzie - người đã khám phá ra nó. Với  chiều dài 4.240km, con sông của đất nước Canada xinh đẹp được xếp vào  top những dòng sông dài nhất trên thế giới.
 Điều  thú vị là nếu muốn tham quan bằng tàu thuyền trên con sông này, du  khách chỉ có thể lưu thông từ tháng 5 - 9, vì bắt đầu từ tháng 10 đến  tháng 4 hằng năm, con sông này sẽ bị đóng băng hoàn toàn.
 Sông Hằng linh thiêng
 Sông Hằng là cái nôi của nền văn minh Ấn  Độ, một trong ba nền văn minh cổ lớn nhất châu Á (Lưỡng Hà, Trung Hoa và  Ấn Độ). Với chiều dài 3.090km, lại có hàng trăm nhánh lớn, lưu vực phủ  lên phần lớn lãnh thổ của Ấn Độ và một phần của Nepal, Bangladesh, sông  Hằng là một trong những dòng chảy kỳ bí nhất của châu Á.
 Sông Volga lãng mạn
 Volga nằm ở miền Tây nước Nga, là con  sông dài nhất châu Âu: 3.690km, tạo thành nền tảng của hệ thống sông lớn  nhất châu lục. Nước Nga ban đầu đã được thành lập dọc theo bờ sông  Volga, một phần vì những nhà buôn người Viking đã dùng con sông này làm  đường tới phương Nam tính từ điểm bắt đầu của họ ở gần khu vực  Arkhangelsk.
 Dương Tử kỳ vĩ
 Sông Dương Tử ở Trung Quốc là con sông  dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới, dài 6.385km. Dương Tử còn  có tên gọi là Trường Giang, lớn nhất Trung Quốc về chiều dài, lượng nước  chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế.
  Three Gorges Dam on the Yangtze River
 Từ bao đời nay, Trường Giang đã mang lại  sự phồn thịnh cho đất nước đông dân cư nhất hành tinh. Người dân Trung  Quốc không khỏi tự hào về dòng sông dài Dương Tử đã góp phần tạo nên sự  phát triển của họ. 
 Sông Lena:  
 Nga:  4,400 km
lưu vực (km) - 2,490,000
Outflow - Laptev Sea
lưu vực (km) - 2,490,000
Outflow - Laptev Sea
 Countries   in the drainage basin - Russia. The Lena is the easternmost of the three great Siberian  rivers that  flow into the Arctic Ocean.It is the 10th longest river in the world and  has the 9th largest watershed. It is the greatest Russian river with  its watershed entirely within national ranges.Rising at the height of  1,640 metres (5,381 ft) at its source in the Baikal Mountains south of  the Central Siberian Plateau, 7 kilometres (4 mi) west of Lake Baikal.
 Sông Ob – Irtysh: Nga, Kazakhstan, Trung Quốc, Mông Cổ : 5410 Km
 Con  sông này bị phân tách thành hai nhánh Ob River và The Irtysh là một  nhánh phụ của sông Ob. 
 Có vài nhánh khác nhau của con sông Ob. Nước của  con sông này bị ô nhiễm nặng do các vụ nghiên cứu, sản xuất vũ khí của  quân đội Nga.
 Sông Hoàng Hà: Trung Quốc : 5464 Km
| Trong tiếng Hán, Hoàng Hà có nghĩa là “con sông màu vàng” | 
 Trong tiếng Hán, Hoàng Hà có nghĩa  là “con sông màu vàng”. Hoàng Hà là con sông lớn thứ 2 của  Trung Quốc và còn được gọi là dòng sông mẹ của dân tộc Trung  Hoa. Là một dòng chảy xiết và hung hãn nên âm thanh  nước chảy ven núi luôn ồn ào, dữ dội. Âm thanh nước chảy càng  gầm thét dự dội khi đến những vị trí đổ dốc từ trên cao  xuống. Dòng thác đổ hung hãn này có tên là Hồ Khẩu, được mọi  người xem là biểu tượng cho tính cách của sông Hoàng Hà.  Những bọt nước đổ dồn văng tung tóe như âm thanh tiếng trống  thúc giục lòng người. Dường như đây chính là bức tranh sâu sắc  và ấn tượng nhất khi người ta nghĩ về Hoàng Thổ. Hàng trăm năm  qua, con người không ngừng khai phá những màu mỡ, phù sa mà  dòng sông này đã bồi đắp, thế nhưng, nguồn tài nguyên màu mỡ  của dòng sông vẫn chưa hề cạn kiệt. Con người vẫn luôn thể  hiện được hết sự tài trí của mình trên dòng sông hoàng thổ  này. Vì thế từ xưa, con người đã có mối liên hệ sâu sắc với  thế giới tự nhiên, tạo nên bức tranh đa sắc cho nền văn minh  Trung Hoa. Dòng sông Hoàng Hà chảy qua rất nhiều khu hành chính,  giờ đây tất cả đều trở thành những vùng đất có lịch sử  phát triển lâu đời đầy kiêu hãnh. 
 Sông  Hoàng Hà là con sông lớn ở phía Bắc Trung Quốc và là trung tâm của nền  văn hóa Trung Hoa cùng với sông Trường Giang ở phía Nam. Nó là con sông  dài thứ hai tại Trung Quốc sau sông Trường Giang.
 Sông Yenisei-Angara-Selenga-Ider: Nga và Mông Cổ : 5539 Km
 Yenisei  còn được biết đến với cái tên Yenisey là con sông lớn nhất chảy vào Bắc  Băng Dương. Bắt nguồn từ Mông Cổ nó chảy theo hướng Bắc đến vịnh  Yenisei, biển Kara đổ một lượng lớn nước vào vùng trung tâm Siberia và  dòng dài nhất là Yenisei-Angara-Selenga-Ider.
 Sông Orinoco: 1330 miles, Columbia & Venezuela
Sông Mississippi – Missouri : Mỹ: 6275 Km
 Sông  Mississippi là con sông lớn thứ hai ở Mỹ. Dòng chính của nó có chiều  dài 3734km nhưng tổng chiều dài của nó lên đến 6275km. Nó bắt nguồn từ  hồ Itasca, Minnesota và chảy đến vịnh Mexico. Cái tên “Mississippi” mang  theo ngôn ngữ mẹ đẻ có nghĩa là ‘cha đẻ của nước’. Nguồn gốc của  Mississippi là bang Minnesota, gần biên giới Canada. Mississippi chảy  dọc theo hướng Nam trên khắp đất nước Hoa kì. Nó chảy qua các bang  Wisconsin, Iowa, Illinois, Missouri, Kentucky, Tennessee, Arkansas, và  Mississippi.
  Sông Brahmaputra
 Sông Brahmaputra (Tibet, China, India & Bangladesh); 1800 miles long.
  Sông Mekong
 Mekong  là con sông rộng nhất Đông Nam Á. Với chiều dài 2.600km, sông bắt đầu  từ dòng Lan Thương (Trung Quốc), từ đây tiếp tục chảy qua lãnh thổ của  nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan, Lào,  Campuchia và cuối cùng đổ ra 9 cửa sông của Việt Nam (hay còn gọi là Cửu  Long giang).
 Sông  Mekong sở hữu nhiều sinh vật quý hiếm như cá chiên, cá lăng, cá hô, cá  chép khổng lồ... Vì vậy, dịch vụ câu cá phục vụ khách du lịch ở đây rất  phát triển.
  Trên lãnh thổ Việt Nam có tới 2860 sông ngòi lớn nhỏ với tổng lượng dòng  chảy khoảng 867 tỷ m3/năm. Sông ngòi Việt Nam nhìn chung chảy xiết và  do vậy thường làm xói mòn địa hình, cuốn đi một lượng bùn cát khá lớn,  ước tính khoảng 300 triệu tấn/năm. Tuy dọc theo bờ biển có tới 112 cửa  sông lớn, nhưng không phải tất cả bùn cát các dòng sông mang theo đều đổ  ra biển, mà một phần được giữ lại bồi đắt nên các đồng bằng rất trẻ.
Trong toàn bộ hệ thống sông ngòi thì sông Hồng và sông Mekong là hai con sông lớn và quan trọng hơn cả. Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) dài 1140 km với lưu vực rộng 61627 km2, trong đó đọan chảy qua Việt Nam dài 500 km với lưu vực rộng 21787 km2. Tổng lượng dòng chảy của sông Hồng khoảng 150 tỷ m3/năm. Nước sông quanh năm đỏ ngầu do mỗi năm mang theo 80 triệu m3 phù sa. Bởi vậy, dòng sông được gọi tên theo mầu nước đỏ.Sông Mekong là một trong 10 con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ Tây Tạng (Trung Quốc) chảy qua Myanma, Lào, Thái Lan, Cămpuchia rồi vào Việt Nam.
1. Sông Hồng
Trong toàn bộ hệ thống sông ngòi thì sông Hồng và sông Mekong là hai con sông lớn và quan trọng hơn cả. Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) dài 1140 km với lưu vực rộng 61627 km2, trong đó đọan chảy qua Việt Nam dài 500 km với lưu vực rộng 21787 km2. Tổng lượng dòng chảy của sông Hồng khoảng 150 tỷ m3/năm. Nước sông quanh năm đỏ ngầu do mỗi năm mang theo 80 triệu m3 phù sa. Bởi vậy, dòng sông được gọi tên theo mầu nước đỏ.Sông Mekong là một trong 10 con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ Tây Tạng (Trung Quốc) chảy qua Myanma, Lào, Thái Lan, Cămpuchia rồi vào Việt Nam.
1. Sông Hồng
 Sông  Hồng là con sông rất riêng của Hà Nội, của đất mẹ Việt Nam. Con sông ấy  chẳng những bồi đắp nên nền văn minh sông Hồng – một trong 36 nền văn  minh của Thế giới mà còn là hệ thống song lớn nhất miền Bắc nước ta, lớn  thứ 2 trên bán đảo Đông Dương (sau sông Mêkong – hay Cửu Long). Với  chiều dài 1126km, qua địa phận Việt Nam là 556km chiếm 49,3%, diện tích  toàn lưu vực là 155.000 km2 chiếm 45.6% diện tích. Ngoài ra, song Hồng  còn có tận 614 phụ lưu từ cấp 1 đến cấp 6, có những phụ lưu lớn như Đà,  Lô, Chảy…
 Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Nhụy Sơn (cao 1776m) ở  gần hồ Đại Lý thuộc huyện Nhị Đô, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo  hướng Tây Bắc – Đông Nam điển hình vào Việt Nam ở Hà Khẩu (Lào Cai) qua 7  tỉnh đổ ra biển bằng 10 cửa, cửa chính là cửa Ba Lạt (Nam Định). Đoạn  sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 91 km, thuộc phần hạ lưu.
 Trước  khi người Pháp đặt tên cho sông Hồng, nó đã có rất nhiều tên gọi. Mỗi  địa phương có một tên sông riêng của mình, ví dụ như sông Thao, sông  Cái, sông Nhĩ Hà, sông Nam Sang, Hoàng Giang… vì thế nó cũng được coi là  con sông có nhiều tên nhất.
 Một trong những nét đặc thù của văn  hóa Việt Nam là sắc thái sông nước. Các đô thị cổ trong lịch sử Việt Nam  phần lớn đều gắn liền với sông nước: Cổ Loa, Thăng Long,Phố Hiến, Hội  An… Trong văn hóa tổ chức đới sống cá nhân, sắc thái nước cũng là một  yếu tố quan trọng, người Việt cho rằng mình là con rồng cháu tiên xuất  phát từ truyện Lạc Long Quân – Âu Cơ. Lạc Long Quân làm vua nước Xích  Quỷ, được dân gọi là Bố nhưng lại sống ở Thủy phủ, tự xưng là giống rồng  đứng đầu các loài dưới nước. Người Việt có tục thờ Thủy Thần. Thủy thần  có nhiều tên gọi, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, phổ biến nhất  ở vùng sông nước là tục thờ mẫu Thoải (đọc chệch từ mẫu thủy để tỏ ý  tôn trọng).
 Từ bao đời nay, vào dịp lễ hội mùa xuân và mùa Thu,  sông Hồng lại rộn ràng tiếng trống, tiếng chiêng của những đoàn thuyền  Rồng đi ra tận giữa sông rước nước sông Mẹ (sông Cái) về thờ và tắm  tượng. Du lịch đường sông giờ không còn là hình thức mới nữa, nhưng tài  nguyên du lịch ven sông đã được khẳng định từ lâu và ngày càng hấp dẫn  du khách trong và ngoài nước. Chính những cuộc du ngoạn của các thi nhân  mặc khách xưa nay còn in dấu trong các truyền thuyết, trong nhưng áng  văn thơ.
 Sông hồng còn được coi là một di tích lịch sử ghi dấu  chiến công chống xâm lược. Những trận thắng lớn của nhân dân ta trong  lịch sử phần lớn là những trận đánh trên sông nước: Bạch Đằng (938),  (981) trận Tây Kết lần 1, Tây Kết lần 2, Chương Dương, Hàm Tử (1285,  Bạch Đằng (1285), Rạch Gầm Xoài Mút (1785)… khu vực dốc Hàng Than, đầu  cầu Long Biên (xưa là Đinh Bộ Đầu) nơi diễn ra trận đánh oanh liệt của  quân và dân ta (29/1/1285) đánh bật 3 vạn quân Mông Cổ do Uri-ang  Kha-Đai cầm đầu ra khỏi Thăng Long, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến  chống quân Mông Cổ xâm lược lần thứ 2 (1285).
 Ở cạnh khu vực bãi  tự nhiên thuộc huyện Khoái Châu (Hưng Yên) là bến Tây Kết – nơi diễn ra  chiến dịch Tây Kết lần thứ nhất do Chiêu Thành Vương, Hoài Văn Hầu Trần  Quốc Toản, Nguyễn Khoái chỉ huy. Năm 1285, địa danh Hàm Tử (Khoái Châu –  Hưng Yên) là nơi diễn ra chiến dịch Hàm Tử do Chiêu Văn Vương Trần Nhật  Duật chỉ huy… Chương Dương là địa danh diễn ra chiến dịch Chương Dương  do Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải chỉ huy cũng vào năm 1285. Những  chiến thắng này còn in dấu trong bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” của  Trần Quang Khải:
 “Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
 Khoảng  ba bốn trăm năm trước, Sông Hồng đã đem lại cho Hà Nội sức sống của một  trung tâm thương mại. Hàng hóa từ miền xuôi theo sông Hồng về lại đồng  bằng, xuôi những bến bờ lên các tỉnh miền núi, hàng lâm sản miền núi lại  theo sông Hồng về đồng bằng. Những bến bờ sông Hồng ấy đã sánh ngang  với những bến cảng sầm uất của Châu Âu, các tàu buôn của Pháp, Nhật, Ý,  Bồ Đào Nha… tấp nập cập bến sông Hồng trong cuộc kháng chiến chôngs  Pháp, Mỹ.
 Sông Hồng còn là nhân chứng cho sự hy sinh mất mát và những chiến công oanh liệt của quân và dân Hà Nội.
 Tài  nguyên du lịch sông Hồng phải kể đến là hệ thống làng Việt. Trên sông  Hồng tồn tại nhiều kiểu làng với những xóm chài, làng chài nhỏ mang đậm  sắc thái sông nước. Một số làng tồn tại ở vùng đất ven sông ngoài đê  chính, chẳng hạn làng gốm Bát Tràng – xưa có mỏ đất Sét trắng là nguyên  liệu để làm gốm, đây cũng là vị trí thuận lợi cho giao thông vận tải  đường thủy. Việc sống ở ngoài đê chính làm cho người dân luôn phải lo  đối phó với lũ lụt, nên dân cư thạo vùng sông nước, hầu như nhà nào cũng  có thuyền do vậy nên làng Xâm Dương (Ninh Sở, Thường Tín, Hà Tây) có  tên gọi rất dân gian là Làng Dầm.
 Sông Hồng còn nổi bật với những  di tích ghi dấu sự kết tinh của lao động. Bản thân đồng bằng sông Hồng  là mảnh đất được ông cha ta chú ý bảo vệ bằng hệ thống đê điều kiên cố.  Có thể so sánh, người Ai Cập tự hào về Kim Tự Tháp, người Trung Quốc tự  hào về Vạn Lý Trường Thành, người Việt Nam cũng có quyền tự hào về hệ  thống đê sông, đê biển trên cả nước, có thể ví như Trường Thành vạn lý  để ngăn chặn giặc nước. Với Hà Nội, kể từ khi xuất hiện đê Cơ Xá vào  thời Lý đầu thế kỷ XII (1108) để bảo vệ kinh thành Thăng Long dọc sông  Hồng từ Nghi Tàm đến Lương Yên và đê Quai Vạc…, hệ thống đê sông Hồng  của Hà Nội đã có một bề dày lịch sử đến hơn 800 năm.
 Tính Hà Tĩnh  trở ra đã có gần 5000 km đê trong đó có 1580 km đê sông Hồng. Bên cạnh  hệ điều, kênh Bắc Hưng Hải gồm một hệ thống sông đào, lênh mương, cống  lớn làm nhiệm vụ tưới tiêu cho 3 tỉnh: Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương.  
 Sông Cửu Long
 Bắt  đầu từ Phnom Penh, nó chia thành 2 nhánh: bên phải là sông Bassac (sang  Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang  Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực  đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220-250 km mỗi  sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái,  hay sông Cửu Long.
Lưu  lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến  120.000 m³/s vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng  bằng Nam Bộ.
     * Sông Hậu chảy qua Châu Đốc, Long Xuyên (An Giang),  Thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng (Sóc Trăng) và đổ ra biển trước kia bằng  ba cửa: cửa Định An, cửa Ba Thắc, cửa Tranh Đề, cửa Ba Thắc khoảng thập  niên 1970 đã bị bồi lấp nên sông Hậu chỉ còn hai cửa biển ngày nay.
      * Sông Tiền có lòng sông rộng với nhiều cù lao ở giữa dòng, chảy qua  Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự và Cao Lãnh (Đồng Tháp) đến Cai Lậy (Tiền  Giang) thì chia làm bốn sông đổ ra biển bằng sáu cửa:
         *  Sông Mỹ Tho, chảy qua tỉnh lỵ tỉnh Tiền Giang là thành phố Mỹ Tho và  phía nam Gò Công, ra biển bằng cửa Đại và cửa Tiểu qua đường sông Cửa  Tiểu
         * Sông Hàm Luông, chảy qua phía nam tỉnh Bến Tre, ra cửa Hàm Luông
          * Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Bến Tre-Trà Vinh (tên  cũ Vĩnh Bình), đổ ra biển bằng cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
         *  Sông Ba Lai chảy qua phía bắc tỉnh Bến Tre (tên cũ Kiến Hòa), ra cửa Ba  Lai.Hiện nay,cửa Ba Lai đã bị hệ thống cống đập Ba Lai ngăn lại.Hệ  thống này nằm trong dự án ngọt hóa vùng ven biển của tỉnh Bến Tre.
 Do  chín cửa sông nguyên thủy này mà sông Mê Kông còn được gọi là sông Cửu  Long, tức "sông chín rồng". Khoảng 90 triệu người dân có cuộc sống dựa  vào con sông này.[cần dẫn nguồn](chỗ này có thể hiểu là 90 triệu  người,bao gồm tất cả dân cư của các nước mà con sông Mê Kông chảy  qua.Bao gồm cả Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam). 
 Sông Đồng Nai
 Toàn cảnh sông Đồng Nai
 Sông  Đồng Nai là tên con sông lớn thứ nhì đất Nam Bộ, chỉ thua sông Cửu  Long. Theo sách cổ Gia Định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức thì sông  còn có tên là "sông Phước Long" vì gọi tên theo phủ Phước Long cũ.
 Sông  Đồng Nai chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai,  Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, và Tiền Giang với chiều dài  trên 437 km và lưu vực 38.600 km²[2], nếu tính từ đầu nguồn sông Đa Đưng  thì dài 586 km còn nếu tính từ điểm hợp lưu với sông Đa Nhim phía dưới  thác Pongua thì dài 487 km. Sông Đồng Nai đổ vào biển Đông tại khu vực  huyện Cần Giờ. Các phụ lưu chính của nó gồm sông Đa Nhim, sông Bé, sông  La Ngà, sông Sài Gòn, sông Đạ Hoai và sông Vàm Cỏ. Các phân lưu của nó  có tên gọi là sông Lòng Tàu (sông Ngã Bảy), sông Đồng Tranh, sông Thị  Vải, sông Soài Rạp (sông Soi) v.v.
 Vị trí sông ĐỒng Nai trên bản đồ
 Nguồn  sông chính xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên, tỉnh Lâm Đồng. Đoạn trên  sông mang tên sông Đắc Dung. Sông uốn khúc chảy theo hướng Đông Bắc-Tây  Nam vượt khỏi miền núi ra đến bình nguyên ở Tà Lài, tỉnh Đồng Nai.
Sông Đa Nhim, góp nước vào sông Đắc Dung ở Đại Ninh. Ở khoảng hợp lưu với sông Bé thì có đập Trị An chắn dòng sông, tạo nên hồ nước nhân tạo lớn nhất miền Nam, tức hồ Trị An cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Trị An. Hồ Trị An cũng là nơi sông La Ngà từ triền núi phía nam cao nguyên Di Linh dồn nước về.
Đến thị trấn Uyên Hưng thì sông Đồng Nai chảy theo hướng Bắc-Nam ôm lấy cù lao Tân Uyên và Cù Lao Phố. Sông chảy qua thị xã Biên Hòa và Nhà Bè thì có thêm chi lưu là sông Sài Gòn. Vì vậy ca dao có câu:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về...
Gia Định là rẽ theo sông Sài Gòn lên phía Tây Ninh, còn Đồng Nai là theo dòng sông lên Biên Hòa.
Nhánh chính sông Đồng Nai ở khúc hạ lưu thường gọi là sông Nhà Bè. Sách xưa gọi sông này là "Phước Bình". Sông Đồng Nai hoà với nước của sông Vàm Cỏ từ Long An đổ về trước khi tuôn ra biển Đông.
Hai phân lưu chính của sông Đồng Nai là sông Soài Rạp đổ vào vịnh Soài Rạp tại cửa Soài Rạp (rộng 2.000 - 3.000 m, sâu 6 - 8 m) ở huyện Cần Giờ và sông Lòng Tàu (sâu 15-20 m) đổ vào vịnh Gành Rái.
Sông Đồng Nai có một số cảng lớn như cảng Cát Lái, cảng Bình Dương. Đường sắt và Quốc lộ 1A vượt sông này qua cầu Đồng Nai ở Biên Hòa.
Đồng Nai nguyên tên phiên âm tiếng Miên là "Nông-nại". Đây là vùng đất Chân Lạp người Việt vào khai phá trước tiên.
Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai là nơi phát triển sầm uất của cộng đồng người Minh Hương trước khi vùng đất này trở thành đơn vị hành chính chính thức của Đàng Trong năm 1698.
Sông Đa Nhim, góp nước vào sông Đắc Dung ở Đại Ninh. Ở khoảng hợp lưu với sông Bé thì có đập Trị An chắn dòng sông, tạo nên hồ nước nhân tạo lớn nhất miền Nam, tức hồ Trị An cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Trị An. Hồ Trị An cũng là nơi sông La Ngà từ triền núi phía nam cao nguyên Di Linh dồn nước về.
Đến thị trấn Uyên Hưng thì sông Đồng Nai chảy theo hướng Bắc-Nam ôm lấy cù lao Tân Uyên và Cù Lao Phố. Sông chảy qua thị xã Biên Hòa và Nhà Bè thì có thêm chi lưu là sông Sài Gòn. Vì vậy ca dao có câu:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về...
Gia Định là rẽ theo sông Sài Gòn lên phía Tây Ninh, còn Đồng Nai là theo dòng sông lên Biên Hòa.
Nhánh chính sông Đồng Nai ở khúc hạ lưu thường gọi là sông Nhà Bè. Sách xưa gọi sông này là "Phước Bình". Sông Đồng Nai hoà với nước của sông Vàm Cỏ từ Long An đổ về trước khi tuôn ra biển Đông.
Hai phân lưu chính của sông Đồng Nai là sông Soài Rạp đổ vào vịnh Soài Rạp tại cửa Soài Rạp (rộng 2.000 - 3.000 m, sâu 6 - 8 m) ở huyện Cần Giờ và sông Lòng Tàu (sâu 15-20 m) đổ vào vịnh Gành Rái.
Sông Đồng Nai có một số cảng lớn như cảng Cát Lái, cảng Bình Dương. Đường sắt và Quốc lộ 1A vượt sông này qua cầu Đồng Nai ở Biên Hòa.
Đồng Nai nguyên tên phiên âm tiếng Miên là "Nông-nại". Đây là vùng đất Chân Lạp người Việt vào khai phá trước tiên.
Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai là nơi phát triển sầm uất của cộng đồng người Minh Hương trước khi vùng đất này trở thành đơn vị hành chính chính thức của Đàng Trong năm 1698.
 Sông Mã bắt nguồn từ phía Nam tỉnh Điện Biên chảy theo hướng Tây  Bắc-Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La, qua lãnh thổ Lào, rồi  tới tỉnh Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, sông tiếp tục giữ hướng Tây Bắc -  Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi  đổ ra vịnh Bắc Bộ ở cửa Hới nằm giữa huyện Hoằng Hóa và thị xã Sầm Sơn  cùng hai cửa phụ là Lạch Trường và cửa Lèn.
|   | 
 Lưu vực của sông Mã  rộng 28.400 km², phần ở Việt Nam rộng 17.600 km², cao trung bình 762 m,  độ dốc trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km².[1].  Lưu lượng nước trung bình năm 52,6 m³/s.
Các phụ lưu lớn của sông Mã là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp lưu với sông Mã trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ như sông Lũng, sông Sơn Trà, sông Nậm Soi.
Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.
Các phụ lưu lớn của sông Mã là sông Chu, sông Bưởi, sông Cầu Chày đều hợp lưu với sông Mã trên địa phận Thanh Hóa. Ngoài ra còn có các phụ lưu nhỏ như sông Lũng, sông Sơn Trà, sông Nậm Soi.
Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.
 Sông  Đà Rằng (phần thượng lưu gọi là Sông Ba, Ea Pa, Ia Pa) là một con sông  chảy trên địa bàn ba tỉnh miền Trung Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai, Phú  Yên. Nguồn gốc của tên Đà Rằng xuất phát từ chữ "Ea Rarang" trong tiếng  Chăm.

Đà Rằng theo tiếng Chăm cổ có nghĩa là "con sông lau sậy".
Đà Rằng theo tiếng Chăm cổ có nghĩa là "con sông lau sậy".
 Cầu Đà Rằng bắc qua sông Đà Rằng
 Sông  dài 374 km, bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Rô, tây bắc tỉnh Kon Tum, từ độ  cao 1.549 mét, chảy theo hướng Bắc-Nam qua các huyện Kon Plông của tỉnh  Kon Tum, KBang, Đắk Pơ, An Khê, Kông Chro, Ia Pa, Ayun Pa của tỉnh Gia  Lai, chuyển sang hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Krông Pa (Gia Lai) rồi  đi vào địa phận Phú Yên theo hướng Tây-Đông làm thành ranh giới tự  nhiên giữa Sơn Hòa và Sông Hinh, giữa Sơn Hòa và Tây Hòa, giữa Tây Hòa  và Phú Hòa, giữa Tây Hòa và thành phố Tuy Hòa rồi đổ ra biển Đông ở cửa  biển Đà Diễn, phía Nam thành phó Tuy Hòa.
 Lưu vực của hệ thống  sông Đà Rằng rộng 13.900 km² bao gồm cả phần phía Đông Bắc của Đăk Lăk.  Các phụ lưu quan trọng nhất của sông Đà Rằng là sông Ayun (hợp lưu với  Đà Rằng ở ranh giới giữa hai huyện Ayun Pa và Ia Pa), sông Krong H'Năng  (hợp lưu với Đà Rằng ở ranh giới giữa Gia Lai và Phú Yên) và sông Hinh  (hợp lưu huyện Sông Hinh).
 Sông Ba cung cấp nước quanh năm cho đồng bằng Tuy Hòa, với diện tích hơn 20.000 ha, vựa lúa lớn nhất miền Trung Việt Nam.
 Dọc  theo sông Đà Rằng có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử. Cầu  Đà Rằng qua sông này tại Tuy Hòa dài 1.512 m là cầu dài nhất miền Trung  Việt Nam.
 Vùng hạ lưu sông Đà Rằng từ nhiều nghìn năm trước đã có  nhiều bộ tộc cư ngụ. Di tích của các nền văn minh đồ đá từng tồn tại nơi  đây vẫn còn được lưu giữ, điển hình là chiếc đàn đá Tuy An.
 Từ  thế kỷ 1, tại đây dần hình thành các quốc gia như Lâm Ấp, Chiêm Thành.  Có bằng chứng khảo cổ học, đào được khi xây dựng công trình thủy nông  Đồng Cam tại đây, cho thấy cửa biển Đà Diễn, thời kỳ từ thế kỷ 7 đến thế  kỷ 15, đã từng là trung tâm thương mại quốc tế sầm uất. Các hiện vật  đào được gồm nhiều loại tiền cổ, khối lượng đến một tấn, gồm tiền Đại  Việt thời Hồng Đức, tiền "Khai nguyên thông bảo" nhà Đường, tiền Triều  Tiên,...
 Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã hành quân vào đây  trừng phạt vua Chiêm Thành vì tội quấy nhiễu vùng Hóa Châu (Quảng Nam  ngày nay). Lê Thánh Tông đã khắc lên một tảng đá lớn trên núi Thạch Bi  (còn gọi là núi Đá Bia), thuộc hạ lưu sông Ba, làm mốc ranh giới Đại  Việt. Đây cũng là một dấu mốc lịch sử trong quá trình Nam tiến của người  Việt.
 Tuy đã đánh mốc như vậy, phải hơn 100 năm sau, đến năm  1578, đô chỉ huy sứ Lương Văn Chánh, vâng mệnh chúa Nguyễn Hoàng, mới  đem lưu dân từ Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Quảng vào khai khẩn, lập xóm  làng tại vùng đồng bằng Tuy Hòa. 
 Sông Côn
 Suối Hầm Hô đổ ra sông Côn
 Sông  Côn còn gọi là sông Kôn là dòng sông lớn nhất của tỉnh Bình Định, nhưng  bắt nguồn ở độ cao 925 m từ khối núi Ngọc Roo ở các tỉnh Kon Tum, Gia  Lai và từ vùng núi cao huyện An Lão, rồi chảy qua Vĩnh Thạnh nơi có hồ  Vĩnh Sơn và thủy điện Vĩnh Sơn.
 Ven bờ sông Côn
 Sông  dài 171 km. Lưu vực sông có diện tích 2980 km² thuộc các huyện An Khê  (Gia Lai), An Lão, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, Vân Canh, An Nhơn và Tuy Phước  (Bình Định). Đoạn thượng nguồn có tên là Đắc Cron Bung. Và theo hướng  đông nam nó chảy qua huyện Tây Sơn để rồi gặp các nhánh nhỏ bắt nguồn từ  An Khê và Vân Canh tạo thành dòng lớn hơn. Đoạn giữa ở huyện Tây Sơn có  tên là sông Hà Giao. Sau đó nó tiếp tục chảy qua huyện An Nhơn và gặp  một nhánh khác từ hồ Núi Một (Vân Canh) chảy xuống. Đoạn hạ lưu chia  thành vài nhánh, đổ ra đầm Thị Nại, vịnh Quy Nhơn và có tên là sông Cái.                      
  10 dòng sông buộc phải chui xuống đất: Cách mạng công nghiệp và quá trình đô thị hóa tại nhiều  thành phố lớn như London, New York khiến nhiều dòng sông phải chui  xuống đất để nhường chỗ cho các công trình xây dựng.
Sông Mekong
| Tibbetts là tên một dòng sông cung cấp nước cho một hồ trong thành phố New York, Mỹ. Song do quá trình phát triển đô thị, nó trở thành một dòng chảy ngầm bên dưới đại lộ Tibbetts. | 
| Là nhánh dài nhất của sông Hudson, sông Sawmill chảy từ thành phố Chappaqua, bang New York, tới tận thành phố Yonkers cùng bang. Từ đầu thế kỷ 20, dòng sông bị bao phủ dần bởi những chiếc cầu. Theo thời gian số lượng cầu tăng lên và kích thước của chúng cũng tăng. Ngày nay sông Sawmill đã bị che lấp hoàn toàn bên dưới thành phố Yonkers. | 
| Sông Wein tại thủ đô Vienna của Áo không còn lộ diện trên mặt đất sau khi người ta dẫn nó vào hệ thống cống ngầm từ nhiều thập kỷ trước. | 
| Từng xuất hiện trên bản đồ vào thập niên 70 của thế kỷ 19, ngày nay sông Sunswick Creek chỉ còn là dòng nước nhỏ chảy qua ống dưới lòng đất tại thành phố New York, Mỹ. Ảnh: Steve Duncan. | 
| Một đoạn có chiều dài hơn 6 km của sông Bradford Beck chảy dưới các công trình xây dựng ở thành phố Bradford, Anh. | 
| Sông Neglinnaya từng chảy từ phía bắc tới phía nam thủ đô Moscow của Nga cho tới khi nó bị chôn vùi bởi những đường hầm có chiều dài 7,5 km. Ngày nay nước của nó chảy vào sông Moskva theo hai lối thoát. | 
| Khoảng không gian khá rộng trong ảnh là đoạn cuối của một đường hầm chứa nước sông Sheaf tại thành phố Sheffield, Anh. Sông Sheaf cứ liên tục hiện ra rồi biến mất trên mặt đất tại thành phố Sheffield trước khi nó chập vào sông Don. | 
| Sông Westbourne từng là nguồn cung cấp nước uống quan trọng cho thành phố London, Anh. Nhưng tới cuối thế kỷ 18, chất lượng nước của nó thấp đến nỗi con người không thể uống được nữa. Vào đầu thế kỷ 19, sông Westbourne được dẫn vào các ống ngầm để tạo điều kiện cho sự phát triển của các quận mới tại London. | 
| Vào thế kỷ 19, sông Fleet buộc phải chảy qua đường hầm ngầm tại thành phố London trước khi chảy vào sông Thames. Vào thời La Mã, nó là sông lớn nhất và quan trọng nhất của London. Nhưng trong cuộc cách mạng công nghiệp, phần lớn nước của nó được sử dụng cho hoạt động sản xuất công nghiệp. | 
| Vào thập niên 40 của thế kỷ 20, các kỹ sư của quân đội Mỹ đã nắn dòng của sông Park để nó chui xuống đất tại thành phố Hartford, Connecticut. Đây là dự án tốn kém và hoành tráng nhất của quân đội Mỹ tính tới thập niên 40. Ngày nay sông Park nằm cách mặt đất từ 90 tới 150 cm. | 











No comments:
Post a Comment