1. Lớn nhanh nhất ở tuổi nào?  "Xin cho chúng em biết, từ nhỏ đến khi thành người lớn, cơ thể phát triển nhanh nhất về chiều cao vào lúc nào?".  Chưa  có thống kê lớn nào ở nước ta về vấn đề mà các em quan tâm. Gần đây,  một nghiên cứu của Nhật Bản tiến hành trên hơn 200 sinh viên (cả nam lẫn  nữ) cho thấy: Ở con gái 8 tuổi và con trai 11 tuổi có bước ngoặt về  phát triển chiều cao. Đến 15 tuổi (gái) hoặc 17 tuổi (trai), tốc độ giảm  xuống, mỗi năm cơ thể chỉ cao thêm chưa đầy 1 cm.  Số  liệu trên là của nước ngoài, nhưng các em có thể tham khảo vận dụng cho  bản thân và gia đình nhằm có một chế độ ăn uống, rèn luyện thể lực  thích hợp trong bước ngoặt quan trọng đó.  2. Có nên đi nghỉ mát hằng năm?  "Hai  đứa con tôi ngoan và học giỏi. Hè nào các cháu cũng đòi đi nghỉ mát,  nhưng vợ chồng tôi quá bận rộn nên không đi được. Vừa rồi bà chị ông xã ở  Mỹ về chơi, tụi tôi bị bả mắng cho một trận về chuyện đó...".  Hai  bạn không bị mắng oan đâu. Các bạn đã bỏ mất những dịp tốt cho các cháu  được tiếp xúc với thiên nhiên, hít thở không khí trong lành. Vợ chồng  bạn cũng đã bỏ mất những dịp tốt để củng cố thêm tình nghĩa giữa hai vợ  chồng, giữa con cái với bố mẹ, bỏ mất những dịp tốt để gần gũi mọi  người, từ đó củng cố thêm lòng nhân ái cho mình và cho các con .  Ngoài  một số điều trên, đi nghỉ mát rất có lợi cho sức khỏe. Một nghiên cứu  kéo dài 9 năm tại Mỹ, tiến hành trên gần 13.000 người có nhiều nguy cơ  bị bệnh tim, đã phát hiện ra rằng: ở những người đi nghỉ mát đều đặn  hằng năm, nguy cơ tử vong giảm 17% so với những người chỉ nghỉ ngơi tại  nhà. Qua đó, các nhà khoa học nhận định, đi nghỉ mát là dịp thoát ra  khỏi stress, dành được nhiều thời gian hơn cho gia đình và bạn bè trong  một môi trường mới đầy hấp dẫn.  3. Sống lâu có di truyền không?  "Đặc điểm sống lâu có di truyền không? Ông nội tôi, ba tôi đều thọ ngoài 80 tuổi. Liệu anh em tôi có thừa hưởng được điều đó?".  Nhiều  thống kê khoa học cho thấy trong một số dòng họ, có những thế hệ sống  lâu liên tiếp. Những thế hệ này gần như cùng có các đặc điểm là: điều độ  về mọi mặt, ăn nhiều rau quả, không hút thuốc, không nghiện rượu, ưa  hoạt động, sống nơi thoáng đãng...  Các nhà  khoa học Canada đã tìm ra một gene của người mang tên gene SOSI mà họ  cho là có vai trò bảo vệ cơ thể chống lại hiện tượng ôxy hóa. Họ đưa  gene này vào tế bào thần kinh của một loài ruồi nhỏ và thấy chúng sống  lâu gần gấp rưỡi bình thường.  Thí nghiệm trên đang được tiếp tục, được cải tiến để một ngày nào đó có thể ứng dụng cho con người nhằm kéo dài tuổi thọ.  Vậy  là các thành viên trong gia đình bạn có cơ sở để hy vọng sống lâu, với  điều kiện là biết giữ gìn và đảm bảo cuộc sống an toàn.  4. Đi bộ đều đặn giúp sống lâu  "Ở  khu phố chúng tôi có một cặp vợ chồng viên chức về hưu tuy đã trên 75  tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh. Họ cho biết 10 năm về trước đã bán xe đạp để  đi bộ đến cơ quan nhằm rèn luyện thể lực, và hiện họ vẫn nghiện đi bộ.  Xin cho biết đi bộ nhiều có lợi ích gì?".  Cách  đây chừng hai chục năm, ở Hà Nội và một số thành phố khác có "phong  trào" đi bộ trong viên chức, nhất là lứa tuổi 45-50. Họ tính toán chính  xác, đi bộ thong dong, đến cơ quan rất đúng giờ, tan tầm cũng đi bộ về  nhà. Có lẽ họ chỉ thấy đi bộ làm con người khỏe ra, hoạt bát, yêu đời,  thế thôi. Vì khoa học ngày đó chưa thấy được gì hơn.  Phải  đến đầu năm 1998 mới có kết quả nghiên cứu đầu tiên trên thế giới về  vấn đề này. Trong suốt 19 năm, các nhà khoa học thuộc Đại học Helsinki  (Phần Lan) đã theo dỗi 16.000 anh chị em song sinh và nhận thấy đi bộ có  tác dụng kéo dài tuổi thọ. Ở những người đi bộ mỗi tháng 6 lần, mỗi lần  nửa giờ (bước đều chân), tỷ lệ tử vong chỉ bằng non một nửa so với  người không đi bộ. Hiện tượng này không phụ thuộc vào yếu tố di truyền.  Một  nghiên cứu thực hiện trên gần 26.000 phụ nữ được các nhà khoa học Nauy  công bố năm 1999 cho thấy, ở những chị em vận động thể lực tối thiểu 4  giờ/tuần (dù chỉ là đi bộ), tỷ lệ ung thư vú giảm 37%. Theo một nghiên  cứu của Viện ung thư quốc gia Mỹ, tỷ lệ này giảm 60% ở những chị em có  vận động thể lực.  5.Thêm một lợi ích của đi bộ  "Bác  sĩ khuyên những người béo như chúng em phải ăn ít đi và vận động nhiều.  Em không biết chơi thể thao thì tính sao đây? Còn tập thể dục thì em  thấy không giảm cân được mấy. Xin cho chúng em một lời khuyên".  Các  em cần nhớ là nếu đã rút bớt khẩu phần ăn thì đừng có vì đói bụng mà  tăng cường ăn vặt, nếu không thì chỉ hoài công. Cần chú ý điều chỉnh để  không cho xuống cân quá nhanh, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và kết  quả học tập. Mỗi tháng cứ cho xuống đều 1 kg là tốt rồi, không vội được  đâu.  Tốt nhất là em nên đi bộ thường xuyên  với cách thức như sau: Mỗi ngày đi bộ đúng 45 phút với vận tốc đúng 6  km/giờ, không được chậm hơn (vì không tác dụng) và không được nhanh hơn  (vì gây mệt nhọc vô ích). Nếu không tiến hành được một lúc thì có thể  chia ra làm ba lần trong ngày, mỗi lần 15 phút, cũng với vận tốc trên.  Phương pháp này được rút ra từ một nghiên cứu mới đây của Mỹ, tiến hành  trên 2.000 người béo phì, kết quả là giúp ít nhất 13 kg sau 1 năm.  6. Tuổi thọ trung bình trong thế kỷ 21  "Với những thành tựu kỳ diệu của khoa học, có đúng là con người sẽ có nhiều khả năng sống trăm tuổi hơn trong thế kỷ 21?".  Khi có thành tích, con người thường hay bốc đồng. Sự thực không phải dễ dàng như vậy.  Đầu  năm 2001, nhà khoa học Mỹ Holshansky đã căn cứ vào số liệu thực tế  trong 10 năm (1985 - 1995) mà kết luận rằng: Nhân loại nếu muốn có tuổi  thọ trung bình là 100 thì phải giảm được 85% số ca tử vong thuộc mọi lứa  tuổi ngay cả ở những nước vốn có tỷ lệ tử vong thấp. Theo ông, nếu  không có một cuộc cách mạng sinh y học thực sự, tuổi thọ trung bình của  nhân loại giỏi lắm chỉ đạt 85 tuổi (88 tuổi ở nữ và 82 tuổi ở nam) trong  thế kỷ 21. Mức tuổi trên sẽ đạt được ở Pháp vào năm 2033, ở Nhật năm  2035, còn ở Mỹ thì phải sang năm 2182.  Holshansky  quá bi quan chăng? Năm 1990, khi ông công bố trên tạp chí Science những  điều tương tự, người ta đã chê trách ông. Nhưng 11 năm sau, họ đã thấy  ông có lý khi nhận thấy tốc độ giảm tử vong quá chậm chạp.  7. Hít thở khói thuốc lá có việc gì không?  "Khói thuốc lá có hại cho người xung quanh đến mức nào mà cấm không được hút thuốc nơi công cộng, chỗ làm việc...?".  Từ  thập niên 1970, các bác sĩ nhi khoa khi nghiên cứu ảnh hưởng độc hại  của môi trường nhiễm khói thuốc lá đối với trẻ em đã nhận thấy, những  trẻ sống chung với người nghiện (bị xông khói thuốc triền miên) thường  mắc các bệnh đường hô hấp (viêm họng, viêm phế quản, hen...) phải nằm  viện, chức năng hô hấp suy yếu và chậm phát triển.  Năm  1981, lần đầu tiên các nhà khoa học công bố kết quả nghiên cứu cho  thấy, nguy cơ ung thư phổi tăng ở những trẻ em phải thường xuyên hít thở  không khí nhiễm khói thuốc lá.  Năm 1977,  tại Mỹ có một vụ kiện độc đáo. Một công chức làm việc tại cơ quan bảo  hiểm xã hội Baltimore thường bị chảy nước mắt, nôn mửa, có lần bị xung  huyết phổi. Anh ta cho rằng mình nhiễm phải khói thuốc lá do các đồng  nghiệp thường xuyên phả ra nơi công sở, bèn làm đơn khiếu nại tới cơ  quan pháp luật. Ủy ban hòa giải liên bang Mỹ xác nhận người này có lý và  phán quyết là anh được bồi thường mỗi tháng 1.400 USD.  Năm  1986, hai bản tường trình tại Mỹ (một của Bộ Y tế, một của Viện Hàn lâm  khoa học) dựa trên kết quả 12 công trình nghiên cứu đã kết luận rằng,  việc thường xuyên hít thở không khí nhiễm khói thuốc lá của người khác  có thể dẫn đến ung thư phổi ở những người không hút. Tuy nhiên, kết luận  trên chưa thực sự có sức thuyết phục vì chỉ mới được thực hiện trên gần  1.000 bệnh nhân.  Từ đó, đã có hơn 16 công  trình nghiên cứu tiến hành trên gần 3.000 bệnh nhân nữa được công bố.  Qua đó, người ta thấy rằng nhận định năm 1986 của các nhà khoa học là  đúng.  Chính quyền Mỹ hiện đã chính thức  xác định rằng, không khí nhiễm khói thuốc lá tại nơi làm việc là nguyên  nhân gây ung thư phổi cho những người không hút thuốc phải hoạt động  trong môi trường đó. Về sau, tại phương Tây đã diễn ra một số vụ kiện  lớn về thuốc lá:  - Năm 1991, một số hãng  thuốc lá lớn của Mỹ bị 60.000 tiếp viên hàng không kiện tập thể, đòi bồi  thường 5 tỷ USD, vì tuy họ không hút nhưng phải thường xuyên hít thở  khói thuốc lá của các hãng này trong khi làm nhiệm vụ nên bị ảnh hưởng  đến sức khỏe. Đến năm 1997, các hãng bị kiện phải bồi thường 300 triệu  USD.  - Trong năm 1997, một vụ kiện tập thể  khác do 500.000 người nghiện tiến hành, đòi các nhà sản xuất thuốc lá  bồi thường 200 tỷ USD. Tòa án thành phố Miami, bang Florida, vẫn đang  xem xét.  Một cuộc điều tra tiến hành trong  5 năm trên 5.000 người hơn 48 tuổi (công bố năm 1998) cho thấy, không  chỉ những người nghiện mà cả ở những người phải thường xuyên hít thở  không khí chứa khói thuốc lá, nguy cơ giảm thính lực (tai bị nghễnh  ngãng) tăng 70%.  Đầu năm 1999, một hãng  thuốc lá nổi tiếng ở phương Tây!đã phải bồi thường 80 triệu USD cho gia  đình một bệnh nhân chết vì ung thư phổi sau khi hút thuốc lá của hãng  này trong 40 năm liền.  Trong thư các bạn  không thấy nói đến không khí nhiễm khói thuốc lá trong các gia đình do  một vài thành viên nghiện hút phả ra cho người thân hít thở đều đều!  Phải chăng vì đây là gia đình, nơi không cần chấp hành lệnh "cấm hút  thuốc lá nơi công cộng"? Có lẽ vì các bạn chưa biết rằng:  -  Trong số 16 công trình nghiên cứu bổ sung nói trên, đã có 10 công trình  chuyên theo dõi những trường hợp phụ nữ không hút nhưng chồng họ lại  nghiện thuốc lá. Kết quả là nguy cơ ung thư ở người vợ bằng 1/3 người  chồng.  - Một nghiên cứu của Australia công  bố tháng 5/1999 cho thấy, những người không nghiện nhưng thường xuyên  phải hít thở khói thuốc lá của người khác (nơi làm việc, trong gia đình,  nhất là giữa vợ chồng) có nguy cơ đột quỵ cao gấp đôi người bình  thường.  8. Thuốc lá đối với thanh thiếu niên  "Anh  Hai em là học sinh xuất sắc lớp 11, các thầy cô tin rằng ảnh sau này sẽ  thành đạt. Nhưng em rất lo vì ảnh xài mỗi ngày tới hơn một gói thuốc  lá. Em phải làm gì bây giờ?".  Trước  tiên, em hãy bảo anh là hút thuốc lá dễ dẫn đến ung thư (phổi, thực  quản, tụy, bàng quang, thận, cổ tử cung...) và bệnh tim mạch, viêm động  mạch, viêm phế quản mạn tính.  Nếu anh xì  một cái và nói: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Ung thư hay bệnh tim cũng  phải vài chục năm nữa, còn hút bây giờ vẫn khỏe vô tư", thì em hãy cho  anh ấy biết thông tin sốt dẻo sau đây vừa được đăng trên tạp chí của  Hiệp hội y học Mỹ:  Sau khi tiến hành  nghiên cứu trên 700 thiếu niên mới bước sang tuổi thanh niên, các nhà  khoa học nhận thấy, những em nghiện thuốc lá nặng từ nhỏ đều hay bị  chứng âu lo, tinh thần bất ổn, sợ hãi vô cớ và ngại tiếp xúc với đám  đông, thậm chí bị chứng trầm cảm. Nguyên nhân là chất nicotin tác động  tiêu cực lên hệ thần kinh trung ương.  Nghe  vậy, chắc anh ấy sẽ suy nghĩ, bởi vì nếu bị chứng trầm cảm thì làm sao  học hành tốt được. Hằng ngày nếu cứ lo âu, sợ hãi thì còn gì là thoải  mái; nếu ngại tiếp xúc thì còn đâu những lần đi pícnic thú vị...  Nếu anh vẫn không nghe, em hãy tuyên bố không mua giùm thuốc lá nữa.  Nếu  anh tự đi mua, em hãy mách ba mẹ. Mất lòng trước, được lòng sau, anh có  thể giận em nhưng rồi sẽ biết ơn em. Còn nếu em cứ "đồng lõa" như hiện  giờ là làm hại sự nghiệp của mình.  9. Thai phụ hút thuốc lá gây hại gì cho con?  "Chị dâu cháu còn trẻ nhưng nghiện thuốc lá nặng từ lâu. Phụ nữ nghiện thuốc lá sinh con có bị gì không?".  Con  cái người phụ nữ đó sẽ phải hít thở thứ không khí pha khói thuốc lá  trong gia đình từ lúc lọt lòng. Sau đó nó sẽ bắt chước mẹ, cũng phì phèo  thuốc lá, để rồi cùng với mẹ chờ đón nguy cơ bị ung thư phổi và bệnh  tim mạch. Một vấn đề nghiêm trọng hơn vẫn đang được các nhà khoa học  tiếp tục làm sáng tỏ là: Liệu người mẹ nghiện thuốc lá có đẻ ra được  những đứa con bình thường như mọi người?  Một  nghiên cứu năm 1992 trên gần 6.000 nam giới tại Phần Lan cho thấy,  trong số những người hay vi phạm pháp luật, manh động và thiếu khả năng  tập trung tư tưởng, nhiều người có mẹ hút thuốc lá trong những tháng  cuối của thai kỳ.  Các nhà nghiên cứu Đan  Mạch cũng đã tiến hành khảo sát trên 4.200 nam giới sinh từ năm 1959 đến  năm 1961, từng "có vấn đề" với cảnh sát. Họ nhận thấy, ở những người có  mẹ hút 20 điếu thuốc/ngày trong 3 tháng trước khi sinh ra họ, tỷ lệ bị  bắt vì những tội nhẹ cao gấp 1,6 lần, vì tội bạo hành gấp 2 lần so với  những người mà mẹ không hút thuốc.    Trong  hai nghiên cứu lớn tiến hành độc lập tại hai quốc gia khác nhau trên  đây, người ta không thấy tác động của các yếu tố giàu nghèo, tuổi đời,  sức khỏe người cha...  Nếu chị dâu của cháu chưa nghe ra, thì có lẽ vài số liệu sau đây có thể giúp chị sớm tỉnh ngộ:  -  Cuối năm 1998, Mỹ đã công bố kết quả của một công trình nghiên cứu trên  50 trẻ sơ sinh: Nếu thai phụ hút thuốc lá trong thời gian mang thai, tỷ  lệ chất nicotin trong nước tiểu đầu tiên của đứa con cũng y hệt như của  mẹ.  - Tháng 5/1999, một thống kê ở Pháp  cho thấy, phụ nữ nghiện thuốc lá thường gặp rắc rối khi thai nghén, dễ  bị ung thư cổ tử cung và bệnh tim mạch.  -  Cuối năm 2000, một thống kê thực hiện trên 4 triệu hồ sơ ở Mỹ cho thấy:  Thai phụ hút thuốc lá thường sinh con bị hở hàm ếch (sứt môi) dù hằng  ngày chỉ hút từ 1 đến 10 điếu.  - Tháng  5/2001, một nghiên cứu ở Anh phát hiện ra rằng, ở người nghiện thuốc lá,  gene NMP-1 (phụ trách việc tổng hợp ra loại men chuyên phá hủy collagen  - chất tạo tính chun giãn cho da) bị kích hoạt mạnh mẽ, kể cả khi không  phơi nắng. Do NMP-1 bị kích hoạt, da người nghiện thuốc lá sớm nhăn  nheo vì biểu bì và chân bì bị lão hóa trước tuổi.  10. Trong thuốc lá có những chất gì?  "Cháu  đang học lớp 12, nghiện thuốc lá từ nhỏ nhưng đã thôi hẳn được hơn 3  năm nay. Gần đây, cháu nghe người ta bàn tán chuyện các hãng sản xuất  thuốc lá Mỹ bị tố cáo là lâu nay đã bí mật cho vào thuốc lá tới 600 chất  độc hại. Cháu lạnh toát cả người".  Gần  đây, các nhà sản xuất thuốc lá Mỹ lại bị tố cáo một lần nữa. ICRF, tổ  chức chống ung thư có uy tín của Mỹ, Hiệp hội chống thuốc lá Anh và  chính quyền bang Massachusetts đã soạn thảo và công bố một bản báo cáo  cho thấy: Trong vòng 30 năm nay, từ khi có quy định bắt buộc phải lắp bộ  lọc vào đầu điếu thuốc lá (để giảm lượng nicotin được người hút hấp  thu), các nhà sản xuất thuốc lá lo sợ rằng lượng nicotin thấp sẽ không  đủ để làm cho người nghiện lệ thuộc vào chất độc này như trước. Lợi dụng  quy định cho phép thêm vào thuốc lá một số chất để làm "dịu vị", họ đã  dùng một số chất làm cho nicotin khuếch tán nhanh vào não và tác động  ngay lên các tế bào thần kinh.  Họ thêm các  muối ammonium, lấy cớ là để điếu thuốc lá có vị dịu hơn. Nhưng trên  thực tế, tác dụng chính của muối ammonium là biến nicotin thành nicotin  kiềm, một dạng dễ bay hơi hơn, có thể lên tới não chỉ sau vài giây.  Việc  thêm đường vào thuốc lá cũng được chấp nhận, coi như để bù vào chỗ  thiếu hụt chất thơm do lọc bớt hắc ín. Nhưng trên thực tế, chất  acetaldehyde (dẫn xuất phát sinh từ việc đốt cháy chất đường) làm cho  người nghiện trở thành lệ thuộc hơn vào nicotin.  Cacao  được thêm vào với lý do làm dịu vị chát của khói thuốc lá; nhưng thực  ra chất này làm giãn phế quản, giúp cho nicotin đi vào phổi dễ hơn.  11. Ảo tưởng về thuốc lá không nicotin  "Nghe  nói người ta đã sản xuất được thuốc lá không nicotin, có đúng không?  Được vậy, dân ghiền chúng tôi đỡ lo bệnh tật biết mấy!".  Hãng  sản xuất thuốc lá Vector Group của Mỹ vừa được cấp giấy phép bán một  loại thuốc lá đã biến đổi gene mang tên Omini-Free, được giới thiệu là  hầu như không chứa nicotin, không làm người hút phụ thuộc vào chất này.  Mới nghe, tưởng là một cuộc cách mạng làm cho dân nghiện thuốc lá phấn  chấn không còn lo chết non, còn những ai đang "tập tọe" hút thì yên trí  đốt tiền mà không sợ nghiện vì... "bỏ hút dễ ợt!"  Nhưng  thực tế không đơn giản như vậy. Trong thập niên 1950, thuốc lá không  nicotin (xử lý bằng cách nhúng vào ammoniac để tẩy rửa) đã từng xuất  hiện mà đại diện là thuốc lá điều Gauloises màu xanh của Pháp. Nhưng chỉ  ít lâu sau, loại thuốc này đã rơi vào quên lãng vì hút vào chỉ thấy có  hơi nóng và mùi rơm khô, không mê nổi.  Trong  điếu thuốc lá ngày nay, các nhà sản xuất thêm vào nhiều phụ gia khác.  Do đó, ngoài chất nicotin, người ghiền còn phụ thuộc vào các phụ gia tạo  mùi vị này, và rất khó bỏ.  Thuốc lá  chuyển gene chứa ít nicotin thì người phụ thuộc chất này phải hút nhiều  hơn mới "đã", sẽ tốn thêm nhiều tiền, và nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn!  Vì  sao vậy? Vì thuốc lá không nicotin vẫn tỏa khói, vẫn chứa oxyt carbon  và các chất hắc ín như thuốc lá thường, nghĩa là vẫn chứa đầy đủ các  nguy cơ gây ung thư.  12. Liệu có cai được thuốc lá không?  "Ba  em có sức khỏe, làm nghề thợ mộc kiếm được khá tiền, nhưng lại hút  thuốc lá dữ quá, đã cai mấy lần nhưng rồi nghiện lại. Có cách gì giúp ba  em cai thuốc lá không?".  Nhiều người  nghiện biết thuốc lá nguy hại nên cũng cố cai vài ba lần, nhưng cuối  cùng vẫn hút lại. Ở phương Tây có các thuốc cai thuốc lá dạng uống, dạng  cao dán cho thuốc ngấm qua da, nhằm làm cho người cai nghiện không có  cảm giác khó chịu. Thực tế đó cũng chỉ là chất nicotin mà thôi.  Nếu tiến hành cai nghiện, người hút thuốc sẽ phải trải qua hai giai đoạn tiếp nối nhau.  -  Giai đoạn mới bỏ hút (khoảng 3-4 tháng), người cai nghiện bị ảnh hưởng  mạnh về thể chất, do đó cần đến sự hỗ trợ của nicotin. Chính trong giai  đoạn này, người nào quyết tâm cao sẽ có điều kiện tìm ra những hoạt động  có lợi để bỏ hẳn hút.  - Giai đoạn củng cố: Người cai không còn lệ thuộc thuốc, nhưng vẫn cần có ý chí để xa lánh những cám dỗ có thể làm nghiện lại.  Mới  đây, các nhà khoa học đã khám phá ra tác dụng cai nghiện của một loại  thuốc lâu nay vẫn dùng để trị chứng trầm cảm, đó là chất Bupropion (tên  thương mại: Zyban). Bupropion ngăn chặn hiện tượng tái hấp thu dopamin  (nguồn gốc của sự lệ thuộc vào nicotin). Khi phối hợp Bupropion với chất  nicotin, kết quả cai nghiện tăng gấp rưỡi so với dùng nicotin đơn  thuần. Australia và Mỹ đang cho sử dụng rộng rãi biện pháp phối hợp này.  Tuy nhiên, hiệu quả của nó cũng chỉ là 60% (40% còn lại là những người  thiếu nghị lực).  Nếu ba em có quyết tâm,  thì hãy thử lại một lần nữa với biện pháp nào trước đây đã giúp mình  "sắp bỏ được" thuốc lá. Lần này hãy cương quyết xa lánh những môi trường  hút hít. Mẹ em nên làm một ít mứt gừng thật ngon để ông nhấm nháp khi  buồn miệng. Em nên nhắc thêm ba rằng, nhiều người nghiện lâu năm đã bỏ  hẳn được thuốc lá mà không tốn một xu, vì họ có quyết tâm cao.  13. Tập võ, tập xiếc có hại gì không?  "Có phải việc tập võ hay tập xiếc sẽ ảnh hưởng đến buồng trứng, tinh hoàn, gây vô sinh?".  Bản  thân em hoặc bạn trai của em muốn học võ hay chọn ngành xiếc? Xin cứ  yên trí. Nhiều gia đình nghệ sĩ xiếc hoặc võ sư đã và đang phải hết sức  "kế hoạch hóa gia đình" đấy.  Chỉ cần chú ý  khi đánh võ, nam giới đừng để cho đấu thủ nện trúng "của quý". Khi  luyện các tiết mục xiếc, cả nam lẫn nữ đều phải tuân thủ các quy tắc an  toàn, không để xảy ra điều gì nguy hiểm cho tính mạng nói chung và cho  bộ máy sinh sản nói riêng.  14. Có nhất thiết phải khởi động trước khi tập thể thao?  "Trước khi làm các động tác thể dục thể thao, có nhất thiết phải khởi động không (em không khởi động mà chẳng việc gì)?".  Chắc  em chỉ làm những động tác không nặng lắm, nếu không thì đã bị tổn  thương dây chằng hoặc cơ bắp. Có vận động viên chơi tennis, chỉ một lần  vội vàng không khởi động nên ngay cú nhảy đầu tiên để vụt bóng, anh ta  đã bị chảy máu bên trong cẳng chân (do tổn thương một số thớ cơ), không  bước được nữa. Anh ta phải chữa chạy đủ cách suốt mấy tháng trời mới đỡ  đau và đỡ sưng nề. Em chớ chủ quan, nếu không thì "đi đêm có ngày gặp  ma".  Ngoài việc làm cho các cơ và dây  chằng từ chỗ đang nghỉ ngơi quen dần với cường độ hoạt động cao, các  động tác khởi động còn giúp cho hệ hô hấp và hệ tuần hoàn quen dần với  mức đáp ứng cao về sau, không bị đột ngột (nhịp thở và nhịp tim tăng).  Em  cũng cần nhớ, ngay sau khi tập xong, không được đứng lại hoặc ngồi,  trái lại phải bước đi, khi nhịp thở trở lại bình thường mới ngồi nghỉ và  nếu khát thì uống từ từ một lượng nước vừa phải.  15. Tại sao như vậy?  "Tại  sao sau khi ngồi xổm để làm việc gì đó, lúc đứng lên em hay bị chóng  mặt, sau vài giây thì hết? Em đi khám thì ông thầy lang cho biết bị bệnh  thận. Có đúng vậy không, cách chữa ra sao?".  Hãy  quan sát người phương Tây khi họ có việc gì đó phải ngồi xuống đất: Bao  giờ họ cũng thẳng lưng, giữ tư thế một chân co một chân duỗi thay phiên  nhau, hoặc hai gót chân cùng nhón lên giữ cho hai đầu gối hơi "nhấp  nhổm" như lò xo, nghĩa là vẫn vận động, máu vẫn lưu thông. Tuy nhiên, ít  khi họ dùng tư thế gò bó đó.  Còn tư thế  ngồi xổm của ta (bó gối bất động trước ngực, cong lưng lại) gây cản trở  lưu thông máu từ hai chi dưới trở về tim. Hiện tượng chóng mặt trong  "vài giây" của em có thể giải thích như sau: Trong tư thế ngồi xổm, tuy  tổng lượng máu lưu thông bị giảm (do máu ứ lại ở hai chi dưới), nhưng  tim vẫn đảm bảo được đủ máu cho não, vì áp lực cột máu đã giảm do giảm  chiều cao. Nhưng lúc ta đột ngột đứng lên, áp lực cột máu tăng vọt đột  ngột, tim chưa kịp đối phó, không kịp cung cấp đủ máu ngay cho não,  khiến não rơi vào tình trạng thiếu máu nhẹ nhất thời (biểu hiện là chóng  mặt, xây xẩm mặt mày, thậm chí người chao đảo muốn ngã). Ngay sau đó,  nhanh hay chậm tùy trường hợp, tim lại thích ứng được và coi như không  có chuyện gì xảy ra.  (Em có thể kiểm chứng  giải thích trên đây bằng cách ngồi xổm trên giường một lúc, rồi không  đứng lên mà nằm duỗi chân; em sẽ không thấy chóng mặt, do áp lực cột máu  chẳng những không tăng mà còn giảm xuống khi nằm).  Như  vậy, ta thấy tư thế ngồi xổm tuy "cổ truyền" thật nhưng lại thiếu khoa  học và có hại. Em có thể bắt chước người phương Tây trong tư thế này.  Tốt hơn hết là dùng ghế thấp để khỏi bị các ông lang vườn phán là "bệnh  thận".  16. Khiêng vác nặng hại cột sống  "Cháu  là con trai, 17 tuổi. Bố mẹ, anh chị cháu và cả cháu thường xuyên phải  khiêng những bao hàng nặng từ 50 đến 75 kg. Hiện cả nhà cháu ai cũng kêu  đau lưng. Cháu đi khám thì bác sĩ nghi là có bệnh thận. Xin cho biết có  đúng là việc khiêng vác nặng như vậy dễ gây bệnh thận không?".  Việc  khiêng vác nặng rất có hại cho cột sống và khối cơ ở vùng lưng, nhất là  đối với tuổi đang lớn như cháu. Gia đình cháu nên bàn nhau tự tạo ra  hoặc sắm một dụng cụ chuyên chở tại chỗ (như kiểu của hành khách tại sân  bay), không tốn kém mấy đâu.  Chắc chắn  tình trạng đau lưng của gia đình cháu là do mang vác nặng gây nên. Chẩn  đoán "bị bệnh thận" ở cháu là thiếu cơ sở. Không thấy cháu nói là có các  triệu chứng bệnh của bộ máy tiết niệu, cho nên thận của cháu chắc không  việc gì đâu (nếu bị sỏi thận hoặc sỏi niệu quản thì phim X-quang hay  siêu âm sẽ cho thấy hình sỏi; nếu bị viêm cầu thận thì trong nước tiểu  sẽ có trụ hình hạt).  17. Chỉ có thổi ngạt và xoa bóp tim  "Chúng em sắp được đi trại hè vùng biển, phần đông không biết bơi. Nếu chẳng may có ai bị chết đuối thì xử trí ra sao?".  Nếu  ban tổ chức trại hè quản lý tốt, có đủ các biện pháp dự phòng và các em  biết vâng lời thì chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện chết đuối. Nhưng các  em cũng cần nắm được phương pháp cứu chữa để phòng xa. Ngay sau khi  người chết đuối được vớt lên, ta phải hết sức nhanh chóng làm mấy thao  tác sau đây:  - Dốc ngược đầu và xóc mạnh, vỗ mạnh vào lưng, giúp cho nước trong phổi ộc hết ra.  -  Ngay sau đó, đặt nạn nhân lên một nền cứng (ván thuyền, sân, nền  nhà...), đầu nghiêng hẳn sang một bên (để ngăn không cho gốc lưỡi tụt về  phía sau làm tắc đường thở), lau nhanh cát hoặc dãi trong mũi miệng,  lấy răng giả ra nếu có (để khỏi rơi vào khí quản), và thực hiện hai động  tác căn bản: thổi ngạt (thổi thực sự chứ không phải chỉ "hà hơi") và  xoa bóp tim ngoài lồng ngực.  Tùy theo số người tham gia cứu chữa mà cách tiến hành có khác chút ít:  1. Chỉ có 1 người cứu chữa  -  Quỳ phía đầu của nạn nhân, hai bàn tay chồng lên nhau (để đủ khỏe), đè  thật mạnh lên cuối xương ức, làm sao cho xương ức lún xuống dưới tay  mình, xong nhấc tay lên ngay. Vùng này nằm trước tim, xương sườn toàn  bằng sụn, nên khi nó lún xuống thì tim bị bóp và sẽ đẩy máu đi; khi ta  nhấc tay, tim lại nở ra và thu nhận máu, chờ tay ta đè tiếp. Làm 10 lần  liền, với tần số khoảng 90 lần/phút.  -  Ngay sau đó, ráng hít vào hết sức (để cho phổi mình chứa một lượng không  khí gấp đôi bình thường), vẫn giữ cho đầu nạn nhân nghiêng sang bên,  lấy tay bóp cho miệng nạn nhân khép lại và ngậm lấy mũi, thổi thật sâu,  thật mạnh (kinh nghiệm cho thấy ngậm vào mũi để thổi dễ hơn là ngậm vào  miệng), sao cho ngực nạn nhân phồng lên hạ xuống. Thổi xong thì để miệng  nạn nhân há ra, lưỡi kéo ra ngoài cho không khí tự động trở ra. Thao  tác như vậy 5 lần liên tiếp, với tần số khoảng 25 lần/phút, và lần nào  cũng phải ráng hít vào thật sâu. (Trường hợp nạn nhân bé hơn mình nhiều,  có thể bịt mũi nạn nhân lại để thổi vào mồm).  Khẩn  trương xen kẽ hai thao tác này, không ngưng nghỉ. Nếu thấy có dãi, phải  nhanh chóng lau sạch trước mỗi lần thổi để đường thở được thông, nhưng  không để mất thời gian. Vì bộ não chỉ thiếu ôxy trong 5-6 phút là chết  vĩnh viễn, nạn nhân sẽ không còn tri giác.  2. Có 2 người cứu chữa  - Một người quỳ bên trái, đối mặt với nạn nhân, xoa bóp tim.  - Một người quỳ ở phía đầu, tiến hành thổi ngạt.  3. Có 3 người trở lên cứu chữa  - Người thứ ba nâng cao hai chi dưới, để giúp cho máu dễ dàng trở về tim.  - Người thứ tư giúp mở miệng nạn nhân và kéo lưỡi ra ngoài vào lúc thở ra.  - Những người khác quan sát cách làm để sẵn sàng thay thế.  Việc  cứu chữa phải kiên trì, liên tục ngay cả trong khi vận chuyển nạn nhân  tới trung tâm hồi sức. Người bị ngạt nước quá 5-6 phút vẫn có hy vọng  cứu sống, vì nhiệt độ thấp của nước đã giúp kéo dài thêm thời gian chịu  đựng của vỏ não. Đặc biệt, với trẻ nhỏ, do có phản xạ khép kín dây thanh  đới nên nước không tràn vào phổi; nạn nhân không chết đuối mà chỉ bị  ngạt thở. Não tuổi này lại có khả năng thích ứng cao. Nhờ vậy, đã có  trường hợp trẻ bị chìm trong nước suối 2 giờ mà vẫn được cứu sống và sau  đó phát triển bình thường.  18. Muỗi đốt  "Tại  sao mùa xuân lắm muỗi? Khi bị muỗi đốt, cháu thấy nổi lên một nốt bằng  hạt bưởi đỏ lừ, khoảng vài giờ sau thì tan. Như vậy da có bị ảnh hưởng  không?".  Không cứ gì mùa xuân. Hễ tiết trời hết lạnh là loài muỗi sinh sản nhanh và hoạt động mạnh.  Khi  muỗi đốt, nó phóng ra chất làm giãn mạch và làm cho máu chậm đông. Chỗ  đốt bị sưng, ngứa là do huyết tương thoát khỏi thành mạch, thâm nhập vào  các mô ở vùng đó. Phải một thời gian sau, các mô này mới xử lý hết hậu  quả, và nói chung không còn dấu vết gì. Nếu muỗi mang vi khuẩn độc, bệnh  nhân sẽ có hiện tượng nhiễm khuẩn cấp (sưng nề tại chỗ, sốt, thậm chí  mưng mủ ở vết đốt).  Muỗi vằn còn truyền  bệnh sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản B; muỗi anophen truyền bệnh sốt  rét. Vì vậy, về đêm, trong khi ăn cơm, xem tivi, nghe đài, học hành...,  cả gia đình nên dùng hương muỗi hoặc bôi kem chống muỗi lên những vùng  da để ngỏ (mặt, cổ, tai, bàn chân...). Khi dùng kem, nhớ đừng bỏ sót một  vùng nhỏ nào, bởi vì bọn muỗi sẽ tranh nhau đổ bộ vào vùng an toàn. Nếu  cháu thường xuyên học khuya thì nên thu xếp ngồi trong màn.  Để  bớt muỗi, nhà ở phải có nhiều ánh sáng; loại bỏ bớt những vật dụng ở  gầm giường, gầm bàn. Về chiều, cần mở toang tất cả cửa (muỗi đực và muỗi  cái thường giao hoan vào lúc nhá nhem tối) và lên đèn muộn, sau khi đã  đóng kín cửa hoặc hạ các mành xuống (mành chống muỗi rất tốt). Cần phát  quang cây bụi xung quanh nhà.  19. Nên cởi trần hay mặc áo?  "Trời nóng, em nên ở trần hay mặc quần cộc, áo lót?".  Một  số khá đông người có thói quen ở trần thường xuyên vào mùa hè. Một số  khác, dù trời nóng đến đâu, cũng quần áo chỉnh tề. Đó là do thói quen.  Nhưng nếu phân tích khoa học, em sẽ thấy bên nào lợi hơn:  -  Càng ngày, nhân loại càng sợ tác dụng có hại của tia tử ngoại trong ánh  sáng mặt trời, trước hết là đối với làn da. Chưa nói đến chuyện phồng  rộp do phơi nắng nhiều, nếu cứ ra nắng thường xuyên, các tế bào da sẽ  chóng già lão. Ở nhiều thành phố, phần đông người đẹp khi ra đường đều  trùm mặt bằng đủ thứ mạng và đeo găng dài lên giữa cánh tay. Họ phải làm  như vậy để trốn ông mặt trời, mới mong trẻ được lâu.  -  Nếu mặc quần áo (nhất là bằng vải bông), mồ hôi thấm ướt sẽ bay hơi từ  từ, làm cho nhiệt độ tại chỗ hạ xuống, tạo mát. Quần áo che chắn ánh  sáng, côn trùng, bụi bặm (kể cả bụi hóa chất)...  -  Mặc quần áo thì có điều phiền là phải năng tắm giặt, không nhàn bằng  những người "mặc áo da"; nhưng khi có ai đến nhà thì khỏi phải chạy vội  đi mặc hoặc cứ xuề xòa ở trần, phơi cả rốn ra mà tiếp khách!  20. Kem chống nắng không bảo vệ được da  "Chúng  tôi cũng biết tia nắng có hại, nhưng vẫn thích phơi nắng thật nhiều khi  đi tắm biển. Gia đình tôi ở nước ngoài vừa gửi cho mấy loại kem chống  nắng, nói là loại tốt nhất. Chúng tôi có nên bôi kem đều và tắm nắng cho  "đã" không?".  Trước đây, nhiều người  cũng đặt niềm tin tuyệt đối vào các loại kem chống nắng vẫn được quảng  cáo rầm rộ. Năm 1995, nhà nghiên cứu H. Luther thuộc đại học tổng hợp  Ruhr (Đức) đã thu được những bằng chứng về sự vô hiệu của kem chống  nắng, kể cả những loại được quảng cáo là hiệu quả nhất. Nhưng bà đã phải  giữ im lặng, mãi đến năm 1998 mới công bố trong một hội thảo quốc tế.  Tại hội thảo này, Marianne Berwick (Trung tâm ung thư S-K tại New York)  cũng đưa ra những cứ liệu vững chắc bác bỏ huyền thoại "hữu hiệu", "an  toàn"... của tất cả các loại kem chống nắng. Luận điểm của bà được nhiều  nhà khoa học các nước ủng hộ: Các loại kem chống nắng đang lưu hành  không có chút tác dụng bảo vệ da nào; và số liệu thí nghiệm mà các hãng  bào chế trưng ra trước đây chỉ là kết quả trong ống nghiệm, chứ không  phải kết quả thu được trên cơ thể sống. Đã thế, kem chống nắng còn có  hại khiến người ta phơi nắng "vô tư" để rồi gánh chịu những liều tia tử  ngoại rất lớn.  Một nghiên cứu dài ngày  trên 631 trẻ em cho thấy, ở những em thường xuyên bôi kem chống nắng,  nguy cơ mắc u hắc tố ác tính cao gấp đôi những em không bôi và vẫn ra  nắng ở mức độ bình thường.  Đến đây, chắc  các bạn cũng thấy mọi huyền thoại về "kem chống nắng" đã vĩnh viễn chấm  dứt, và sẽ lo bảo vệ da của mình tốt hơn. Bởi vì trong ánh nắng mặt trời  có ba loại tia gây hại: Tia tử ngoại B (UVB) đánh thẳng vào rốn di  truyền của các tế bào; tia tử ngoại A (UVA) đi sâu vào các lớp trong của  da và gián tiếp làm tổn thương ADN của tế bào; còn tia hồng ngoại thì  làm gia tăng sức phá hoại của các tia tử ngoại. Ngoài ra, các tia tử  ngoại còn làm cho hệ thống miễn dịch của da bị suy yếu rõ rệt: chỉ cần  phơi nắng một lần, da sẽ phải mất ít nhất 3 tuần để phục hồi sức đề  kháng của nó. Vì vậy, vào mùa hè, ta thường hay bị chốc lở, mụn rộp.  21. Chất bảo vệ răng tuyệt vời  "Để  đề phòng sâu răng, chỉ đánh răng nhiều lần thật sạch bằng bàn chải mà  không cần kem đánh răng, có được không? Tại sao lại phải pha chất fluor  vào kem đánh răng?".  Đánh răng ngay  sau mỗi bữa ăn hoặc đánh răng vào buổi sáng và tối đều rất tốt. Động tác  này ngăn thức ăn còn sót tạo thành một màng mỏng trên răng, làm môi  trường phát triển của vi khuẩn. Hơn nữa, trong khi ta ngủ, do không có  động tác nhổ ra hoặc nuốt nước bọt xuống ruột nên vi khuẩn có điều kiện  tập trung hơn (đây là lý do tại sao phải đánh răng trước khi đi ngủ).  Việc đánh răng đều đặn cũng giúp ngăn chặn sự hình thành cao răng, tránh  gây tổn thương cho lợi.  Kem đánh răng  giúp cho việc "kì cọ" này hữu hiệu hơn. Trước đây, người ta cho rằng nếu  đánh răng thật tỉ mỉ thì không cần kem đánh răng nữa. Lúc đó, tác dụng  bảo vệ răng tuyệt vời của chất fluor chưa được phát hiện; chất này cũng  chưa được trộn vào kem đánh răng như hiện nay. Fluor là chất duy nhất có  khả năng làm cho men răng (lớp ngoài cùng, phủ lên ngà răng) không bị  hòa tan trong môi trường axit. Men răng là chất cứng nhất của cơ thể,  chủ yếu gồm các apatite. Fluor khi ngấm vào men răng sẽ biến các apatite  thành fluoroapatite, làm cho men răng cứng thêm.  Mới  đây, các nha sĩ của Anh đã sáng tạo một phương pháp mới ngừa sâu răng:  dùng một viên nhỏ bằng hạt gạo gắn vào một răng hàm của trẻ; viên này  thường xuyên giải phóng chất fluor trong hai năm liền, kết quả là tỷ lệ  sâu răng giảm 76%.  Các bạn nên nhắc nhở và  kiểm tra con em trong nhà, kể cả các cháu nhỏ chỉ mới có răng sữa, đánh  răng thật kỹ, nhất là buổi tối, và chỉ dùng kem đánh răng có fluor.  22. Huyết áp cao hay không  "Bố  tôi gần 70 tuổi nhưng còn sung sức, lao động tốt, ăn ngủ bình thường.  Vừa rồi cụ đo huyết áp, chỉ số là 140/100; có người nói cao, có người  cho là bình thường. Cách đo hiện nay không giống nhau. Vậy cách đo nào  tốt nhất, và chỉ số của người cao huyết áp là bao nhiêu?".  Với  người cao tuổi như cụ nhà, chúng tôi xin giới thiệu một cách tính mức  huyết áp bình thường đơn giản theo từ điển y học Flammarion năm 1994 của  Pháp: Huyết áp tối đa = Số hàng chục của tuổi + 10, Huyết áp tối thiểu =  Huyết áp tối đa + 01.  Cũng theo từ điển  này, cao huyết áp là khi ở trạng thái nghỉ ngơi mà huyết áp tối đa (lúc  tim co bóp, gọi là tâm thu) bằng hoặc trên 17 cm Hg, và huyết áp tối  thiểu (lúc tim nghỉ ngơi, gọi là tâm trương) bằng hoặc trên 10 cm Hg.  Theo đó thì chỉ số huyết áp lý thuyết của cụ nhà (70 tuổi) là: Huyết áp  tối đa = 7 + 10 = 17 cm Hg (170); Huyết áp tối thiểu = 17 + 01 = 9,5 cm  Hg (95).  Bạn nói huyết áp của cụ là  140/100. Chúng ta kiểm tra lại một lần nữa cho chắc chắn: Để cụ nằm ngửa  thoải mái trên giường (không lấy huyết áp khi ngồi). Nên đo vào một  thời điểm nhất định trong ngày để có được những điều kiện tương tự.  Bóp  bóng cho lên cao trên 200 rồi bắt đầu nghe từ đó (không nghe từ 150-140  để loại trừ hiện tượng nghe được huyết áp tối đa lúc khởi đầu, nhưng  ngay sau đó bị ngắt quãng; nếu chỉ lấy từ mức cao hơn thì dễ tưởng nhầm  số đo này là của huyết áp tối đa).  Với  huyết áp tối thiểu, ta theo dõi cho đến khi không còn nghe được nữa hoặc  nghe âm sắc của tiếng đập thay đổi hẳn (để loại trừ khoảng im ắng ngay  phía trên huyết áp tối thiểu, làm ta tưởng nhầm đó là số đo của huyết áp  tối thiểu.  Nếu kết quả kiểm tra lại vẫn  thế thì, đối chiếu với tài liệu nói trên, huyết áp tối thiểu của cụ tăng  chút ít (đáng lẽ là 95 thì ở đây là 100). Trong khi đó, huyết áp tối đa  của cụ không khác gì ở người 40 tuổi (ở các vận động viên, những người  luôn thư giãn và hoạt động, không hút thuốc lá, sống trong môi trường  lành mạnh... cũng có hiện tượng tương tự). Bạn không có gì phải lo lắng  đặc biệt, chỉ cần nhắc cụ giữ sức khi lao động, khi thay đổi thời tiết,  và khuyến khích cụ dùng dầu thực vật hoặc ăn chay.  Theo  số liệu JNC năm 1998 của Mỹ, chỉ gội là cao huyết áp khi huyết áp tối  đa trên 140 hoặc huyết áp tối thiểu trên 90. Ở Việt Nam, trong khi chưa  có số liệu thống kê lớn, có thể tùy theo tuổi tác mà vận dụng linh hoạt  các số liệu của hai nước nói trên.  23. Phát dục sớm  "Xin cho biết rõ bệnh phát dục sớm là gì, nguyên nhân và tác hại của bệnh ấy?".  Phát  dục sớm không phải là bệnh, mà là một hiện tượng sinh lý gần như bình  thường, chỉ khác một điều: tuổi dậy thì xuất hiện quả sớm so với thông  thường.  Ở con gái, thường từ tuổi 13-14,  ngực bắt đầu nở; lông mu mọc (ở phía trên bộ phận sinh dục ngoài); có  kinh nguyệt (ban đầu có thể chưa đều đặn), đùi và mông to ra; có lúc  thấy đau nhói một số nơi; giọng nói bớt thanh, thậm chí trầm hẳn xuống,  nhưng sẽ có ngày thanh trở lại; hay hồi hộp, bồn chồn vô cớ, thậm chí  hay giận hờn, thấy thích bạn trai...  Ở con  trai, thường từ tuổi 15-16, giọng nói trầm xuống và sẽ vĩnh viện trầm;  lông mu và ria mép xuất hiện; đêm ngủ có thể xuất tinh trong giấc mơ;  tính hay quên, mơ mộng, thấy thích bạn gái...  Gọi  là phát dục sớm nếu các dấu hiệu dậy thì xuất hiện trước các lứa tuổi  trên, thậm chí rất sớm, có thể làm bố, làm mẹ ngay cả khi còn ở tuổi vị  thành niên. Cụ thể là: vú to ra trước 8 tuổi, lông nách và lông mu mọc  trước 9 tuổi, cứng và đen nhánh; kinh nguyệt có trước 10 tuổi; âm vật  hay dương vật to lên quá cỡ so với tuổi. Ngoài ra, các dấu hiệu dậy thì  khác như vỡ giọng, mọc ria mép, trứng cá, núm vú và cơ quan sinh dục bắt  đầu thâm đen... xuất hiện trước 10 tuổi.  Với  những trường hợp phát dục sớm, các bậc phụ huynh phải chú ý giúp đỡ,  động viên các cháu vượt qua các rối loạn tâm sinh lý để tiếp tục học tập  tốt, đồng thời tỉnh táo trông nom và quản lý các cháu để khỏi bị những  kẻ xấu lợi dụng về tình dục.  24. Đánh giá mức độ béo  "Xin cho biết cách đánh giá mức độ béo của từng người".  Ở  nước ta chưa có thống kê lớn cho phép xác định mức độ béo của người  Việt Nam. Xin giới thiệu một trong những cách đánh giá chỉ số khối lượng  cơ thể BMI (Body Mass Index) của quốc tế:   Lấy  thể trọng (tính bằng kg) chia cho bình phương chiều cao (tính bằng  mét). Với người trưởng thành, chỉ số BMI bình thường ở nữ là 19-24, nam  20-25; trên 25 là bị béo phì; 25-30 có thể coi là béo phì độ 1, cứ tăng 5  đơn vị là thêm một độ béo phì.  25. Nguyên nhân béo phì  "Vì đâu mà béo phì? Có gene gây béo phì không? Cách chữa?".  Béo  phì là hậu quả của sự mất cân bằng giữa số calo thu nhận được bằng ăn  uống và năng lượng tiêu hao. Cơ thể có một hệ thống cực kỳ tinh vi cho  phép điều khiển việc dự trữ mỡ và cân bằng năng lượng; sự trục trặc của  nó sẽ dẫn tới đến béo phì.  Nguyên nhân béo  phì có thể do lối sống và môi trường sinh hoạt (ăn uống vô độ, ngủ quá  nhiều, ít vận động...). Trường hợp này có thể chữa khỏi hoặc đỡ nhiều  chủ yếu bằng chế độ ăn uống, tập luyện và sinh hoạt, kết hợp với các  phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc (châm cứu, khí công, nhân  điện...).  Một nguyên nhân quan trọng nữa  là di truyền, không chỉ của một gene mà của một hệ thống khá phức tạp  gồm nhiều gene. Qua thí nghiệm trên động vật, người ta đã phát hiện các  gene có vai trò trong việc "cân bằng thu chi" nói trên: ob, agouti, pat,  db, tub... và gene của thụ thể 3-adrenergic. Vì vậy, phải bằng cách nào  đó tác động lên toàn bộ các gene này thì mới giải quyết được vấn đề.  26. Ai suy giảm trí tuệ nhanh hơn  "Chúng em thấy hình như số cụ ông bị suy giảm trí nhớ đông hơn các cụ bà, có phải vậy không, và nguyên nhân do đâu?".  Các  em nhận xét đúng đấy, số cụ ông bị suy giảm trí tuệ đông hơn các cụ bà  nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do mức độ thay đổi của não ở người già  khác nhau theo giới tính.  Kết quả chụp  quét não bằng phương pháp cộng hưởng từ (IRM) trên 330 người hơn 65 tuổi  ở Mỹ cho thấy, khi về già, theo năm tháng, não đàn ông thoái hóa nhanh  hơn não đàn bà. Khi não giảm thể tích, lượng dịch não tủy tăng. Ở nam,  dịch não tủy xung quanh vỏ não tăng trung bình 32%, trong khi ở nữ chỉ  tăng 1% (não các cụ bà giảm thể tích ít hơn rất nhiều).  Ở  nam, dịch não tủy tích tụ nhiều hơn trong thùy trán và thùy thái dương,  những khu vực kiểm tra các chức năng tư duy, trí nhớ và khả năng tổ  chức.  Ngoài ra, cũng theo các nhà nghiên  cứu nói trên, việc sản sinh oestrogene có tác dụng bảo vệ não của nữ và  hạ thấp nguy cơ suy giảm trí tuệ ở nữ.  Tháng  6/2001, một nghiên cứu của Mỹ trên khỉ cái mãn kinh cho thấy, trong mô  não của khỉ ăn nhiều đậu nành, tỷ lệ protein tau (loại protein cần thiết  cho hoạt động của tế bào thần kinh) vẫn nguyên vẹn, còn ở những con  không ăn đậu nành thì tỷ lệ này thay đổi. Như vậy, đậu nành có tác dụng  chống ôxy hóa, việc ăn đậu nành đều đặn để giúp phòng ngừa bệnh  Alzheimer.  27. Bệnh Alzheimer có di truyền?  "Bệnh Alzheimer có lây nhiễm hay di truyền không mà trong gia đình một người bạn của ông nội em có đến ba người cùng bị?".  Bệnh  Alzheimer (suy giảm trí tuệ, xảy ra ở người có tuổi, được Giáo sư Alois  Alzheimer phát hiện vào cuối thể kỷ 19) không phải là một bệnh lây, mà  xuất hiện do sự tích tụ protein amyloid-beta trong các tế bào thần kinh  của não (bình thường thì chất này bị cơ thể thải ra ngoài). Hiện tại, tỷ  lệ bị bệnh này ở độ tuổi ngoài 65 là 10%, ngoài 85 là 50%.  Lâu  nay, do thấy trong một số gia đình có nhiều người mắc bệnh này nên  người ta nghi ngờ có yếu tố di truyền. Nhưng điều này chưa thể khẳng  định vì thiếu bằng chứng khoa học..  Cuối  năm 1998, khi nghiên cứu các thành viên trong một số gia đình có ít nhất  2 người bị Alzheimer, các nhà khoa học tại Bệnh viện Massachusetts (Mỹ)  đã phân lập được một gene, gọi là A2M, có vai trò điều chỉnh protein  amyloid-beta. Khi gene A2M gặp trục trặc thì protein này không bị đào  thải như thường lệ mà tích tụ trong các tế bào thần kinh của não thành  các mảng bám. Từ đó, các nhà nghiên cứu dự kiến sẽ hiệu chỉnh được một  loại thuốc bắt chước tác động tích cực của gene A2M lành mạnh, ngăn chặn  sự tích tụ protein amyloid-bêta.  Viện  Nghiên cứu Lý sinh Dusseldorf của Đức cũng tìm ra được phương cách phát  hiện protein amyloid-bêta trong dịch não tủy, tạo thuận lợi cho việc  chẩn đoán sớm bệnh Alzheimer. Năm 1999, các nhà nghiên cứu Ailen cho  biết họ đã chế tạo thành công một vacxin mang tên AN.1972 có tác dụng  ngăn ngừa và chữa trị bệnh Alzheimer trên chuột, hy vọng sẽ có thể dùng  thử trên người.  Ngoài ra, người ta đã sản  xuất được vacxin để tiêm phòng bệnh Alzheimer. Vacxin này đang được thử  nghiệm trên người tại Mỹ, Pháp và nhiều nước khác trong Liên minh châu  Âu,   28. Tự tử có di truyền không  "Tự tử có di truyền không mà em thấy trong một dòng họ lần lượt có mấy người tự tử?".  Một  số bệnh tâm thần thường hay xảy ra trong một dòng họ. Có lẽ vì vậy mà  các cụ ngày xưa khuyên con cháu "lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn  giống". Người bị bệnh tâm thần dễ rơi vào tình trạng không làm chủ được  bản thân, dẫn tới những hành động xâm phạm đến người khác (gây gổ, giết  người...) hoặc gây hại cho mình (tự vẫn) mà không ý thức được.  Mới  đây, các nhà khoa học Canada đã phát hiện ra hiện tượng đột biến ở gene  của cơ quan thụ cảm truyền tín hiệu thần kinh mang tên 5-HT2A. Bình  thường, 5-HT2A vẫn truyền các tín hiệu từ chất serotonin (do não tiết  ra, có tác dụng ức chế những hành vi bốc đồng nơi con người). Khi bị đột  biến, cơ quan thụ cảm này hoạt động chuệch choạc, không kiềm chế được  những hành vi đó, làm cho nguy cơ tự tử tăng gấp đôi.  Vấn đề là xét xem hiện tượng đột biến nói trên có di truyền hay không. Chỉ biết rằng tỷ lệ người tự tử ở nam cao gấp 4 lần ở nữ.  29. Gene chống ung thư  "Báo chí nói hễ nghiện thuốc lá là mắc ung thư phổi, nhưng tại sao có người nghiện nặng mấy chục năm vẫn bình yên?".  Khoa  học không hề tuyên bố "hễ nghiện thuốc lá là mắc ung thư phổi" mà chỉ  nói "nghiện thuốc lá làm tăng nguy cơ ung thư phổi; lượng thuốc hút càng  lớn, nguy cơ càng cao". Khoa học cũng chưa hiểu nhờ đâu mà một số người  tuy nghiện nặng lâu vẫn không hề hấn gì.  Mới  đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra trên chuột một enzyme tên là  glutathion S-transferase có tác dụng phá hủy các chất gây ung thư. Nếu  gây đột biến cho gene chịu trách nhiệm về việc sản sinh enzyme này,  chuột rất dễ bị ung thư do khói thuốc lá.  Các  chàng nghiện lâu năm có thể hy vọng là may ra mình thuộc vào danh sách  "được tử thần chậm gọi về chầu trời". Còn nhân loại nói chung thì thực  sự vui mừng về kết quả nghiên cứu này, vì nó mở ra triển vọng dùng tác  động gene để chữa trị các loại ung thư do chất độc gây ra, kể cả do hút  thuốc lá.  30. Sụn cá mập có chữa được ung thư?  "Nghe nói sụn cá mập chữa được ung thư, có đúng không?".  Một  nghiên cứu trên các bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn được công bố tháng  3/2001 cho thấy, chất chiết từ sụn cá mập giúp kìm hãm quá trình phát  triển bệnh bằng cách ngăn chặn sự hình thành các mạch máu nhỏ nuôi khối  u, làm cho khối u "chết đói". Một tài liệu khác lại cho rằng chính cá  mập cũng bị ung thư (kể cả ở sụn của nó). Xin hãy ráng chờ kết quả cuối  cùng.  31. Về bệnh đái tháo đường (tiểu đường)  "Báo chí nói bệnh tiểu đường có 2 type. Xin nói rõ hơn cho chúng em để có thể phân biệt dễ dàng".  Tuyến  tụy tiết ra chất insulin, một nội tiết tố gồm 51 axit amin giữ vai trò  điều chỉnh tỷ lệ đường glucose trong máu (75-115 mg/100 ml). Hễ đường  huyết tăng quá mức đó, tụy lập tức tiết insulin, giúp cho đường nhanh  chóng đi vào các tế bào cơ bắp, tế bào mỡ và bạch cầu. Insulin cũng kìm  hãm việc biến glycogene của gan thành glu-cose.  Người ta phân chia bệnh đái tháo đường (tiểu đường) thành type 1 (phụ thuộc insulin) và 2 (không phụ thuộc insulin).  -  Type 1: Chiếm 10%, phát sinh từ tuổi nhỏ do rối loạn chức năng của hệ  miễn dịch. Cách chữa duy nhất là hằng ngày tiêm một liều insulin tổng  hợp. Nguyên nhân bệnh chưa rõ là do di truyền hay do bị nhiễm virus.  -  Type 2: Xảy ra ở lứa tuổi trên 40. Cơ thể có tiết insulin nhưng ở mức  rất thấp; các bộ phận thụ cảm của tế bào đối với insulin quá kém. Hầu  hết bệnh nhân bị béo phì. Chữa trị bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý và vận  động thể lực.  32. Ghép tụy chữa bệnh tiểu đường  "Xin cho biết về việc ghép tụy để chữa bệnh tiểu đường".  Lúc  đầu, người ta ghép tụy trên chó. Những con được ghép ở cổ đều chết vì  thiếu men tiêu hóa. Những con được thay tụy (cắt bỏ tụy và thay tụy khác  vào) cũng chết vì mảnh ghép bị loại trừ.  Chỉ  có 20% mô tụy (gồm các tiểu đảo Langerhans) đảm đương nhiệm vụ nội tiết  (tế bào A tiết glucagon làm tăng đường huyết, tế bào B tiết insulin làm  giảm đường huyết). Một số tác giả đã tìm cách lấy riêng rẽ các tiểu đảo  Langerhans để ghép. Ban đầu, họ ghép vào tụy nhưng rồi phải bỏ vì rất  khó thực hiện. Sau đó, người ta ghép vào thành bụng, vào lách, vào tuyến  thượng thận. Cuối cùng, một số tác giả đã tiêm vào tĩnh mạch cửa: lấy  350 tiểu đảo Langerhans của chuột bình thường tiêm cho 1 chuột đã được  gây bệnh tiểu đường. Kết quả là chuột khỏi bệnh. Với khỉ và lợn, kết quả  cũng tốt.  Nhằm tránh việc mổ bụng để tiêm  vào tĩnh mạch cửa (nằm dưới gan), người ta dùng kim tiêm thẳng các tiểu  đảo Langerhans vào gan của chuột; chuột khỏi bệnh. Các tế bào tụy nằm  trong gan vẫn sống và tiết insulin bình thường. Một số tác giả tiến hành  nuôi cấy các tiểu đảo Langerhans của lợn trong phòng thí nghiệm nhằm  hai mục đích: sản xuất insulin một cách công nghiệp và nghiên cứu khả  năng dùng các tiểu đảo này tiêm vào gan người.  33. Đã ghép tụy thành công trên người  "Chú  em đang điều trị bệnh tiểu đường type 1. Trước đây, báo chí có nói đến  ghép tụy trên động vật nhằm áp dụng cho người. Xin cho biết việc đó kết  quả ra sao? Bệnh tiểu đường type 1 là gì, có nặng lắm không?".  Sau  khi thất bại trong việc ghép toàn bộ tụy trên động vật để chữa tiểu  đường, người ta chỉ cấy ghép các tiểu đảo Langerhans (chiếm 20% mô tụy).  Và kết quả là đã có thể lấy các tiểu đảo Langerhans (TĐL) của người  khỏe mạnh đem tiêm vào gan bệnh nhân tiểu đường type 1 với điều kiện  phải suốt đời dùng thuốc chống miễn dịch để tránh hiện tượng thải loại  mảnh ghép. Điều trở ngại là đa số bệnh nhân không chịu đựng được thuốc  chống miễn dịch, nên gần 95% người được cấy ghép các TĐL đã phải tiêm  lại insulin sau vài ba tháng làm thủ thuật này.  Năm  2000, một nghiên cứu của Canada đã thực hiện thành công 7 ca cấy ghép  TĐL kết hợp với sử dụng chất chống miễn dịch mới (dẫn xuất của  cyclosporin). Đã một năm nay, 7 người này ngưng tiêm insulin mà mức  đường huyết vẫn bình thường.  Đây là tin  vui làm nức lòng các bệnh nhân bị bệnh tiểu đường type1. Nhưng vẫn tồn  tại hai vấn đề: Thời gian 1 năm vẫn chưa đủ khẳng định bệnh có tái phát  hay không; số lượng 1 triệu TĐL dùng cho 1 bệnh nhân (tương đương với  2-3 tuyến tụy nguyên vẹn) là quá lớn, khó đáp ứng nổi nhu cầu, vì số  người cho không nhiều.  Một phương pháp mới  rất có triển vọng đã được đề xuất và đang hiệu chỉnh: Dùng các tế bào  gốc (chưa thành thục) lấy từ tuyến tụy của con người đem nuôi cấy trong  phòng thí nghiệm, cho đến khi chúng biệt hóa thành các TĐL thì đem cấy  ghép.  Bệnh tiểu đường type 1 (phụ thuộc  insulin) gây ra do các bất thường về gene, biểu hiện bằng sự phá hủy  tuần tự các TĐL. Vì khoa học chưa tìm ra phương pháp ngăn chặn tiến  trình bệnh lý này nên bệnh nhân phải đo mức đường huyết hằng ngày nhằm  xử trí kịp thời khi chỉ số này lên quá cao (tối đa cho phép là 1,2  g/lít).  Trong khi đó, bệnh nhân tiểu đường  type 2 (không phụ thuộc insulin) do béo phì gây ra, có thể tự chữa bằng  một chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý.  34. Một vị thuốc nam chữa tiểu đường  "Mẹ  em hơn 60 tuổi, người khá mập, vừa bị cao huyết áp vừa bị bệnh tiểu  đường, thường xuyên phải dùng mấy loại thuốc tây nhưng không đỡ mấy. Xin  cho mẹ em một lời khuyên".  Em nhắc mẹ điều chỉnh chế độ ăn cho hợp lý và vận động thể lực nếu điều kiện sức khỏe cho phép.   Mẹ  em có thể vận dụng cách chữa của dân gian đơn giản mà hữu hiệu sau đây:  Nhắm trong vườn nhà hay vườn của ai đó mấy cây chuối hột đã lớn. Vào  lúc sáng sớm, dùng dao sạch cắt ngang thân cây rồi khoét một hốc ở thân  sâu chừng 10cm; lấy tờ nylon bao kín lại, đợi khoảng nửa giờ thì mở ra,  dùng ống hút uống hết chỗ nước mà cây đã tiết ra.  Nếu thấy cây chuối tiết nước kém thì dùng cây khác. Uống khoảng 30-40 ngày sẽ hy vọng thành công.  Khi đỡ hay khỏi vẫn phải duy trì chế độ ăn uống và vận động.  35. Tác hại tại nhà của trường điện từ  "Chúng  em đang học cấp 3, lâu nay thấy báo chí nói đến tác hại của trường điện  từ đối với sức khỏe. Vậy mà vì nhà chật, chúng em phải ngủ cạnh tủ  lạnh, ngồi học thì quay lưng lại sát máy thu hình (phải mở để cho cả nhà  xem), như vậy có hại gì không?"  Giải  đáp này có thể làm các em không vui vì gia đình mình (cũng như gia đình  nhiều bạn khác) sẽ khó khắc phục. Chỉ mong các em nắm được vấn đề để  phấn đấu dần trong hoàn cảnh cụ thể.  Từ  lâu, các nhà khoa học đã lo lắng về tác hại của trường điện từ (TĐT) đối  với sức khỏe con người. Gần đây, họ đã thu được những bằng chứng đầu  tiên trên động vật.  Các nhà khoa học Đức  đã tiến hành nghiên cứu trên 120 chuột cái đã được tiêm chất gây ung thư  vú, được đặt vào những TĐT có mức độ khác nhau. Sau 3 tháng, họ nhận  thấy:  - Ở mức TĐT = 1mG (milligauss) - mức trung bình trong các gia đình - số chuột mắc ung thư rất vừa phải.  - TĐT = 100 mG, số chuột mắc ung thư tăng 10%.  - TĐT = 500mG: tăng 25%.  - TĐT = 1000 mG: tăng 50%.  Các  nhà nghiên cứu khẳng định rằng TĐT làm giảm tiết chất melatonine, một  hoóc môn do não giải phóng vào ban đêm, có tác dụng bảo vệ cơ thể chống  ung thư vú. TĐT phát ra từ các máy điện gia dụng làm thay đổi sự sản  sinh một số hoóc môn và làm rối loạn phương thức tác động bảo vệ cơ thể  của chúng trước sự tấn công của ung thư.  Một  số nghiên cứu còn cho thấy, TĐT làm cho cơ thể phụ nữ tăng tiết chất  oestrogene, có thể gây ung thư vú. Còn ở đàn ông, TĐT làm giảm tiết chất  testostorone, tăng nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư tinh  hoàn.  36. Khi muốn làm tiếp viên hàng không  "Cháu  muốn trở thành nữ tiếp viên hàng không nhưng nghe nói bay trên cao dễ  bị nhiễm phóng xạ. Xin giải thích rõ điều này và những vấn đề khác liên  quan đến sức khỏe trong các chuyến bay xa".  Mỗi  người sống trên mặt đất hằng năm hấp thu một liều phóng xạ khoảng 1  milisiviert (1 mSv) do phải thường xuyên tiếp xúc với các bức xạ ion hóa  từ vũ trụ, từ các đồng vị phóng xạ hiện hữu trong không khí, nước,  đất...(trong đó, phần từ vũ trụ chiếm hơn 1/4).  Càng  lên cao, bức xạ càng lớn. Ở độ cao 6.000-8.000 m, bức xạ tăng tới 55-70  lần. Do đó, càng bay cao, bay lâu, con người càng phải hấp thu liều  phòng xạ lớn hơn. Chỉ trên một chuyến bay trong 12 giờ từ Paris đi  Tokyo, mỗi hành khách đã phải hấp thu 0,20-0,25 mSv. Theo Tổ chức phòng  vệ phóng xạ thế giới, liều hấp thu phóng xạ cho phép hằng năm của người  bình thường là 1 mSv, của người làm nghề có liên quan đến phóng xạ là 20  mSv.  Một công trình nghiên cứu tại Đức  cho thấy, các phi công và tiếp viên hàng không thâm niên của nước này có  hiện tượng biến đổi bất thường ở nhiễm sắc thể, giống như ở người nhiễm  xạ. So với những người làm việc trong nhà máy điện nguyên tử, họ hấp  thu một liều bức xạ cao gấp 5 lần.  Cũng  theo công trình trên, khi xem xét 23 triệu hành khách của Hãng hàng  không Lufthansa, các nhà nghiên cứu thấy trung bình mỗi năm có khoảng  140 người chết vì ung thư do nhiễm xạ, một con số cao hơn tử vong vì tai  nạn máy bay.  Như vậy, không chỉ phi công  và tiếp viên hàng không mà cả những khách hàng thường xuyên của các hãng  hàng không cũng phải hấp thu một liều bức xạ lớn hơn nhiều so với khi ở  trên mặt đất.  Đó là chưa kể đến trường  hợp hấp thu phóng xạ khi tiến hành kiểm tra hành lý bằng tia X, sử dụng  các nguồn bức xạ gamma do yêu cầu của thiết bị kỹ thuật, hay vận chuyển  trái phép các nguồn phóng xạ... Hàng không, vì vậy, không phải là một  ngành "dễ chịu" như ta vẫn tưởng khi chỉ nhìn bộ cánh hấp dẫn của tiếp  viên, trang phục sáng ngời của phi công, khi hình dung ra cảnh phiêu  diêu trên chín tầng mây và số tiền lương kha khá.  Khi  phải qua nhiều múi giờ, cơ thể người đi máy bay trải qua những thay đổi  về đồng hồ sinh học, làm ảnh hưởng đến não. Giữa năm 2001, một nghiên  cứu của Anh trên tiếp viên những chuyến bay qua hơn 7 múi giờ cho thấy, ở  nhóm chỉ được nghỉ 5 ngày giữa hai chuyến bay, thùy thái dương phải của  não bị teo nhỏ, kèm theo rối loạn ghi nhớ và tiếp nhận; còn nhóm nghỉ  14 ngày vẫn bình thường.  Ngoài ra, khi bay  đường dài, những ai ngồi quá lâu một chỗ mà không vận động sẽ dễ bị  viêm tắc tĩnh mạch chi dưới, có thể dẫn đến nguy cơ tắc huyết, gây tử  vong.  37. Báo động về điện thoại di động  "Chồng  em giao thiệp rộng, định sắm thêm một máy điện thoại di động. Em đọc  báo thấy nói việc sử dụng máy này nhiều có thể gây ung thư não, nên chưa  muốn cho anh ấy mua. Xin cho chúng em một lời khuyên".  Sau  khi máy điện thoại di động (ĐTDĐ) ra đời ít lâu, các nhà khoa học đã  nghi ngờ về sự nguy hiểm của nó, vì nó phát ra các tần số radio không  lợi cho cơ thể.  Giữa năm 1977, qua thực  nghiệm trên chuột, người ta phát hiện ra tính dễ gây ung thư bạch huyết  của ĐTDĐ, nhưng chưa thấy biểu hiện ở người.  Một  nghiên cứu ở Australia năm 1998 cho thấy, từ năm 1982, tỷ lệ ung thư  não tăng 50% ở nam và 63% ở nữ, nguyên nhân có thể là do sử dụng ĐTDĐ.  Nước này buộc phải triển khai việc nghiên cứu vấn đề ĐTDĐ với Pháp,  Italy, Anh, Canada và các nước Bắc Âu.  Cuối  năm 1998, Anh công bố một nghiên cứu cho thấy, ĐTDĐ làm giảm trí nhớ,  gây trở ngại cho việc tập trung tư tưởng và cảm nhận không gian, do tác  động của trường điện từ mà ĐTDĐ phát ra. Đầu năm 1999, ở Đức, các nhà  khoa học phát hiện ĐTDĐ tác động lên huyết áp của người sử dụng 5 lần/24  giờ, mỗi lần 35 phút liên tục.  Theo một  nghiên cứu ở Pháp, cùng với sự gia tăng số người sử dụng ĐTDĐ, có một sự  gia tăng tỷ lệ ung thư não: năm 1975 có 2.300 trường hợp, năm 1995 lên  tới 4.700. Các nhà khoa học Pháp còn đặt vấn đề liệu có nên ghi trên  ĐTDĐ dòng chữ cảnh báo "Tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe" hay không.  Giữa năm 2001, Bộ y tế Pháp đưa đơn ra khuyến cáo nên thận trọng khi sử  dụng ĐTDĐ:  - Không nói chuyện lâu khi máy nghe không rõ (sức thu kém, do đó máy phải tăng công suất).  - Sử dụng loại máy có che tai (để bớt năng lượng hấp thu qua da).  -  Không đặt máy vào những vùng nhạy cảm (thiếu niên hay nhét máy vào túi  quần, thai phụ thì nhét trước bụng, gần cơ quan sinh dục).  - Hạn chế trẻ em dùng ĐTDĐ.  Một  thực tế hiển nhiên là, do lợi nhuận đặc biệt cao, các nhà sản xuất ĐTDĐ  đã vội vã tung các sản phẩm mới ra thị trường mà chưa nghiên cứu thật  kỹ càng để phát hiện mặt nguy hại của nó.  Mặc  dù cho đến nay, khoa học vẫn chưa khẳng định được ĐTDĐ có gây ung thư  hay không, nhưng trước những lời cảnh báo của các nhà nghiên cứu, người  ta đã chế tạo những ĐTDĐ có tai nghe để tránh tác động lên não.  Còn  chuyện gia đình các em cụ thể ra sao, tự các em phải xử lý cho đúng  mức. Hy vọng rằng những số liệu khoa học nêu trên có thể giúp cho đầu óc  con người tỉnh táo ra, để tránh việc lạm dụng ĐTDĐ.  39. Lây bệnh viêm gan từ bác sĩ mổ  "Phẫu thuật viên bị viêm gan B có thể lây bệnh của mình sang những bệnh nhân được ông ta mổ không?".  Từ  lâu, người ta đã biết rằng các phẫu thuật viên rất dễ bị lây bệnh viêm  gan B (VGB) từ bệnh nhân mà họ tiến hành phẫu thuật, với một tỷ lệ rất  cao, và lây bệnh viêm gan C (VGC) với một tỷ lệ thấp hơn. Nguyên nhân là  dao kéo hay kim tiêm làm rách da tay của người mổ trong quá trình phẫu  thuật (cho những người có bệnh viêm gan kèm theo).  Còn  việc lây ngược VGB từ phẫu thuật viên sang bệnh nhân ít được đề cập nên  tưởng chừng như không xảy ra. Vậy mà có đấy! Một tạp chí thực hành y  học của Pháp thống kê được 11 trường hợp đã công bố. Trong đó, có 5 bác  sĩ nha khoa, 3 bác sĩ phụ sản và 3 bác sĩ khoa phẫu thuật lồng ngực. Khi  nhổ răng, tay phẫu thuật viên có thể bị thương do răng bệnh nhân hay  dụng cụ nha khoa, và virus từ máu của bác sĩ nhiễm vào vết nhổ răng của  người bệnh. Bác sĩ phụ sản có thể bị mũi kim đâm trúng khi tiến hành thủ  thuật thăm dò; còn bác sĩ phẫu thuật lồng ngực có thể bị thương ở tay  khi đục xương ức. Điều đặc biệt là:  - Cả 11 phẫu thuật viên gây tai họa nói trên trước đó đều không được tiêm chủng vacxin phòng VGB.  - Có 2 người bị VGB cấp tính; 9 mang virus B mạn tính.  Các  công trình nghiên cứu nói trên càng cho thấy sự cần thiết phải tiêm  phòng bệnh VGB cho các phẫu thuật viên, không những để bảo vệ bản thân  họ mà còn đảm bảo không lây VGB từ họ (nếu có) sang bệnh nhân. Vacxin  chống VGB phải được tiêm nhắc lại đều đặn 5 năm một lần, nhưng nhiều  người quên mất điều đó.  Tuy nhiên, việc  tiêm vacxin cũng không giải quyết được vấn đề một cách trọn vẹn. Những  người trên 40 tuổi thường ít đáp ứng miễn dịch, nên việc tiêm phòng VGB ở  độ tuổi này cho kết quả không cao. Ngoài ra, nếu trước khi được tiêm  phòng, bệnh nhân đã mang virus B mạn tính thì cũng không có tác dụng.  Để tránh lây viêm gan cho bệnh nhân, nhân viên y tế cần nhớ:  -  Khi định hướng nghiệp theo ngoại khoa, hãy đi thử máu tìm kháng thể  viêm VGB. Những người mang virus VGB mạn tính không nên vào ngoại khoa.  -  Một phẫu thuật viên nếu không may bị VGB cấp tính hoặc VGC trong giai  đoạn tái lại, phải đình chỉ ngay việc mổ xẻ và các thủ thuật (soi ổ  bụng, chọc hút màng bụng, màng phổi...), nghĩa là tránh mọi nguy cơ để  máu mình giây sang máu bệnh nhân.  Có thể  xem xét việc tiếp tục hành nghề ngoại khoa vào giai đoạn không tái lại  của VGB mạn tính; tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng những phẫu thuật  viên này sẽ không để lây VGB sang bệnh nhân do họ mổ. Tốt nhất là nghỉ  hẳn việc phẫu thuật cũng như các thủ thuật trên bệnh nhân.  Tạp  chí y học nói trên cũng cho biết, đã phát hiện được 1 trường hợp lây  VGC từ một chuyên gia mổ tim sang bệnh nhân của ông. Các nhà nghiên cứu  thấy rằng, sau khi được tiêm bằng kim có giây máu của người bị VGB, nguy  cơ lây bệnh sẽ là 30%, còn nếu là VGC thì tỷ lệ này chỉ có 3%. Cũng  may, bởi vì cho đến nay người ta vẫn chưa chế tạo được vacxin để tiêm  phòng VGC.  39. Có thể dùng thuốc chữa ung thư tại chỗ không?  "Mẹ  tôi bị ung thư đại tràng đã mổ, sau đó vẫn phải dùng tiếp hóa chất để  chống tái phát và di căn nên xanh xao, ăn uống kém. Y học đã có cách gì  đưa thuốc trực tiếp vào để diệt tế bào ung thư ngay tại chỗ chưa?".  Mong  ước của bạn, các nhà nghiên cứu y học cũng đã nung nấu từ lâu, nhưng  "lực bất tòng tâm", chưa thực hiện được. Tuy nhiên, họ vẫn không bỏ cuộc  mà vẫn ngày đêm tìm tòi, bước đầu đã thu được một số thành tựu trên  động vật, chuẩn bị cho việc ứng dụng trên người:  -  Sản xuất một số dạng nang thuốc có cấu trúc đặc biệt, để khi vào đến bộ  phận bị bệnh thì mới giải phóng thuốc ra, tránh hư hao trong quá trình  chuyển vận, do đó giảm được liều dùng và tăng hiệu quả.  -  Dựa vào thành tựu của công nghệ nano, người ta dự kiến chế tạo những  bóng rỗng siêu nhỏ (đường kính 2-3 micron) bằng chất polymer, mặt ngoài  được gắn một enzyme, bên trong mang một lượng thuốc cực nhỏ. Các kháng  thể hoặc kháng nguyên giúp nó hướng đúng vào vị trí mong muốn. Khi máy  siêu âm xác định bóng đã đến đúng chỗ, người ta tăng công suất máy để  rung lắc cho thành bóng vỡ ra, giải phóng chất thuốc để chữa trị cho các  tế bào bị bệnh.  Cũng theo hướng này,  người ta sẽ chế tạo các bóng chứa đầy ôxy rồi đưa vào máu, để cung cấp  ôxy thường xuyên cho những vùng thiếu máu của tim.  -  Về dụng cụ y học, cũng nhờ công nghệ nano, Mỹ đã chế tạo thành công  loại động cơ điện có hệ thống bánh răng cực nhỏ dùng cho các máy bơm  điện được luồn vào cơ thể. Họ cũng chế tạo được những đầu dò có đường  kính bằng 1/1.000 của sợi tóc, sẽ được đưa vào tận từng khu vực nhỏ bị  bệnh.... Australia cũng đã làm giảm được bệnh điếc bằng cách gắn những  điện cực nhỏ xíu vào các dây thần kinh thính giác.  Hy vọng cụ thân sinh nhà ta, nhờ kiên trì dùng hóa trị liệu, sẽ có cơ may được hưởng những thành tựu khoa học tuyệt vời này.  40. Có thể bị nhiễm khuẩn khi bốc mộ  "Nhân  dân ta có tập quán cải táng. Nếu lúc sinh thời, người quá cố bị một  bệnh gì đó do vi khuẩn thì bệnh có lây sang những người tiến hành cải  táng không, và sau bao nhiêu lâu thì không còn lây được nữa?".  Nói  chung, vi khuẩn có loại hiếu khí ( sống và phát triển trong môi trường  có không khí) và yếm khí (sống và phát triển trong môi trường không có  không khí).  Theo tập quán tại một số địa  phương, ba năm sau khi chôn cất người chết, người ta tiến hành cải táng  (bốc mộ, thay áo). Lúc bấy giờ, vi khuẩn yếm khí vẫn sống đã đành mà cả  vi khuẩn hiếu khí cũng chưa chết hết. Vì vậy, khi tiến hành thủ tục này,  con cháu phải chú ý đừng để da dẻ mình bị sây sát. Nếu bị, phải bôi  ngay thuốc diệt khuẩn, tiêm phòng uốn ván và dùng thêm thuốc kháng sinh  nếu cần.  Về thời hạn để vi khuẩn không còn  hoạt động thì thật khó nói, vì các nhà khoa học đã phục hồi được một số  vi khuẩn bị chôn vùi trong lòng đất cách đây hàng triệu năm. 
                                    Chương 2: Dinh dưỡng, thuốc men và các vấn đề khác                                          41. Làm gì để tránh ngộ độc thức ăn?  "Thấy nhiều người bị ngộ độc thức ăn, bị tiêu chảy phải đi cấp cứu, chúng em hoảng quá, hè này chẳng dám đi chơi xa".  Các em hãy xem kỹ lại mấy khâu sau đây, nếu đánh giá là đạt yêu cầu rồi thì sẽ không phải lo lắng gì hết.  -  Có thường xuyên rửa tay không, nhất là trước khi ăn bất cứ thứ gì? Đã  bỏ hẳn được thói quen xấu là nhấm nước bọt vào ngón tay khi đọc sách?  - Trước bữa ăn, có giúp mẹ, giúp chị nhúng tất cả bát đũa vào nước sôi không (hay vẫn chỉ dùng giẻ lau như trước)?.  -  Có giúp gia đình kiểm tra lại thức ăn để vứt bỏ các thứ đã bắt đầu ôi  thiu không, kể cả những thứ để trong tủ lạnh? Nhớ rằng nếu không được  tổng vệ sinh thường xuyên, tủ lạnh sẽ là nơi dung dưỡng và phát tán vi  khuẩn đáng gờm.  - Trước khi mua bất cứ  thức ăn thức uống gì, có xem nó đảm bảo vệ sinh hay không (có bị ruồi,  gián, thạnh sùng "sờ" vào, có tay bẩn của những ai mó vào, nước đá thứ  thiệt hay làm từ nước giếng, thậm chí nước sông) và tìm cách khắc phục  trước khi ăn (đặt lại ổ bánh mì trên chảo nóng chẳng hạn...)?  Nếu  bệnh tả xảy ra thì thật kinh khủng, vì những cái bàn cầu (hố xí) di  động của ngành đường sắt vung vãi trên đường sẽ là trợ thủ đắc lực cho  mầm bệnh dịch tả trong các chuyến chu du nam bắc.  Tuy  nhiên, trong tình huống không may đó, nếu các em đạt "điểm 10" về mấy  vấn đề trên thì vẫn đi du lịch được trong dịp hè, vẫn tắm biển an toàn  nếu cư dân các vùng này không có thói xấu phóng uế lung tung.  42. Ăn quá mặn rất nguy hiểm  "Ông  bác ruột của cháu làm thợ mộc, có thói quen ăn mặn vô tư. Cháu đọc báo  thấy nói ăn mặn là không tốt, nhưng ông nói ăn mặn mới khỏe người. Xin  cho biết thực hư".  Ăn mặn là một thói  quen không tốt mà con người mắc phải trong quá trình tiến hóa, vì sự  thực cơ thể không cần một lượng muối lớn như hằng ngày chúng ta ăn vào.  Tuy nhiên, trước đây, người ta chưa biết đến hậu quả tai hại của việc sử  dụng quá mức muối ăn (NaCl) đối với sức khỏe con người.  Cách  đây khoảng 20 năm, ở phương Tây bắt đầu có những cảnh báo đầu tiên của  giới khoa học về chuyện này, nhưng lập tức bị các ông chủ chuyên chế  biến thực phẩm tìm cách chống lại và chối bỏ. Vì sao vậy? Rất đơn giản  là vì vấn đề lợi nhuận. NaCl là chất giữ ẩm trong sản phẩm; càng nhiều  muối, trọng lượng của sản phẩm cũng tăng theo, mà trọng lượng của sản  phẩm thực phẩm tương đương với vàng ròng! Muối còn được coi như một chất  "gây nghiện" làm cho người sử dụng gắn bó với thực phẩm. Đó là chưa kể  đến lợi lộc của các ông chủ chuyên sản nước đóng chai (ăn mặn khát phải  uống nước thêm). Chỉ cần giảm 30% lượng muối trong thực phẩm là mỗi năm,  các ông chủ "ăn theo" này sẽ thất thu tới 40 tỷ frăng Pháp.  Nhưng  chân lý là chân lý. Các nhà khoa học có bằng chứng cho thấy việc sử  dụng nhiều muối làm tăng huyết áp, buồng tim trái to ra (thất trái phì  đại), các chứng bệnh về tim mạch phát triển, làm tăng nguy cơ loãng  xương và ung thư dạ dày.  Năm 1990, chính  phủ Phần Lan đã buộc các nhà sản xuất thực phẩm giảm một nửa lượng muối  đưa vào cơ thể mỗi ngày (từ 12 g/người xuống còn 6 g), làm cho tỷ lệ tử  vong do bệnh tim mạch sau đó giảm một nửa. Điều này khiến Phần Lan quyết  định phấn đấu hạ xuống còn 4 g cho đến năm 2002.  Chính  phủ Anh hưởng ứng ngay, quyết định giảm mức tiêu thụ muối mỗi ngày  xuống còn 5 g/người; và năm 2002, tai biến về tim mạch ở Anh giảm xuống  còn 22%. Từ năm 2000, ngày 30/1 ở Anh được gọi là "ngày không dùng  muối". Riêng ngày này năm 2001 đã loại trừ 1.000 tấn muối đáng lẽ được  dùng cho thực phẩm.  Pháp vẫn chưa nhúc  nhích gì vì cuộc tranh luận chưa ngã ngũ, trong khi người dân nước này  sử dụng muối gấp 10 lần nhu cầu của cơ thể. Ở Pháp đã có tới 25.000  trường hợp tử vong vì các chứng bệnh có liên quan đến muối.  Như  vậy, cháu có thể tranh thủ lúc người bác thoải mái, đọc giải đáp này  cho bác nghe, may ra ông sẽ bớt ghiền muối, vì ai trên đời này chẳng  muốn sống thêm được dài dài mà vẫn mạnh khỏe.  Ngoài  ra, nếu gặp bất cứ bà mẹ nào đang nuôi con nhỏ, cháu nên cho họ biết  thêm một số liệu sau đây. Một nghiên cứu tiến hành trên 476 trẻ sơ sinh 6  tháng tuổi tại thủ đô Amsterdam của Hà Lan cho thấy: huyết áp ở những  trẻ dùng sữa bò chứa 0,1 g muối/ngày thấp hơn ở nhóm dùng sữa bò chứa  0,15 g muối/ngày.  43. Không ăn tối có hại gì không  "Bạn cháu đứa nào cũng mập nên chỉ ăn sáng và trưa, còn tối thì nhịn. Xin cho biết như vậy có hại gì không?".  Tại  một số vùng ở miền Bắc nước ta, người dân quê nhịn bữa tối và đi ngủ  bình thường, năm này qua năm khác mà không thấy gì nguy hại. Có lẽ do  lao động mệt nhọc nên tối đến họ lên giường sớm, tuy bụng rỗng không mà  vẫn ngủ say.  Trường hợp các cháu, nếu còn  đi học thì ban đêm phải làm bài, nếu để bụng quá đói e không lợi. Các  cháu nên tính toán xem lượng và chất ăn vào hằng ngày bao nhiêu là vừa  (không cho tăng cân nhiều), rồi chia đều ra làm ba bữa. Nếu thấy bụng  "lỏng lẻo" quá thì độn thêm rau xanh, rau củ, hoa quả (trừ chuối vì  chuối cũng có thể gây béo) cho chặt dạ dày, nhằm "đánh lừa và an ủi nó"  trong khi mình cần thức để học.  Phải kiểm tra thể trọng hằng tuần để tránh một chế độ ăn thiếu calo và chất dinh dưỡng, có hại cho sức khỏe.  44. Phải ăn sáng thật tốt mới được  "Hai  chúng em là nữ sinh lớp 11, đều thuộc loại chẳng thon thả gì, lại không  được cao ráo nên định nhịn ăn sáng để bớt mập. Xin cho biết có nên  không?".  Nhịn ăn sáng chẳng những  không làm bớt mập mà còn khiến em ăn hăng hơn vào các bữa ăn khác, lại  hay ăn thêm nhiều mỡ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu muốn giảm hoặc  không tăng cân, tốt nhất là ăn sáng và ăn trưa đầy đủ, còn bữa tối ăn  nhẹ.  Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng,  với số calo như nhau, một bữa ăn phong phú dùng ban sáng giúp giảm thể  trọng hơn dùng ban tối.  Ngoài ra, việc ăn  sáng tốt giúp đạt kết quả học tập cao hơn: Trong những năm đầu của thập  niên 1980, tại Mỹ đã có những nghiên cứu cho thấy, ở những học sinh ăn  đều đặn hoa quả hoặc nước ép hoa quả trong bữa sáng, số điểm học tập  tăng 16%.  Đầu năm 1999, một nghiên cứu tại  Boston (Mỹ) cũng cho thấy, những học sinh được ăn sáng tử tế sẽ có kết  quả học tập cao hơn (nhất là về môn toán), lại bớt lo lắng, bớt nghịch  ngợm và vui tính hơn so với những em không ăn sáng.  45. Tác dụng của cà rốt  "Đọc  báo, cháu thấy nói một chất trong cà chua chín có tác dụng làm giảm sự  phát triển của một số dạng ung thư đường ruột, tuyến tiền liệt... Cà rốt  cũng có màu đỏ như cà chua, vậy nó có chất chống bệnh ung thư không?".  Một  công trình nghiên cứu tại Mỹ được thực hiện trên 13.000 phụ nữ cho  thấy, ở những người ăn cà rốt ít nhất 2 lần mỗi tuần, nguy cơ ung thư vú  giảm 44% so với những người không ăn. Cà rốt chứa một lượng lớn chất  carotenoid, có tác dụng ngăn ngừa ung thư (ngay sau khi được nấu chín,  hàm lượng chất chống ôxy hóa tăng gần 35%, vì vậy ăn cà rốt nấu chín  tiết kiệm hơn ăn sống). Cà rốt lại không gây béo phì.  Ngoài cà rốt, cải bina (épinard) cũng có tác dụng như trên.  46. Nên ăn nhiều cà chua nấu chín  "Ăn cà chua có tốt không, và nên ăn sống hay nấu chín?".  Đầu  năm 1999, Mỹ đã công bố kết quả 35 công trình nghiên cứu cho thấy, ở  những người ăn nhiều cà chua và chất chế biến từ cà chua, nguy cơ ung  thư giảm 40% so với những người ăn ít. Kết quả rõ rệt nhất đối với bệnh  ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi và ung thư dạ dày.  Cà  chua ăn sống cung cấp nhiều vitamin hơn do không bị nhiệt độ phá hủy  trong quá trình xào nấu cổ điển; vả lại, ăn nó cũng khoái khẩu hơn.  Còn  về cà chua chín thì gần đây, kết quả một nghiên cứu ở châu Âu trên hàng  nghìn người cho thấy, cà chua đã chế biến (xào nấu, nhất là sốt cà  chua) cung cấp một lượng lycopene dồi dào. Lycopene có tác dụng làm giảm  sự phát triển của một số dạng ung thư đường ruột, ung thư tuyến tiền  liệt, chống chứng nhồi máu cơ tim. Nó không cho các gốc tự do phá hủy  các tế bào lành mạnh của cơ thể.  Lượng  lycopene trong cà chua tăng nhiều nếu được nấu chín (chẳng hạn, sốt cà  chua có lượng lycopene cao gấp 5 lần so với cà chua sống). Nhiệt độ cao  giúp giải phóng lycopene dễ dàng, và chất béo dùng trong quá trình chế  biến tạo thuận lợi cho việc hấp thu nó.  Công  trình nghiên cứu nói trên cũng cho thấy, cà chua chín cây có nhiều  lycopene hơn cà chua chín sau khi hái. Ngoài cà chua, lycopene còn có  trong dưa hấu, bưởi điều, tôm, cua...  47. Lợi ích của mật ong  "Mẹ  em bị ốm nặng, đang hồi phục, được bồi dưỡng và uống mật ong, nhưng có  người bảo uống mật ong chỉ nuôi thêm bệnh. Em nên nghĩ thế nào?".  Ăn  mật ong không hề nuôi thêm bệnh, trái lại, mật ong giúp cho cơ thể thêm  sức mạnh chống bệnh và chóng hồi phục. Mật ong chứa 65-70% đường trái  cây (glycose và levulose), một số muối khoáng, axit hữu cơ, các men tiêu  hóa, các vitamin A, D, E...  Ngoài tính  chất bổ dưỡng, mật ong còn có tác dụng tiêu diệt một số vi khuẩn có hại,  chữa đỡ hoặc khỏi một số bệnh gan mật, thần kinh, loét dạ dày - tá  tràng, cao huyết áp, táo bón, nhức đầu, ngủ kém... Cuối năm 1998, một  nhóm nghiên cứu Mỹ ở bang Illinois cho biết, trong mật ong, nhất là mật  ong màu sẫm, có chất chống ôxy hóa, giúp cơ thể chống tác hại của các  gốc tự do.  Ở một số nước, kể cả phương  Tây, mật ong còn được dùng phối hợp với bột quế (cinnamon) để chữa mệt  mỏi, cảm cúm, viêm khớp, cholesterol máu cao, béo phì, sức nghe giảm,  bệnh tim, dạ dày, vô sinh, đau nhức (kể cả răng), rụng tóc, mụn nhọt,  eczema, hôi miệng.  48. Cháo dinh dưỡng ăn liền lina  "Gần  đây trên thị trường có loại cháo dinh dưỡng Lina ăn liền, được quảng  cáo là có tảo Spirulina giàu đạm, khoáng và vitamin. Có thật vậy  không?".  Nhiều nước trên thế giới đã  nghiên cứu và phát triển Spirulina platensis, loài tảo dễ nuôi trồng,  phát triển nhanh và chứa nhiều chất dinh dưỡng. Nó có hàm lượng protein  (chất đạm) cao gấp 3 lần thịt bò hoặc thịt gà, 18 axit amin, trong đó có  8 thuộc loại không thể thay thế, nhiều vitamin A, B, E, PP... Đặc biệt,  hàm lượng vitamin B12 trong tảo Spirulina cao gấp đôi gan bò, lượng  beta-caroten cao gấp 10 lần cà rốt.  Với  những đức tính quý báu này, tảo Spirulina có triển vọng được sử dụng  rộng rãi trong dinh dưỡng và điều trị như một loại thuốc bổ và chữa  bệnh, vừa tốt vừa rẻ tiền.  Ở nước ta, việc  nghiên cứu tảo Spirlina được tiến hành từ hơn 20 năm nay. Gần đây, từ  kết quả nghiên cứu của Trung tâm Dinh dưỡng trẻ em TP HCM, cơ sở thực  phẩm Đồng Tâm đã sản xuất một loại cháo dinh dưỡng mang tên Lina, ăn  liền, đóng thành gói 35 g, gồm chủ yếu là tảo Spirlina. Cháo cung cấp  138 calo; 4,5 g chất đạm; 3,5 g chất béo, 22 g chất ngọt, các vitamin và  chất khoáng.  49. Có nên ăn rươi?  "Mẹ  cháu bị cảm cúm, bà nói là không thể ăn rươi (con rươi thường nổi lên ở  cánh đồng ngoài bãi quê cháu vào tháng 9-10). Vậy bị bệnh gì thì không  được ăn rươi?".  Về ăn uống, trong Tây  y, người ta thường chỉ đề cập đến tính chất của thức ăn (giàu hay nghèo  protein, chất mỡ, chất xơ..., nhiều hay ít các vitamin và chất khoáng  nào, có hay gây dị ứng không, nên ăn chín, tái hay sống...) để sử dụng  phù hợp cho từng đối tượng. Theo đó, mẹ cháu không nhất thiết phải kiêng  rươi. Tuy nhiên, do rươi có thể gây dị ứng như tôm, cua (gây đau bụng,  tiêu chảy, nổi mề đay...) nên phải cẩn thận, đầu tiên hẵng ăn ít đã.  Rươi chứa nhiều protein, rất bổ dưỡng, không nên bỏ phí, có thể làm thành mắm rươi để ăn dần.  50. Mực khô  "Ăn mực khô lợi hay hại, và có nên ăn nhiều không?".  Mực  khô cung cấp một lượng protein (chất đạm) đáng kể. Ngoài ra, nó còn  chứa một số chất khoáng mà chỉ các loài sống ở biển mới có, trong đó có  chất iốt. Cháu là nữ, nếu trong gia đình thường xuyên dùng muối iốt, nay  thỉnh thoảng ăn thêm mực khô nữa thì sẽ không lo bị bướu cổ.  Tuy  nhiên, khi nướng mực chớ để cháy, chẳng những ăn không ngon mà còn có  hại. Báo chí đã nhiều lần nhắc các bà nội trợ đừng để cháy thịt cá khi  rán và hạn chế việc cho chồng con ăn thịt cá nướng, để phòng ngừa nguy  cơ ung thư ruột.  Ăn gì quá nhiều cũng đều  không tốt, huống chi mực khô là loại hải sản đắt tiền. Còn đang đi học  mà đã có thói quen ăn mực khô "xả láng" thì e rằng khi thành cán bộ  lương sẽ không đủ xài!  51. Có nên ăn mía và cá ngừ?  "Ăn mía nhiều hằng ngày có mắc bệnh tiểu đường không? Có phải cá ngừ độc, ăn vào là tức ngực và đau người?"  Ăn nhiều mía không gây bệnh tiểu đường, nhưng nên ăn vừa phải và theo dõi thể trọng để không trở thành béo phì.  Cá  ngừ giàu chất dinh dưỡng và các muối khoáng, lại không độc. Nên chọn kỹ  để tránh cá ươn. Và khi ăn bất cứ hải sản nào cũng phải xem chừng phản  ứng của cơ thể, nhất là những người "yếu bụng"; ví dụ, ăn tôm cua có thể  nổi mẩn hoặc đau bụng, lên cơn hen...  Các  nhà khoa học đã phát hiện tác dụng tốt của các loại cá béo (cá trích,  cá thu, cá hồi, cá vược, cá ngừ...) do chúng chứa các axit béo không bão  hòa (nhất là omega-3, làm giảm triglycerid trong máu). Chúng có tác  dụng tốt trong việc phòng ngừa một số bệnh tim mạch.  52. Ăn thịt cá nướng có lợi hay hại  "Một  hôm chúng em rủ nhau đi picnic. Sẵn có cá ở vùng đó, chúng em đốt lửa  nướng ăn, ngon lắm. Thật buồn cười, có một bạn nhất định không đụng đến,  nói là ăn đồ nướng sẽ mắc bệnh ung thư. Xin cho biết bạn ấy đúng hay  sai?".  Không buồn cười đâu, chuyện  nghiêm túc đấy. Bạn của em vừa đúng lại vừa sai. Đúng nhiều và sai chút  xíu. Đúng ở chỗ bạn đó có đọc sách báo hoặc nghe nói về tác hại của thói  quen ăn đồ nướng trên lửa, trên than, hoặc nướng trong lò, quay. Lâu  nay, nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng cảnh báo rằng, khi nướng thịt  hoặc cá trên than ở nhiệt độ 500-600 độ C, mỡ giọt xuống than hồng sẽ  hình thành các phân tử hydrocarbure thơm đa vòng (HAP); đó là những chất  gây ung thư.  Còn trong lò, ở nhiệt độ  80-100 độ C, chất creatin (hoặc creatinin) trong thịt cá là sẽ trở thành  amin thơm dị vòng (AHA). Chất này khi vào tới gan thì biến thành chất  độc, sau đó đi xuống ruột, tạo ra nguy cơ ung thư đại tràng. Những chất  tiết ra lúc đầu, nước thịt nước cá dính lò (mà ta thường thu gom lại)  rất dễ chuyển thành AHA. Nếu vì khoái khẩu hoặc tiếc rẻ mà ăn vào, sau  một thời gian dài, ta dễ có nguy cơ mắc ung thư. Ở nhiệt độ trên 200 độ  C, nhiều loại AHA khác có thể hình thành do sự phân hủy axit amin. Những  AHA này nằm tại chỗ thịt quay bị cháy.  Cho  nên, đun nấu thức ăn bằng nước, bằng hơi nước, xào rán vừa lửa, không  để cháy là an toàn nhất. Ăn thịt cá nướng thường xuyên là điều nguy  hiểm, tuy ngon miệng nhưng hậu quả thật khó lường. Bạn của em đã nhận  thức đúng.  Nhưng bạn ấy sai khi từ chối  tham gia bữa tiệc đó. Chỉ ăn một bữa cá nướng, cho dù ăn hết cỡ chăng  nữa, thì làm sao bị ung thư được! Mấy khi được gần nhau, lẽ ra cứ...  chịu khó cùng ăn cho "vui vẻ cả nhà"!  53. Ăn gì có thể gây dị ứng?  "Mẹ  em hay bị nổi mề đay, được bác sĩ chẩn đoán là bệnh dị ứng, cho đơn  thuốc và căn dặn không được ăn tôm, cua, rươi. Em muốn biết mẹ em cần  kiêng thêm những gì nữa?".  Dị ứng có  thể hiểu nôm na là "phản ứng một cách dị thường đối với một số tác nhân  nào đó", như hoa lá (phấn hoa, nhựa cây), vật lạ (bụi bặm, lông mèo,  lông chim), thuốc men (penicillin, novocain), đồ ăn uống (tôm cua, bia  rượu), mỹ phẩm (kem thoa mặt, thuốc nhuộm tóc), thời tiết (độ ẩm, nhiệt  độ, áp suất không khí)...  Bảng liệt kê các  tác nhân gây dị ứng khá dài. Nhưng may mắn thay, người bị bệnh dị ứng  không phản ứng một cách dị thường với mọi tác nhân, mà chỉ đối với một  số tác nhân nhất định thôi. Chẳng hạn, có người hay nổi mề đay khi thay  đổi thời tiết có thể ăn nhậu thoải mái mà không hề hấn gì; có người nhấp  một ngụm bia đã thấy toàn thân nổi mẩn ngứa, nhưng có thể không sợ gió  mùa đông bắc rét buốt.  Khi đã biết mình dị  ứng với tác nhân nào thì phải tránh thật xa tác nhân đó. Dù nó vô hại  đối với người khác nhưng rất có thể gây cho mình một cơn sốc phản vệ rất  khó cứu chữa (phản vệ có thể hiểu nôm na là "phản lại sự tự bảo vệ của  cơ thể").  Ngoài ra, người có cơ địa dị ứng  phải hết sức cẩn thận khi tiếp xúc lần đầu với một tác nhân mà mình  chưa trải nghiệm, vì có thể sẽ phản ứng một cách dị thường với nó.  Một  chuyên gia về văn hóa (người phương Tây) khi đến công tác ở nước ta  thường đưa cho người phục vụ ăn uống xem một mảnh bìa ghi bằng tiếng  Việt: "Tôi bị dị ứng đối với mỡ động vật, gừng, hạt tiêu và lạc. Xin  đừng cho vào đồ ăn của tôi những thứ này để tránh nguy hiểm đến tính  mạng tôi".  Đầu năm 1999, Viện nghiên cứu  dị ứng, hen và miễn dịch của Mỹ cho biết, khoảng 1% dân số của nước này  bị dị ứng với lạc, trong số tử vong vì ngộ độc thức ăn hằng năm, phần  lớn bị dị ứng với lạc. Trước tình hình đó, một số hàng hàng không trên  thế giới đã hạn chế việc bán lạc rang hay bánh kẹo chế biến từ lạc, sợ  rằng hành khách có thể hít phải bụi lạc tung ra từ trong bao gói!  Các  nhà khoa học Mỹ cũng đã phát hiện ra một gene nghi là thủ phạm gây dị  ứng, đó là gene pCMVArah2. Họ đang sử dụng nó vào việc chế tạo một  vacxin để tiêm phòng.  Trường hợp của mẹ  em, vì thư nói không chi tiết, nên không biết mẹ dị ứng với những tác  nhân nào và bằng con đường nào (ăn uống, hít thở hay do thay đổi thời  tiết...). Tuy nhiên, có thể giúp cơ thể mẹ em bớt dần dị ứng bằng một vị  thuốc uống khá hữu hiệu, dễ kiếm và rẻ tiền.  54. Rau sản phụ  "Tôi  thấy một số người hay ăn rau sản phụ, như vậy có tốt không? Rau thai  chữa được những bệnh gì? Có cách gì chế biến nó để tiện dùng?".  Rau  sản phụ rất giàu protein (chất đạm), mà lại là protein của người, dễ  hấp thu hơn cả, có thể nói là loại thịt bổ nhất trên đời; tiếc rằng  trước nay ta thành kiến cho nó là bẩn nên chôn mất. Trẻ bị suy dinh  dưỡng, người mới ốm dậy, người gầy yếu ít ngủ dùng rất tốt. Theo các tài  liệu cổ, rau sản phụ có tác dụng đại bổ khí huyết, dùng chữa gầy yếu,  hen suyễn, ra nhiều mồ hôi, đau nhức xương, di tinh, hoạt tinh.  Cách chế biến:  -Rau bỏ màng ối và cuống rốn, thấm khô, đặt vào tủ sấy cho khô giòn, đem nghiền thành bột, đựng vào lọ kín dùng dần.  -  Ngâm rau vào mật ong một thời gian cho tan ra, vứt bỏ bã. Khi dùng, có  thể thêm chút rượu thuốc cho dễ uống. Phải mật ong thật thì rau mới tan.  Trong thời gian ngâm, không nút lọ quá kín để khỏi nổ vỡ.  - Ngâm rau vào rượu.  Người béo không nên dùng.  55. Thừa sắt lợi hay hại  "Tôi  còn nhớ trước đây cơ quan dược phẩm ở phía Bắc có sản xuất viên sắt  dùng cho người thiếu máu, vì sao hiện nay không thấy bán? Con gái đầu  lòng của tôi có thai lần đầu, tôi muốn cháu có thêm chất sắt cho khỏe cả  con lẫn mẹ".  Đầu tiên, xin trao đổi  với bác về chuyện thai nghén. Ta hay nghĩ giản đơn và lệch lạc là hễ có  thai thì cái gì ít nhất cũng phải "gấp đôi", phải thuốc men, tẩm bổ, dù  tốn kém mấy cũng vui lòng, để được mẹ tròn con vuông.  Trong  khi đó, khoa học lại thấy rằng cơ thể của thai phụ và thai nhi biết  cách điều chỉnh hợp lý để con phát triển bình thường mà không gây hại  cho mẹ. Vì vậy, người có thai chỉ cần ăn uống đủ chất đều đặn bình  thường là đủ. Tuy nhiên, để dự phòng khi chế độ ăn thiếu một số vitamin  tối cần cho thai, người ta khuyến cáo thai phụ nên dùng thêm 2 vitamin  chính:  - Vitamin B9, tức axit folic, có  vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ống thần kinh ngay từ những  ngày đầu của thai, uống liên tục trong thời gian thai nghén, 500  microgram/ngày.  - Vitamin D, cần cho sự phát triển xương, uống từ tháng thứ 7 trở đi, 100.000 IU/ngày.  Về  chất sắt, trước đây do nhận thức sai, ta hay "vỗ sắt" cho các chị em có  thai, do đó bắt ép họ ăn nhiều gan đến phát khiếp (gan chứa nhiều sắt  hơn thịt). Trong chuyện này, người thầy thuốc dạo trước cũng có lỗi vì  cho rằng sắt chỉ có mặt tích cực.  Một công  trình nghiên cứu của Italy, tiến hành trên 826 người lớn cả nam lẫn nữ,  tuổi từ 40 đến 79, đã cho thấy rõ mối liên quan giữa đậm độ sắt trong  máu và tốc độ tiến triển của chứng xơ vữa động mạch. Nghiên cứu khẳng  định rằng, việc thừa sắt sẽ có hại cho tim mạch.  Người  ăn quá nhiều thịt lợn, thịt bò, người dùng đa sinh tố với liều quá  cao... thường xuyên đưa vào cơ thể một lượng sắt lớn, chẳng những không  ích lợi gì mà còn có hại. Cuối năm 1997, Đoàn bác sĩ phụ sản quốc tế của  Pháp đã tuyên bố chống lại việc sử dụng sắt đồng loạt cho thai phụ.  56. Mối liên quan giữa đường và bệnh tiểu đường  "Cháu  19 tuổi, đang tập thể hình và rất thích uống nước đường sau các buổi  tập. Xin cho biết việc uống nhiều đường có gây bệnh tiểu đường không?"  Một  nghiên cứu của nước ngoài được công bố năm 1997 cho thấy, ở những người  sử dụng đường một cách vô độ, nguy cơ bị bệnh tiểu đường gia tăng.  Các  nhà nghiên cứu ở bang California (Mỹ) đã thử nghiệm trên chuột và nhận  định rằng, một chế độ ăn nhiều mỡ và đường dẫn đến hiện tượng gia tăng  tính kháng insulin của cơ thể, triệu chứng mở đầu cho sự xuất hiện bệnh  tiểu đường không phụ thuộc insulin (type 2) ở con người.  Cháu  vẫn cần uống đường để bù đắp cho việc tiêu hao năng lượng, nhưng đừng  thái quá; nên ăn thêm cơm, chuối và các chất bột khác. Dùng thêm mỗi  ngày 1 viên đa sinh tố để bổ sung vitamin và chất khoáng.  57. Mối liên quan giữa rượu và đường  "Nhiều người nói, rượu pha đường hay mật ong uống say hơn rượu để nguyên. Điều đó có đúng không, tại sao?".  Nhận  định đó không đúng. Trái lại, khoảng từ cuối thập niên 1920, người ta  đã biết rằng các loại đường, nhất là đường fructose (lấy từ quả cây), có  tác dụng làm chậm việc hấp thu rượu của cơ thể và thúc đẩy quá trình  phân hủy rượu của gan; và rượu pha đường uống ít say hơn rượu để nguyên.  Người  ta dùng ống thông cho rượu vào dạ dày chuột, sau đó cho thêm một dung  dịch đường (trong đó fructose chiếm 36%) rồi đặt chuột lên ván bập bênh  để kiểm tra hoạt động thần kinh. Họ dùng máy tự động lấy máu ở đuôi  chuột để xét nghiệm xác định lượng rượu trong máu từng nửa giờ một.  Kết  quả cho thấy, so với nhóm đối chứng, ở những con chuột này, lượng rượu  trong máu thấp hơn 29%, thời gian phân hủy rượu ngắn hơn 31%; thời gian  rượu lưu thông trong máu giảm 24%. Uống đường cùng lúc với rượu hay 3  giờ sau khi uống rượu đều có tác dụng tốt ngang nhau.  Các  nghiên cứu về tác dụng của đường fructose trên người cho kết quả như  sau: Ở người không uống rượu, thời gian phản ứng của thần kinh là 0,48  giây. Lúc rượu ngấm tối đa vào máu, thời gian này kéo dài tới 0,56 giây.  Sau khi dùng 50g đường fructose, thời gian phản ứng trở lại 0,49 giây  (gần bình thường). Điều đặc biệt là, nếu dùng 100 g đường fructose thì  thời gian phản ứng chỉ còn 0,47 giây (nhanh hơn bình thường); mặc dù lúc  đó, lượng rượu trong máu vẫn còn ở mức 0,35 g/l.   Người  ta cũng thấy, đường fructose có tác dụng tốt đối với hoạt động thần  kinh của người uống rượu. Liều 100 g làm cho lượng rượu trong máu giảm  50%. Rõ ràng, đường fructose có tác dụng "giã rượu" rất tốt (các đường  khác như glucose, lactose, saccharose có tác dụng kém hơn).  Nhưng  điều đó không có gì đáng để con ma rượu phấn khởi cả. Theo các bác sĩ  chuyên nghiên cứu về rượu, người thường xuyên sử dụng đường với liều cao  sẽ bị chứng béo phì, cao huyết áp, bệnh mạch vành...  58. Thêm đường sữa vào trà  "Uống  nhiều chè (trà đen, trà xanh) có tốt không? Một số người ghiền chè nói  rằng pha đường hoặc sữa vào chè là không tốt. Xin cho biết tại sao?".  Trà  đen chứa chất catechine, có tác dụng chống bệnh tim mạch. Trà xanh làm  giảm 1/3 nguy cơ mắc ung thư dạ dày ở những người uống ít nhất 7 tách  mỗi ngày.  Một nghiên cứu của Mỹ tiến hành  trên 680 người cho thấy, ở người uống ít nhất 1 tách trà mỗi ngày, nguy  cơ bị cơn đau tim giảm 46% so với người không uống.  Trà  suông hay pha đường, sữa đều có tác dụng như nhau (sau khi uống, người  ta thấy lượng catechine trong máu ở cả hai trường hợp thêm hoặc không  thêm đường sữa là ngang nhau). Dĩ nhiên, đường sữa cung cấp thêm năng  lượng cho cơ thể, nhất là sau khi vận động thể lực. Nếu sợ béo phì thì  đừng cho vào.  Nếu chưa quen dùng trà thì  đừng pha đậm (làm tim đập mạnh) và tránh uống trà vào ban tối, thậm chí  buổi chiều (vì dễ bị mất ngủ). Tránh uống trà đặc ngay sau bữa ăn vì sẽ  gây khó tiêu.  59. Quý ông cứ yên tâm uống cà phê  "Chúng tôi có thói quen uống cà phê hằng ngày. Hôm qua, tôi nghe một anh bạn bảo rằng vì cà phê gây ung thư nên mới bị rớt giá".  Chắc  người đó nói đùa thôi. Đúng là cà phê rớt giá, nhưng không phải do  nguyên nhân như bạn nói. Mọi giá cả trên thị trường đều có thể biến  động, trồi sụt. Xin đừng vì tin đồn nhảm mà lo lắng hoặc ứng xử không  đúng để rồi phải hối tiếc.  Nếu không bị  cao huyết áp và không hay mất ngủ, quý ông cứ yên tâm uống cà phê, vì  cho tới nay, chưa có công trình khoa học nào kết luận là cà phê gây ung  thư.  Ngược lại, một nghiên cứu của Nhật  Bản tiến hành trên 1.700 bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa và 21.000  người khỏe mạnh cho thấy, ở những người dùng ít nhất 3 tách cà phê mỗi  ngày, nguy cơ ung thư đại tràng (ruột già) giảm 54%.  Còn  các quý bà nên lưu ý: Theo một nghiên cứu của Thụy Điển, ở thai phụ  uống mỗi ngày 5 tách cà phê, tỷ lệ sẩy thai cao gấp đôi so với các thai  phụ chỉ uống 1 tách, dù là cà phê nguyên hay đã khử cafein.  60. Có nên dùng lò vi sóng?  "Vợ  chồng chúng tôi vừa có cháu nhỏ nên có ý định mua một lò vi sóng. Nhưng  có người nói lò vi sóng làm cho thức ăn biến thành chất độc. Xin cho  biết ý kiến".  Cho đến nay, chưa thấy  thông báo khoa học nào nói là lò vi sóng (viba) biến thực phẩm thành  chất độc. Các bạn cứ yên tâm mua, miễn là theo đúng chỉ dẫn của nhà sản  xuất. Lò vi sóng dùng rất tốt cho cá, rau, chất lỏng, thức ăn không béo,  giữ được vitamin và chất khoáng.  Chỉ xin các bạn lưu ý:  -  Khi đun nấu bằng lò vi sóng, do nhiệt độ phân bố không đều trong thức  ăn nên có thể không diệt hết được vi khuẩn trong thực phẩm. Người ta đã  phát hiện vi khuẩn salmonella gây bệnh đường ruột trong một số trứng  lacoóc đun bằng lò vi sóng. Các bạn nhớ kiểm tra mức độ chín của từng  loại thức ăn để duy trì cho đủ thời gian chín đều.  -  Một số thành tố của bao gói và những chất hiện diện trên bao gói  plastic (từ mực in nhãn) có thể đi sang thức ăn đun nấu bằng lò vi sóng.    - Không dùng lò vi sóng để nấu thịt lợn  ướp hoặc thăn lợn hun khói (có chứa muối nitrit) vì việc này sẽ tạo ra  các nitrosamin - những phân tử gây ung thư rất mạnh.  61. Nước thôi phèn  "Nước giếng của gia đình tôi luôn luôn trong nhưng lại bị thôi phèn, nấu cơm bị vàng... Liệu có cách nào làm hết được?".  Nguồn  nước giếng nhà bác có nhiều sắt, và điều này không giải quyết được từ  gốc. Nước mới đầu trong vì chất sắt được hòa tan (sắt 2), khiến bác  không nhìn thấy. Khi gặp ôxy trong không khí, chất sắt kết tủa (sắt 3),  có màu vàng lơ lửng trong nước. Cách khắc phục như sau:  -  Nước múc từ giếng lên được chứa vào thùng và khuấy đảo nhiều lần trong  vài ba ngày để chất sắt hòa tan bị kết tủa (nước từ chỗ trong vắt chuyển  sang vàng khè, để cho vàng tối đa).  - Đem  nước này đổ vào bể lọc thông thường (gồm cát, sỏi là chủ yếu), càng  nhiều lớp càng hay. Nước lần này trong vì đã để lại cặn sắt kết tủa  trong cát. Định kỳ súc bể, rửa sạch cát sỏi để tiếp tục lọc được tốt.  Xin  bác lưu ý là nếu đem lọc nước vừa múc từ giếng lên thì sẽ không kết  quả, bởi vì chất sắt hòa tan không bị cát giữ lại, nước "lọc" rồi vẫn  giữ nguyên chất sắt và vẫn trở thành vàng như thường.  62. Nước có chất vôi   "Tôi  ở gần núi đá, giếng nước bình thường nhìn trong nhưng dùng nấu nước chè  xanh thì uống nhạt và nước có màng, luộc rau muống thì nước xanh như  nước rêu, đun sôi để nguội thì bên dưới có một lớp phấn như vôi. Xin hỏi  ăn vào có việc gì không?".  Nước ở  vùng đó có nhiều chất canxi hòa tan; khi đun sôi để nguội, nó lắng xuống  đáy chai. Mỗi khi uống, phải gạn cho khéo để tránh đưa vào cơ thể mình  quá nhiều canxi. Ngoài ra, bạn cần chú ý dùng muối iốt đều đặn và cùng  bà con cô bác trong vùng luôn cảnh giác với bệnh bướu cổ.  63. Phải uống từ từ  "Đang khát cháy cổ mà uống thật nhiều nước một lúc thì có hại gì không?".  Khi  ta nhịn uống, lúc đầu, lượng nước bị thiếu chưa nhiều, các tế bào của  cơ thể tự điều chỉnh được bằng nước hiện hữu trong máu. Do máu thiếu  nước nên niêm mạc (trong đó có niêm mạc miệng) bị se, khiến ta có cảm  giác khát, gọi là khát niêm mạc. Chỉ cần một lượng nước nhỏ bổ sung cho  máu là sẽ hết khát.  Nếu cứ tiếp tục nhịn  uống, nhất là khi đang ra nhiều mồ hôi, chất nước trong máu sẽ cạn, các  tế bào lâm vào tình trạng thiếu nước (càng lúc càng nghiêm trọng), gọi  là khát tế bào. Lúc này, dù uống ngay một lúc bao nhiêu nước cũng vẫn  thấy khát, bởi lẽ nước chưa kịp tới các tế bào.  Như  vậy, bạn thấy ngay rằng, dù khát cháy cổ, bạn vẫn nên uống có chừng  mực, chia thành nhiều lần, từ tốn, đều đặn cho tới khi hết hẳn cảm giác  khát. Tốt nhất là uống qua ống hút để dễ chủ động.  Việc  uống ngay một lượng nước lớn là điều rất nguy hiểm vì có thể gây hiện  tượng phù não, hôn mê, dễ dẫn tới tử vong. Vì vậy mà người nuôi ngựa có  bao giờ cho ngựa vừa đua xong mặc sức uống nước đâu!  Trong  sinh hoạt hằng ngày, nên duy trì thói quen uống nước một cách đều đặn,  cho dù lúc bấy giờ không có cảm giác khát thực sự. Bởi vì khi để cho  mình thấy khát là đã khá muộn. Lúc đó, lượng nước mất đi ít nhất bằng 1%  thể trọng; nghĩa là một người nặng 50 kg đã mất tối thiểu 0,5 lít nước  khi anh ta bắt đầu thấy khát. Ngay cả khi nằm nghỉ ngơi thoải mái, mỗi  ngày đêm, cơ thể cũng thải ra khoảng 2,5 lít nước (bao gồm nước tiểu, mồ  hôi và hơi nước qua phổi). Còn khi đi bộ bình thường, mỗi giờ cơ thể  thải ra ít nhất 0,5 lít mồ hôi. Những con số này sẽ tăng lên khi thời  tiết nóng nực.  64. Tại sao vẫn không đã khát  "Chúng  em thuộc đội bóng đá của nhà trường. Sau mỗi trận đấu, cả bọn thường rủ  nhau đi uống nước ngọt; nhưng uống hết cả tiền mà vẫn không đã khát.  Xin cho biết tại sao?".  Theo các tài  liệu nghiên cứu mới nhất, sau một trận bóng đá quốc tế, mỗi cầu thủ  thường thải ra 3-4 lít mồ hôi. Các em là cầu thủ "nhí", tạm cho là chỉ  mất 1/3 lượng đó. Kể nước tiểu và hơi nước bốc ra theo đường hô hấp, cứ  tạm ước tính khiêm tốn là 2 lít. Có thể các em đã uống vào hơn 2 lít  nước ngọt, tưởng đủ rồi, nhưng vẫn khát chứ gì?  Nguyên  nhân đầu tiên là các em uống nhanh quá. Điều này kích thích mồ hôi tiết  nhiều hơn, làm cho các em tiếp tục mất nước thêm một lúc nữa. Nhưng vấn  đề này không lớn.  Nguyên nhân quan trọng  hơn là các em chỉ uống nước ngọt, có độ đường khá cao, gây trở ngại cho  việc hấp thu nước của cơ thể (bản thân nước ngọt là một dung dịch ưu  trương, không dễ gì "chia bớt nước" cho cơ thể).  Cách  khắc phục không khó: Không uống nước ngọt nguyên chất mà pha loãng ở  mức 60 g đường trong 1 lít. Dùng nước trái cây, rau má, nước râu ngô  (bắp), hay nước chè xanh, nước rau luộc của gia đình cũng rất tốt (lượng  đường pha vào không được quá mức trên). Phải uống từ tốn từng ngụm nhỏ  một, tốt nhất là qua ống hút để đảm bảo uống thật chậm.  Điều  quan trọng là tập thói quen uống khi chưa thấy khát. Trong quá trình  thi đấu, các em phải tranh thủ mọi thời cơ bổ sung nước thường xuyên.  Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu cơ thể vận động viên mất một lượng nước  bằng 1% thể trọng, thành tích thi đấu của anh ta sẽ giảm 20%, anh ta lại  dễ bị chuột rút.  65. Có nên uống nhiều nước?  "Uống nhiều nước thì phải đi tiểu nhiều, như vậy có làm mệt cho thận không?".  Ngược  lại. Ta uống đủ nước thì thận lọc nhẹ nhàng, đỡ vất vả; các chất cặn bã  hòa tan trong máu được pha loãng nên dễ đi qua màng lọc. Nếu ta ăn mặn,  thận phải làm việc căng hơn để thải chất muối (chỉ giữ lại một tỷ lệ  không đổi là 0,9%). Ta thường ăn mặn do thói quen chứ không phải do cần  thiết; người thường xuyên ăn quá mặn dễ bị tăng huyết áp.  Một  công trình nghiên cứu của Anh tiến hành trong 10 năm trên 48.000 người  cho thấy, nếu trung bình mỗi ngày ta uống 1,5 lít nước, tỷ lệ ung thư  bàng quang sẽ giảm 50%. Việc đi tiểu nhiều lần sẽ làm cho các chất gây  ung thư không nằm lâu trong bàng quang để gây hại.  66. Chị em có nên dùng rượu bổ?  "Em  là con gái nhưng trong bữa ăn, cứ thấy ông nội nhâm nhi ly rượu bổ thơm  phức là em phát thèm. Xin thì nội không cho và bảo thứ này chỉ có nam  mới dùng được. Xin cho biết có loại rượu bổ nào dành cho nữ không?".  Ông  nội em nói đúng đấy. Nam thuộc dương, nữ thuộc âm nên theo y học phương  Đông, việc sử dụng thuốc cũng như kiêng cữ trong thời gian mắc bệnh ở 2  giới có những chỗ khác biệt. Về thuốc bổ cũng vậy, không phải bất cứ  thuốc gì bổ cho nam cũng sẽ bổ cho nữ.  Riêng  với em, do thấy em hình như hơi có "máu" thích rượu giống ông nội nên  tôi muốn cung cấp kết quả một nghiên cứu của Mỹ: Ở những phụ nữ uống đều  đặn mỗi ngày 1 ly rượu, nguy cơ ung thư vú tăng 11%, uống 2 ly: tăng  24%; trên 2 ly: tăng 40%.   Người ta đã thông báo như vậy, không biết chị em nhà ta có nên dùng rượu bổ hay không?  67. Có nên dùng nhiều cam thảo?  "Em  là con trai, đang học lớp 12 ở một trường khá xa nhà. Ông nội em là  lương y nên từ bé em đã thích nhai cam thảo. Liệu có nên cho nước sắc  cam thảo vào nước để giải khát sau khi đi học về?".  Cam  thảo là một vị thuốc dùng phối hợp trong Đông y để chữa một số bệnh.  Nhược điểm quan trọng của cam thảo là giữ nước lại trong cơ thể nên nếu  được dùng trong thời gian dài, nó sẽ dễ gây phù nề (mà mới đầu ta tưởng  là tăng cân nhanh nên rất phấn khởi!). Do đó, từ lâu, các thầy thuốc ở  phương Tây đã đi đến chỗ kết luận rằng cam thảo không tốt đối với huyết  áp.  Một nhóm nghiên cứu Italy còn phát  hiện thêm nhược điểm của cam thảo là giảm sức khỏe giới tính của nam  giới. Họ cho 7 thanh niên (22-24 tuổi) uống một chất thuốc trong đó chủ  yếu là cam thảo suốt một tuần liền. Kết quả là tỷ lệ hoóc môn nam của cả  7 người đều giảm sút. Rõ ràng là cam thảo đã can thiệp vào và ức chế  dây chuyền tổng hợp hoóc môn nam, từ đó dẫn đến những rối loạn sinh dục  làm giảm hứng thú lứa đôi.  Như vậy, đôi lúc nhâm nhi chút xíu cam thảo "cho zui" thì được, còn tuyệt đối không nên dùng nó thường xuyên, nhất là con trai.  68. Nõn lá bàng chữa bệnh đường ruột  "Em  bị sôi bụng liên tục và hay đi tiêu phân lỏng nên người rất gầy...; Mẹ  cháu bị bệnh đường ruột đã lâu, uống rất nhiều loại thuốc Tây, thuốc Bắc  nhưng không khỏi, sức khỏe suy sụp...; Em bị viêm đại tràng và dạ dày -  tá tràng, đã uống nhiều thuốc không đỡ...; Tôi đã được bác sĩ kết luận  là viêm đại tràng mạn và trĩ, hay bị táo bón xen kẽ đi tiêu phân nhầy,  đau và sôi bụng thường xuyên..."  Có  một vị thuốc không độc, dễ kiếm và không mất tiền mua, được bà con ở một  số vùng quê miền Trung dùng chữa bệnh mạn tính ở đường tiêu hóa. Thuốc  này cho kết quả khả quan về lâm sàng, kể cả loét hành tá tràng. Đó là  nõn lá (đọt non) của cây bàng.  Cách dùng  như sau: Hái những nõn lá bàng lành lặn (mùa không còn nõn thì dùng  những lá non nhất bên trên cũng được), nhẹ tay rửa sạch, thái nhỏ, rang  vàng (không để cháy) rồi sắc với nước, uống thay nước chè (có thể thêm  đường).  Theo tiến sĩ dược học Đỗ Tất Lợi  thì vỏ, lá và nhân hạt của cây bàng đều có tác dụng chữa bệnh và không  độc. Tuy vậy, lần đầu, nên dùng một nắm nhỏ rồi tăng dần lên cho tới  liều hữu hiệu. Khi mới uống được 1-2 ngày, bệnh nhân có thể đi lỏng rất  nhiều nhưng đừng sợ, cứ tiếp tục sẽ có kết quả.  69. Tâm sen  "Mỗi  lần uống trà, tôi thường bị mất ngủ nên phải dùng tâm sen chế nước uống  hằng ngày, thấy ngủ được. Nhưng có người bảo tâm sen gây ung thư vì nó  là phần vứt đi. Xin cho biết tác dụng của tâm sen. Có nên dùng nó để  uống thay trà?"  Tâm sen (chồi mầm nằm  trong hạt sen) gọi là liên tâm hay liên tử tâm, đem phơi khô hay sấy  khô có tác dụng chữa hồi hộp, mất ngủ, di mộng tinh; mỗi ngày uống 4-10 g  dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha (hãm).  Bạn  thuộc dạng thần kinh nhạy cảm với các chất kích thích, không nên uống  trà (hoặc chè xanh) vào buổi chiều. Nếu muốn có giấc ngủ trưa, không nên  dùng trà muộn trong buổi sáng và dĩ nhiên là không nên uống cà phê. Đối  với tâm sen, khi thấy đã ngủ tốt, nên giảm dần liều lượng xuống một mức  thích đáng, tiến tới thôi hẳn và dùng nước chín.  Ngoài tâm sen, cây sen còn cho ta nhiều vị thuốc như:  - Ngó sen, gọi là liên ngẫu, dùng làm thuốc cầm máu.  -  Hạt sen cả vỏ (nói "quả sen" mới đúng) được gọi là thạch liên tử, dùng  chữa lỵ cấm khẩu. Hạt sen bỏ vỏ được gọi là liên nhục hay liên tử, dùng  làm thuốc bổ, chữa di tinh, mất ngủ, suy nhược thần kinh...  - Gương sen già bỏ hết hạt, phơi khô (liên phòng) và lá sen (hà diệp) đều được dùng làm thuốc cầm máu.  - Tua nhị sen bỏ "hạt gạo", phơi khô, gọi là liên tu, dùng chữa xuất huyết, di mộng tinh.  70. Hà thủ ô  "Cháu là con gái, gần đây trên đầu thấy nhiều sợi tóc bạc, một số bạn cháu cũng vậy. Nghe nói hà thủ ô có thể làm đen tóc?".  Hà  thủ ô được nhân dân dùng làm thuốc bổ, trị thần kinh suy nhược, khỏe  gân cốt, sống lâu, làm đen tóc... Đã có một số phương thuốc kết hợp hà  thủ ô với các vị thuốc khác để chữa bệnh.  Riêng  về tác dụng của hà thủ ô đối với chứng tóc bạc sớm, cho đến nay, chưa  có công trình nghiên cứu nghiêm túc nào khẳng định hay phủ định. Tuy  nhiên, theo một quan niệm thông thường, người ta cho rằng những chất có  màu đen (vừng đen, đậu đen, gà đen...) có thể giúp làm trẻ người, đen  tóc...  Trong dân gian lâu nay vẫn lưu hành  cách đồ hà thủ ô với đỗ đen, đem phơi khô, xong lại đồ tiếp như trên  đúng 7 lần (để dùng cho nam) hoặc 9 lần (để dùng cho nữ); ăn liên tục  thường xuyên cho tới khi đạt kết quả.  Nếu có điều kiện, cháu thử vận dụng xem.  71. Mạch môn, tam thất  "Để  làm nhuận phổi, long đờm và trị ho, nên dùng củ mạch môn độc vị hay kết  hợp với các vị khác? Tương tự, dùng tam thất để trục huyết ứ cho sản  phụ như thế nào?".  Củ mạch môn (còn  gọi là mạch môn đông, lan tiên) có thể dùng độc vị (mỗi ngày 6-20 g dưới  dạng thuốc sắc) hoặc phối hợp với một số vị như trong bài thuốc chữa  ho, khó thở, ho lâu ngày sau đây:  Củ mạch  môn đông 16 g, bán hạ 8 g, đẳng sâm 4 g, cam thảo 4 g, gạo nếp sao vàng 4  g, đại táo 4 g, nước 600 ml. Sắc trên bếp nhỏ lửa còn 200 ml, chia uống  làm 3 làn trong ngày.  Tam thất (còn gọi  là sâm tam thất) có thể sử dụng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, mỗi  ngày 4-8 g. Dùng trong các trường hợp bị chấn thương có ứ huyết, sưng  đau.  Ngoài ra, theo kết quả một số công  trình nghiên cứu trong nước, tam thất có tác dụng phòng ngừa hiện tượng  ung thư hóa. Cách dùng tiết kiệm nhất là ngậm một mẩu củ, để cho thuốc  ngấm dần qua niêm mạc miệng, không bị dịch tiêu hóa tác động (ban đầu  thấy đắng, nhưng về sau lại thấy vị ngọt dễ chịu).  72. Vỏ cây dền  "Vỏ cây dền có tác dụng gì mà một số người thường dùng nấu nước uống?"  Cây  dền còn có tên là cây sai, cây thối ruột (vì ngay từ khi cây còn non,  tủy cây đã bị tiêu hủy), tên khoa học Xylopia vielana Pierre, có thể cao  tới trên 20 mét, vỏ màu nâu tím rất dễ bóc.  Vỏ  lấy từ cây tươi, đem phơi hay sấy khô để dùng dần. Nhân dân dùng vỏ cây  dền sắc uống để chữa kinh nguyệt không đều, thiếu máu; dùng lá cây sắc  uống chữa đau nhức tê thấp. Ở miền Trung, miền Nam, người ta dùng vỏ cây  dền tán bột hay ngâm rượu để chữa sốt rét và làm thuốc bổ.  Liều dùng hằng ngày: 5-10 gam vỏ khô.  73. Hãy thử "làm cho ngực nở nang"  "Gần  đây, tôi được giới thiệu một bài thuốc làm ngực nở nang dần gồm: thuốc  cứu (ngải diệp) 1 nắm, nghệ sống 1 củ bằng ngón tay cái, cà rốt 200 g.  Ba thứ giã nát, vắt với nước dừa nạo, uống hằng đêm. Bài này có công  hiệu không? Thuốc cứu còn có tên gì khác không?".  Theo  tài liệu của giáo sư Đỗ Tất Lợi, cây thuốc cứu còn có tên gọi là ngải  cứu, tên khoa học Artemisia vulgaris L., thuộc họ Cúc. Trong Đông y, nó  được dùng làm thuốc điều hòa kinh nguyệt, an thai (không kích thích dạ  con nên không gây sẩy thai); tăng cường tiêu hóa, chữa đau bụng...  Mấy  thứ bạn kể đều là thức ăn thông thường, trong đó nghệ có tác dụng kích  thích sự tiết mật của tế bào gan, làm hạ cholestérol trong máu; cà rốt  cung cấp caroten (tiền vitamin A), chống lại tác động nguy hại của các  gốc tự do, chống đi lỏng (tiêu chảy); cùi dừa chứa nhiều chất béo,  glucid và protid; nước dừa chứa nhiều axit amin, lợi tiểu...Nếu dùng thử  chắc cũng tốt, lại rẻ tiền. Tuy nhiên, khi "nở nang" được khá xinh rồi  là phải giảm liều để tránh nguy cơ trở thành ... thùng ton nô. Các vị  thuốc trên đều không có tác dụng làm ngực to ra.  74. Thuốc dân gian chữa viêm đa khớp dạng thấp  "Tôi  được bác sĩ chẩn đoán là viêm đa khớp dạng thấp, cho dùng nhiều thuốc  tây không khỏi. Xin cho tôi một cách chữa nào đơn giản mà hữu hiệu".  Nếu  đúng bệnh của bạn là viêm đa khớp dạng thấp (khác với bệnh thấp khớp về  bệnh sinh, diễn biến, tiên lượng...), thì xin mời bạn dùng thử mấy vị  thuốc dân gian dễ kiếm sau:  1. Lá cây chay  quả (giống cây chay cho vỏ ăn trầu, nhưng có quả chín màu vàng, bên  trong chứa cơm màu đỏ, vị chua ngọt) rửa sạch, sao vàng, sắc uống, mỗi  ngày 20 g.   2. Hai ngày đầu dùng nước nho  tươi hoặc nước bưởi (0,5 lít/ngày). Hai ngày kế tiếp dùng mỗi ngày 0,5  lít nước cần tây. Hai ngày tiếp dùng mỗi ngày 0,5 lít nước ép cà rốt và  cần tây. Nên chia làm 2-3 lần uống mỗi ngày. Nếu khỏi, uống tiếp 1 tuần  cà rốt + táo tây + cần tây (ba thứ bằng nhau, cho ra đủ 0,5 lít/ngày).  Nếu chưa khỏi, làm lại từ đầu.  Trong khi dùng liệu pháp này, không nên dùng bất cứ thuốc gì.  75. Cây cỏ mực (cây nhọ nồi)  "Trong  một đơn thuốc nam của người nhà, em thấy ghi cây cỏ mực. Nó là cây gì,  công dụng ra sao, có phải là cây cỏ lồng vực như một số người bảo?".  Đây  là hai loại cây khác nhau. Cỏ lồng vực là loài cỏ dại hại cây trồng.  Cây cỏ mực (còn gọi là cây nhọ nồi, hạn liên thảo) là một vị thuốc nam  quý giá.  Cây cỏ mực mọc hoang khắp nước  ta. Cỏ mực mọc thẳng đứng, có thể cao tới 80 cm, thân có lông cứng, lá  mọc đối có lông ở hai mặt, dài 2-8 cm, rộng 5-15 mm.   Cây  cỏ mực không độc, tươi hay khô đều có tác dụng cầm máu nhờ làm tăng tỷ  lệ prothrombin toàn phần. Dân gian dùng thân lá giã nát, vắt nước uống  để chữa rong kinh, trĩ ra máu, vết thương chảy máu, chữa viêm họng, nấm  da... Có nơi còn sắc uống hoặc ngâm vào dầu dừa đem bôi lên đầu cho đen  râu tóc.  76. Cây hẹ  "Tôi  thấy dân gian hay dùng lá hẹ chữa một số bệnh. Xin cho biết khoa học đã  xác định được tác dụng của cây hẹ chưa? Có phải trong nam gọi hẹ là nén  không?".  Tại vùng trung Trung Bộ có  củ nén, hơi giống củ hành tăm ngoài Bắc nhưng mùi hắc, không thơm bằng  hành tăm, củ tròn, to và chắc hơn; chúng tôi chưa tìm được tài liệu  nghiên cứu về củ nén.  Về cây hẹ, ở Trung  Quốc từ hơn 50 năm nay đã có một số nghiên cứu khá sâu, cho thấy: Nước  ép hẹ tươi chứa chất odorin, có tác dụng diệt tụ cầu vàng và một số vi  khuẩn gây bệnh đường ruột, kể cả thương hàn và lỵ. Tác dụng trên sẽ mất  hoàn toàn nếu nước ép được đun nóng.  Ở  nước ta, nhân dân thường dùng hẹ (lá, rễ, củ) chữa ho trẻ em, giúp tiêu  hóa tốt, bổ gan, chữa lỵ, giun kim... Liều dùng hằng ngày 20-30 g (trộn  đường, hấp cơm hay đun cách thủy). Hạt của cây hẹ (cửu tử, cửu thái tử)  được dùng chữa mộng tinh, mỏi gối, đau lưng... với liều 6-12 g (nước  sắc) mỗi ngày.  77. Củ nghệ đen  "Xin cho biết nghệ đen chữa được những bệnh gì?".  Đông  y dùng nghệ đen (nga truật) để chữa chứng đau ở ngực hoặc ở bụng, ăn  uống khó tiêu. Nghệ đen còn có tác dụng chữa ho, bế kinh, kinh nguyệt  không đều. Mỗi ngày dùng 3-6 g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay thuốc  viên. Nghệ đen có vị đắng, cay nên người ta thường thêm mật ong hay làm  thành tễ cho dễ uống.  78. Cây đinh lăng  "Nhà  cháu trồng đinh lăng đã được 10 năm. Vừa rồi bố cháu đào lấy củ, thái  miếng, phơi khô, hãm vào nước sôi để uống như nước chè. Xin cho biết như  vậy có tốt không?".  Cây đinh lăng  (còn gọi là cây gỏi cá) có tác dụng tăng sức dẻo dai của cơ thể, chống  mỏi mệt (rễ đinh lăng thái mỏng, phơi khô 0,5 g; cho vào 100 ml nước,  đun sôi trong nửa giờ, chia thành 2-3 lần uống trong ngày); chữa tắc tia  sữa (rễ đinh lăng 30-40 g, cho vào 1/2 lít nước, sắc còn 1/4 lít, uống  nóng trong 2-3 ngày liền).  Nhiều tài liệu cũng cho biết đinh lăng có tác dụng lợi tiểu, tăng cường hô hấp, làm tăng nhẹ co bóp tử cung...  Như vậy, bố cháu có thể dùng thường xuyên "nước chè đinh lăng", nhưng cần chú ý đến liều lượng hằng ngày nói trên.  79. Lá cây cứt lợn chữa viêm xoang  "Chúng  em bị viêm xoang, chữa mãi không khỏi, mà nghe nói đến mổ lại sợ. Xin  cho biết hiện đã có phương pháp nào hữu hiệu chữa khỏi viêm xoang?".  Các  biện pháp chữa viêm xoang bao gồm sử dụng kháng sinh toàn thân, chọc  hút xoang kết hợp với bơm tại chỗ các thuốc kháng sinh và chống viêm.  Phẫu thuật đục xoang là biện pháp cuối cùng, nhưng có khá nhiều trường  hợp tái phát.  Có một loại cây dễ kiếm  nhưng có thể chữa viêm xoang khá công hiệu: Cây cứt lợn (còn gọi là cây  cỏ hôi, cây bù xít, cỏ cứt heo), tên khoa học Ageratum cony-zoides L.,  thuộc họ Cúc. Đây là một cây nhỏ, mọc hoang, cao khoảng 30-60 cm, thân  có nhiều lông mềm. Lá mọc đối, hình trứng hay ba cạnh, dài 2-6 cm, rộng  1-3 cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt lá đều có lông (khi vò ra có mùi  hăng hắc, nhưng khi đun nước lại có mùi thơm, thường được một số chị em ở  nông thôn dùng gội đầu). Hoa nhỏ màu tím, xanh.   Lấy  một nắm lá tươi, rửa nhẹ tay cho sạch, giã nát rồi vắt lấy nước đem nhỏ  vào hai lỗ mũi. Nằm ngửa chừng 10-15 phút, dưới hai vai có kê gối để lỗ  mũi dốc ngược, cho phép thuốc ngấm vào xoang. Làm mỗi ngày 1-2 lần cho  đến khi khỏi.  80. Uống chè hoa hoè có hại không  "Tôi nghe các cụ nói uống chè hoa hoè sẽ bị loãng tinh và không có con. Điều đó có đúng không?".  Hoa  hoè (tên khoa học Sophora japonica L.) được nhân dân ta dùng làm thuốc  cầm máu khi bị ho ra máu, đổ máu cam, tiểu tiện ra huyết, trĩ chảy máu  (mỗi ngày uống 5-20 g nụ hoa hoè phơi khô dưới dạng thuốc sắc). Tây y  dùng chất rutin chiết xuất từ hoa hoè cho những bệnh nhân cao huyết áp  để tăng cường sức chịu đựng của mao mạch.  Cho  đến nay, chưa có tài liệu khoa học nào cho thấy hoa hoè gây hại cho hệ  sinh dục nam nói riêng cũng như đối với các cơ quan nói chung.  81. Cây sống đời  "Xin cho biết tác dụng của cây sống đời".  Cây  sống đời (còn gọi là cây trường sinh, cây thuốc bỏng...) được nhân dân  dùng làm thuốc chữa bỏng, cầm máu, đắp vết thương, chữa mắt đỏ, sưng  đau. Các nhà khoa học Ấn Độ đã chiết được từ cây sống đời một hoạt chất  gọi là bryophulin có tác dụng kháng khuẩn, có thể dùng điều trị một số  bệnh đường ruột.  Khi dùng cây này, bạn nhớ rửa sạch đất cát cũng như các chất lạ bám vào.  82. Lá cây gây ngứa  "Vừa  rồi chúng cháu về chơi ở vùng núi, khi chui vào bụi chạm phải loại cây  gì lá to và có lông, bị ngứa ghê gớm. Đó là cây gì vậy, tại sao lá nó  ngứa thế?".  Đó là cây lá han. Trên bề  mặt lá của một số cây như lá han, tầm ma có nhiều gai nhọn dài, dính hờ  vào tổ chức của lá bằng một tế bào đơn độc. Chỉ cần chạm nhẹ là những  gai nhọn đó rời ra ngay và cắm vào da, giải phóng 2 chất acetylcholin và  histamin, làm cho da ửng đỏ, vừa buốt vừa ngứa kinh khủng; nếu bị nhiều  có thể dị ứng toàn thân.  Các cụ già sống ở  một thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh còn nhớ, hồi năm 1945, có lần mấy tên  lính phát xít đại tiện bừa bãi xong đã hái lá han để chùi. Ngay sau đó  chúng phải chạy về nơi trú quân, chìa mông ra bắt mấy đứa khác vừa quạt  vừa dội nước mãi vẫn không đỡ.  83. Mật gấu  "Xin cho biết tác dụng của mật gấu và cách sử dụng. Có phải mật gấu chữa khỏi bệnh viêm gan mạn không?".  Theo  tài liệu cổ, mật gấu vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, diệt  khuẩn. Trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, giáo sư dược học  Đỗ Tất Lợi viết: "Mật gấu là một vị thuốc rất quý trong nhân dân, dùng  chữa đau dạ dày, đau nhức, giúp tiêu hóa, giải độc, chữa hoàng đản. Dùng  ngoài, mật gấu có tác dụng làm hết xung huyết, nhỏ mắt chữa đau mắt;  xoa bóp chữa sưng đau do ngã hay bị thương".  Liều dùng: Mỗi ngày có thể uống từ 0,5 g đến 1-2 g.  Để  chữa mắt sưng đỏ, dùng mật gấu một lượng bằng hạt gạo mài cho tan vào  khoảng 1 ml nước chín, nhỏ mắt. Để xoa bóp chỗ sưng đau, dùng mật gấu 5 g  hòa tan trong 100 ml rượu 35 độ.  Đến nay,  chưa thấy thông báo nào công bố nào về kết quả chữa khỏi viêm gan mạn  của mật gấu, nhưng bệnh nhân có thể dùng thử vì theo kết quả nghiên cứu  của Học viện quân y và Viện công nghệ sinh học, nhiều trường hợp xơ gan  đã được chữa khỏi bằng mật gấu nuôi.  Ở phương Tây, từ hơn 10 năm nay, người ta đã dùng mật gấu chế thuốc chữa viêm túi mật mạn với biệt dược Ursolvan.   Vài  năm gần đây, nhiều người Việt Nam tìm mua mật gấu để chữa bệnh ung thư.  Có người nói đỡ, thậm chí khỏi; nhưng chưa thấy có công bố nào về kết  quả chữa trị.  84. Phân con quy dùng làm thuốc  "Tôi nghe nói phân con quy có tác dụng chữa cam, sài cho trẻ, không biết có đúng không?".  Theo  giáo sư dược học Đỗ Tất Lợi, con quy (còn gọi là mọt gạo, mọt ngô) là  một loại côn trùng nhỏ dài 2-3 mm, rộng 1-2 mm, cánh cứng màu đen,  thường thấy ở các kho ngũ cốc hoặc trong thạp gạo để hở lâu. Một đôi vợ  chồng con quy sau khoảng một tháng sinh ra chừng 35-50 con quy con.  Một  số nơi dùng bỏng ngô nuôi con quy để lấy phân làm thuốc. Rây phân rồi  đem sao trên chảo nhỏ lửa cho khô và thơm. Có thể dùng riêng (mỗi ngày  từ 2 đến 4 g) hoặc kết hợp với một vài vị thuốc khác để chữa trẻ em gầy  còm, biếng ăn, tiêu hóa kém: Bạch chỉ 2 g, sử quan tử 2 g thái mỏng, sao  vàng cho thơm, trộn đều với 10 g phân quy đã sao vàng, tán nhỏ. Mỗi  ngày dùng 2-3 g bột này, chia làm 2-3 lần uống.  Năm  1978, Đại học y Bắc Thái đã tiến hành phân tích và thấy phân quy có các  axit amin cần thiết cho cơ thể như: lysine, arginine, histidine,  leucine, isoleucine, valine, threonine, methionine, phenylalanin.  85. Cao dê toàn tính  "Ở  quê em, một số người trước đây thỉnh thoảng nấu cao xương hổ, xương  khỉ, xương trăn..., chia nhau dùng hoặc đem bán. Nay họ nấu cao dê,  không phải chỉ xương mà nấu cả con dê, chỉ cạo lông và vứt bỏ ruột. Xin  cho biết loại cao này có tác dụng gì không?".  Đó  là cao dê toàn tính, đặc sản của một số vùng ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Nghệ  An, Hà Tĩnh. Trong một công trình của Viện nghiên cứu y học quân sự  trước đây, tiến sĩ Đặng Hanh Khôi cho biết: Cao dê toàn tính chứa khoảng  10% nitơ toàn phần, 0,8% nitơ amin, nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết  như sắt, mangan, đồng, magiê, nhôm, thiếc, canxi, sillic, nicken... Nó  có tác dụng kích thích sinh trưởng, giúp cơ thể phát triển nhanh và mau  lành vết thương; làm tăng sức dẻo dai của cơ thể (do làm tăng mạnh hô  hấp của tế bào cơ bắp). Tác dụng này gần gấp đôi cao xương voi và gần  gấp ba cao ban long (gạc hươu).  Theo Đông  y, tiết, thịt, gan, tinh hoàn và dạ dày dê đều có tác dụng chữa một số  bệnh. Cao dê toàn tính chữa gầy còm, thiếu máu, hay đau bụng, đau mỏi  lưng.  Trong điều kiện phải gìn giữ và bảo vệ động vật hoang dã qúy hiếm, chế biến cao dê toàn tính là việc làm đáng khích lệ.   86. Loại đa sinh tố nào tốt hơn  "Cháu  thấy có mấy loại đa sinh tố nhập từ nước ngoài như Theravit (Mỹ),  Therazym, Cenovis (Australia), giá cả có chênh lệch nhau chút ít. Xin  cho biết loại nào tốt hơn?".  Xin giới thiệu bảng hàm lượng các vitamin và chất khoáng trong ba loại đa sinh tố vừa nêu:  Lượng vitamin và khóang/viên Theravit Therazym Cenovis   Vitamin A 6.000 IU 5.000 IU 1.250 IU   Beta Caroten 1.250 IU 0 0   Vitamin C 90 mg 80 mg 75 mg   Lysine 0 40 mg 0   Vitamin B1 3 mg 1,5 mg 10 mg   Vitamin B2 3,4 mg 1,7 mg 10 mg   Vitamin B3 0 0 25 mg   Niacin 30 mg 20 mg 0   Viatmin B6 3 mg 2 mg 2 mg   Vitamin B12 9 mcg 9 mcg 2 mcg   Vitamin D 400 IU 400 IU 400 IU   Vitamin E 30 IU 0 10 IU   Pantothenic acid 10 mg 10 mg 8 mg   Folic acid 0,4 mg 0,4 mg 0   Biotin 35 mcg 15 mcg 0   Calcium 40 mg 40 mg 10 mg   Phosphorus 31 mg 31 mg 7,5 mg   Iodine 150 mcg 150 mcg 150 mcg   Sắt 27 mg 18 mg 5 mg   Magnesium 100 mg 50 mg 36 mg   Đồng 2 mg 2 mg 1 mg   Kẽm 15 mg 5 mg 1,5 mg   Maganese 5 mg 2 mg 1 mg   Crom 15 mcg 15 mcg 0   Selenium 10 mcg 10 mcg 0   Molipđen 15 mcg 15mcg 0   Kalium 7,5 mg 7,5 mg 5 mg   Chloride 7,7 mg 7,5 mg 0       87. Tác dụng của viên Belaf  "Tôi  là kỹ sư, hằng ngày phải tiếp xúc với hóa chất, máy vi tính, điện thoại  di động... Vừa qua, tôi đọc tờ quảng cáo thuốc Belaf, thấy nói thuốc có  thể giúp chống lão hóa, tăng tuổi thọ, đặc biệt hữu ích cho những người  tiếp xúc với chất độc hại, ô nhiễm. Thuốc có thành phần: bêta-caroten  thiên nhiên 15 mg; vitamin E thiên nhiên 400 IU; selenium thiên nhiên 50  mcg; vitamin C 500 mg. Xin cho biết ý kiến của bác sĩ về vấn đề này".  Các chất chứa trong viên Belaf có vai trò chống tác hại của các gốc tự do, chống lão hóa, chống độc rõ rệt.  Chỉ  xin nêu hàm lượng các chất này trong 1 viên Theravit loại mới của Mỹ để  bạn tiện so sánh (theo khuyến cáo thì mỗi ngày, mỗi người sống trong  môi trường bình thường chỉ cần uống 1 viên Theravit):  -  Beta-caroten: 1.250 IU (của Belaf tính theo mg nên không thể so sánh;  vì tính theo IU là tính theo tác dụng thực sự chứ không theo cân nặng  của dược chất).  - Vitamin E: 30 IU (của Belaf gấp 13 lần)  - Selenium 10 mcg (bằng 1/5 Belaf)  - Vitamin C: 90 mg (bằng 1/5 Belaf)  Trong  hoàn cảnh công tác của bạn, ngoài việc dùng viên Belaf, nên bổ sung cho  cơ thể các vitamin và chất khoáng khác có trong viên đa sinh tố, phòng  khi chế độ ăn uống không đủ chất đó. Nên tăng cường uống sữa tươi để  giúp cơ thể loại trừ các chất độc hại.  88. Đa sinh tố và ung thư ruột già  "Có  người khuyên chúng tôi uống đa sinh tố thường xuyên để giảm nguy cơ mắc  bệnh ung thư ruột già. Điều này có đúng không, hay chỉ là quảng cáo để  bán thuốc?".  Có nhiều loại đa sinh tố  bán trên thị trường, cả nội lẫn ngoại. Loại đa sinh tố mang tên  Theravit có nhiều loại vitamin và chất khoáng hơn cả. Mỗi ngày uống 1  viên là có thể bù đắp vào những thiếu hụt bất thường trong dinh dưỡng.  Điều  mà hai bạn nghe được là một tin vui có cơ sở. Gần đây, Giáo sư E.  Giovannucci thuộc Trường Y Harvard (Mỹ) đã công bố kết quả một nghiên  cứu tiến hành trên gần 89.000 nữ y tá Mỹ, cho thấy tác dụng tốt đẹp của  viên đa sinh tố ở nữ giới. Ở những chị em uống đều đặn đa sinh tố trong  suốt 15 năm, tỷ lệ mắc ung thư ruột già giảm 75% so với những chị em  không uống.  Công trình nghiên cứu đã nhắc  đến tác dụng to lớn của vitamin B9 (axit folic) trong việc phòng ngừa  ung thư ruột già: Ở những chị em không uống viên đa sinh tố nhưng trong  khẩu phần hằng ngày có đủ 0,4 mg vitamin B9 (như trong viên đa sinh tố),  tỷ lệ mắc ung thư đại tràng cũng giảm được 31%.  Đúng  là tin vui, nhưng mới chỉ có chị em phấn khởi thôi. Bởi vì chưa có công  trình nghiên cứu tương tự nào được tiến hành trên nam giới. Tác giả  công trình nói trên chỉ mới tuyên bố rằng ông hy vọng ở nam giới, kết  quả thu được cũng giống như vậy.  89. Thuốc đạn đặt âm đạo  "Cháu  là con gái, đi khám phụ khoa được bác sĩ cho đơn thuốc đạn đặt vào âm  đạo. Cháu ngại thuốc này sẽ làm rách màng trinh, nên còn ngần ngại chưa  mua".  Có một số thuốc, nhất là thuốc  chữa nấm, phải được đặt trực tiếp mới đạt hiệu quả cao. Vì vậy, nhất  thiết cháu phải theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.  Thuốc  đạn đặt vào hậu môn hay âm đạo đều nhẵn nhụi, có kích thước và độ chắc  vừa phải nên không hề làm toạc niêm mạc trực tràng hay làm rách màng  trinh. Ngay khi khám cho các cô gái, bác sĩ vẫn kiểm tra được âm đạo  bằng cách luồn một mỏ vịt cỡ nhỏ (Cusco) qua lỗ màng trinh mà không hề  hấn gì.  Xin hoan nghênh việc cháu chịu đi  khám bệnh như vừa qua. Bởi vì có nhiều cháu, phần sợ xấu hổ, phần coi  thường bệnh ở cơ quan sinh dục nên để muộn, rất khó chữa.  90. Thuốc diệt khuẩn đường tiết niệu  "Bố  tôi 72 tuổi, 3 năm trước được chẩn đoán u xơ tuyến tiền liệt, nhưng  chưa có điều kiện mổ nên được uống thuốc viên Mictasol bleu trong 20  ngày, kết quả là đi tiểu được bình thường. Nay thấy cụ đi tiểu khó, tôi  lại cho uống mỗi ngày 1 viên thuốc nói trên và thấy đỡ hẳn. Xin cho biết  Mictasol bleu là loại thuốc gì, dùng dài ngày có hại hay không?".  Mictasol  bleu là một biệt dược của Pháp, thành phần bao gồm: chất thảo dược lấy  từ cây Purpurea malva 250 mg; long não monobrom 20 mg; methylthionin hay  xanh methylen 20 mg; cao lanh, tinh bột khoai tây, mage stearat, bột  talc, nhựa cây acacia, saccharose, sáp, parafin; chất xanh làm tá dược.  Thuốc  có tác dụng diệt khuẩn đường tiết niệu. Nó ngấm qua thành ruột, đi vào  máu rồi được thận bài tiết vào nước tiểu; vì hiện diện trong nước tiểu  nên nó phát huy tác dụng diệt khuẩn tại chỗ. Bệnh nhân u xơ hoặc phì đại  tuyến tiền liệt thường bị viêm nhiễm đường tiết niệu nói chung và bàng  quang nói riêng; Mictasol bleu làm hết viêm nhiễm, giúp họ tiểu tiện  được dễ dàng.  Không được dùng Mictasol bleu cho người bị suy thận.  Thuốc  này không nằm trong bảng độc, liều dùng hằng ngày cho người châu Âu là  6-9 viên (uống vào các bữa ăn, chiêu với nước), cho nên với liều thấp  như vậy không có gì đáng ngại.  91. Khi dùng thuốc voltarène  "Mẹ  tôi 50 tuổi, 2 năm trước bị đau khớp gối, được chữa trị tại bệnh viện;  sau này mỗi ngày đều dùng 1 viên Voltarène. Nếu ngưng thuốc hoặc ăn mướp  đắng, cà tím thì bị nhức. Xin cho biết mẹ tôi cần kiêng những thức ăn  gì, dùng Voltarène thường xuyên có bị ảnh hưởng không?".  Voltarène  có muối natri diclofenac, một chất không steroid có tác dụng ức chế quá  trình sinh tổng hợp prostaglandine (chính chất này đóng vai trò chủ yếu  trong việc gây viêm, đau và sốt), cho nên nó có tác dụng chống thấp  khớp, giảm đau, chống viêm và hạ nhiệt.  Voltarène  không được dùng cho người bị bệnh dạ dày (vì có thể gây chảy máu, thủng  dạ dày) hoặc người bị dị ứng với axit acetylsalicylic. Không dùng trong  3 tháng đầu và 3 tháng cuối của thai kỳ.  Bạn  không nói rõ dùng viên thuốc có hàm lượng bao nhiêu (25 mg hay 50 mg).  Tuy nhiên, với liều duy trì 1 viên mà cho hiệu quả như vậy là tốt, không  nên ngưng. Uống thuốc trong các bữa ăn.  Voltarène còn có dạng tiêm bắp, hàm lượng 75 mg và dạng kem bôi ngoài da Voltarène émulgel.  Không chỉ riêng mướp đắng hay cà tím mà bất cứ thức gì bị cơ thể mẹ bạn "từ chối" đều phải kiêng, để tránh xảy ra dị ứng.  92. Tin vui cho cư dân vùng sốt rét  "Ký sinh trùng sốt rét ngày càng kháng thuốc, không biết đã có thứ thuốc chữa sốt rét nào tốt hơn chloroquine?".  Điều  bạn quan tâm cũng làm các nhà dược học trên thế giới đau đầu, vì vị  thuốc chủ bài chống sốt rét là chloroquine ngày càng bị ký sinh trùng  của bệnh này coi khinh.  Vào quý 1 năm  2001, giáo sư Surolla thuộc Đại học Bangglore (Ấn Độ) khi nghiên cứu một  chất tổng hợp chống vi khuẩn là tri-closan (vẫn dùng làm chất khử mùi  trong nhà tắm) đã nhận thấy, chất này kìm hãm sự phát triển của ký sinh  trùng sốt rét, kể cả Plasmodium falciparum đã kháng cloroquine.  Triclosan sẽ sớm có mặt trên thị trường.  93. Thuốc mới chống ung thư  "Chúng tôi nghe nói đã có thuốc chữa khỏi hẳn bệnh ung thư, xin cho biết đó là thuốc gì?".  Cho  đến nay, việc điều trị ung thư về căn bản dựa trên ba biện pháp kết  hợp: cắt bỏ khối u, xạ trị (chiếu tia X. vào khối u hoặc khu vực đã mổ  cắt khối u), hóa trị liệu (dùng hóa chất đưa vào người) để tiêu diệt các  tế bào ung thư.  Kết quả đạt được phụ  thuộc vào việc phát hiện và xử trí sớm hay muộn cũng như vào mức độ "ác"  của từng loại ung thư và vào sức đề kháng của từng người.  Việc chiếu tia X. liều cao và việc dùng hóa chất đều có mặt trái là ảnh hưởng không tốt lên sức khỏe.  Từ  lâu, người ta nhận thấy rằng: Khối ung thư phát triển là nhờ nó kích  thích cho hệ thống mạch máu của chúng ta phát triển để "nuôi" nó. Do đó,  một số phẫu thuật viên đã đề xuất việc thắt các động mạch đi tới khối u  (trong trường hợp không thể cắt bỏ) để cho ung thư "chết đói"! Tiếc  thay, việc làm này không thành công vì còn biết bao nhiêu mạch nối khác  sẽ bù cho chỗ bị thắt, và khối u vẫn không hề gì.  Gần  đây, người ta tìm được hai chất có tác dụng ức chế sự hình thành mạch  máu mới của ung thư, đó là angiostatin và endostatin. Trên cơ sở này,  các biệt dược mới mang tên Anti-VEGF, TNP-470 đã ra đời, được sử dụng  cho một số trường hợp ung thư muộn, bước đầu cho kết quả đáng mừng.  Tuy  nhiên, mặc dù phấn khởi là đã đi đúng hướng, các nhà nghiên cứu thấy  vẫn cần phải chờ một thời gian nữa, sau khi các loại thuốc mới này đã  được dùng trên diện rộng, mới có thể khẳng định được.  Ngoài  ra, người ta còn phát hiện rằng chất telomerase (hiện diện trong 85% tế  bào ung thư) có tác dụng làm cho các tế bào này "sống lâu muôn tuổi"  (các tế bào lành vì không có chất này nên không thể "trường sinh bất  lão"). Nếu có cách gì vô hiệu hóa telomerase thì sẽ giết chết được tế  bào ung thư. Mới đây, các nhà khoa học Canada lại tìm thấy một protein  mang tên *hnRNP A1 cũng có tác dụng làm cho tế bào ung thư "vạn thọ vô  cương", lợi hại hơn telomerase ở chỗ nó hiện hữu trong 100% các khối u.  Nếu vô hiệu hóa được *hnRNP A1, ta cũng sẽ làm cho các tế bào khối u già  đi và chết.  Những phát hiện nói trên rất  quan trọng, mở đường cho việc sáng tạo các thuốc chống ung thư hữu hiệu  hơn và không độc hại đối với cơ thể.  94. Triển vọng của thuốc vacxin chống ung thư  "Nghe nói đã có thuốc tiêm phòng chống bệnh ung thư. Xin cho biết thực hư".  Chuyện có thật đấy. Có 2 thành tựu, một trên người và một trên chuột thí nghiệm.  1.  Cuối năm 1997, một phụ nữ Đức 65 tuổi được chẩn đoán qua lâm sàng và  ảnh scanner là bị ung thư thận đã di căn, cầm chắc cái chết. Bà xin làm  người đầu tiên thử nghiệm một vacxin loại mới (do nhóm nghiên cứu của  giáo sư G. Muller thuộc Bệnh viện Gottingen của Đức sáng tạo) và bà đã  khỏi bệnh hoàn toàn, các di căn ung thư ở hai phổi cũng biến mất, sau  hai năm rưỡi không xuất hiện lại. Như vậy là vacxin đó có tác dụng chữa  ung thư rõ rệt.  Vacxin chống ung thư của  Đức được chế tạo theo các bước sau: Lấy một số tế bào ung thư đem nghiền  nát. Lấy các bạch cầu đơn nhân trong máu người bình thường đem nuôi cấy  ở 37 độ C trong môi trường có cytokin. Sau 7 ngày đêm, các bạch cầu này  biệt hóa và trở thành tế bào sợi nhánh chưa thành thục. Đem các tế bào  ung thư trộn với các tế bào sợi nhánh này rồi đặt vào một thiết bị, để  chúng hợp nhất thành các tế bào lai dưới tác động của một cú sốc điện.  Sau  khi tế bào lai này được tiêm cho bệnh nhân ung thư, chúng kích thích  bạch cầu lympho T (LT) tiết cytokin để kích hoạt nhiều tác nhân của hệ  miễn dịch, đồng thời thúc đẩy bạch cầu lympho B (LB) sản xuất kháng thể  hướng vào kháng nguyên của khối ung thư.  Nhờ  đó, hệ miễn dịch tấn công thắng lợi vào tế bào ác tính và di căn. Các  LT nhận diện ra ngay và phá hủy chúng. Các bạch cầu đơn thuần, các đại  thực bào hay các bạch cầu lympho khác cũng nhận diện ra các kháng thể  dính trên bề mặt của tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.  2.  Viện Pasteur của Pháp đã hiệu chỉnh được một vacxin tổng hợp mang tên  MAG (Multiple Antigenic Glycopeptide) giúp 70% chuột khỏi bệnh nhờ loại  trừ được khối ung thư.  MAG gồm một trung  tâm lysine và 4 peptide mô phỏng kháng nguyên của virus sốt bại liệt, có  gắn thêm đường Tn (kháng nguyên đặc hiệu của tế bào ung thư). Khi tiêm  MAG cho chuột bị ung thư, kháng nguyên của virus sốt bại liệt bị tế bào  sợi nhánh của chuột thu lấy và đưa tới LT; bạch cầu này bèn kích thích  LB bằng cách phóng thích cytokin. LB nhận diện ra kháng nguyên Tn trong  vacxin, bèn tự tăng cường số lượng và sản xuất các kháng thể để gắn lên  các đường Tn của tế bào ung thư. Nhờ việc "đánh dấu" này, các tác nhân  của hệ miễn dịch nhận rõ mục tiêu tấn công và phá hủy tế bào ung thư.  Hai thành tựu nói trên mở ra triển vọng tốt đẹp trong việc chữa trị các bệnh nan y, kể cả HIV/AIDS.  95. Coi chừng dị ứng thuốc  "Cháu  17 tuổi, từ khi lên 10 tới giờ, mỗi lần dùng thuốc tây (uống hoặc tiêm)  là da nổi mẩn đỏ, rất ngứa, sau phồng lên như bị bỏng, cả tuần mới  khỏi. Cháu đã điều trị nhiều cách nhưng không hết".  Cháu  không cho biết trong những lần bị dị ứng, cháu đã dùng thuốc gì, nhưng  theo cách nói thì có thể đoán cháu bị dị ứng với một vài loại kháng sinh  nào đó. Cháu hãy tìm lại các đơn thuốc đã dùng và tuyệt đối tránh sử  dụng các kháng sinh đó.  Do không nắm được  vấn đề nên bảy năm qua cháu đùa với lửa mà không biết. Hiện tượng dị ứng  thuốc rất khó lường về mức độ nguy hiểm, có người chỉ tiêm trong da một  nốt nhỏ để thử phản ứng mà cũng xây xẩm mặt mày, mạch nhanh, run tay  chân. Trường hợp dị ứng mạnh sẽ dẫn đến sốc phản vệ, nguy hiểm đến tính  mạng.  96. Máu nhân tạo  "Tôi  nghe nói vài ba năm nữa sẽ có máu nhân tạo sử dụng rộng rãi. Máu nhân  tạo có giống hệt máu người và thay được máu người không?".  Hiện  chưa có chất gì bắt chước được y hệt máu người. "Máu nhân tạo" như bạn  nghe nói chỉ là chất thay thế máu tạm thời trong một giai đoạn nào đó,  chẳng hạn như khi bị chảy máu nhiều hoặc trong phẫu thuật; lúc bấy giờ  điều quan trọng hàng đầu là đảm bảo ôxy cho cơ thể để duy trì sự sống.  Nhiệm vụ này do huyết cầu tố (hemoglobin) của hồng cầu đảm nhiệm; vấn đề  đặt ra là nghiên cứu một chất nào đó có khả năng vận chuyển ôxy giống  như huyết cầu tố.  Hướng thứ nhất là chế  tạo huyết cầu tố từ những chai máu người đã quá hạn dùng, hoặc từ máu  bò, máu lợn; hay bắt các vi khuẩn đã qua tác động gene sản xuất. Nếu tạo  ra được huyết cầu tố nguyên chất thì không cần phải quan tâm đến nhóm  máu nữa, việc sử dụng sẽ an toàn và tiện lợi.  Tuy  nhiên, việc sản xuất huyết cầu tố các chai máu người đã quá hạn như vậy  vẫn phải phụ thuộc vào nguồn cho và không thể cung cấp kịp thời với một  lượng lớn, chẳng hạn khi có thiên tai, xung đột vũ trang...  Hướng  thứ hai là sử dụng các fluorocarbure - những chất hữu cơ trơ nhất, đậm  đặc nhất, dễ nén nhất và kỵ nước nhất - có khả năng thu ôxy từ phổi, sau  đó đem phân phối cho các cơ quan qua hệ thống mao mạch.  Hãng  Alliance Pharmaceutical (California) của Mỹ đã chế tạo được một chất  lỏng trong suốt không màu mang tên Oxygent. Đó là một nhũ tương gồm  perfluoro-carbure, nước và các chất nhũ hóa. Hạn sử dụng Oxygent (bảo  quản ở nhiệt độ 5 độ C) là một năm rưỡi. Oxygent còn "cao thủ" hơn hồng  cầu vì nó luồn được sâu vào các mao mạch.  Nhờ  có "máu nhân tạo", loài người sẽ giảm thiểu, thậm chí tránh được những  điều phiền phức hoặc nguy hiểm của việc truyền máu như hiện nay, đến mức  mà người Mỹ coi truyền máu là một động tác nguy hiểm càng tránh được  càng tốt.  97. Có insulin đường uống không?  "Mẹ  cháu bị tiểu đường, lâu lâu phải đến bác sĩ tư tiêm insulin. Mẹ cháu sợ  đau và có những lần để trễ nhiều hôm mới đi tiêm. Xin hỏi có loại  insulin dạng uống không?".  Insulin  hiện chưa có loại uống, bởi vì nếu uống theo cách thông thường thì nó  không thể chui qua màng ruột để vào máu như một số lớn chất khác.  Tuy nhiên, có hai tin mới có thể làm cho người tiểu đường như mẹ cháu hy vọng có dịp được uống insulin thay tiêm:  1.  Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Fasano, Đại học Maryland (Mỹ) đã phát hiện  ra một độc tố mới của vi khuẩn bệnh tả, được đặt tên là độc tố ZOT.  Chính độc tố ZOT này làm cho những người bị bệnh tả liên tục bị tiêu  chảy, mất nhiều nước và các chất điện giải, có thể chết rất nhanh nếu  không được cứu chữa kịp thời. Sở dĩ như vậy là do ZOT làm tăng khoảng  cách giữa các tế bào màng ruột (từ chỗ áp sát nhau nay hé rộng ra). Các  nhà khoa học bèn trộn ZOT vào insulin rồi cho chuột bị tiểu đường uống;  kết quả không kém insulin tiêm. Hiện thuốc đã được chuyển sang thí  nghiệm trên khỉ (họ hàng gần của con người về di truyền cũng như sinh  lý) và thu được kết quả y hệt như ở chuột, không có phản ứng phụ.  Một  nhóm nghiên cứu khác của Mỹ đã hiệu chỉnh được, trên các chuột thí  nghiệm, một phương pháp mới cho phép sử dụng insulin uống: Để bảo vệ  insulin không bị chất axit của dạ dày phá hủy, các nhà nghiên cứu bọc nó  trong một mạng lưới polymer. Khi gặp môi trường acid, mạng lưới "thông  minh" này sẽ co khít lại, chỉ khi xuống đến ruột non nó mới lơi ra, giải  phóng insulin cho màng ruột hấp thu. Phương pháp mới này đang được thử  nghiệm trên người.  2. Gần đây, tại Liên  hoan khoa học năm 2001 tại Edimbourg (Anh), các nhà nghiên cứu cho biết  đã hiệu chỉnh được một kỹ thuật mới chế tạo các chất thuốc dưới dạng cực  nhỏ, có thể vào máu dễ dàng qua việc trao đổi khí ở phổi. Do đó, mẹ  cháu chắc sẽ có dịp được dùng insulin dưới dạng xông hơi, không cần tiêm  mà cũng chẳng cần uống.  98. Để có thể phổ biến một phương thuốc hay  "Tôi  là giáo viên, nhưng vì yêu thích nghề thuốc nên từ 20 năm nay, tôi mày  mò tìm ra và ứng dụng có kết qủa một phương thuốc chữa bệnh thấp khớp.  Tôi muốn được giúp đỡ để có thể phổ biến nó".  Xin  hoan nghênh nhiệt tình của bác trong việc này. Thật vậy, bệnh thấp khớp  gây tai hoạ cho biết bao nhiêu nam nữ thanh niên nước ta do những tổn  thương ở tim. Tuy y học hiện đại đã có thuốc chữa bệnh này nhưng nó còn  khá đắt, đông đảo người nghèo còn khó với tới lắm! Vả chăng, thuốc Tây y  vẫn có những phản ứng phụ phải dè chừng. Bác đã chữa được một số trường  hợp, nay muốn phổ biến rộng phương thuốc ấy, đó là một thiện ý đáng  hoan nghênh.  Xin gợi ý với bác một số điểm như sau:  -  Tuy phương thuốc đã được ứng dụng nhiều mà không gây nguy hiểm, bác vẫn  nên rà lại dược tính, độc tính cũng như tính tương kỵ của từng vị (đã  ghi trong cuốn Cây thuốc Việt Nam), rồi chép thành một tài liệu riêng.  Những vị nào chưa có trong danh mục hoặc chưa có tên Latin, bác nên nhờ  các nhà dược học xác định giúp.  - Liên hệ  với một vài cơ sở Đông y ở gần để họ chấp thuận cho sử dụng trên bệnh  nhân. Muốn được thuận lợi, có lẽ bước đầu bác chưa nên thu tiền, tuy có  khó khăn về tài chính nhưng công chuyện sẽ trôi chảy hơn. Dựa vào kết  qủa trên từng bệnh nhân, các bác sĩ sẽ có nhận xét về phương thuốc đó.  99. Ghép khác với nối  "Chúng  em đang học lớp 11. Sau khi đọc được bài báo về ca mổ ghép bàn tay  thành công lần đầu tiên trên thế giới, chúng em đã tranh cãi. Đứa thì  bảo đúng đây là lần đầu, đứa thì bảo trước đây đã mổ thành công nhiều  trường hợp tương tự. Xin cho biết ai đúng ai sai?".  Hẳn  là các em tranh luận về sự kiện ngày 24/9/1998: Lần đầu tiên trên thế  giới, một ca ghép bàn tay được thực hiện thành công. Bệnh nhân là một  người đàn ông 48 tuổi đã phải cắt cụt bàn tay trước đó 9 năm.  Nguyên nhân gây tranh luận có lẽ là do cả "hai phe" của các em đều chưa nắm chắc hai thuật ngữ "ghép" và "nối".  Đúng  là người ta đã nhiều lần nối thành công bàn tay bị cắt đứt do rủi ro.  Ngay sau tai nạn, bàn tay bị cắt rời được kịp thời chuyển theo người tới  bệnh viện, và kíp mổ đã thực hiện cùng một lúc các phẫu thuật kết  xương, nối mạch máu, nối dây thần kinh, nối cân cơ... Về căn bản, đó là  bàn tay của bản thân cho nên hễ nó "còn sống" là được, chỉ cần luyện tập  cho tốt.  Còn "ghép" là đem bàn tay của  người khác (thường là người vừa mới chết) ghép lên mỏm cụt bàn tay của  bệnh nhân. Đây không phải bàn tay của bản thân nên rất dễ bị đảo thải;  bệnh nhân sẽ phải liên tục dùng thuốc để chống lại hiện tượng đó. Ngoài  ra, do bàn tay bị cụt đã khá lâu nên có thể trên vỏ não không còn vị trí  đại diện của nó; điều này sẽ làm hạn chế chức năng của bàn tay ghép.  Xin  biểu dương cuộc tranh luận của các em. Bởi vì chỉ qua tranh luận, ta  mới phân định được chân lý. Chỉ xin nhắc là trước khi tranh luận, "hai  phe" phải thống nhất về định nghĩa thuật ngữ. Ví dụ: ghép xương (đặt các  mảnh xương, đoạn xương vào ổ gãy, giúp cho xương liền lại) khác với kết  xương (dùng đinh, vít, nẹp... bằng kim loại để cố định nó); giải phẫu  (mô tả hình dạng, vị trí, chức năng của các bộ phận cơ thể) khác với  phẫu thuật (dùng dao kéo để mổ xẻ cơ thể)...  100. Nhìn gà đẻ sẽ bị lang ben?  "Cháu  sợ quá, xin cứu cháu với! Hôm qua, cháu kể với bạn là nhìn thấy gà mái  đẻ trứng; bạn nói rằng ai nhìn gà đẻ sẽ bị bệnh lang ben. Cháu rất sợ  sau này sẽ bị như vậy, vì như bạn cháu nói, lang ben làm cho khuôn mặt  trở nên dễ sợ".  Gà mái đẻ trứng hay  lợn nái sinh con là động tác sinh sản của loài vật. Lang ben là bệnh  ngoài da ở con người. Hai hiện tượng này không liên quan gì đến nhau.  Có  lẽ bạn cháu còn nhầm lẫn giữa bệnh lang ben và bệnh bạch tạng. Lang ben  là một bệnh ngoài da thuộc loại nhẹ nhất; có một số trường hợp tự nhiên  khỏi khi lớn lên. Còn bạch tạng là một bệnh bẩm sinh: một số tế bào bị  mất hắc tố, trở nên trắng bệch. Tổn thương cứ thế lan rộng dần; nếu  chẳng may bị ở mặt thì trông cũng dễ sợ, nhưng bệnh này không lây.  101. Vết chàm trên người  "Từ  lúc lọt lòng, cháu đã có một vết chàm trên người. Khi lớn lên, cháu hỏi  mẹ thì bà bảo "bị đổ chàm vào người vì tội ngang bướng cứ muốn đầu  thai". Lâu nay cháu cứ trăn trở về điều này mà không tài nào hiểu được.  Khoa học có cách gì giúp cháu xóa nó đi không, để khỏi có mặc cảm tội  lỗi?".  Theo thuyết luân hồi, mỗi con  người có nhiều kiếp sống nối tiếp nhau: sinh ra - lớn lên - chết đi -  đầu thai làm con của hai bố mẹ khác để được sinh ra lần nữa... Cứ thế  cho đến khi nào trở nên "hoàn thiện hoàn mỹ" thì được thoát khỏi cảnh  luân hồi, hưởng hạnh phúc vĩnh cửu... Trước đây, khi gặp cảnh trẻ sơ  sinh bị chết yểu liên tiếp, người ta cho là "tại một kẻ đầu thai rồi  chết ngay, lặp đi lặp lại nhiều lần". Do vậy, một số người đổ chàm, đổ  mực tàu lên thi hài đứa con chết yểu đó để đánh dấu, phòng khi nó đầu  thai lại thì nhận ra!  Còn theo giải thích  của khoa học, vết chàm, vết bớt bẩm sinh xuất hiện do hiện tượng đổi màu  của sắc tố da tại vùng đó trong quá trình bào thai. Nguyên nhân của nó  chưa được xác định rõ. Không có chất gì làm cho nó mất đi được. Một số  anh chị em ruột có vết chàm gần giống nhau, có thể do gene.  Như vậy, cháu chẳng tội gì mà phải trăn trở nghĩ ngợi về lời nói không đâu.  102: Phải đề phòng ra sao?  "Ở  thôn cháu, vào khoảng nửa đêm đến 2-3 giờ sáng, thường có một người đàn  ông chuyên đi lấy cắp đồ lót của phụ nữ, có khi chỉ lấy áo hoặc quần  thôi. Mọi người khuyên nên vứt cái quần hay cái áo mà hắn để lại, nói là  để tránh bệnh lậu. Như vậy tên kia bị bệnh gì, và chúng cháu phải đề  phòng ra sao?".  Người hay ăn cắp đồ  mặc trong của phụ nữ để hôn hít, ôm ấp... nhằm tạo khoái cảm tình dục  (thực hiện ngay tại chỗ hoặc mang vào chỗ kín) là người mắc chứng loạn  dâm đồ vật (danh từ chuyên môn là fetishism). Không có gì đảm bảo là họ  không cưỡng bức phụ nữ khi có điều kiện. Vì vậy, các cháu nên cùng gia  đình kín đáo xác định người đó là ai để đề phòng. Trong khi ngủ, bất kể  ngày hay đêm, phải chú ý cài then cửa để phòng nguy cơ bị đột nhập.  Ngoài ra, nên phơi quần áo ở chỗ không ai với tới được.  Có  lẽ lời khuyên của bà cháu là đúng, bởi vì người kia có thể đã "sử dụng"  tại chỗ cái áo hay cái quần kia rồi bỏ lại, và không có gì đảm bảo là  anh ta không mắc bệnh ở cơ quan sinh dục.  103. Chuyện người đẻ ra chuột  "Cháu  nghe đồn là việc dùng băng vệ sinh Tàu sẽ ảnh hưởng không tốt cho sự  sinh sản sau này, thậm chí có người đẻ ra toàn chuột, chuyện đó có đúng  không ạ?".  Khi đặt câu hỏi về chuyện người đẻ ra chuột, chắc cháu đã quên mất các kiến thức sơ đẳng về sinh học.  Cách  đây chừng chục năm, có nhà khoa học đã cho lai được một trường hợp cừu -  dê và có thể sau này, nhờ kỹ thuật gene, người ta có thể tạo ra các  giao loài khác (giao loài là con lai giữa hai loài khác nhau, ví dụ như  bò - lợn).  Tuy nhiên, chuyện tinh trùng  của chuột thụ tinh được cho noãn (trứng chưa thụ tinh) của chị em là  điều quá phi lý. Đó là chưa nói đến chuyện tinh trùng chuột (nằm trong  băng vệ sinh) không thể "thượng thọ" đến thế (tinh trùng của người, nằm  trong cơ quan sinh dục nữ, cũng chỉ sống được có 12-16 giờ).  Còn  về chất lượng băng vệ sinh thì, qua điều tra sơ bộ, người ta thấy loại  có nhãn chữ Trung Quốc (thường được gọi là băng vệ sinh Tàu) mỏng hơn  nên độ thấm kém hơn các loại băng khác; một số trường hợp gây ngứa nếu  không được thay kịp thời; ngoài ra không có gì khác biệt.  104. Đừng nhổ nước bọt  "Tại sao khi em ăn hạt dưa, kẹo..., nước bọt của em tiết ra nhiều, phải nhổ ra liên tục?".  Việc  tiết nhiều nước bọt khi ăn hạt dưa, kẹo... chứng tỏ cơ thể em "mê" các  thứ đó lắm, không sao cả. Nước bọt là một chất dịch quý báu gồm nước,  men tiêu hóa, chất làm tan vi khuẩn..., không ai dại gì đem nhổ đi.  Ngoài ra, động tác nhổ nước bọt là một thói quen không hay ho gì, khiến  những người có văn hóa không thích, thậm chí khó chịu ra mặt. Vì vậy, về  phần em, nếu không cố gắng nuốt được hết nước bọt thì hãy thôi, đừng ăn  vặt các thứ kia làm gì.  105. Hãy cho mồ hôi ra nhiều hơn  "Chừng  vài năm nay tôi hay đi tiểu nhiều, nhất là vào những ngày mát mẻ và sau  khi uống nhiều nước. Bác sĩ khám và cho chụp X quang rồi kết luận là  thận không việc gì, nhưng tôi vẫn lo. Xin nói thêm là tôi không hề tập  thể dục hay chơi thể thao, hễ uống trà là đêm không ngủ được và càng đi  tiểu nhiều lần".  Nếu chắn chắn không  có vấn đề gì ở thận, không phải bệnh tiểu đường hay tiểu nhạt (do rắc  rối ở tuyến yên và nếu vậy phải có hiện tượng thèm uống và lượng nước  tiểu thường xuyên phải rất lớn) thì nguyên nhân rất có thể là do bạn  không hoạt động thể lực. Các tuyến mồ hôi không hoạt động mấy, chỉ ỷ lại  vào hai quả thận nên bạn mới đi tiểu nhiều như vậy (nhớ rằng khi đi bộ  bình thường, mỗi giờ cơ thể thải ra ít nhất 0,5 lít mồ hôi).  Bạn  hãy bắt đầu tập thể dục với mức tăng dần. Về sau, khi thấy quen hơn,  bạn nên tham gia một vài môn thể thao thích hợp. Mồ hôi ra đúng mức thì  nước tiểu sẽ ít đi, và thận của bạn nhẹ gánh biết mấy! Lúc bấy giờ, có  khi bạn phải uống nhiều hơn mới đủ để có nước tiểu đấy. Còn hiện giờ,  bạn hãy hạn chế việc ăn canh, nhất là canh có rau (cải, cải bắp...), đồ  chua (trái cây, yaourt...), giảm bớt lượng nước uống vào (có theo dõi  chặt chẽ) để... phấn khởi bước đầu đã, sau này sẽ điều chỉnh lại. Và dĩ  nhiên bạn không nên dùng trà hay cà phê vì cơ thể bạn thuộc dạng dễ bị  kích thích.  106. Chú ý khi tiếp xúc với chó mèo  "Các  con tôi rất yêu súc vật, đặc biệt là chó, mèo. Bọn trẻ hay hôn hít  chúng, cho ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Tôi thấy ở phương Tây, vật nuôi  cũng được yêu quý và chăm nom như vậy. Gần đây, tình cờ thấy trong phân  mèo có mấy đốt sán ngọ nguậy, tôi mới hoảng hồn. Vậy sán chó, mèo có  lây sang người không?".  Con người  (nhất là trẻ em, người cô đơn, bệnh tật, tàn phế) đã quen với sự có mặt  của các vật nuôi. Ngoài chó mèo, cho tới nay danh sách vật nuôi đã có  thêm nhiều loài thú hoang dã.  Tại các nước  phát triển, người ta luôn theo dõi để phát hiện những ký sinh trùng  trên "vật cưng" (giun sán, bọ chét, chấy rận...) để chúng không thể gây  hại cho người. Thậm chí người ta còn phát hiện những mầm bệnh tiềm tàng  trong cơ thể "vật cưng" để kịp thời chữa trị. Ngoài ra, do thói quen sử  dụng hố xí tự hoại (bệt) từ tuổi ấu thơ, họ giữ cho môi trường đất không  bị các mầm bệnh hay vật ký sinh từ phân xâm nhập.  Ở Việt Nam, tình hình có những khác biệt:  -  Đất ở nước ta hầu hết bị nhiễm phân do nạn phóng uế bừa bãi và do việc  sử dụng phân người một cách tùy tiện (thời gian ủ phân không đủ diệt hết  trứng giun và một số mầm bệnh khác; điều này có thể khắc phục dễ dàng  bằng cách dùng hố xí bệt). Chó mèo giẫm vào đất bẩn nhiều khi vẫn được  leo lên giường ngủ chung với người.  - Do bị đói, chó mèo thường tìm xơi mọi thứ ở mọi nơi, nên miệng chúng không thể là "miệng người yêu dấu" để có thể hôn hít.  -  Chó mèo có thể mắc một số bệnh như cúm, dại, thậm chí có con chó bị lao  hang ở phổi do thường xuyên ăn đờm của bà chủ bị lao nặng.  Bạn  cũng cần biết rằng, trong các con bọ chét của chuột có ấu trùng  Toxoplasma gondii (một loại ký sinh trùng đơn bào). Nếu chó mèo ăn thịt  chuột, ấu trùng sẽ trưởng thành trong ruột non chó mèo, đẻ trứng. Trứng  theo phân ra ngoài, có khả năng gây bệnh trong vòng mấy tháng. Người bị  nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii sẽ có nhiều nguy cơ bị các chứng  sau:  - Sẩy thai, đẻ non, thai nhi bị dị  tật bẩm sinh, chết yểu. Trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm ký sinh trùng này thường  có đầu rất bé, vàng da, lách to, viêm phế quản, động kinh, khiếm thị,  khiếm thính, chậm phát triển trí tuệ... Ở nhiều đứa trẻ, những triệu  chứng trên chỉ xuất hiện sau mấy năm chào đời.  -  Đau mình mẩy, sốt nhẹ, nổi hạch ở cổ hay nách. Các triệu chứng này  thường hết sau một thời gian ngắn; nhưng cũng có trường hợp biến chứng  viêm phổi, viêm não, màng não, tim...(thường gặp ở những bệnh nhân bị  suy giảm miễn dịch).  - Bị một số tổn thương ở mắt.  Con mèo nhà bạn bị sán, vậy con bạn rất có thể đã nhiễm loại sán này.  107. Chống mốc quần áo  "Quần áo cháu mặc hay bị mốc, mặc dù cháu đã cho muối vào nước lúc giặt giũ. Xin cho biết cách xử trí".  Cháu  phải luộc kỹ quần áo để diệt các bào tử nấm (nước muối không ăn thua  đâu); không để quần áo bị mốc lẫn với đồ mới (để nấm mốc không lan  sang). Quần áo thay ra phải giặt ngay và phơi chỗ thoáng, không phơi  sương. Cần tắm giặt hằng ngày.  108. Nghề uốn tóc có nguy hiểm không?  "Cháu  làm nghề uốn tóc được 5 năm nay. Cháu nghe nói việc ăn huyết bò giúp  thải được bụi tóc ra ngoài theo đường phân, có đúng vậy không? Nếu hay  hít mùi thuốc uốn tóc thì có bị nhiễm hóa chất không?".  Nếu  không phải là hàng giả thì thuốc uốn tóc không gây hại cho cả thợ uốn  tóc và khách hàng, vì các sản phẩm này đã được kiểm tra chặt chẽ trước  khi tung ra thị trường. Thuốc nhuộm tóc cũng vậy, hàng giả gây rụng tóc  dần, còn hàng thật thì không.  Khi cắt tỉa  tóc, tuyệt đối cháu phải đeo khẩu trang để tránh hít phải tóc vụn và  những chất bẩn từ đầu người khác. Còn chuyện huyết bò thì cháu hãy quên  đi, vì làm sao mà tóc đang nằm ở đường hô hấp lại chui vào ruột được.  Cháu cứ yên tâm làm ăn, nhớ đừng bao giờ dùng chung khăn cho khách để tránh lây bệnh từ người nọ sang người kia.  109. Bao dương vật có từ bao giờ  Thời  tiền sử, để dương vật khỏi bị gai đâm hoặc côn trùng cắn, đàn ông bảo  vệ nó bằng cách lấy các mảnh vỏ cây dài quấn lại, hoặc dùng một cái vỏ  cứng úp lên, hay đút nó vào một vật hình trụ (tập quán này hiện vẫn tồn  tại ở một số bộ tộc ít người).  Từ thời  xưa, đàn ông đã biết phòng lây bệnh hoa liễu bằng cách dùng các dụng cụ  bảo vệ với những tên gọi khác nhau tùy theo địa phương. Ở Paris (Pháp),  người ta gọi nó là "áo đuôi tôm Anh Quốc". Đối lại, người London (Anh)  gọi nó là "màng ruột già Pháp". Người châu Phi đặt tên cho nó là "mũ đi  rừng"; người Brazin gọi nó là "áo sơ mi nhí"...  Suốt  ba nghìn năm nay, người ta đã dùng bàng quang lợn, ruột cừu, ruột thỏ,  bong bóng cá (đặc biệt của cá tầm và cá heo)... làm bao dương vật để  tránh lây "các bệnh của thần Vệ Nữ".  Từ thế kỷ 10, người Nhật Bản đã sản xuất được những dụng cụ bảo vệ cơ quan sinh dục nam giới bằng da thuộc hoặc vảy rùa.  Năm  1564, trong cuốn sách nhan đề De morbo gallico, chuyên gia tình dục học  nổi tiếng Gabriel de Fallope đã gợi ý nên dùng một dụng cụ hình mũ chụp  có phết một thứ nước lá cây sắc đặc, đặt lên bộ phận sinh dục nam ngay  sau khi giao hợp để tránh mắc bệnh.  Mãi  tới thế kỷ 17, người ta mới dùng bao dương vật vào việc tránh thai. Vua  Charles của Anh và vua Louis của Pháp là những người đầu tiên sử dụng nó  với mục đích này. Từ đó, bao dương vật được phổ biến nhanh chóng. Trong  thời gian này, nó mang một cái tên mỹ miều là "găng tay của quý bà",  được chế tạo bằng ruột hay bàng quang súc vật, đôi khi lót bằng lụa hoặc  nhung (người Trung Quốc thường dùng lụa mỏng thấm dầu). Trong khi giao  hợp, nam giới luôn phải giữ chặt trong tay một dải băng được dính vào  dụng cụ. Mất thoải mái đã đành, dụng cụ này lại không thật đảm bảo, đến  nỗi nữ văn sĩ Pháp Mme de Sévigné phải thốt lên: "Đó là tấm áo giáp  chống lạc thú và là mảnh mạng nhện chống hiểm nguy".  Vào  những năm 70 của thế kỷ 20, triết gia Pháp Condorcet và nhà kinh tế học  Anh Malthus đã rất nhiệt thành bảo vệ chủ trương dùng bao dương vật để  hạn chế sinh đẻ. Từ đó, dụng cụ này trở nên thực sự phổ biến.  Bao  dương vật cũng có những bước thăng trầm, được cải tiến dần về hình dạng  và chất liệu, nhất là từ khi có kỹ thuật lưu hóa cao su. Hiện đã có  những loại cực mỏng và bền chắc, bảo hành 5 năm. Tuy nhiên, người ta còn  muốn yên trí và tiết kiệm hơn nên đã tạo ra một thiết bị nhỏ mang tên  Vérifior kèm theo bao cao su để "kiểm tra, hong khô và quấn lại"  110. Thụ tinh nhân tạo và thụ thai trong ống nhiệm nhằm sử dụng được nhiều lần.  "Bạn  em nói thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm là 2 kỹ thuật  khác nhau, còn em thì cho rằng đó chỉ là 2 tên gọi của một kỹ thuật. Xin  bác sĩ làm trọng tài giùm".  Em thì  chắc chắn sai rồi, còn bạn em cũng không đúng nốt, bởi vì trong đầu bạn  có thể nghĩ đúng nhưng lại lẫn lộn về thuật ngữ. Đã gọi là nhà khoa học  thì không nên dùng sai thuật ngữ khoa học, bởi lẽ thiên hạ sẽ hiểu nhầm  điều mình định giải thích, nguyên nhân do dịch sai thuật ngữ của nước  ngoài.  Thụ tinh nhân tạo (inséminatinon  artificielle) là bơm tinh dịch vào âm đạo đúng giữa ngày rụng trứng, với  hy vọng tinh trùng có thể gặp được noãn tại ống dẫn trứng và thụ thai;  trứng được thụ tinh sẽ đi xuống tử cung để làm tổ và phát triển ở đó.  Như vậy có nghĩa là tuy tiến hành thụ tinh nhưng chưa chắc đã thụ thai.  Tinh dịch có thể tươi (lấy xong đem bơm ngay) hoặc đông lạnh, có thể là  của người khác (vì của người chồng yếu hoặc không có) hay của chính  người chồng (vẫn tốt, nhưng vì độ axit âm đạo người vợ qúa cao, làm chết  tinh trùng, phải bơm "nhân tạo" mới thoát hiểm được).  Thụ  thai trong ống nghiệm (fécondation in vitro) là lấy noãn cho tiếp xúc  với tinh trùng để thụ thai thành trứng; phôi được giữ trong ống nghiệm  chừng 2-3 hôm, khi phát triển thành 4 tế bào thì được đem cấy vào tử  cung (của người mang thai hộ hoặc mẹ ruột). Có thể tiến hành tạo cùng  lúc với nhiều phôi để có 2-3 con, thậm chí đông lạnh phôi để dùng dần.  111. Lợi ích và nhược điểm của nhân bản vô tính  "Kỹ thuật nhân bản vô tính trên động vật mang lại lợi ích thiết thực gì? Nếu nhân bản người thì điều gì sẽ xảy ra?".  Kỹ  thuật nhân bản vô tính (NBVT) được hiểu một cách khái qúat là: Lấy 1 tế  bào thông thường trên cơ thể của con đực hay con cái, rút nhân. Lấy 1  noãn của con vật khác cùng loài, bỏ hết nhân rồi cho nhân kia vào; khi  nó phát triển thành phôi 4 tế bào thì đem cấy vào dạ con. Như vậy, vật  liệu di truyền của cá thể mới sẽ chỉ có nguồn gốc từ một người, bố hoặc  của mẹ; cái noãn này chỉ "nuôi giùm" mà thôi.  Trên  động vật, NBVT mở ra triển vọng phục hồi một số giống loài đã tuyệt  chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng; đem lại tính đa dạng cho quần thể  động vật trên hành tinh, qua đó nghiên cứu sâu hơn các quy luật tiến  hóa. Kỹ thuật NBVT động vật gặp một trở ngại lớn chưa khắc phục được:  Các con vật được nhân bản đều chết sớm sau khi chào đời.   Trên  con người, việc NBVT các phủ tạng sẽ tạo thuận lợi cho việc thay thế  các cơ quan hư hỏng trong cơ thể mà không phải sử dụng thêm thuốc chống  thải loại như hiện nay (vì là "của chính mình" nên được dung nạp dễ  dàng). Qua đó, có thể tiến hành thử nghiệm các phương thức điều trị và  ngăn ngừa bệnh tật, khắc phục các khuyết tật.  Và dường như nhân loại buộc phải dừng lại ở đó. Bởi lẽ:  -  Những cá thể sinh ra do NBVT là bản sao nguyên xi của bố hoặc mẹ, không  có cá tính riêng; không tiến hóa, mà đã không tiến hóa thì phải chịu  đào thải theo quy luật.  - Người con thu được bằng NBVT chỉ sống được phần còn lại của cuộc đời bố hay đời mẹ mình, như đã nói ở trên.  - Việc NBVT trên người bị các nhà đạo đức học và các tổ chức tôn giáo phản đối quyết liệt.  112. Hươu cao cổ và cơ quan NASA  "Chúng em nghe nói người Mỹ đang nghiên cứu hươu cao cổ để chuẩn bị đưa nó lên vũ trụ, có đúng không?".  Chắc  các em nghe nhầm. Trong điều kiện hiện tại, việc đưa các sinh vật bậc  thấp (tảo, vi khuẩn, côn trùng...) vào vũ trụ để nghiên cứu cũng phải  tính toán cẩn thận, nói gì đến chuyện đưa những động vật bậc cao cùng đi  với con người. Hươu cao cổ mới lọt lòng đã có chiều cao 2 m, cân nặng  trung bình 60 kg, cồng kềnh hơn cả nhà du hành.  Tuy  nhiên, chuyện nghiên cứu hươu cao cổ nhằm phục vụ cho công cuộc chinh  phục vũ trụ ở Mỹ lại là điều có thật. Từ năm 1985, các nhà khoa học tại  Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã chú ý đến những đặc tính quý báu  của hươu cao cổ: Chúng cao từ 5 đến 6 m, có áp lực cột máu rất lớn; quả  tim cực khỏe, nặng tới 11 kg, mỗi phút bơm được ít nhất 60 lít máu. Hệ  cơ vòng dọc theo động mạch cổ của con vật cho phép nó đưa máu lên tận  cái đầu ở tít trên cao. Tĩnh mạch của hươu cao cổ có những van đặc biệt  giúp cho áp lực máu không thay đổi quá đột ngột mỗi khi con vật cúi đầu,  vì những thay đổi này nếu xảy ra sẽ làm nó ngất xỉu. Chân của hươu cao  cổ, nơi áp lực máu rất lớn, có một hệ thống mao mạch rất chắc giúp tránh  được hiện tượng phù thũng.  Đó là những  đặc tính mà các nhà du hành vũ trụ ước ao có được, bởi lẽ họ phải chịu  đựng hiện tượng gia tốc trọng trường khi xuất phát và tình trạng vô  trọng lực khi sống trên quỹ đạo.  Các nhà  khoa học của NASA đã cho bắt 8 hươu cao cổ để nghiên cứu. Hai con được  phẫu tích để xem xét cấu trúc cơ thể, đặc biệt là bộ máy tuần hoàn. Sáu  con được cài đặt các ống thông vào mạch máu và đeo một máy phát tín hiệu  ở cổ rồi được thả ra để theo dõi. Kết quả thu được đã giúp họ cải tiến  bộ quần áo bảo vệ cho các nhà du hành vũ trụ.  113. Bệnh thấp tim  "Bệnh thấp tim nên chữa bằng Đông y hay Tây y, sau khi chữa khỏi có bị di chứng gì không?".  Hiện  nay, Tây y đã có thuốc hữu hiệu chữa bệnh thấp khớp và ngăn ngừa thấp  khớp tái phát. Người bệnh cần nghiêm túc thực hiện phác đồ điều trị và  trở lại tái khám đúng hẹn. Bên cạnh đó, nếu có những bài thuốc gia  truyền đã qua ứng dụng nhiều đời, không gây nguy hiểm thì dùng phối hợp  thêm cũng tốt.  Người bệnh thấp khớp dù đã  được chữa trị vẫn phải luôn cảnh giác với nguy cơ tái phát. Nên nhớ rằng  bệnh càng tái phát nhiều lần, nguy cơ đối với tim càng cao.  114. Đeo đá quý sẽ bị ung thư?  "Nhân  dịp kỷ niệm đám cưới vàng, tôi định mua tặng bà xã một sợi dây chuyền  mặt kim cương rất đẹp mà giá rẻ; nhưng lại nghe nói đeo đá quý sẽ có  ngày bị ung thư nên tôi vẫn chưa quyết. Có thật thế không, hay đây là  tin đồn thất thiệt trước việc nước ta bắt đầu khai thác đá quý?".  Không phải tin đồn nhảm để phá hoại kinh tế đâu, nhận định "đeo đá quý có ngày bị ung thư" xuất phát từ một sự thật khoa học.  Đá  quý để nguyên thì không phóng xạ, nhưng màu sắc thường không đẹp lắm.  Nếu đem đá quý vào máy gia tốc hay lò phản ứng hạt nhân để bắn phá bằng  hạt neutron, màu sắc của nó sẽ đẹp hơn, đa dạng hơn, bán được nhiều tiền  hơn, nhưng chúng lại trở thành nguồn phóng xạ ở mức rất cao. Do vậy,  người ta phải lưu giữ trong kho an toàn trên dưới 24 tháng để chúng giảm  nồng độ phóng xạ, lúc bấy giờ mới đem ra bán.  Mức phóng xạ cho phép đối với đá quý lưu hành ở Mỹ là 1 nanocurie/g, ở Việt Nam và các nước khác 2 nanocurie/g.  Nếu  không lưu kho (do sợ hàng tồn đọng lâu sẽ lãi ít), những viên đá quý  này có mức phóng xạ tới 52 nanocurie/g, nghĩa là cao gấp 26 lần quy định  của Việt Nam và gấp 52 lần quy định của Mỹ. Khi đeo liên tục hoặc tiếp  xúc nhiều với những "của quý giết người" này, người ta sẽ có nguy cơ bị  ung thư da, xương, máu.  Tiếc rằng vì thiếu  kiến thức và ham rẻ, nhiều người đã mua dùng chúng và mang họa vào  thân; và vì thiếu kiểm tra ngăn chặn, Việt Nam đã để cho bọn gian thương  tuồn những của nợ này vào nội địa.  Về  phần bác, nếu giàu có thì nên mua đá quý đắt tiền tại một hiệu kim hoàn  đáng tin cậy. Nếu chưa giàu, bác hãy mua một tặng vật khác, đừng giây  vào thứ "đá quý sát nhân" kia.  115. Nhân điện cũng là một phương pháp chữa bệnh  "Gần  nhà chúng em có một điểm chữa bệnh bằng "nhân điện" khá nhộn nhịp. Thầy  thuốc chữa bằng cách đặt tay lên đầu, lưng và một số điểm ở tay chân  bệnh nhân. Thoạt đầu, chúng em không tin, về sau thấy không nhất thiết  phải trả tiền nên đã thay nhau vào "thử" (đứa bị đau răng, đứa sưng khớp  cổ tay hoặc nhức đầu...). Ngay lần đầu tiên, mấy đứa đã thấy đỡ, và sau  bảy lần thì tất cả đều hết bệnh! Xin cho biết về phương pháp chữa bệnh  lạ lùng này".  Phương pháp chữa bệnh  mà các em cho là lạ lùng đó đã trở nên khá quen thuộc tại một số nước. Ở  Mỹ, có nhiều trường về phương pháp nhân điện. Ở nước này, nhân điện  (chữa trị bằng năng lượng sinh học, Bioenergotherapy) được coi như một  phương pháp bổ sung cho y học hiện đại, được pháp luật cho phép.  Nguyên  tắc của phương pháp nhân điện rất đơn giản và dễ hiểu: Con người tồn  tại không chỉ nhờ đồ ăn, nước uống, không khí mà còn nhờ nguồn năng  lượng vô tận của vũ trụ. Năng lượng này ra vào cơ thể qua một hệ thống  luân xa (Chakra, tiếng Phạn có nghĩa là "bánh xe quay"). Nếu chúng lưu  thông tốt, con người sẽ khỏe mạnh, chống lại được mọi tác động; nếu việc  vận hành của năng lượng bị rối loạn thì bệnh tật xảy ra. Hệ thống luân  xa có tận cùng là bằng các huyệt châm cứu, cũng vô hình như bản thân nó.  Con  người có thể luyện tập để năng lượng được vận hành mạnh mẽ qua cơ thể  mình, chẳng những làm cho bản thân tráng kiện, không ốm đau, tự chữa  được bệnh của mình và của người khác mà còn truyền được khả năng này  sang một số người.  Điều đã xảy ra với các  em là hệ quả của sự vận hành nói trên, chẳng phải thần bí gì hết; bước  vào tuổi trưởng thành, các em có thể có sức mạnh ấy nếu biết luyện tập  đúng phương pháp. 
  297. Tai chảy nước vàng  "Tai chúng cháu hay bị chảy nước vàng, nhỏ nhiều lần bằng nước ôxy già chỉ đỡ mà không hết. Có cách gì chữa được không?".  Sau  mỗi lần tắm hoặc gội đầu, các cháu hãy dùng que quấn bông vô khuẩn  (đựng trong túi nhỏ, có bán tại các hiệu thuốc) thấm tai cho khô, rồi  dùng một que quấn bông khác nhúng rượu chấm vào. Cháu sẽ thấy tai hơi  bừng bừng chốc lát, không sao (bình thường dùng cách này để lấy ráy tai  rất tốt). Sau đó dùng một trong hai cách chữa sau đây:  1.  Lấy vài hạt cau khô sạch giã thành bột mịn; lấy giấy bìa làm một cái  phễu nhỏ để "rót" một ít bột hạt cau vào sâu trong tai. Nên giữ sẵn  những hạt cau tốt, không mốc, sạch, phơi thật khô, cất vào lọ kín hay  túi nylon để dùng dần.  Những hôm không có điều kiện tắm cũng thực hiện như trên, cho đến khi đỡ hẳn thì thưa dần ra.  2.  Hành củ khô bóc bỏ vỏ, rửa sạch, giã nát, cho vào một mẩu gạc nhỏ, nhẹ  tay nhét sâu vào lỗ tai, để một đêm. Chú ý: Lúc đầu thấy tai hơi bừng  bừng, cứ yên trí, lát sau sẽ hết và ngủ yên.  298. Cục ráy tai lâu năm   "Từ  nhỏ, cháu không chú ý vệ sinh cho nên để ráy tai đóng chặt cả hai lỗ  tai. Cháu đã nạy được một bên, còn bên kia chắc quá không tài nào nạy ra  được, cứ để thế này chắc cháu sẽ bị điếc mất".  Cháu không được nạy khô một cách "tàn bạo", cũng không nên gửi gắm cho các ông thợ cạo, để tránh gây tổn thương tai.  Hãy  tìm mua một lọ glycérine hay glycérine boraté (thường dùng trong chuyên  khoa tai mũi họng), nhỏ vào tai cho đến khi thấy ráy không hút nước  nữa, hôm sau lại nhỏ tiếp. Sang ngày thứ ba hoặc thứ tư, nhờ ai đó dùng  kẹp y tế lôi ra cả cục ráy lưu cữu bao năm nay.  Nếu không có glycérine, có thể dùng dầu paraffine, nhưng phải nhỏ nhiều ngày hơn.  Nếu  không có các thứ nói trên thì ngay sau mỗi lần tắm gội hoặc nhỏ nhiều  nước vào tai (làm cho phần ráy ở ngoài cùng bị mềm ra), cháu có thể dùng  đầu cong của chiếc cặp tóc nhỏ lấy dần mỗi lần một ít, không được sốt  ruột muốn lấy hết ngay.  Nếu cảm thấy khó thực hiện an toàn các phương pháp trên, cháu nên nhờ bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng lấy ra hộ.  299. Viêm tai xương chũm  "Cháu  22 tuổi, từ nhỏ bị viêm tai giữa. Gần đây, bác sĩ cho chụp X-quang và  phát hiện viêm xương chũm hai bên, có chỉ định mổ, nhưng cháu sợ. Hiện  nay, mặc dù dùng kháng sinh liều cao, cháu vẫn thấy đau hai bên tai và  nhức đầu nhiều. Xin cho biết: Nếu mổ thì vết sẹo có xấu không và về già  có bị điếc không?".  Trong trường hợp  của cháu, nhất thiết phải phẫu thuật nạo xương chũm thì bệnh mới khỏi,  và phải khẩn trương lên để tránh các tai biến cho tai và cho não.  Hai vết sẹo sẽ được tóc xõa xuống che kín, không sao.  Còn về già, theo lẽ trời đất, người nào cũng bị "kém nghe" ít nhiều, có gì đâu mà lo xấu hổ.  300. Chảy máu cam  "Em  là con trai, 16 tuổi, cách đây 2 năm có chảy máu cam, gần đây lại bị.  Có phải em cao huyết áp? Có cách gì chữa chảy máu cam?".  Em nên thường xuyên dùng những thứ sau đây:  -  Các loại rau quả "làm mát" như rau sam (luộc, xào tái), rau má (nấu  nước uống, ăn sống, nấu canh, luộc), mướp đắng (nấu các món ăn)...  -  Các loại quả có vị chua như cam, quýt, bưởi, quất (quả tắc)... Các loại  quả này cung cấp vitamin C, giúp cho thành mạch máu được vững chắc. Có  thể dùng thêm vitamin C 200-500 mg/ngày, uống lúc no.  -  Nếu có điều kiện, hằng ngày em có thể ngậm 5 g tam thất (thứ thiệt, màu  đen, rất cứng). Lấy dao sắc chặt thành lát mỏng, đem đặt vào dưới lưỡi  cho "tan" dần. Thuốc sẽ thấm qua niêm mạc miệng, đi trực tiếp vào máu,  không bị dịch tiêu hóa tác động như khi uống.  Khi chảy máu cam, lập tức chườm khăn lạnh lên trán, nằm ngửa thoải mái, nhét một cục bông sạch vào lỗ mũi.  Luôn luôn nhớ đừng phơi đầu trần ra nắng.  Chứng chảy máu cam của em không phải do cao huyết áp gây nên.  301. Tổn thương dây thanh đới khi mổ  "Trước  đây tôi bị bướu cổ, đã được mổ (1 năm trước). Sau khi mổ, tôi nói rất  khó nghe, giọng nhỏ, khàn, uống nước hay bị sặc; nội soi thấy dây thanh  đới trái bị liệt, phễu sụp. Được một số cơ sở y tế cho chữa trị, luyện  giọng, tôi đã đỡ mệt hơn khi nói nhưng giọng vẫn khàn và rất nhỏ, khó  nghe. Là một cô giáo, tôi đã phải chuyển sang công tác thư viện".  Bạn  bị tổn thương dây thanh đới trong phẫu thuật. Để tránh lỗi này, những  phẫu thuật viên lo xa và thận trọng thường mổ gây tê tại chỗ, nhờ vậy,  họ có thể hỏi han bệnh nhân để kiểm tra.  Trong  phẫu thuật cắt bướu cổ, bệnh nhân còn có nguy cơ bị cắt nhầm tuyến cận  giáp (nhỏ như hai hạt đỗ, nằm ngay sau tuyến giáp). Nếu tình huống này  xảy ra, bệnh nhân sẽ thiếu canxi huyết vĩnh viễn, phải tiêm bổ sung định  kỳ, nếu không thì co quắp hết tay chân.  Vì  những nguy cơ đó mà phẫu thuật bướu cổ nhìn qua tưởng dễ nhưng sự thực  lại rất tinh tế, đòi hỏi có đầy đủ kiến thức giải phẫu học và tay nghề  vững vàng. Trước đây, những phẫu thuật viên còn non tuổi nghề không được  làm phẫu thuật này.  Sở dĩ từ sau khi mổ,  các bác sĩ vẫn tiếp tục chữa cho bạn là do họ hy vọng dây thanh đới của  bạ chỉ bị đụng chạm hay chèn ép, có thể hồi phục phần nào. Bây giờ thì  đã rõ: dây thanh đới trái đã bị cắt đứt.  Do  vậy, hiện nay công tác thư viện là hợp với bạn nhất. Trong thư bạn ao  ước được trở lại bục giảng, vậy chắc chắn nhiệt tình đó đối với học sinh  sẽ được thể hiện trong những việc cụ thể hằng ngày bên các cuốn sách mà  bạn cho các em mượn, kèm theo những lời khuyên bổ ích.  Với  những tiến bộ của vi phẫu, phẫu thuật thần kinh và kỹ thuật nuôi cấy mô  (tạo thêm được các loại tế bào mà bản thân bị thiếu, trong đó có tế bào  thần kinh), bạn có thể hy vọng vào một ngày nào đó, chắc không xa lắm  đâu, các nhà ngoại khoa giỏi giang của nước nhà có thể nối lại dây thanh  đới cho bạn  302. Tự chữa viêm xoang sàng có mủ  "Tôi  bị viêm xoang sàng có mủ nên bị đau đầu nhiều, chữa thuốc tây chỉ đỡ  được một thời gian. Xin cho biết có cách chữa trị hữu hiệu?".  Xin  mách bạn một cách chữa viêm xoang có mủ của Lương y Hoàng Duy Tân, được  một số bà con vận dụng có kết quả. Bài này gồm 3 vị thuốc nam (gừng  tươi, ngó sen, hạt ké đầu ngựa) và 1 vị thuốc bắc (tân di). Cách dùng  như sau:  - Gừng tươi 6 g, ngó sen 30 g giã  nát, đắp lên hai bên má cạnh mũi (cẩn thận, không để gừng giây vào  mắt); sau một lát thấy buồn nôn và ọe ra mủ. Mỗi ngày tiến hành 2 lần  như trên (vào sáng và tối, nhớ phải dùng tươi) cho đến khi hết mủ.  Tiếp  theo, củng cố kết quả bằng cách lấy hạt ké đầu ngựa rang giòn, tán  thành bột và tân di (trọng lượng bằng phân nửa hạt ké) sao khô, tán  thành bột, trộn lẫn, cho vào lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần  (sáng, tối), mỗi lần 2 thìa cà phê, chiêu với nước ấm. Dùng khoảng 2  tháng.  303. Tự chữa viêm họng hạt mạn tính  "Cháu  bị viêm họng hạt mạn tính, đã dùng nhiều loại thuốc kháng sinh, một lần  được đốt tại khoa tai mũi họng nhưng vẫn không hết, thường xuyên thấy  ngứa, vướng ở cổ và bị ho".  Cùng với  việc thường xuyên giữ vệ sinh răng miệng (đánh răng ngay sau mỗi bữa ăn,  thỉnh thoảng ngậm nước muối loãng rồi súc mạnh...) và giữ ấm ngực, cổ,  cháu hãy thử dùng vị thuốc dễ kiếm sau đây (mà dân gian thường dùng chữa  một số bệnh, trong đó có viêm họng hạt):  Thân  và rễ tươi cây rẻ quạt (còn gọi là cây xạ can, tên khoa học Belamcanda  sinensis Lem, thuộc họ Lay ơn) 30 gam, cho vào 1 lít nước, đun trên lửa  nhỏ cho đến khi còn 400 ml, chia làm 2 lần uống trong ngày, dùng liên  tục trong một tháng.  Có thể tìm thấy cây rẻ quạt mọc hoang hoặc được trồng làm cây cảnh.  304. Cắt amiđan có làm hết viêm họng không?  "Cháu  là con trai, 19 tuổi, bị viêm amiđan, lâu lâu trời lạnh thì nó lại  hành, làm cháu bị đau họng, nhức đầu, sổ mũi. Có cách gì chữa trị ngoài  việc cắt amiđan?".  Amiđan thỉnh  thoảng sưng to, gây sốt, ho, đau họng thì đúng. Và nếu vậy thì việc dùng  kháng sinh đủ liều sẽ có công hiệu. Nhưng không phải hễ bị sốt, ho, đau  họng là đổ lỗi cho amiđan.  Khi thấy những  triệu chứng nói trên, cháu có thể tự mình kiểm tra amiđan trước gương  (há to miệng, đè lưỡi xuống). Nếu amiđan không sưng thì hoặc là cháu bị  viêm họng thông thường do cảm lạnh, do dị ứng với thời tiết, hoặc viêm  họng do bệnh cúm (trường hợp này sẽ có nhức đầu dữ dội kèm theo nhức mỏi  toàn thân, chảy nước mũi). Nên uống vitamin C liều cao (1,0-1,5 g/ngày)  trong dăm bảy hôm; chỉ cần giữ vệ sinh răng miệng mà không cần dùng  kháng sinh.  Chỉ đặt vấn đề cắt amiđan nếu  là amiđan có hốc mủ, hay sưng to, hoặc đã có lần gây biến chứng viêm cầu  thận cấp (thường gặp ở trẻ em).  Như vậy,  có thể đã cắt amiđan rồi mà vẫn không tránh được viêm họng. Cháu cần giữ  gìn để không bị cảm lạnh, và đeo khẩu trang khi giao tiếp trong thời  gian có dịch cúm tại địa phương mình.  305. Khi có dị vật vào mắt  "Cháu  27 tuổi, hồi học lớp 5 bị một hạt cát từ cửa sổ bay vào mắt trái. Cháu  cứ thế giụi mạnh, đến bệnh viện thì mắt trái đã bị hỏng. Liệu sau này  con cháu sinh ra có việc gì không?".  Hậu  duệ của cháu sẽ không việc gì hết. Nhưng hãy nhắc mọi người: khi có vật  gì bay vào mắt, tuyệt đối không dùng tay giụi, mà chớp mắt mạnh nhiều  lần liên tiếp để làm cho dị vật "trôi" vào khóe mắt, rồi nhẹ nhàng dùng  khăn mềm sạch gạt nhẹ ra.  Trường hợp thấy  cay mắt, lấy ngay một cốc nước sạch, nhúng con mắt vào và chớp liên tục,  để làm rã chất đó (có thể là hóa chất hoặc chất tiết của côn trùng).  Nếu vẫn thấy vướng, dùng một que bông sạch gạt nhẹ xuống khóe mắt và lấy  ra (soi gương tự làm hoặc nhờ người khác).  Nếu dị vật trong mắt vẫn còn, nhất thiết phải tới một cơ sở nhãn khoa để được xử trí kịp thời.  Một  mẹo nhỏ: Khi bị bụi vào mắt, nhắm ngay mắt đó lại, rồi vừa chớp mạnh  vừa thè lưỡi ra liếm liên tục vào khóe môi bên đối diện; dường như động  tác này làm cho dị vật trôi xuống khóe mắt.  306. Nhìn vào mắt đau có bị lây bệnh không?  "Tại  sao khi có người bị đau mắt đỏ, nếu ta nhìn thẳng vào mắt họ thì ta  cũng bị? Bạn em đau mắt phải nghỉ học, em tới thăm, nhìn vào mắt bạn  thấy đỏ như miếng tiết, em thương quá cứ nhìn mãi vào, chỉ hôm sau là bị  ngay! Có thuốc gì chữa cho chóng khỏi?".  Một  số người khá đông cũng nghĩ như em, nhưng không phải như vậy đâu. Khi  ta tiếp xúc với bệnh nhân, thường tay ta bị dính dử mắt của họ mà không  hay biết (do người đó giây ra tay rồi tới bắt tay, giây ra sách vở rồi  ta giở sách vở), sau đó không rửa tay và vô ý giụi mắt, đưa mầm bệnh  vào.  Bệnh đau mắt đỏ rất dễ lây lan, đôi  khi phát triển thành dịch. Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Chủ yếu là  nhỏ mắt bằng nước muối đẳng trương nhiều lần trong ngày.  307. Mổ mộng thịt  "Cháu  là con trai, 19 tuổi. Từ bé, trong mắt trái của cháu mọc lên một cái  mộng thịt, tới nay đã bằng đầu đũa, rất cộm, làm cháu rất bi quan. Xin  cho cháu biết phải làm gì, vì cháu đang lo học hành để thi tốt nghiệp".  Cháu  cứ yên tâm học cho tốt mà thi tốt nghiệp; và thưa với gia đình liên hệ  với Viện mắt Trung ương (85 phố Bà Triệu, Hà Nội) hoặc Viện mắt TP HCM  (đường Điện Biên Phủ, quận 3), xin hẹn khám và mổ mộng thịt vào dịp nghỉ  hè tới, sau khi thi xong.  Mổ xong, chắc  chắn mắt cháu sẽ hết cộm và nhất là không còn nguy cơ gì đối với sức  nhìn về sau. Mổ gây tê tại chỗ, và không phải nằm viện.  308. Tật cận thị  "Con  trai tôi 15 tuổi, đã thi đỗ vào trường chuyên toán. Cháu rất ham học.  Tôi đã hạn chế và ngăn cản tính ham học của cháu vì sợ ảnh hưởng đến đôi  mắt. Tôi nhận thấy ở độ tuổi con tôi, nhiều cháu đã phải đeo kính cận,  có cháu đeo tới số 2, số 3, tất cả đều do quá ham học. Xin hỏi có thuốc  gì phòng và chống được cận thị không? Nếu bị thì cách xử lý ra sao?".  Ngoài  nguyên nhân di truyền từ bố mẹ, phần lớn trường hợp cận thị là do mắc  phải, do trẻ nhìn mọi vật quá gần. Bác thử quan sát xem, nhiều cháu mẫu  giáo vẽ tranh mà mắt gần như dán vào tờ giấy. Nhiều cháu tập viết mà cúi  sát mặt vào trang vở. Đó là chưa kể nơi học thiếu sáng, nhất là tại  những nơi chưa có điện.  Cách dự phòng duy nhất là: Người lớn thường xuyên nhắc nhở, giám sát, tạo cho trẻ thói quen không nhìn mọi vật quá gần.  Cách  chữa thông thường nhất: Phát hiện thật sớm tật cận thị và đeo kính đúng  số. Trong trường hợp cận nhẹ, chỉ phải đeo kính khi ra đường (khi phải  nhìn xa), còn ở lớp chỉ cần được thầy cô cho ngồi bàn trên cùng đủ nhìn  lên bảng.  Trường hợp của cháu, bác nhớ cho  ăn đủ chất, lo đủ ánh sáng cho cháu học hành và nhắc cháu cảnh giác với  tật cận thị. Nếu có chút nghi vấn, bác cho cháu đi kiểm tra thị lực;  nếu cần thì cho đeo kính luôn, không xấu trai đi đâu, mà lại có vẻ "bác  học" nữa cơ đấy!  Hiện đã có máy Laser  Excimer tại một số cơ sở ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh giúp xử trí các tật  khúc xạ (cận thị từ -1 đến -20 D; viễn thị từ +1 đến +10 D; loạn thị từ 1  đến 7 D) cho lứa tuổi 18-45. Sau này, khi cháu lớn lên, nếu cần, bác có  thể cho cháu đi chữa bằng máy đó, chỉ mất 7-10 phút và lưu lại bệnh  viện 1-2 giờ là êm đẹp, sau đó sẽ không còn phải dùng kính.  Bác đừng ngăn cản, trái lại phải thường xuyên động viên cháu chăm học hơn, vì mấy lẽ:  -  Nguyên nhân gây nên tật cận thị là do thói quen nhìn gần, chứ không  phải do chăm học. Nhiều cô cậu lười học mà vẫn bị cận thị do suốt ngày  chui vào xó xỉnh tối tăm để đọc tiểu thuyết, hoặc mê mẩn trước màn hình  với những trò chơi điện tử ùng oàng vô bổ.  -  Nếu thấy bố mẹ không khuyến khích, thậm chí phản đối đức tính chăm học  của mình, dần dà cháu sẽ nản chí, hoặc lười thật sự "cho bố mẹ vui  lòng", hoặc giả vờ lười rồi chúi mũi học bù tại những nơi thiếu sáng, sẽ  vô cùng tai hại cho đôi mắt.  - Có thể  cháu sắp sửa hoặc đã bước vào tuổi dậy thì, sẽ có nhiều biến động trong  cuộc sống riêng tư. Nếu không duy trì được đức tính quý báu này thì cháu  dễ sa đà vào những thú vui vô bổ do bạn bè rủ rê.  309. Cận thị đơn thuần  "Cháu  là con trai, hơn 16 tuổi, mới bị cận thị phải mang kính -0,75 D; sau  gần một tháng thấy vẫn nhìn kém, cháu đi đo lại và mang kính -1,5 D; một  tháng rưỡi sau lên thì vọt lên -2,25 D. Cháu lo lắng thấy mắt tăng số  quá nhanh. Liệu bệnh cháu có chữa được không?".  Chắc  không phải mắt cháu tăng số nhanh, mà nhiều khả năng trong những lần  đầu, cháu cảm nhận không thật chính xác về thị lực của mình nên kết quả  đo không đúng.  Không sao, từ nay, nếu cháu  đeo kính đều đặn khi phải nhìn xa thì số kính của cháu sẽ ổn định hoặc  tăng chậm, và mức cận cuối cùng không cao. Bởi vì tình trạng của cháu là  cận thị đơn thuần (còn gọi là cận thị học đường, dưới - 6 D, xuất hiện  lúc 6-10 tuổi và tiến triển trong những năm sau đó) chứ không phải cận  thị bệnh (từ - 7 D trở lên, có thể tới - 30 D, bao giờ cũng đi kèm những  tổn thương trong nhãn cầu như: xuất huyết vùng điểm vàng, teo hắc mạc,  thoái hóa võng mạc...).  Trường hợp của  cháu trước mắt chỉ cần đeo kính, có theo dõi cẩn thận để đeo kính phù  hợp. Khi được 18 tuổi, nếu cần, cháu có thể chữa bằng máy Laser Excimer.  310. Mắt lác  "Em  bị hiếng một mắt từ nhỏ nên rất mặc cảm và xấu hổ, nay đã 21 tuổi rồi  mà vẫn ngại tiếp xúc với các bạn khác giới. Xin cho biết có chỉnh được  không và làm ở đâu, chi phí có nhiều lắm không vì nhà em rất nghèo?".  Từ  nhiều năm nay, Viện Mắt Trung ương vẫn tiến hành mổ lác (mổ chỉnh lại  cơ của mắt) cho cả trẻ em và người lớn. Em nên biên thư liên hệ trước để  khỏi phải chờ đợi tốn kém.  Đây là cơ sở y  tế của Nhà nước, phục vụ tận tình, chi phí cho mỗi ca mổ khoảng trên  dưới 100.000 đồng; người lớn mổ xong không phải nằm lại.  311. Nên mổ đục thủy tinh thể (cườm)  "Bà  nội cháu đã trên 60 tuổi, bị đục thủy tinh thể nên nhìn cứ mờ dần. Nghe  nói nếu mổ sẽ thấy rõ, nhưng bà cháu sợ. Xin cho biết bà cháu có nên mổ  không?".  Rất nên. Sang thế kỷ 21  rồi, chắc chắn tuổi thọ con người sẽ kéo dài thêm nhiều; mắt bà phải  sáng để còn nhìn xem con cháu ăn nên làm ra chứ.  Thủy  tinh thể giống như chiếc kính lúp trong suốt, nếu chất bên trong bị vẩn  đục, ánh sáng đi qua sẽ bị ngăn cản, làm cho mắt ta nhìn mờ.  Cháu  nên nói gọn cho bà cách thức mổ như sau: Nhỏ thuốc tê vào mắt; máy  phaco hiện đại giúp bác sĩ rạch 1 đường 3 mm trên mắt để đưa đầu máy  vào. Sóng siêu âm của máy sẽ làm cho thủy tinh thể đục bị nhuyễn ra, rồi  được dòng nước liên tục chảy của máy đưa ra ngoài. Sau đó, bác sĩ lắp  thủy tinh thể nhân tạo vào thay thế. Thời gian mổ không quá 15 phút,  bệnh nhân không phải nằm viện.  Gia đình  nên sớm đưa bà về Viện mắt Trung ương hoặc Viện mắt TP Hồ Chí Minh (nếu ở  phía Nam) để mổ, không nên để muộn vì kết quả sẽ không tốt.  312. Bị mòn cổ răng  "Chiếc  răng hàm dưới (chỗ gần sát với lợi) của em có một vòng ở chân, càng  ngày càng ăn lõm vào, làm em rất buốt khi ăn đồ ngọt hay uống nước lạnh.  Xin cho biết có phải sâu răng không và có chữa được không?".  Có nhiều khả năng em bị mòn cổ răng, ban đầu có thể chưa phạm vào tủy răng; nhưng nếu để muộn, tủy răng sẽ dễ bị tổn thương.  Nếu  tủy răng còn lành lặn, nha sĩ sẽ trám chỗ cổ răng mòn bằng chất  composit để bảo vệ răng. Loại vật liệu mới này dính chắc, bền, chịu đựng  được hiện tượng mài mòn, lại rất nhiều màu phù hợp với màu răng.  Nếu  tủy đã bị tổn thương, hướng điều trị sẽ giống như đối với sâu răng. Nếu  chữa bảo tồn (để giữ được răng) thì có thể trám tiếp chỗ cổ răng bằng  chất composit.  Vậy em nên khẩn trương đến một cơ sở nha khoa hiện đại hoạt động tốt để xin chữa mới kịp.  313. Sâu răng  "Tại  sao lại bị sâu răng, con sâu từ đâu tới? Em bị sâu răng hàm trên cách  đây một năm nhưng bây giờ mới buốt, chữa bằng cách nào là nhanh nhất?".  "Sâu  răng" là một từ dân gian quen dùng chỉ bệnh "hà răng". Bệnh do nhiều  nguyên nhân gây ra, và chủ yếu là kém vệ sinh răng miệng, khiến lớp  ngoài của răng (men răng) bị hư hại, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công  răng từ nhẹ đến nghiêm trọng (áp xe...).  Em  nên đi khám răng ngay để "duyệt lại" toàn bộ. Nha sĩ sẽ lựa chọn cách  xử lý tùy mức độ tổn thương. Trường hợp của em nhiều khả năng được chữa  bảo tồn. Nếu để muộn nữa, tủy răng bị tấn công, việc chữa trị sẽ khó  hơn, lâu hơn và khá đau. Khi quá muộn thì có thể phải nhổ bỏ răng sâu.  Có  thể lần này bác sĩ sẽ lấy bỏ cao răng cho em (đó là một chất vôi bám  vào chân răng và gây hại cho cả lợi lẫn răng), giúp cho hàm răng em trở  nên "dễ bảo quản" hơn trước.  Từ nay, em  nên tập thói quen chải răng sau mỗi khi ăn (nhất là bữa tối, vì ban đêm  vi khuẩn có nhiều thời gian hoạt động phá hoại) và lúc mới ngủ dậy. Dùng  thuốc đánh răng có chứa fluor thì tốt, vì chất này giúp bảo vệ răng.  Đừng dùng tăm cứng chọc qua kẽ răng, gây tổn thương lợi và làm cho khe  lợi bị rộng ra, ảnh hưởng đến răng. Dùng nước muối loãng súc miệng  thường xuyên.  314. Áp xe răng  "Cháu  25 tuổi, bị một cái nhọt ở trong lợi đã 3 năm nay; mỗi lần nó mưng mủ  thì cháu lại xử lý đi, nhưng sau đó lại tiếp tục sưng. Thầy thuốc bảo là  viêm lợi, cháu đã dùng kháng sinh nhưng không khỏi. Xin cho cháu biết  đó là bệnh gì và cách chữa trị?".  Nhiều  khả năng cháu bị áp xe răng. Cháu nên đến một cơ sở nha khoa có thiết  bị chụp X-quang răng tại chỗ để phát hiện tổn thương trên chiếc răng đó.  Nếu đúng là áp xe thì có thể phải nhổ bỏ (ít khả năng chữa bảo tồn  trong trường hợp này vì để quá lâu).  315. Có bọc mủ ở lợi  "Em  bị sâu một chiếc răng hàm dưới đã lâu, hai tháng nay thấy nổi lên một  bọc mủ nhỏ ở lợi, ngay bến dưới chiếc răng đó. Xin cho biết cách chữa,  và liệu có phải nhổ răng đi không?".  Em  thật đáng trách. Nếu ngay từ khi răng chớm bị sâu, em đi khám răng ngay  thì đâu đến nỗi! Khi thấy nổi bọc mủ (ổ áp xe răng) rồi, em vẫn bình  chân như vại thì thật là "điếc không sợ súng".  Em  phải đi khám ngay; nha sĩ sẽ cố gắng chữa bảo tồn cho em (vì bị áp xe  chưa lâu) nhằm tránh nhổ răng. Trước tiên, người ta sẽ rạch ổ mủ (áp xe  răng). Một thời gian sau, khi vết mổ áp xe đã tương đối sạch, sẽ phải  khoan buồng tủy của răng và đặt thuốc diệt tủy nhiều lần cho tới khi  buồng tủy không còn mùi hôi, vô khuẩn. Lúc bấy giờ mới tiến hành trám  răng tạm thời bằng một chất dễ phá ra khi cần. Về sau, khi thấy răng  trám ổn định, sẽ xét thời cơ trám răng vĩnh viễn.  Như vậy, muốn giữ được chiếc răng đó phải tốn khá nhiều thời gian, công sức và cả tiền bạc nữa.  Còn nếu sốt ruột thì nhổ phăng đi luôn, nhưng em đâu phải đã già mà đành chịu rụng răng.  Vấn đề còn lại là luôn giữ vệ sinh răng miệng và không ngại đi khám răng khi cần, để khỏi phải ân hận về sau.  318. Răng ố vàng do uống thuốc  "Con  gái tôi hồi nhỏ thường được bệnh viện cho uống Tetracycline. Nay cháu  đã lớn, hai hàm răng bị ố vàng, mỗi khi cười là cháu lại xấu hổ đưa tay  che miệng. Xin cho biết có thuốc chữa không, hay có phương pháp thẩm mỹ  nào tốt nhất?".  Nha khoa có thể làm trắng răng ố vàng bằng các biện pháp:  -  Bôi Peroxyde carbamide lên, rồi đưa một đèn quang trùng hợp lại gần  răng, rọi đèn trong 3 phút, cứ thế 3 làn trong mỗi lần (10 phút). Chữa  từ 3 đến 8 lần là được (trước đó phải lấy hết cao răng).  - Đặt lớp phủ lên men răng để che khuất, làm cho răng nhìn trắng bóng như bình thường.  -  Dùng kem làm răng trắng sau khi đánh răng để đi ngủ. Cho một lớp kem  vừa phải lên một mặt của cái kẹp răng (mặt này sẽ áp vào mặt trước của  răng). Đặt kẹp đó vào cho khớp chặt với các răng cửa. Dùng bàn chải hoặc  tay dọn sạch chỗ kem giây ra xung quanh. Sáng dậy tháo kẹp ra, đánh  răng thật kỹ, rồi dùng bàn chải và nước ấm cọ sạch kẹp, lau khô, cất vào  hộp. Mỗi ống kem dùng được từ 3 đến 6 lần; do vậy phải đậy kín ngay sau  mỗi lần mở ra. Không được ăn uống hay hút thuốc khi đang mang kẹp.  Chữa  xong, gia đình phải thường xuyên nhắc cháu khắc phục thói quen đưa tay  che miệng, một động tác "tự vệ" không còn "cần thiết" nữa và có thể làm  cho cháu trở thành vô duyên khi cười.  317. Răng vẩu, môi cong  "Cháu 14 tuổi, bị vẩu cả hàm trên và môi bị cong. Trường hợp của cháu có nắn hàm được không, hay phải nhổ răng?".  Cháu  nên xin bố mẹ đưa đến khoa răng của một bệnh viện lớn, xin khám và chữa  càng sớm càng tốt. Cháu còn ít tuổi, kết quả chắc chắn sẽ tốt hơn nhiều  so với những trường hợp để muộn. Nếu để ngoài 20 tuổi sẽ không thể chữa  bằng phương pháp chỉnh hình. Đặt nẹp xong, cháu sẽ về nhà, rồi định kỳ  tới kiểm tra. Chi phí toàn bộ tốn khoảng 400 ngàn đồng.  318. Răng rụng sớm  "Ba cháu mới 43 tuổi mà sao răng đã rụng. Xin cho biết có cách gì để hạn chế hiện tượng này?".  Hằng ngày, ba cháu nên uống:  - 2 viên vitamin E (loại 400 IU).  -  2 viên UPSA-C canxi. Bẻ đôi viên thuốc, lấy một nửa, bỏ vào nước cho  sủi tan ra, thêm đường, có thể thêm đá, uống như giải khát; ngày 4 lần.  Buổi chiều tối chớ dùng vì thuốc có thể gây mất ngủ.  Ngoài  ra, nên uống thêm mỗi ngày 1-2 viên Theravit có 1250 IU beta-carotene  (chất đứng đầu trong việc chống lại các gốc tự do vốn làm cho cơ thể  chóng lão hóa). Khi răng đã chắc lại, có thể cho giảm nửa liều mỗi thứ  nói trên, và duy trì liên tục.  Về sinh  hoạt, chú ý chải răng sau mỗi bữa ăn, nhất là bữa tối, bằng kem đánh  răng có chứa fluor. Trong chế độ ăn, nên thêm các loại rau có nõn, có  mầm (giá đỗ chẳng hạn), các thứ rau, củ, quả có màu vàng, màu đỏ.  319. Không có răng khôn  "Em  đã 26 tuổi, cơ thể phát triển bình thường nhưng chỉ có 28 chiếc răng,  trong khi một số bạn xấp xỉ tuổi em mọc thêm 4 chiếc răng khôn nữa là 32  răng. Xin cho biết tại sao?".  Có hai khả năng:  -  Em vẫn có đủ 4 mầm răng khôn nhưng chậm mọc. Chụp X-quang sẽ thấy rõ  hình ảnh của 4 anh chàng lề mề kia trong xương hàm. Nhưng không sao, có  người khỏe mạnh mà ngoài 60 tuổi mới mọc chiếc răng khôn cuối cùng đấy!  -  Nếu chụp X-quang không thấy 4 mầm răng khôn như thường lệ, thì em thuộc  vào một số trường hợp đột biến của loài người: không còn 4 răng khôn,  chỉ có 28 răng thôi.  Ngẫm mà xem, răng  khôn gây bao phiền toái, thậm chí nguy hiểm (răng khôn mọc lệch húc vào  răng hàm, gây đau buốt kinh khủng, phải đi nhổ gấp; răng khôn chỉ có một  chân, không có ba chân vững chắc như răng hàm, vì thế thường gặp sự cố,  dẫn đến nhổ bỏ), cho nên không có răng khôn có lẽ là khôn ngoan hơn  chăng?  320. Chảy máu lợi  "Không  biết cháu bị bệnh gì mà mỗi lần đánh răng (và nhiều khi không làm gì),  chân răng đều bị chảy máu? Xin cho cháu một lời khuyên".  Nhiều  khả năng cơ thể cháu bị thiếu vitamin C. Cháu mua một lọ Upsa C calcium  (C canxi sủi), trong đó có 10 viên; bẻ đôi, cho nửa viên vào nước chín,  thuốc sẽ tan nhanh, có thể thêm đường hay nước đá. Mỗi ngày cháu dùng  hai lần (hết 1 viên), khi đỡ nhiều sẽ rút xuống 1 lần (nửa viên). Nhớ  thường xuyên ăn thêm các hoa quả như chanh, cam, quýt, xoài... và các  loại rau. Khi yên trí khỏi hẳn, có thể thôi uống thuốc cho đỡ tốn (mỗi  lọ C sủi calcium nội gồm 10 viên 1.000 mg giá khoảng 10 ngàn đồng).  321. Lợi bị viêm tấy  "Đã  3-4 năm nay, vùng lợi của cháu cứ tấy đỏ lên, rất đau. Cháu lại hay  chảy máu cam, chữa trị bằng nhiều loại thuốc tây không khỏi".  Cháu  hãy áp dụng cách chữa đơn giản mà người dân nghèo thường dùng (và chưa  chắc đã thua thuốc Tây trong việc điều trị các bệnh ở lợi):  -  Lá lốt tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước (có thể dùng cối xay sinh  tố). Cho thêm chút muối rồi dùng ngậm mỗi ngày 3-4 lần, mỗi lần dăm bảy  phút; khi đã đỡ thì ít lần hơn, tới khi khỏi hẳn thì ngậm thêm vài hôm  nữa.  Chú ý: Chế biến ngày nào dùng ngày ấy, không để đến hôm sau. Khi ngậm nếu nhỡ nuốt vào cũng chẳng sao.  322. Cứ như bị nghẹn  "Tôi  41 tuổi, huyết áp thường xuyên 160/80. Từ cách đây khoảng 9 tháng tôi  thấy trong ngực như có cục gì chặn lại, cảm giác giống như khi ăn cơm bị  nghẹn hoặc đang ở trong một cơn tức giận cao độ; thường buổi chiều hay  bị hơn".  Thư ông thiếu chi tiết, địa  chỉ lại không cụ thể để hỏi thêm, cho nên phải nêu lên mấy hướng để ông  liên hệ, qua đó trình bày thêm với các bác sĩ chuyên khoa:  1.  Do tim nằm ở phía trước thực quản nên việc tim to lên có thể đè vào  thực quản (nhất là tâm nhĩ). Huyết áp 160/80 của ông không hẳn là bình  thường, bởi vì theo số liệu JNC năm 1998 của Mỹ, huyết áp tối đa trên  140 hoặc huyết áp tối thiểu trên 90 được gọi là cao. Có thể lâu nay tim  ông có tăng kích thích ít nhiều chăng? Một tấm phim chụp nghiêng lồng  ngực (có barit trong thực quản) sẽ cho biết thực quản bị đè lên hay  không.  2. Co thắt tâm vị: Lỗ thông thực  quản và bao tử (dạ dày) bị nhỏ lại do co thắt. Nghẹn trong trường hợp  này xảy ra khi ăn uống, và thường xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn là ở tuổi  ông. Tuy nhiên, một công đôi việc, tấm phim chụp X quang nói trên cũng  cho biết chắc chắn có vấn đề ở thực quản không.  3. U giáp thể chìm ở đàn ông: Việc khám kỹ về lâm sàng, xét nghiệm và siêu âm sẽ giúp khẳng định hay phủ định điều này.  323. Huyết áp đột nhiên tăng cao  "Em  rất khỏe, nhưng mấy lần khám nghĩa vụ quân sự đều bị loại vì huyết áp  tăng lên rất cao, tới 150/95, phải nằm theo dõi khá lâu vẫn thế (ở nhà  huyết áp chỉ vào khoảng 120/80 và em không hề bị đau đầu). Xin cho biết  nguyên nhân do đâu và có nguy hiểm lắm không?".  Thường  thì khi ta xúc động, mạch có nhanh lên đôi chút và huyết áp cũng vậy,  và điều đó chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Riêng ở em, huyết áp  tăng cao đột ngột và duy trì lâu là do cảm xúc mạnh và kéo dài (không  quen "bị khám", hồi hộp chờ đợi kết quả khám tuyển, sợ bị loại...).  Các  nhà khoa học Anh đã nghiên cứu trên 1.600 người từ 25 đến 75 tuổi, họ  thấy rằng ở những người dễ xúc động thường có hiện tượng huyết áp tăng  cao khi được khám bệnh, thậm chí khi vừa nhìn thấy tà áo bờ-lu trắng của  bác sĩ.  Có lẽ em có tạng người giống vậy,  và đành chịu thiệt thòi không được vào quân ngũ. Chớ lo lắng gì. Cách  khắc phục duy nhất là tự mình rèn luyện kiên trì để quen dần với mọi môi  trường sinh hoạt và làm việc.  Theo các  nhà nghiên cứu nói trên, tình trạng của em lúc đầu không sao, nhưng nếu  để lâu có thể làm cho tim to ra. Do đó, em phải nhanh chân lên. Hơn nữa,  không biết em sẽ xoay xở ra sao nếu nay mai có cuộc hẹn hò với một cô  bạn mà em ưng ý?  324. Suy tim do bệnh ở van hai lá  "Năm  14 tuổi em bị bệnh khớp, sau đó ba năm bị bệnh tim. Mới đây bác sĩ khám  và xác định là suy tim độ 3 do hở van hai lá, hẹp van động mạch chủ,  tim to toàn bộ. Năm nay em 22 tuổi, em không mong chữa khỏi bệnh tim,  chỉ mong sao đừng tức ngực nữa, nhiều đêm phải ngủ đứng, khổ quá!".  Em  còn trẻ lắm. Bệnh tim của em tuy nặng nhưng đừng cam chịu như vậy.  Trình độ y học đã được nâng cao khác xưa rất nhiều; trường hợp của em có  thể xem xét để xử trí bằng phẫu thuật thay van tim. Nếu gia đình có  điều kiện, em có thể vào Viện tim TP Hồ Chí Minh (đường Nguyễn Tri  Phương, quận 10) để kiểm tra, điều trị và xét mổ thay van tim, có thế  mới sống tương đối khỏe mạnh lâu dài được. Phẫu thuật này an toàn, bệnh  nhân được chăm sóc tận tình. Kết quả mổ rất tốt, nhiều người được mổ đã  có thể lao động nhẹ nhàng và sinh hoạt bình thường.  Chi  phí điều trị khoảng trên dưới 25 triệu (gồm tiền mua van tim của nước  ngoài, tiền thuốc men, phục vụ...). Nếu có giấy chứng nhận xin miễn giảm  thì trả ít hơn. Nếu gia đình không đủ tiền thì nên xin họ hàng, chòm  xóm giúp đỡ, hoặc xin các tổ chức từ thiện. Và phải khẩn trương lên.  Một  biện pháp khác là sử dụng các loại thuốc trợ tim, lợi tiểu, chống đông,  ngừa bệnh thấp khớp tái phát theo sự hướng dẫn của chuyên gia tim mạch.  Nhưng nếu van tim vẫn hở thì không thể hết suy tim được. Mà còn suy tim  thì tim vẫn to và vẫn tiếp tục gây khó thở.  Trong  lúc này, em phải tránh tất cả mọi hoạt động thể lực, ngay cả đi lại  cũng phải hạn chế, vì ban ngày càng hoạt động nhiều thì đến đêm càng khó  thở.  325. Hen phế quản  "Cháu  được bác sĩ chẩn đoán là bị hen suyễn. Bệnh này có di truyền hoặc lây  lan không, và có chữa khỏi hẳn được không? Cháu nên dùng thuốc gì?".  Bệnh  hen suyễn, nói chính xác là hen phế quản (để phân biệt với hen tim)  không phải do vi khuẩn hay virus gây ra nên không lây. Nó là một bệnh dị  ứng, mà tính hay bị dị ứng (đối với thời tiết, một vài thứ thức ăn,  phấn hoa...) có thể di truyền, nhất là khi cả hai bố mẹ đều bị.  Sở  dĩ người hen bị khó thở khi lên cơn là vì lúc đó, ở phổi xảy ra hai  hiện tượng trái ngược. Các phế quản nhỏ co thắt, trong khi các phế nang  (túi khí) giãn ra (tựa như các cuống quả bóng thì thu nhỏ còn bản thân  các quả bóng lại phình ra); khiến bệnh nhân hít vào đã khó nhưng thở ra  còn khó hơn nhiều. Vì vậy, người lên cơn hen phải ngồi khuỳnh hai tay,  cố hết sức đẩy không khí ra mà vẫn thấy ngột ngạt. Các phế nang bị giãn  lâu ngày không hồi phục được nữa, sẽ làm cho lồng ngực biến dạng.  Nguyên  nhân của hai hiện tượng trên là do mất cân bằng giữa hệ thần kinh giao  cảm và hệ thần kinh phó giao cảm (cơn hen thường xảy ra ban đêm, vì vào  ban đêm, hệ phó giao cảm hoạt động mạnh hơn).  Y  học hiện chưa chữa được tận gốc bệnh hen phế quản; các loại thuốc được  sử dụng chỉ chữa triệu chứng cũng như biến chứng. Cháu nên đi khám một  bác sĩ có tay nghề vững để được hướng dẫn cách chữa và phòng ngừa biến  chứng.  Cháu có thể dùng thuốc xịt họng  Ventolin: Nếu cơn vừa phải, xịt 2 cái liền, chờ 1 phút rồi xịt thêm 2  cái nữa. Nếu cơn nặng, xịt lần đầu 2 cái liền, rồi sau đó cứ 5 phút lại  xịt 2 cái, cho tới khi hết cơn thì thôi. Việc dùng thuốc nhất thiết phải  theo chỉ định của bác sĩ.  Một số bệnh  nhân hen lâu năm được bác sĩ cho tiêm bắp thịt mông thuốc Kenacort  (K-cort) thải trừ chậm (loại 80 mg), với khoảng cách 1-2 tuần 1 lần, khi  đã đỡ thì thưa hơn, có thể tới 1-2 tháng/lần, kết quả ngừa cơn khá rõ  rệt.  Bệnh hen phế quản nếu để lâu ngày sẽ  gây hại cho tim (bệnh tim do phổi, y học gọi là tâm phế mãn). Và người  hen có thể dễ bị dị ứng với một số thức ăn.  Một  số người bị hen phế quản do dị ứng thời tiết, sau khi chuyển vào miền  Nam một thời gian thì đỡ nhiều hoặc khỏi. Cháu xem có điều kiện chuyển  vùng không?  326. Khi bị hen chữa thuốc không khỏi  "Tôi  gần 30 tuổi, bị hen từ hơn chục năm nay, hễ thay đổi thời tiết là lên  cơn khó thở về đêm, dùng đủ loại thuốc không khỏi. Xin hỏi có phương  cách điều trị nào tốt và có nên cấy Filatốp không?".  Về  thuốc men, bạn có thể tham khảo Mục 325, nhưng xin nhớ rằng các thuốc  nêu trong mục này chỉ có tác dụng chặn cơn hen, chứ không chữa được căn  nguyên của bệnh hen là hiện tượng dị ứng.  Thật  vậy, do dị ứng mà ở cơ thể bệnh nhân đã xảy ra sự mất cân bằng giữa hệ  thần kinh giao cảm và hệ thần kinh phó giao cảm (vì sự mất cân bằng này  mà các phế nang nhỏ bị co thắt, trong khi các phế nang giãn ra, gây nên  khó thở, nhất là lúc thở ra), mặc dù cả phế quản lẫn phế nang đều không  có tổn thương thực thể.  Và suy cho cùng,  theo quan điểm hiện đại, mất cân bằng thần kinh là do mất cân bằng về  năng lượng sinh học trong cơ thể. Nếu năng lượng sinh học trở lại lưu  thông bình thường thì sẽ hết mọi hiện tượng mất cân bằng.  Đi  theo hướng đó, từ mấy năm nay, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng năng  lượng sinh học thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã  đúc kết được các phương thức hữu hiệu về dưỡng sinh và chữa trị một số  bệnh, trong đó có hen phế quản. Bạn có thể liên hệ với trung tâm qua địa  chỉ 46 Bành Văn Trân, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh, ĐT: 08-8652040.  Trung tâm sẽ giới thiệu những địa chỉ gần nhất giúp bạn luyện tập để  chữa trị bằng năng lượng sinh học.  Filatốp  là rau thai đặt dăm bảy hôm trong tủ lạnh (theo phỏng đoán là để các mô  của nó do chống chọi với cái lạnh mà sản sinh ra chất kích thích sinh  học) rồi nghiền ra, chế thành thuốc tiêm hay uống. Phương pháp này một  thời rộ lên ở Đông Âu và một số tỉnh của nước ta. Tới nay, không còn mấy  ai nhớ tới nó nữa vì không hiệu quả.  327. Sau khi bị viêm phổi  "Cháu  làm nghề rang xay cà phê; gần đây bị viêm phổi nặng, đã được chữa lành.  Cháu muốn biết sau này nếu tiếp tục làm việc nặng thì có sao không, và  có cần kiêng khem gì không?".  Viêm  phổi là một bệnh cấp tính, chữa khỏi là xong (đối với trẻ nhỏ thì hãy dè  chừng vì vùng này về sau có nguy cơ bị giãn phế quản). Chỉ cần cháu  sống điều độ, ăn uống tốt, tập thở đều đặn để giúp chỗ tổn thương cũ hồi  phục tốt.  Tuy nhiên, những người đã chữa  khỏi bệnh viêm phổi về sau vẫn có thể bị lại, tại vùng phổi cũ hay một  vùng khác. Do vậy, cháu cần tránh không để bị dầm mưa, nhiễm lạnh (nhất  là khi đang bị cúm), giữ vệ sinh răng miệng... Việc giữ gìn tốt sức khỏe  cũng sẽ giúp cháu ngăn ngừa được lao phổi - một căn bệnh xã hội đang có  nguy cơ phát triển trong số bà con nghèo.  Cháu không phải kiêng khem gì ngoài thuốc lá và rượu. Nên đeo khẩu trang khi làm việc để chống bụi.  328. Khi nghi người giúp việc bị lao  "Vợ  chồng chúng tôi bận việc, phải nhờ một chị khoảng 45 tuổi trông giúp  cháu nhỏ 2 tuổi, ăn ở tại nhà. Gần đây, sau khi bị sốt, chị ho nhiều,  kéo dài cho tới nay. Điều đáng lo nhất là cháu bé cũng bị sốt cao, ho,  nôn và gầy sút. Chúng tôi lo chị giúp việc bị bệnh lao, vì dùng thuốc ho  mãi vẫn không hết".  Thư bạn nói không chi tiết, rất khó nói chắc, nên xin nêu lên mấy điểm để bạn tham khảo và vận dụng:  1.  Nếu chị giúp việc của bạn chỉ bị sốt mấy hôm rồi hết, thì nhiều khả  năng là đã bị cúm, và triệu chứng ho kéo dài là hậu quả của bệnh này, có  khi vài ba tháng mới khỏi hẳn.  2. Nếu chị  ấy vẫn sốt hâm hấp về chiều, đêm ngủ ra mồ hôi trộm, kém ăn, kém  ngủ...thì hãy coi chừng chị bị lao phổi. Nếu vậy, cần cho chị đi khám để  được chụp X-quang phổi, xét nghiệm đờm tìm trực khuẩn lao.  Nếu  chị ấy bị lao phổi, bạn phải cho chị ấy thôi việc ngay để được chữa trị  theo yêu cầu của bệnh tật (nằm viện hay dùng thuốc tại nhà) và để tránh  lây nhiễm tiếp cho gia đình bạn.  Trong tình huống đó, phải đồng thời làm mấy việc:  -  Cho cháu bé đi khám để xác định có bị sơ nhiễm lao hay không (chụp  X-quang phổi, thử phản ứng lao). Nếu có, cháu sẽ được bác sĩ cho dùng  thuốc, sau khoảng 6 tháng là hết, không để lại di chứng (vừa qua, cháu  bị sốt cao, ho, nôn, gầy sút chỉ là do bị cúm thôi, bởi vì sơ nhiễm lao  không "ồn ào" như vậy).  - Tổng vệ sinh nhà  cửa nhiều lần (không được quét khô), phơi chăn màn, quần áo, đồ đạc ra  nắng trong nhiều buổi liền, hoặc ủi (là), thường xuyên để ánh nắng vào  nhà (trực khuẩn lao rất ớn tia nắng, nhất là vào buổi trưa). Dù tìm ba  lần liên tiếp vẫn không thấy trực khuẩn lao trong đờm của chị giúp việc  ("không thấy" không có nghĩa là "không có"), bạn cũng phải làm như vậy  để thanh toán những ổ trực khuẩn lao có thể có.  -  Vợ chồng bạn cũng phải đi chụp X-quang phổi để xem mình có bị thâm  nhiễm lao hay không. Nếu có, việc chữa trị sẽ mang lại kết quả mỹ mãn  bằng những thuốc chống lao hữu hiệu, với điều kiện dùng đủ liều lượng,  đủ thời gian, đồng thời chú ý bồi dưỡng và giữ gìn sức khỏe.  3.  Nếu cần một người giúp việc khác, nhất thiết bạn phải cho họ chụp  X-quang trước để loại trừ các bệnh phổi, đặc biệt là lao phổi. Bởi vì  những cháu bị sơ nhiễm lao lúc ấu thơ thì về sau rất dễ bị lao phổi,  nhất là khi nguồn lây bệnh lại tồn tại lâu dài ngay sát nách cháu. Có  trường hợp người giúp việc bị lao xơ hang mà gia đình vẫn nhờ trông con  nhỏ suốt mấy năm trời, cháu này lớn lên đã bị lao xơ hang, phải mổ cắt  phổi mà vẫn không qua được.  Mất lòng trước được lòng sau, nếu bạn lo liệu trước đi thì đâu đến nỗi phải lo lắng nhiều như vậy.  329. Hãy đề phòng thâm nhiễm lao  "Cách  nay 3 năm, cháu phải nằm viện vì hôm nào cũng sốt từ chiều đến sáng;  bác sĩ bảo không phải lao, tuy kết quả thử phản ứng ở tay cháu dương  tính. Sau đó cháu khỏe lại. Gần 5 tháng nay, thấy có hiện tượng như  trước, cháu chụp phổi và được kết luận không phải lao phổi. Sau khi đọc  báo, cháu mới nghĩ đến bệnh rò hậu môn của mình từ trước (hôm nào sốt  nhiều là chỗ rò mưng mủ)".  Rò hậu môn  có thể do lao gây nên. Và những lần cháu sốt kèm theo sưng tấy ở đó rồi  vỡ mủ là biểu hiện của bội nhiễm. Nếu cứ để vậy thì hiện tượng này sẽ  lặp lại nhiều lần, đường rò ngày càng phức tạp hơn (thêm ngóc ngách, xơ  dày hơn, thậm chí thêm đường rò). Tuy hiện giờ hai phổi cháu còn bình  thường nhưng nguy cơ bị lao phổi vẫn luôn rình rập, thử phản ứng lao vẫn  dương tính.  Cháu nên sớm đến một khoa  ngoại tổng quát của bệnh viện xin mổ. Các bác sĩ sẽ luồn dăm bảy sợi chỉ  vào đường rò, sau đó cứ 1-2 hôm thít chặt một sợi, giúp đường rò mở ra  và thành sẹo.  Nếu vì lý do đặc biệt nào đó  chưa đi mổ được, cháu phải chú ý giữ gìn sức khỏe, ăn ngủ thật tốt.  Trong tình hình bình thường, ít nhất mỗi năm cháu phải chụp phổi một  lần, để nếu có thâm nhiễm lao thì kịp thời chữa trị; vì ổ trực khuẩn  Koch ở hậu môn này không yên phận bị "cầm tù" đâu, nó sẽ tìm cơ hội tấn  công phổi đấy.  330. Chồng đang chữa lao phổi có nên sinh con?  "Chồng  tôi bị thâm nhiễm lao, được điều trị tấn công 2 tháng tại bệnh viện  huyện, sau đó điều trị tại nhà 3 tháng nữa. Trong thời gian chữa bệnh,  chúng tôi có nên sinh con hay không, nếu sinh con thì có ảnh hưởng gì  không?".  Trường hợp của vợ chồng bạn phải được cân nhắc kỹ về cả hai mặt bệnh tật và sức khỏe.  1.  Nếu trong đờm của anh ấy vẫn có trực khuẩn lao (BK +) thì khả năng lây  nhiễm cho vợ con rất lớn, nhất là nếu cháu bé ra đời vào dịp này. Dù  được tiêm phòng lao, cháu bé cũng khó tránh được tình trạng sơ nhiễm lao  vì có nguồn lây nhiễm thường xuyên và quá gần. Trong tình hình như vậy,  bản thân bạn và các thành viên khác trong gia đình cũng có nguy cơ lây  bệnh.  Thực ra, "không thấy BK trong đờm"  không có nghĩa là "không có BK trong đờm"; cho nên muốn kết luận chính  xác, phải tiến hành các biện pháp tìm tòi cao cấp (nuôi cấy đờm trong  môi trường, tiêm truyền vào màng bụng của chuột thí nghiệm...).  Như  vậy, việc cần làm trước nhất là cho anh ấy đi khám tại một cơ sở lao có  trang bị tốt hơn và chuyên gia giỏi hơn, nhằm biết rõ được 2 điều: tổn  thương lao đã ổn định chưa và trong đờm còn có BK không. Từ đó, bác sĩ  sẽ cho hai bạn lời khuyên chính xác nhất.  2.  Trong khi cần tập trung nỗ lực vào việc chữa bệnh cho chồng, nếu thai  nghén, sinh nở, nuôi con..., bạn sẽ không có điều kiện tinh thần và vật  chất để trông nom anh ấy như hiện nay. Đó là chưa nói đến chuyện anh ấy  sẽ lo lắng, thao thức, chia sẻ việc nhà với bạn, dẫn đến chậm bình phục  hoặc bệnh sẽ diễn biến theo chiều hướng bất lợi.  331. Ung thư phổi  "Em  có một người bạn bị ung thư phổi, nên muốn biết một số điểm chính về  bệnh này: nguyên nhân bệnh, có mấy thời kỳ, bệnh có lây không, có cách  gì chữa trị, kể cả thuốc dân tộc cổ truyền?".  Ung  thư phổi là có u ác tính xuất phát từ phế quản. Đây là một bệnh mắc  phải (không lây), thường gặp sau tuổi 40, nam hay bị hơn nữ, thường gặp ở  những người khai thác quặng phóng xạ và quặng có chứa cobalt, người  nghiện thuốc lá. Nguyên nhân gây bệnh chưa được xác định rõ.  Từ  một điểm bất kỳ trên phế quản, khối u lồi dần vào trong lòng phế quản,  tiến tới làm chít hẹp phế quản mà biểu hiện sớm nhất là xẹp phần phổi do  phế quản này phụ trách (vì không được bơm không khí vào như trước). Nếu  là phế quản nhỏ thì một u bé cũng đủ gây chít hẹp, dẫn tới hiện tượng  xẹp phổi; nếu là phế quản lớn thì u phải khá to mới gây ra được hậu quả  nói trên.  Triệu chứng lâm sàng buổi đầu  của ung thư phổi thường nghèo nàn nên dễ bị bỏ qua: đau ngực (dễ bị quy  là do đau dây thần kinh liên sườn), ho húng hắng, không có đờm. Về sau  sẽ xuất hiện khó thở (do phế quản bị chít hẹp hoặc do u chèn ép trung  thất), có máu lẫn trong đờm hoặc khạc ra máu thực sự, đau nhức dọc xương  cánh tay phía có u... Lúc này, tình hình đã khá muộn.  Phương  tiện chẩn đoán ung thư phổi là chụp X-quang phổi thường (thấy một đám  mờ to hoặc nhỏ với đặc điểm là có nhiều "chân" chĩa ra); chụp tomo hay  chụp scanner (xác định vị trí và kích thước khối u cũng như khu vực bị  xẹp phổi); chụp phế quản có bơm cản quang (phát hiện hình ảnh phế quản  bị cắt cụt điển hình). Nếu u nằm tại một phế quản đủ rộng, có thể tiến  hành soi phế quản (trực tiếp nhìn thấy khối u và vùng xung quanh).  Phương  pháp điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt thùy phổi hay lá phổi, sau đó  kết hợp với hóa trị và xạ trị. Thường có khoảng 80% bệnh nhân sống thêm  được 1-2 năm sau mổ, 5% sống thêm được 5 năm. Các tỷ lệ này chắc chắn sẽ  được cải thiện cùng với sự ra đời của các chất chống ung thư hữu hiệu.  Về dự phòng, cần khắc phục càng sớm càng tốt thói nghiện thuốc lá; khi sử dụng hóa chất phải có phương tiện phòng hộ chắc chắn.  Về  phát hiện bệnh, người ta khuyên những người trên 40 tuổi (nhất là người  nghiện thuốc lá) nếu đau ngực ở một vùng cố định, kèm theo ho kéo  dài... phải sớm đi chụp X-quang phổi, để được loại trừ hay phát hiện một  bệnh phổi bất kỳ, trong đó có lao và ung thư.  Cho  đến nay, chưa thấy có nghiên cứu nghiêm túc nào cho thấy có thể chữa  ung thư phổi bằng y học cổ truyền. Tuy nhiên, sau khi phẫu thuật, có thể  sử dụng thêm các phương thuốc gia truyền để hỗ trợ điều trị. Lâu nay,  nhiều người ca ngợi tác dụng phòng chống ung thư nói chung của củ tam  thất; em có thể mách cho bạn dùng xem, vì tam thất cũng là loại thuốc bổ  tốt không kém nhân sâm, lại rẻ tiền và dễ kiếm.  332. Lao phổi kéo dài  "Tôi  bị lao phổi đã 6 năm nay, điều trị theo phác đồ của trạm chống lao  nhưng không bớt, bệnh ngày một nặng thêm, thể trọng chỉ còn 40 kg. Vừa  rồi, qua báo chí tôi được biết có loại thuốc Rifampicine trị lao hữu  hiệu. Xin cho biết mua ở đâu, có đắt tiền không, sử dụng như thế nào?".  Thuốc  chống lao Rifampicine có mặt ở nước ta vào khoảng giữa thập niên 1980  do một số người đi nước ngoài mang về hoặc bà con Việt kiều gửi biếu  thân nhân. Từ mấy năm nay, nó đã rất phổ biến ở các thành phố. Tiếc rằng  bác không được biết nên bị "oan", nhưng không sao, bác nhớ tiến hành  ngay mấy việc:  - Theo đơn của bác sĩ, dùng  thuốc Rifampicine (Pháp) hoặc Rifacin (Mỹ), cả hai đều cùng hàm lượng  300 mg/viên nhộng và tác dụng ngang nhau. Nếu ít tiền thì nên mua  Rifacin. Những loại thuốc này uống vào hơi mệt, cần uống luôn 2 viên  ngay sau bữa ăn tối rồi đi nằm. Nước tiểu của bác sẽ có màu hồng đậm  trong suốt thời gian sử dụng, đó là điều bình thường.  Trường  hợp của bác có thể phải dùng thuốc 5-6 tháng hoặc hơn, kèm theo một số  thuốc khác theo các phác đồ điều trị lao của ngành y tế (hiện được Nhà  nước cấp miễn phí).  - Nên dùng thêm viên đa sinh tố Theravit, mỗi ngày 2 viên; khi đã khỏe nhiều chỉ cần dùng 1 viên.  - Cố gắng bồi dưỡng tối đa về chất đạm (thịt, tôm cá, trứng, đậu phụ...).  Nếu  bác không ghê thì xin mách bác một cách bồi dưỡng hữu hiệu, ít tốn kém  và đơn giản như sau: Liên hệ trước với trạm hộ sinh để có được những  nhau thai bình thường, không bệnh, mỗi tuần vài ba cái. Bóc bỏ toàn bộ  màng ối và cắt bỏ cuống rốn. Dùng khăn sạch thấm bớt máu. Cho vào chảo  dầu nóng, rồi lật qua mặt kia thật nhanh (để cái nhau chắc lại thôi,  chưa cần chín). Lấy ra, thái miếng vừa phải. Ướp tỏi hoặc gừng, thêm  chút nước mắm. Rửa sạch cái chảo đã dùng, cho dầu, bắc lại lên bếp. Cho  nhau vào, đảo đều tay, khi còn sền sệt thì nhấc ra (khô quá sẽ không  ngon). Ăn ngay tại chỗ lúc còn nóng, nhâm nhi với rau thơm hay gừng tươi  đã chuẩn bị từ trước. Bác ăn chừng chục cái là đã thấy sức khỏe khá hẳn  lên, dễ ngủ.  - Cho các thành viên khác  trong gia đình đi kiểm tra phổi, bắt đầu từ những người tiếp xúc nhiều  với mình, để được điều trị nếu lây bệnh. Với các cháu nhỏ, nếu bị sơ  nhiễm lao, nên cho dùng Rimifon với thời gian không dưới 6 tháng.  - Thường xuyên phơi nắng các vật dụng (quần áo, chăn màn, bát đũa...) và mở cửa cho ánh mặt trời chiếu nhiều vào nhà.  333. Khạc ra máu dai dẳng  "Cháu  có đứa em gái thỉnh thoảng bị khạc ra máu (mỗi lần như vậy thấy nhờn  nhờn nơi cổ và cứ thế oẹ ra khá nhiều), đi bệnh viện nhi địa phương hai  lần đều được chẩn đoán là viêm phổi thùy, khạc ra máu, chữa trị mãi  không hết. Đến bệnh viện lao thì họ bảo không phải bệnh lao và không  nhận chữa. Hiện nay em cháu vẫn cứ như vậy. Xin cho biết cách xử trí".  Thư  cháu sơ sài và nhất là không nói rõ em cháu có được chụp X-quang phổi  không, kết quả đọc phim ra sao, do đó không nắm chắc được tình hình. Chỉ  nêu mấy hướng để gia đình cháu liên hệ:  Nếu  là "lao phổi có khạc ra máu", thì trên phim X-quang sẽ thấy hình ảnh  của hang (một hoặc một vài hình tròn sáng, có bờ dày, xung quanh là một  đám mờ không đều). Với thể lao hang có khạc ra máu dữ dội, đe dọa tính  mạng thì phải cho nằm viện, có thể phải mổ. Nhưng lao hang là một thể  bệnh rất hiếm thấy ở tuổi thiếu niên. Hy vọng em cháu không rơi vào  trường hợp đó.  Nếu là "viêm phổi thùy gây khạc ra máu" thì cứ chữa hết viêm phổi sẽ hết khạc ra máu. E rằng em cháu không bị bệnh này.  Còn  lại một bệnh có thể nghĩ đến, đó là giãn phế quản gây chảy máu, xuất  hiện do di chứng của các bệnh mắc vào lúc nhỏ như viêm phế quản, viêm  phổi, ho gà. Những bệnh này làm cho thành của các phế quản (cuống phổi)  bị suy yếu và giãn mỏng, dễ chảy máu (thường xuyên khạc ra chút máu nên  ta tưởng nhầm là lao phổi; nếu chỗ giãn nằm sát mạch máu thì lượng máu  khạc ra sẽ nhiều hơn). Điều đặc biệt là ở trường hợp này, bệnh nhân thấy  nhờn nơi cổ và cứ thế oẹ máu ra, đúng như trong thư cháu nói.  Gia  đình cháu cần khẩn trương đưa em tới một bệnh viện nào có khoa phẫu  thuật lồng ngực. Nếu ở ngoài bắc thì đến Viện lao và bệnh phổi, Hà Nội,  nơi có khoa phẫu thuật lồng ngực giàu kinh nghiệm, kể cả mổ trẻ em.  334. Khi bạn cùng lớp bị lao  "Một  bạn trai cùng tuổi (12 tuổi) trong lớp chúng cháu có người mẹ bị lao  phổi nặng đã đi nằm viện. Gần đây, bạn ấy xanh xao, thỉnh thoảng lại ho  húng hắng, chúng cháu sợ bạn ấy cũng bị lao như mẹ. Nếu vậy thì lớp cháu  có bị lây hay không, nhất là những ai ngồi cùng bàn?".  Tuy  còn ít tuổi, hai cháu đã đặt ra câu hỏi lâu nay vẫn làm nhức nhối nhiều  nhà y học trong các nước nghèo: Làm sao ngăn chặn được một cách hữu  hiệu, không cho bệnh lao phổi tiếp tục lây lan như hiện nay?  Chắc  các cháu biết đã có thuốc chữa khỏi bệnh lao. Điều này hoàn toàn chính  xác. Một tài liệu công bố năm 1996 cho biết rằng nếu được chữa tốt thì  chỉ sau hai tuần, một người lao phổi sẽ không còn lây lan sang người  khác. Tất nhiên, người này phải tiếp tục điều trị cho đến khi hoàn toàn  không còn hình ảnh tổn thương lao ở phổi; bấy giờ, bác sĩ mới cho ngừng  thuốc. Tuy bệnh đã khỏi nhưng chụp X-quang vẫn thấy dấu vết cũ của bệnh  lao, dưới dạng xơ hoặc nốt vôi ở phổi.  Như  vậy, các cháu cũng thấy là muốn bệnh lao phổi khỏi hoàn toàn, không còn  dấu vết, hai phổi trở lại "nguyên xi" thì điều quan trọng hàng đầu là  chữa thật sớm, càng sớm càng hay.  Bây giờ nói sang chuyện lớp các cháu. Nếu mẹ của bạn cháu bị lao như vậy thì nhất thiết phải tiến hành tuần tự một số việc:  -  Kiểm tra không chỉ người bạn đó mà tất cả những ai đã và đang gần gũi  mẹ bạn đó, đặc biệt các cháu nhỏ dưới 5 tuổi (bằng thử phản ứng lao,  chụp X-quang, thử đờm, nếu cần thì cấy đờm, cũng ba lần liên tiếp, để  tìm vi khuẩn lao). Nếu có vấn đề, bác sĩ chuyên khoa lao sẽ cho điều trị  theo phác đồ từng trường hợp cụ thể.  -  Nếu người bạn nhỏ của cháu bị sơ nhiễm lao (chắc là bị, vì mẹ con không  tránh khỏi quan hệ, chăm sóc, nâng giấc), bạn đó phải uống thuốc đặc trị  sơ nhiễm lao. Thể bệnh này không lây, các cháu cứ quan hệ bình thường,  nhưng nên ít lui tới nhà bạn ấy một cách thường xuyên (vì ổ vi khuẩn lao  của mẹ bạn vẫn tồn tại nơi đó).  - Nếu  chẳng may bạn ấy bị lao phổi thực sự (ít khả năng hơn nhưng cũng phải dè  chừng), phải kiểm tra toàn thể học sinh trong lớp, các thầy cô trực  tiếp dạy lớp cháu hoặc vẫn kèm riêng bạn đó, không phải bằng ống nghe  (ống nghe không khẳng định được bệnh lao đâu), mà phải kiểm tra theo  cung cách nói trên.  Nếu thầy cô giáo bị  lao, lại phải kiểm tra các giáo viên hoặc nhân viên trong trường có quan  hệ thường xuyên với thầy cô đó. Tất nhiên, thầy cô không may này lại  phải cho kiểm tra các thành viên thân cận nhất của mình. Và cứ thế...  rất phiền phức, tốn kém, nhưng vô cùng cần thiết cho tính mạng và hạnh  phúc của con người.  335. Tràn dịch màng phổi  "Cháu  có một người bạn trai bị tràn dịch màng phổi, hiện đã chữa khỏi. Nhưng  có người bảo là bạn ấy mỗi năm vẫn phải đến bệnh viện để hút dịch một  lần, và chỉ sống được đến 30-40 tuổi thôi. Nghe vậy bạn cháu rất buồn,  sức khỏe giảm sút nhiều. Xin giải thích rõ để cháu có thể giúp đỡ bạn  ấy".  Xin biểu dương tấm lòng nhân hậu  của cháu đối với bạn bè (một số người thấy bạn như vậy thì "cao chạy xa  bay" đấy!); và cũng nói ngay để cháu yên trí: những điều đoán mò về  tương lai của bạn cháu như vậy là sai trăm phần trăm.  Tràn  dịch màng phổi ở người trẻ (thuật ngữ chuyên môn: tràn dịch màng phổi  thanh tơ nguyên phát) xuất hiện do viêm màng phổi riêng biệt hoặc kèm  theo viêm màng bụng, màng tim (viêm đa màng), thủ phạm gây bệnh là trực  khuẩn lao.  Do chỉ viêm ở màng phổi, bệnh  nhân chỉ ho khan mà không có đờm, vì vậy không hề lây nhiễm cho người  khác. Chữa bệnh này cũng không phức tạp: dùng các thuốc chống lao, kết  hợp với rút dịch màng phổi (chọc hút hết luôn một lần, hoặc bằng nhiều  lần, trong điều kiện vô khuẩn tuyệt đối, kỹ thuật chính xác). Bệnh nhân  phải tập thở nhiều, giúp phổi hoạt động tốt trở lại (vì bệnh ít nhiều  đều để lại dính màng phổi).  Đối với bạn  cháu, điều vô cùng quan trọng trong giai đoạn này là uống thuốc dự phòng  lao phổi, ít nhất trong 6 tháng, và cứ 6 tháng kiểm tra một lần tại một  cơ sở lao của ngành y tế (trong năm đầu), sau đó thì 12 tháng, rồi thưa  dần nếu tình hình tốt đẹp.  Tràn dịch màng  phổi không gây hậu quả gì cho tuổi thọ hoặc chuyện sinh con đẻ cái.  Trong một lớp y khoa từ hồi kháng chiến chống Pháp có ba bác sĩ bị bệnh  này lúc còn sinh viên. Hiện nay ba cụ gần 70 tuổi vẫn khỏe không kém  thanh niên, và đã có nhiều cháu nội ngoại). Chắc chắn bạn cháu sẽ hơn ba  cụ đó - vì hiện đã có thuốc chống lao hữu hiệu và mức sống ít nhiều  được nâng lên - nếu anh ta luôn tự nhắc nhở điều này: đã bị tràn dịch  màng phổi thì phải luôn chú ý phòng lao phổi. Từ đó, phải lo giữ điều độ  trong sinh hoạt mọi mặt và tự bồi dưỡng tối đa, ít nhất trong 1-2 năm  đầu.  Xin nói thêm là: Nếu không theo lời  chỉ dẫn của bác sĩ, một thời gian sau, người tràn dịch màng phổi thanh  tơ nguyên phát có thể mắc lao phổi. Lúc bấy giờ có thể bị tràn dịch thứ  phát (do tổn thương lao ở phổi), rất nguy hiểm.  336. Tràn dịch màng phổi ở người cao tuổi  "Mẹ  tôi đã 87 tuổi, trước nay vẫn khỏe mạnh. Gần đây, bà thấy mệt và chán  ăn, bác sĩ khám thấy tiếng phổi đục, chụp X-quang phát hiện tràn dịch  màng phổi, đã chọc hút dịch (màu vàng chanh), thử phản ứng Rivalta dương  tính, chẩn đoán là lao màng phổi. Mẹ tôi được chuyển về địa phương điều  trị khoảng non một tuần thì lại tràn dịch, phải tới bệnh viện chọc hút;  trong 1 tháng đã chọc 5 lần, khoảng hơn 5 lít, đều có màu đỏ máu. Hiện  mẹ tôi vẫn chán ăn, chỉ muốn uống thôi. Xin cho biết đây là bệnh gì,  nguyên nhân và cách phòng trị? Có thể truyền dịch, truyền đạm không?".  Qua  thư bạn, có thể thấy bác sĩ chẩn đoán như vậy là đúng: Mẹ bạn bị tràn  dịch màng phổi nguyên phát thanh tơ (dịch màng phổi nhiều, màu vàng  chanh, thử phản ứng Rivalta dương tính), nguyên nhân do lao màng phổi.  Thể bệnh này hay gặp ở người trẻ tuổi, rất hiếm ở người cao tuổi như cụ.  Về  xử trí, việc chọc hút dịch kịp thời giúp bệnh nhân dễ thở, không bị suy  hô hấp, nhất là ở người già; cần chọc hút triệt để nhằm phòng ngừa di  chứng dày dính màng phổi.  Cần nhớ rằng:  Sau khi chọc hút dịch màng phổi lần đầu, dù lấy ra được hết hoặc gần hết  dịch, cũng không thể coi là đã làm cho màng phổi hết dịch. Bệnh nhân  phải sẵn sàng để chọc tiếp rất sớm sau đó và chọc nhiều lần, trong khi  vẫn phải chữa nguyên nhân là bệnh lao.  Thư  bạn không nói rõ cụ nhà đã được dùng những thuốc gì. Nhất thiết cụ phải  được điều trị bằng các thuốc chống lao mạnh để chữa cho khỏi viêm lao  màng phổi. Có như vậy phổi mới có thể hết dịch, ngăn ngừa được bệnh lao  phổi (vốn nặng nề và phiền phức hơn nhiều).  Gia  đình nên cho cụ đi khám chuyên khoa lao của ngành y tế để được dùng  thuốc chống lao miễn phí theo phác đồ, trong đó thế nào cũng có  Rifamipicine và Rimifon (có bán tại hiệu thuốc tây).  Không  nên truyền dịch, càng không nên truyền máu, để phòng ngừa biến chứng nề  phổi, rất nguy hiểm. Nếu có truyền đạm, phải truyền thật chậm và theo  dõi chặt chẽ. Tốt nhất là cho cụ uống Moriamin forte, 2 viên nang/ngày);  động viên cụ ăn nhiều nước xúp thịt cá, rau, dùng trứng, nước ép hoa  quả các loại, uống đa sinh tố Theravit 2 viên/ngày.  Nên  nhớ rằng tim người già rất nhạy cảm với tình trạng thiếu ôxy. Vì vậy,  cần chú ý giữ cho đường thở của cụ thật thông suốt bằng cách động viên  cụ cố khạc hết đờm dãi, giúp cụ đấm nhẹ lưng; nếu cần thì cho thở ôxy  cách quãng có theo dõi.  Trong tràn dịch  thanh tơ, dịch hút ra phần lớn có màu vàng chanh, và một số ít có màu  máu. Trường hợp cụ nhà có thể thuộc số ít đó. Dịch có màu đỏ cũng có thể  do thao tác chọc hút (không sao đâu, chuyện này bình thường thôi).  Tuy  nhiên, nếu thực sự chất dịch hút ra hoàn toàn là máu màu thẫm thì phải  dè chừng có khối u ở phổi (chọc hết dịch, xong cho chụp X- quang ngay sẽ  thấy rõ). Hy vọng là cụ không bị rơi vào tình huống này, bởi vì, như đã  nói ở trên, thể tràn dịch này ít khi thấy nơi người cao tuổi như cụ.  337. Tràn khí màng phổi tự phát  "Em  32 tuổi, cách nay hai năm bị tràn khí màng phổi tự phát bên trái, toàn  bộ phổi trái bị chèn ép, được Bệnh viện Đà Lạt chẩn đoán và cho chuyển  cấp cứu về Trung tâm lao và bệnh phổi TP HCM. Các bác sĩ rạch ngay một  vết nhỏ ở ngực trái để đặt ống dẫn lưu khí và dịch, 1 tuần rút ống, sau  đó vài hôm em được ra viện. Về nhà 1 tuần, bệnh tái phát, lại được xử  trí giống trước, có thêm thuốc chống dính bơm vào qua ống dẫn lưu, sau 2  tuần, em xuất viện.  Trong hai  lần điều trị, thử đờm đều không thấy BK. Từ khi ra viện, em chỉ được  uống thuốc giảm đau, thuốc ho và thuốc bổ, vì bác sĩ nói không có thuốc  gì đặc trị tràn khí. Em muốn biết bệnh tràn khí tự phát là gì, nguyên  nhân do đâu, có nguy hiểm và khó chữa lắm không?".  Em đã may mắn được chẩn đoán sớm, xử trí kịp thời và đúng nguyên tắc.  Tràn  khí màng phổi tự phát, ở người trẻ tuổi và có bề ngoài khỏe mạnh như  em, thường là do vỡ một vài kén khí (kyste aérien) nằm ngay bên dưới  màng phổi. Những kén khí này nếu qúa nhỏ sẽ rất khó phát hiện bằng  X-quang. Lúc bình thường thì không sao, nhưng khi gắng sức qúa mạnh hoặc  khi bay rất cao, kén sẽ vỡ ra, để cho không khí lùa vào khoang ảo nằm  giữa màng phổi và lồng ngực (bình thường thì khoang này hoàn toàn không  có không khí, áp lực âm tính, cho phép phổi luôn áp sát vào lồng ngực).  Không khí này chèn ép phổi, làm cho phổi bẹp xuống, không còn hoạt động  trao đổi khí.  Cách xử trí duy nhất là lấy  bỏ lượng không khí này. Lý tưởng nhất là đặt ống dẫn lưu khoang màng  phổi (như đã làm với em) rồi dùng máy hút nhẹ liên tục (nhẹ để không gây  rách thêm màng phổi, liên tục để luôn luôn tạo khoang ảo nói trên). Thủ  thuật dẫn lưu này phải được tiến hành tại một cơ sở chuyên ngành, vô  khuẩn tốt, với bác sĩ có tay nghề.  Nếu cơ  sở không có điều kiện thực hiện thủ thuật nói trên thì trong khi chờ đợi  hoặc trên đường chuyển về tuyến sau, nếu bệnh nhân khó thở nhiều, người  ta phải chọc hút màng phổi để hút bớt khí (trường hợp này cũng phải vô  khuẩn tuyệt đối để tránh nhiễm khuẩn khoang màng phổi).  Trong  khi dẫn lưu khí, thường thấy có một lượng dịch không màu kèm theo,  nguyên nhân là do màng phổi bị kích thích tiết ra. Hiện tượng này sẽ  chấm dứt khi không còn không khí sót lại. Phải rút hết chất dịch đó để  tránh nguy cơ nhiễm khuẩn mủ màng phổi.  Thuốc  men bác sĩ cho như vậy là đủ. Tuy nhiên, nếu muốn thật chắc chắn không  phải do lao, em nên xin chụp lại phổi và làm phản ứng lao; nếu có vấn  đề, bác sĩ sẽ cho thêm một đợt thuốc phòng lao.  Em  nên thường xuyên tập hít thở sâu (thở vào và thở ra tối đa), để khắc  phục hiện tượng dính màng phổi, chú ý sinh hoạt điều độ, và hãy yên tâm.  338. Bệnh bụi phổi  "Từ  năm 20 tuổi, cháu vào làm tại một xí nghiệp gạch ngói, chuyên đốt lò;  từ đó đến nay da cháu sạm lại, môi thâm. Vừa qua, xí nghiệp mời bác sĩ  về khám định kỳ, phát hiện cháu bị rối loạn nhịp tim, viêm phế quản và  viêm họng hạt, nằm viện một tháng không đỡ. Hiện cháu bị khạc ra đờm lẫn  máu, bác sĩ lại chẩn đoán là viêm phế quản, cho chữa bằng kháng sinh  như lần trước, và vẫn không đỡ".  Thư  cháu không nói về điều kiện làm việc cụ thể, cũng không nói có được chụp  X-quang phổi hay không nên khó nói chắc. Nhưng có khả năng cháu mắc  bệnh bụi phổi (do không đeo khẩu trang thường xuyên trong khi làm việc,  cháu đã hít phải bụi than đá, những bụi này nằm lại vĩnh viễn trong  phổi).  Bệnh bụi phổi gây ho nhiều và khạc  ra máu lắt nhắt. Nếu bệnh nặng, lâu ngày sẽ dẫn đến thiểu năng hô hấp và  ảnh hưởng đến tim (tâm phế mãn).  Cháu nên  sớm đi chụp X-quang hai phổi để lấy tài liệu chẩn đoán. Nếu giải đáp  này không trúng thì thật may mắn và cháu cũng yên tâm thêm khi biết mình  có bị lao phổi hay không.  Dù kết quả ra sao, cháu cũng nên chú trọng hơn đến việc phòng hộ lao động, hoặc chuyển sang công tác khác.  339. Sán và ấu trùng sán  "Cháu  đọc báo thấy một bệnh viện phía Bắc có máy chụp cắt lớp hiện đại đã  phát hiện được 20 trường hợp ấu trùng sán lợn nằm trong não, da và cơ.  Bài báo cũng nói nguyên nhân là do ăn rau sống, uống nước chưa sôi, ăn  thịt lợn chưa nấu chín. Trước đây, thầy giáo cháu chỉ bảo ăn thịt lợn,  thịt bò tái thì bị sán chứ không thấy nói là sẽ bị bệnh ghê gớm như  vậy".  Sán lợn sống ký sinh trong ruột  non của người, đầu sán có móc bám chặt vào màng ruột, thân có hàng chục  đốt, mỗi đốt là một ổ trứng. Các đốt cuối cùng là lớn tuổi nhất, trứng  sán ở đây đã "chín". Mỗi lần bệnh nhân đại tiện, từng đoạn gồm 2-3 đốt  hoặc hơn theo phân ra ngoài (ở sán bò có khác: từng đốt đơn độc tự động  chui ra "vô tư" bất kể lúc nào).  Nếu lợn  hoặc người ăn phải những ổ trứng sán này, trứng sẽ qua thành ruột, đi  vào cơ (bắp thịt), não... để phát triển thành ấu trùng, nằm lại trong  đó. Như vậy là trong trường hợp ăn phải trứng sán, con người cũng bị gạo  như lợn, chẳng qua vì không bị mổ thịt nên không biết là "người gạo" mà  thôi. Đây đúng là trường hợp mà nguyên nhân đã được tác giả bài báo nêu  lên: do ăn rau sống, uống nước chưa chín. Hậu quả này rất nghiêm trọng,  vì các ấu trùng sán nằm trong não sẽ gây chứng nhức đầu thường xuyên và  tăng dần theo tuổi của ấu trùng, hoặc gây bệnh động kinh. Sai một ly đi  một dặm là như vậy.  Nếu con người ăn phải  thịt lợn gạo nấu chưa kỹ, ấu trùng từ thịt lợn, thịt bò vào ruột sẽ trở  thành con sán trưởng thành (chứ ấu trùng đó không chui vào các tổ chức  khác như não, cơ, da như trường hợp trên).  Như  vậy, lời thầy giáo cháu giảng vẫn không sai. Và dĩ nhiên ý kiến cho  rằng "bị ấu trùng sán nằm trong não, da, cơ... nguyên nhân do ăn thịt  lợn chưa nấu chín" là điều không đúng. Tiếc rằng điều này lại được đăng  trên báo, có thể làm cho hàng triệu bạn đọc ngộ nhận theo.  Khi  thấy thịt lợn, thịt bò có ấu trùng sán (bị gạo, rõ nhất là ở lưỡi), cán  bộ thú y hữu trách quyết định không cho sử dụng. Nhưng do một số người  tiếc rẻ, hám lợi nên những loại thịt như vậy vẫn có mặt trên một số  quầy.  Chúng ta cũng nên nhớ lại một trường  hợp chết thảm tại một làng quê miền trung trong thời bao cấp: Một đơn  vị bộ đội mổ lợn thấy bị gạo bèn mang vứt ra bờ sông (có sơ hở là không  chôn kỹ). Một số bà con xẻo thịt về nấu ăn; một người đàn ông lực lưỡng  ăn nhiều thịt này đã đột tử sau bữa ăn, có thể do dị ứng mạnh với các  chất lạ chứa trong bọc ấu trùng sán (tuy ấu trùng đã chết nhưng những  chất lạ này vẫn gây hại).  Hiện đã có thuốc  chữa sán hữu hiệu. Trong các lần đại tiện sau khi uống thuốc, nên ngâm  đít vào nước ấm lúc để sán tự lui dần xuống. Cần xem xét kỹ đầu đã ra  chưa (đầu sán nhỏ hơn đốt, hình cầu), vì nếu đầu chưa ra là chưa khỏi  bệnh, sán sẽ tiếp tục sản xuất ra các đốt như trước.  340. Xét nghiệm viêm gan virus  "Chồng  cháu 33 tuổi, qua xét nghiệm được chẩn đoán là viêm gan virus B: SGOT  588, SGPT 417. Xin cho biết SGOT, SGPT là gì, kết quả xét nghiệm như vậy  có nặng không?".  SGOT và SGPT là  những enzyme (men) vốn nằm trong tế bào, được giải phóng ra khi tế bào  hoại tử và đi vào máu (bình thường có < 40 đơn vị; khi viêm gan, có  thể tới hàng ngàn đơn vị). Trong trường hợp chồng cháu, hai men này tăng  vừa phải, chứng tỏ gan bị viêm nhưng không nặng.  Tuy  nhiên, để xác định viêm gan virus B (gọi tắt là VGB) thì phải làm thêm  xét nghiệm máu để tìm có tác nhân gây bệnh là HBsAg. Bởi vì bệnh viêm  gan virus không chỉ có VGB mà còn có viêm gan C (cũng lây qua đường máu)  và viêm gan A (nhẹ nhất, lây qua đường tiêu hóa).  341. Viêm gan virus B lây như thế nào?  "Chúng  em đã được một cháu gái sáu tuổi. Vừa rồi, bệnh viện phát hiện trong  máu chồng em có kháng nguyên virus viêm gan B dương tính. Chúng em phải  làm gì để khỏi lây bệnh, nhất là với cháu nhỏ; có phải cách ly không? Và  liệu sau này chúng em còn có thể có thêm một đứa con khỏe mạnh?"  Viêm  gan virus B chỉ lây qua đường máu: qua vết xước ở da, nhổ răng... khiến  virus từ nguồn lây lọt vào; qua tiêm truyền bằng những dụng cụ không  triệt để vô khuẩn (thường là do truyền máu của những người hiến bị viêm  gan).  Viêm gan virus B không lây qua nước  bọt hoặc qua đường sinh dục (một vài nhà nghiên cứu phát hiện thấy virus  viêm gan B có mặt trong chất xuất tiết của bộ máy sinh dục, nhưng hiện  vẫn chưa có bằng cớ về đường lây nhiễm này), cho nên không cần cách ly  về ăn uống hay ngưng quan hệ vợ chồng. Và dĩ nhiên hai em vẫn có thể có  thêm cháu bé khỏe mạnh nếu nuôi dưỡng đúng phương pháp.  Trước  mắt, em và cháu phải đi xét nghiệm máu tìm kháng nguyên virus viêm gan  B. Nếu âm tính thì xin tiêm chủng phòng bệnh này (tại Viện vệ sinh dịch  tễ ở Hà Nội hoặc Viện Pasteur ở TP Hồ Chí Minh), nếu đã dương tính thì  thôi.  Chú ý bồi dưỡng đặc biệt cho bố cháu  về chất đạm (thịt, cá, đậu phụ...), vitamin; không cho uống rượu hoặc  nhiều bia, không hút thuốc lá; làm việc và nghỉ ngơi điều độ. Trước khi  quyết định có thêm cháu, nên cho kiểm tra lại sức khỏe của bố cháu.  Nếu cần tới thuốc thì phải đi khám để bác sĩ kê đơn 2 thứ thuốc sau:  1.  Lamivudine, tác động trực tiếp lên virus, không cho nó sinh sản. Hiện  có 2 loại, tính năng như nhau nhưng mang tên biệt dược, cách đóng gói và  giá cả khác nhau; tùy tình hình mà chọn loại thích hợp, uống mỗi ngày 1  viên, trong ít nhất 1 năm.  - Zeffix 100 mg, lọ 28 viên, giá khoảng 34 ngàn đồng/viên.  - Lavudine 100 mg, lọ 30 viên, giá khoảng 26 ngàn đồng/viên.  2. Alpha-interferon (Intron A), kích hoạt hệ miễn dịch, tiêm mỗi tuần 3 lần trong 4-6 tháng. Giá khoảng 450 ngàn/lọ.  Nhân đây xin giới thiệu 1 bài thuốc Đông y để các em có thể sử dụng kết hợp:  - Bồ công anh, nhân trần, phục linh, sài hồ, sơn chi mỗi vị 10-12 g, uất kim 6 g, sắc uống hằng ngày.  342. Lời giải còn bỏ ngỏ  "Bệnh  viêm gan virus B chỉ lây qua đường máu, vậy khi hai vợ chồng cháu ngủ  chung giường cùng bị một con muỗi đốt thì có lây cho nhau không?".  Câu  hỏi của cháu làm cho người giải đáp bật cười nhưng lại rất lúng túng,  vì chưa thấy có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tình huống đặc biệt  đó! Đành bỏ ngỏ để nhờ các nhà bác học trên thế giới cũng như trong  nước có dịp giải đáp giúp.  Trong khi chờ  đợi, nên chăng chúng mình cứ "khẳng định đại" đi, để thúc đẩy mọi người  chống muỗi đốt (giữ vệ sinh ngoại cảnh, tích cực diệt muỗi, nằm màn...).  Việc này cũng giúp tránh một số bệnh nguy hiểm khác như sốt rét, viêm  não Nhật Bản, sốt xuất huyết, bệnh giun chỉ...  343. Cứ để hai cụ thoải mái  "Bác  hàng xóm của bố cháu đi xét nghiệm máu thấy viêm gan B dương tính, vậy  mà hai cụ vẫn đi lại chơi bời với nhau như không có chuyện gì xảy ra. Mẹ  cháu thì sợ chết khiếp những lúc phải tiếp bác ấy trong nhà, sau đó bà  lau chùi suốt lượt các thứ".  Hiện giờ  thì hai ông già chưa có ai sai cả; bởi vì bệnh viêm gan B hoặc viêm gan  C chỉ lây qua đường máu mà thôi (chồng viêm gan B nhưng vợ không bị lây  và vẫn sinh con khỏe mạnh bình thường).  Nhưng  nếu hai người dùng chung dao cạo râu hoặc cái cắt móng tay thì cực kỳ  nguy hiểm vì virus viêm gan B sẽ dễ lây nhiễm sang bố cháu qua vết rách ở  da (một số phẫu thuật viên và bệnh nhân mổ có thể lây cho nhau theo  kiểu này).  Thế thôi. Ngoài ra, cứ để hai cụ thoải mái uống trà, tâm sự. Mẹ cháu chẳng phải dọn dẹp, chùi rửa phí công, mệt người.  344. Khi nhiều người nhà mang kháng nguyên viêm gan B  "Cách  đây khoảng 4 năm, chị của cháu đi xét nghiệm máu có kết quả HBsAg dương  tính; sau đó trong gia đình chỉ có cháu đi xét nghiệm (kết quả âm tính  và đã được tiêm phòng). Nay chị dâu của cháu, đang có thai khoảng 3  tháng, thấy mắt vàng, đi xét nghiệm viêm gan B thì âm tính, nhưng kết  quả xét nghiệm của chồng chị sau đó lại dương tính (anh chị mới xây dựng  khoảng 4-5 tháng nay). Rồi chồng cháu đi xét nghiệm cũng thấy nhiễm  virus B. Xin cho biết chị dâu cháu có cần xét nghiệm lại hay tiêm phòng  không, và phải dùng thuốc gì? Đứa con của chị ấy có bị nhiễm không? Anh  cháu và chồng cháu cần cùng những thuốc gì? Sau này, con của cháu sinh  ra có bị nhiễm không?".  Cháu đừng quá  bi quan, bởi vì mang kháng nguyên virus viêm gan B (VGB) trong máu  không có nghĩa là đã mắc bệnh VGB ở mức nguy hiểm. Vả chăng, ngay cả khi  đã bộc phát, VGB cũng có thể nặng hay nhẹ tùy từng tình huống (số tế  bào gan bị tổn thương, sức đề kháng của cơ thể, việc giữ gìn và bồi  dưỡng sức khỏe ra sao...).  Hợp lý nhất là  cho các thành viên còn lại trong gia đình đi xét nghiệm máu, những ai  (-) thì cho tiêm phòng, những ai (+) thì phải được theo dõi cẩn thận hơn  về sức khỏe. Chị dâu cháu phải đi xét nghiệm lại, để nếu vẫn (-) thì  sau khi sinh phải tiêm phòng. Trường hợp của cháu, vì cháu không nói rõ  quy trình tiêm trước đây nên không biết thế nào. Cháu nên đến một chuyên  gia về vấn đề này, nói rõ về việc tiêm phòng trước đây để được hướng  dẫn cụ thể.  Con của cháu và của chị dâu  cháu không bị lây nhiễm VGB, với điều kiện bảo đảm vô khuẩn các dụng cụ  và thao tác hộ sinh, bởi vì bệnh này lây lan qua đường máu.  Với các thành viên có kết quả xét nghiệm (+), cần lưu ý:  -  Giữ vững tinh thần lạc quan để không rơi vào trạng thái stress, có thể  sẽ làm cho tình hình xấu đi. Khi bị VGB, không phải là toàn bộ các tổ  chức gan bị tổn thương hoặc tổn thương nặng. Phần gan lành mạnh vẫn đảm  nhiệm được chức năng (nhiều người bị thương phải cắt bỏ một phần quan  trọng của gan, sau đó vẫn khỏe mạnh bình thường).  -  Tăng cường bồi dưỡng cơ thể bằng ăn uống, chủ yếu là chất protid (đạm)  và các vitamin (có nhiều trong hoa quả, rau xanh...). Có một nguồn  protid rất quý, dễ kiếm, rẻ tiền, dễ chế biến là nhau sản phụ.  - Tránh những thức ăn mà cơ thể "không thích". Tuyệt đối kiêng bia rượu, thuốc lá. Thể dục nhẹ nhàng đều đặn.  - Về thuốc điều trị VGB, xin xem Mục 341.  -  Có thể kết hợp dùng thêm các loại thuốc trong đó có mật gấu (gấu rừng  hay gấu nuôi đều được) nhằm giảm thiểu, thậm chí ngăn chặn các biến  chứng có thể xảy ra (xơ gan, ung thư gan).  345. Mang thai khi đang bị nhiễm virus viêm gan B  "Trước  đây tôi bị nhiễm virus viêm gan B, xét nghiệm HBsAg(+), uống thuốc theo  đơn bác sĩ, một thời gian sau, xét nghiệm lại vẫn dương tính. Nay tôi  đã có thai 5 tháng. Tôi có thể dùng Alpha-interferon và Lamivudine được  không?".  Thư bạn không nói rõ là  trước khi mang bầu, bạn có làm xét nghiệm lại HBsAg không? Nếu vẫn dương  tính thì rất nhiều khả năng cháu bé cũng bị nhiễm, do đó, bạn cần chú ý  mấy điểm sau đây:  - Dùng đều đặn cả hai loại thuốc ở Mục 341.  - Chú ý giữ gìn sức khỏe trong khi mang thai, ăn uống đủ chất, nhất là chất đạm và vitamin.  -  Bạn cần được một cơ sở sản phụ của ngành y tế theo dõi và xin được sinh  tại đây (nhớ rằng nếu HBsAg(+) thì máu bạn sẽ làm lây nhiễm bệnh cho nữ  hộ sinh nếu tay họ có vết rách da mà không mang găng phòng hộ).  - Cháu bé sơ sinh cần được săn sóc chu đáo, tốt nhất là được một chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực này trông nom.  346. Đó là viêm gan virus A  "Xin  cho biết tại sao bệnh viêm gan B lại lây lan tùm lum? Bên nhà hàng xóm  quanh năm suốt tháng chẳng đi đâu, vậy mà cả nhà thi nhau mắc viêm gan  B, dễ sợ! Gia đình chúng em ở kế bên, liệu có lây bệnh không?".  Viêm  gan B (viêm gan virus B) chỉ lây qua đường máu, không lây qua đường  tiêu hóa hoặc qua quan hệ vợ chồng. Vì vậy, gia đình người hàng xóm của  em không bị viêm gan B mà bị viêm gan A (viêm gan virus A). Bệnh này chỉ  lây qua đường tiêu hóa, do giây phân của người đang mắc bệnh hoặc khỏi  bệnh chưa được 45 ngày (cho nên trong phân vẫn còn mầm bệnh và lây cho  người khác). Bệnh nhân tiếp xúc với phân của bản thân rồi cầm vào nắm  cửa, cán gáo, sách vở, chén bát... Cho nên, nếu không cách ly tốt thì  thường trong nhà lây lẫn cho nhau; vô phúc cho những ai lai vãng gia  đình đó mà không chú ý giữ gìn.  Hai em nên  mang giải đáp này sang đọc cho họ nghe, nhắc gia đình đó quản lý phân  cho tốt, cách ly triệt để, không để lây tiếp cho người nhà, và không để  lây lan bệnh sang bà con lối xóm. Hai em cũng nhớ nói rõ để họ không quá  sợ hãi, vì viêm gan A nhẹ hơn nhiều so với viêm gan B hay viêm gan C.  Nên nhắc họ dùng nhiều đường, nhất là đường từ trái cây, mật ong; và  tăng cường ăn nhiều thịt cá, tôm cua, đậu nành... (ít nhất cũng trong  thời gian dưỡng bệnh) để giúp cho gan chóng hồi phục.  347. Thuốc chữa viêm gan virus C  "Tôi  đi xét nghiệm máu, được bác sỹ kết luận và viêm gan virus C. Trường hợp  tôi nên chữa bằng loại thuốc Tây nào, và có nên uống cây chó đẻ?".  Về  thuốc tây, đối với viêm gan virus B (VGB), ở Việt Nam đang có 2 loại  khá công hiệu (dùng kết hợp) là Lamivudine và Interferon. Còn đối với  viêm gan virus C (VGC) thì ở Pháp đã có thuốc Ribavirin (Rebetol) dùng  kết hợp với Interferon (Viraféron) rất công hiệu. Từ tháng 6/2000, thuốc  này đã được phép bán trên thị trường thế giới; ở nước ta chắc phải một  thời gian nữa mới nhập được. Vì vậy, trong khi chờ đợi, bạn có thể chữa  trị như đối với VGB, hoặc nhờ người nhà mua giúp Ribavirin từ nước ngoài  (mỗi ngày uống 2 viên, chia làm 2 lần, trong 6-12 tháng).  Từ  cuối năm 2000, ở Pháp có thêm loại Interferon khuếch tán chậm mang tên  Pégylé, tiêm mỗi tuần 1 lần, liên tục trong một năm, kết hợp với  Ribavirin, mang lại kết quả cao hơn trong điều trị VGC, nhưng thuốc khá  đắt tiền, phải mất hàng chục ngàn frăng. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn phải  "ráng chịu tốn" vì tỷ lệ ung thư gan do VGC đã tăng gấp ba, trong khi tỷ  lệ ung thư do VGB và xơ gan vẫn giữ mức cũ.  Về  thuốc nam, trong nhân dân hay dùng cây chó đẻ răng cưa để chữa bệnh  gan, bạn cũng có thể dùng thêm. Một số người gọi cây chó đẻ răng cưa là  "cây chó đẻ", phải cẩn thận kẻo nhầm vì cây hy thiêm, thuộc họ Cúc, cũng  có tên gọi "cây chó đẻ", nhưng không dùng để chữa bệnh gan)  Theo  giáo sư Đỗ Tất Lợi, cây chó đẻ răng cưa (còn gọi là diệp hạ châu, diệp  hòe thái, lão nha châu, prak phle theo tiếng Khơme), tên khoa học  Phyllanthus urinaria L., thuộc họ Thầu dầu, hay được bà con dùng chữa  bệnh gan, sốt... Mỗi ngày dùng 20-40 g cây tươi sắc uống.  348. Bị xơ gan có ghép gan được không?  "Bị  bệnh tim thì ghép tim, bị bệnh thận thì ghép thận để thay thế. Còn nếu  bị bệnh gan, có thể ghép gan được không? Em có người thân nghiện rượu  nặng, đi khám bác sỹ nói bị xơ gan, có thay gan khác được không?".  Không  phải cứ bị bệnh tim gì cũng ghép tim. Chẳng hạn, nếu bị hẹp van tim,  chỉ cần mổ nong cho van rộng trở lại; bị hở van tim thực thể thì mổ thay  van; bị thông liên nhĩ, thông liên thất thì mổ vá kín; xơ vữa mạch vành  thì mổ đặt cầu nối cho các động mạch này; nhiều bệnh khác về tim được  điều trị bằng thuốc... Chỉ cần ghép tim khi tim đã suy đến mức không còn  đảm nhiệm được việc co bóp bình thường cho máu lưu thông.  Trường  hợp bệnh thận hay bệnh gan cũng theo logic nói trên. Việc ghép thận  được con người thực hiện sớm hơn ghép gan, vì chức năng gan rất đa dạng  và khối lượng lớn của gan dễ gây thải loại mảnh ghép.  Việc  ghép gan trên thế giới đã được tiến hành khá rộng rãi. Ở châu Âu, cho  đến nay đã có hơn 2 vạn trường hợp; riêng năm 1995 là 2.940 trường hợp,  trong đó có 60% là bệnh nhân xơ gan (trong đó, 35% do nghiện rượu, 50%  do viêm gan virus B, C). Kết qủa khả quan: 70% bệnh nhân mổ sống thêm  được 5 năm trong trạng thái tương đối khỏe mạnh.  Tuy  nhiên, trên bình diện toàn cầu, việc ghép gan còn gặp khó khăn vì không  đủ mảnh ghép để cung cấp cho bệnh nhân (năm 1995 ở Pháp có 100 bệnh  nhân chờ mổ ghép gan đã phải chết vì thiếu gan để ghép). Giá thành cuộc  mổ ghép gan còn cao, khá xa vời đối với những người có thu nhập thấp và  nhân dân các nước nghèo. Người ta đang nghĩ cách cải tiến phương pháp  này bằng cách lấy mảnh ghép hàng loạt từ lợn.  Không  hiểu người nhà của em có cầm cự được đến ngày thành công trong lĩnh vực  này không. Trong khi chờ đợi, em nên khuyên anh ta bỏ rượu, hy vọng xơ  gan đỡ tiến triển nhanh chóng.  349. Nuốt phải đinh  "Cháu  là con trai, 15 tuổi. Cách đây khoảng 4-5 năm, cháu nuốt phải một cái  đinh dài 3 cm, nhưng không dám thổ lộ với ai. Hiện nay thỉnh thoảng thấy  đau bụng nên cháu rất lo. Xin giúp đỡ cháu".  Rất  nhiều khả năng cái đinh 3 cm đó đã bị tống ra ngoài theo phân vào ngày  hôm sau của sự cố; tiếc rằng dạo đó cháu không cho bố mẹ biết để các cụ  theo dõi phân (cho cháu đại tiện vào một cái bô rồi tìm cái đinh). Nếu  nó vẫn nằm lại có nghĩa là nó bị nằm ngang, chọc thủng ruột, gây viêm  màng bụng; và bác sĩ đã phải mổ cấp cứu cho cháu để lấy đinh, khâu ruột  và dẫn lưu ổ bụng từ lâu rồi!  Vì vậy, hiện  tượng đau bụng gần đây của cháu là do nguyên nhân khác, thường gặp nhất  là giun đũa và rối loạn tiêu hóa do thiếu vệ sinh ăn uống. Cháu nên xin  gia đình đi thử phân, nếu có trứng giun thì uống thuốc tẩy.  Nếu cháu vẫn chưa tin hoàn toàn vào giải đáp này và vẫn lo lắng thì nên xin chụp X-quang ổ bụng.  350. Thoát vị bẹn cả hai bên  "Cháu  học lớp 11. Từ 3-4 năm nay, cháu thấy bên trái bìu dái có một bọc mà  khi lấy tay bóp vào thì thấy xẹp đi, khi buông tay ra hay rặn mạnh thì  nó lại phồng lên như cũ. Từ năm ngoái, cháu lại thấy bên phải bìu dái  cũng có hiện tượng tương tự, chỉ hơi khác là khi lấy tay bóp, nó không  bé lại như bên kia. Xin cho cháu một lời khuyên".  Nhiều  khả năng cháu bị thoát vị bẹn bẩm sinh cả hai bên. Qua lỗ thoát vị bên  trái, ruột non tụt xuống bìu, còn bên phải có thể là một đoạn mạc nối  lớn (mỡ chài) tụt xuống. Sở dĩ ở bên trái, ruột không lần nào bị nghẹt  là do lỗ thoát vị khá rộng, cho phép ruột quay trở lên dễ dàng, thêm vào  đó là nhờ "ông chủ" hay tẩn mẩn nắn bóp đẩy ruột lên giúp.  Tuy  nhiên, không nên chơi với lửa, và chơi lâu đến vậy! Vụ nghỉ hè này,  cháu nên xin bố mẹ đưa đi khám tại một khoa ngoại tổng quát hoạt động  tốt. Nếu không có điều kiện mổ một lúc cả hai bên, các bác sĩ sẽ mổ bên  trái cho cháu trước, vì bên đó có ruột non, dễ xảy ra nguy cơ bị nghẹt  ruột, một biến chứng rất nguy hiểm.  351. "Túi dịch" sau khi mổ thoát vị bẹn  "Cháu  mổ thoát vị bẹn mới được hai ngày thì phát hiện ra một túi dịch căng  tròn trên tinh hoàn trái (trước đó không có). Cháu xuất viện vào ngày  thứ 9 sau mổ, vẫn nguyên túi dịch đó. Về nhà 1 tuần, thấy túi dịch không  tự mất đi như vị bác sĩ mổ đã bảo, cháu đi siêu âm thấy nó có kích  thước 4,9 x 3,9 cm. Trở lại bệnh viện, cháu được chính ông bác sĩ mổ  chọc hút dịch, nhưng sau đó nó vẫn còn và gây đau. Cháu hoang mang và  chán đời quá".  Tình hình của cháu vẫn  sáng sủa. Cái "túi dịch" mà cháu nói, ban đầu không phải chứa chất  dịch. Đó là máu đã rỉ ra trong quá trình mổ (và cả sau mổ) từ những vết  rạch không được cầm máu kỹ. Nếu được băng ép tốt, những chỗ rỉ nay sẽ tự  cầm. Nhưng ở cháu, có một điều mà không biết vị bác sĩ mổ có nhận ra  không: Túi thoát vị của cháu không nằm nửa chừng (như một ngón găng  tay), mà nó xuống gần tinh hoàn, như cái ống. Do đặc điểm này mà máu rỉ  tích tụ dần thành một túi máu; nếu được chọc hút triệt để ngay lúc phát  hiện, sẽ không để lại di chứng.  Thời gian  trôi đi, máu trong túi kia biến chất để thành chất dịch. Lúc này, cái  được chọc hút không còn là máu, và nó đã để lại di chứng là các mô xơ  sinh ra trong quá trình hấp thu chất dịch.  Túi  máu này có thể tránh được, nếu phẫu thuật viên sau khi tái tạo thành  bụng để chữa thoát vị bẹn đã thanh toán giúp "cái ống" nói trên bằng  cách khâu lộn nó ra (như kiểu ta lộn ngược cái vỏ chanh đã vắt), một  động tác đơn giản chỉ mất 1 phút.  Vấn đề  quan trọng nhất bây giờ là xem cháu đã hết thoát vị chưa. Nếu đã hết,  thì coi như phẫu thuật tái tạo thành bụng đã thành công. Còn di chứng  nói trên tuy làm cháu phải bận tâm nhưng chắc chắn không ảnh hưởng gì  đến sức khỏe nói chung và hoạt động giới tính nói riêng, dần dà sẽ hết.  352. Nứt hậu môn  "Mỗi lần đi ngoài, cháu rất khổ vì đau rát ở hậu môn và khi lau thấy có rớm máu. Xin cho biết cách chữa".  Hiện chưa có thuốc đặc trị chứng nứt hậu môn như trường hợp của cháu.  Nên  thường xuyên giữ ẩm cho vùng hậu môn bằng cách bôi Glycérine hoặc  Vaseline pure, kem chống nẻ..., nhất là khi trời hanh khô. Vào thời gian  vết nẻ lành và chưa tái lại, khi tắm, cháu có thể dùng khăn mềm thấm  nước ấm cọ nhẹ lên vùng quanh hậu môn, nhằm làm mỏng bớt lớp sừng xung  quanh để hạn chế độ sâu của các vết nứt.  Giữ cho phân luôn mềm bằng cách ăn nhiều rau xanh, uống nhiều nước, nhất là mùa nực, khi trời hanh khô.  353. U đại tràng  "Bà  cháu năm nay gần 70 tuổi, sức khỏe bình thường, nhưng gần đây bà hay bị  cuộn bụng từ dưới lên rồi nôn ra, bất cứ lúc no hay lúc đói. Xin cho  gia đình cháu một lời khuyên".  Nhiều  khả năng bà cháu bị u đại tràng, thỉnh thoảng gây bán tắc ruột (đau quặn  bụng từng cơn, không trung tiện được, nôn khan hoặc nôn ra thức ăn, một  lúc sau thì mọi chuyện trở lại bình thường).  Gia  đình nên sớm cho bà đi khám tại một bệnh viện có trang bị và kỹ thuật  tốt, để nếu đúng như vậy thì có thể xét phẫu thuật cho bà. Bởi vì trong  điều kiện hiện nay, việc mổ người cao tuổi bảo đảm an toàn hơn trước  kia.  Trong khi chờ đợi, hoặc nếu không có  chỉ định phẫu thuật, cần chú ý cho bà uống nhiều nước để giúp cho phân  mềm; tránh các thức ăn khó tiêu; dùng các thức ăn nhuận tràng (khoai  lang, đu đủ, rau xanh nấu nhừ...).  Nếu  đúng là u đại tràng thì ở bà là u ác tính; nếu cứ để vậy, u sẽ phát  triển nặng dần. Nếu còn mổ được, chắc chắn bà sẽ sống thêm, được bao lâu  là tùy thuộc vào tình hình cụ thể; và nhất là những ngày cuối đời của  bà sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều.  354. Khi bị loét bờ cong nhỏ dạ dày  "Mẹ  em đau bụng vùng dưới xương mỏ ác đã lâu, năm kia đã được bác sĩ cho  chụp X-quang dạ dày, chẩn đoán là loét bờ cong nhỏ và khuyên vào nằm  viện để mổ luôn, nhưng mẹ em ngần ngại. Gần đây đau tăng, không ăn uống  gì được nên mẹ em muốn mổ, thì gia đình chúng em lại lo lắng vì sức khỏe  sút kém nhanh của mẹ".  Tình hình  không còn đơn giản như hai năm trước đây, cho nên khi em nhận được thư  riêng của tòa soạn hay đọc giải đáp này trên báo, em nhớ giữ kín đừng  cho mẹ biết nhé!  Về thuật ngữ y học, khi  nói đến bệnh dạ dày (bao tử), một số thầy thuốc và kỹ thuật viên thường  nói gộp "dạ dày - tá tràng" (do chỗ phần cuối dạ dày nối vào hành tá  tràng, trông giống tựa như củ hành). Vì nói gộp "hội chứng dạ dày tà  tràng", "viêm loét dạ dày tá tràng" nên nội dung khá mơ hồ và nhất là dễ  gây ngộ nhận cho bệnh nhân cũng như gia đình họ.  Thực  tế thì tuy cùng là loét, cùng gây đau ở vùng thượng vị, nhưng loét dạ  dày khác loét hành tá tràng về triệu chứng lâm sàng, diễn biến và tiên  lượng bệnh.  Nói chung, loét hành tá tràng  gây đau bụng lúc đói, ăn vào thì đỡ, không bị ung thư hóa; còn loét dạ  dày gây đau khi no, nôn hết ra hoặc tiêu hóa xong thì đỡ, thường có nguy  cơ bị ung thư hóa, nhất là khi loét ở phần đứng của bờ cong nhỏ dạ dày.  Vị  bác sĩ khuyên mẹ em "vào nằm viện để mổ luôn" rất có lý, tiếc rằng  chúng ta đã bỏ lỡ mất cơ hội. Rất nhiều khả năng ổ loét dạ dày của mẹ đã  bị ung thư hóa theo quy luật diễn tiến của nó.  Trước  tiên, phải cho mẹ em vào vào điều trị nội trú tại một bệnh viện có các  phẫu thuật viên vững tay nghề và giàu kinh nghiệm. Còn triển vọng có mổ  được nữa hay không sẽ do bệnh viện quyết định sau khi có đầy đủ cứ liệu.  Tuy nhiên, có hai điểm mà gia đình em cần nắm rõ để có thể chủ động trong từng tình huống:  -  Nếu loét ung thư hóa ở phần ngang của bờ cong nhỏ (điều rất may mắn),  các bác sĩ phải cắt tới 3/4, thậm chí 4/5 dạ dày (trường hợp loét đơn  thuần chì chỉ cắt 2/3).  - Nếu loét ung thư  hóa ở phần đứng của bờ cong nhỏ, phải cắt rộng hơn, thậm chí phải cắt  toàn bộ dạ dày rồi đem một đoạn ruột non lên nối với phần cuối của thực  quản; đây là một phẫu thuật nặng nề và có thể bị bục miệng nối, gây tử  vong sau mổ.  - Nếu bệnh viện từ chối mổ,  hoặc là các bác sĩ, sau khi trực tiếp sờ nắn tổn thương, thấy không còn  khả năng phẫu thuật, thì điều đó chứng tỏ ung thư đã lan rộng.  355. Diệt thủ phạm gây loét dạ dày - tá tràng  "Tôi  có người em 27 tuổi bị loét hành tá tràng, có người mách nên uống  Helikit. Xin cho biết chi tiết về tác dụng của thuốc và cách sử dụng".  Người  ta đã xác định 80-100% trường hợp loét dạ dày - tá tràng là do vi khuẩn  Helicobacter pylori gây ra, và đã tìm ra được thuốc điều trị có hiệu  quả, trong đó có Helikit.  Helikit được  đóng thành vỉ, mỗi vỉ có 3 viên (1 viên nang Omeprazole 20 mg, 1 viên  nén Tinidazole 500 mg và 1 viên nén Amoxycillin 750 mg); mỗi hộp có 14  vỉ dùng trong 7 ngày liền, mỗi ngày uống 2 lần vào sáng và tối, mỗi lần 1  vỉ (tức cả 3 viên một lúc). Sau đó, uống thêm Omeprazole 20 mg mỗi ngày  2 viên (chia làm 2 lần) trong 3 tuần liền. Như vậy, liệu trình hoàn  chỉnh là 4 tuần, hết một hộp 14 vỉ (khoảng 180 ngàn đồng) và 42 viên  Omeprazole.  Omeprazole ức chế mạnh sự tiết  axit của dạ dày, tạo thuận lợi cho tác dụng chống Helicobacter pylori  của Tinidazole (can thiệp vào việc tổng hợp ADN của vi khuẩn) và của  Amoxycillin (kháng sinh phổ rộng, diệt được cả vi khuẩn Gram - và  Gram+).  Do đó, phải uống 3 thứ một lúc (cả  vỉ), trong 7 ngày liền, thì mới có tác dụng, và sau đó dùng thêm  Omeprazole trong 21 ngày liền để tiếp tục ức chế tiết axit.  356. Phát hiện ung thư dạ dày  "Tôi  bị đau dạ dày đã lâu, được nội soi và kết luận là viêm dạ dày, dùng  thuốc theo đơn nhưng không khỏi. Nếu muốn phát hiện ung thư dạ dày thì  có phương pháp khám xét gì chắc chắn?".  Tùy từng tình huống mà có phương pháp thích hợp.  1. Nếu mới bị ung thư dạ dày hoặc ổ loét cũ vừa mới ung thư hóa thì:  -  Khi chụp X-quang dạ dày, trên một loạt phim chụp trong cùng một tư thế  (để so sánh) sẽ thấy bờ cong bé co bóp thiếu mềm mại, tại chỗ thấy có  hiện tượng "cứng đơ" (như một tấm ván nằm trên mặt nước gợn sóng).  -  Soi dạ dày để kiểm tra trực tiếp tình hình tại khu vực nghi vấn, nhất  là để làm sinh thiết tại đó (lấy một mẫu mô để làm xét nghiệm giải phẫu  bệnh). Nếu thấy hiện diện những tế bào bất thường, phải mổ sớm cắt đoạn  dạ dày; sau đó tiếp tục làm xét nghiệm trên mảnh cắt nhằm xác định thêm  và phân loại để có hướng theo dõi và chữa tiếp sau phẫu thuật (hóa trị  liệu nếu cần).  2. Nếu ung thư đã để hơi  muộn, chụp X-quang dạ dày sẽ thấy có hình khuyết nơi bờ cong bé; hình  khuyết này tồn tại trên một loạt phim chụp trong cùng một tư thế. Lúc  này, thủ thuật soi dạ dày không cần thiết nữa; tốt nhất là bệnh nhân vào  viện sớm để xét mổ, sau đó cho xét nghiệm mảnh cắt. Có thể phải cắt tới  3/4, thậm chí 4/5 dạ dày (ung thư càng ở cao càng phải cắt rộng); sau  mổ phải kết hợp thêm hóa trị liệu.  Trong trường hợp ung thư để hơi muộn, nhiều khi bệnh nhân tự phát hiện các hạch nằm trên xương đòn trái.  3.  Nếu ung thư đã để khá muộn, có thể sờ thấy một đám rắn chắc vùng thượng  vị (dưới mỏ ác), thường có hạch rõ trên xương đòn trái. Lúc này, triệu  chứng đã quá rõ, việc chụp X-quang chỉ nhằm khẳng định thêm mà thôi (sẽ  thấy vùng hang vị bị thu hẹp lại do ung thư ôm lấy nó). Trường hợp này,  nếu còn mổ được thì phải cắt toàn bộ dạ dày (đưa một phần ruột non lên  khâu với thực quản). Đây là một phẫu thuật nặng nề và nhiều nguy cơ biến  chứng.  Do vậy, nếu bị loét dạ dày, bệnh  nhân phải hết sức cảnh giác phòng nguy cơ bị ung thư hóa, nhất là khi  loét ở phần đứng của bờ cong bé. Điều trị nội khoa thật tích cực một  thời gian, nếu không thuyên giảm, nên phẫu thuật sớm để tránh hậu họa  (trái lại, loét tá tràng không dẫn đến nguy cơ trên).  357. Khi nào phải mổ cắt đoạn dạ dày?  "Anh  bạn tôi trên 50 tuổi, bị loét hành tá tràng lâu năm, mấy tháng nay đau  liên miên không chịu nổi, hầu như không ăn uống, người gầy mòn. Bạn muốn  mổ nhưng gia đình lại can ngăn. Xin cho biết khi nào thì phải mổ cắt  đoạn dạ dày?".  Bạn hãy chuyển đến người thân của anh bạn một số tình huống phải mổ để họ tham khảo:  a)  Nói chung, loét hành tá tràng đau theo chu kỳ sau đây: đói đau, ăn vào  đỡ, trời lạnh đau hơn trời ấm, khi đầu óc căng thẳng đau nhiều hơn khi  thanh thản... Khi đau không theo chu kỳ nữa có nghĩa là bệnh đã nặng.  Trong trường hợp này, nếu chữa chạy tích cực một thời gian ngắn không đỡ  thì phải nghĩ đến phẫu thuật, cho dù bệnh nhân còn trẻ, thậm chí đang  tuổi thiếu niên.  b) Loét hành tá tràng  cũng có nguy cơ ăn thủng vào tụy, vào gan, cho nên khi thấy đau liên  miên, hãy nghĩ đến tình huống này và sớm tới bệnh viện để xét mổ.  Trường hợp anh bạn kia nằm trong cả (a) và (b).  c)  Khi một ổ loét bị thủng đã mổ khâu cấp cứu, người ta khuyên 6 tháng sau  nên mổ cắt đoạn dạ dày (chỉ định là tương đối nếu loét hành tá tràng,  tuyệt đối nếu loét bờ cong nhỏ).  d) Nếu ổ loét chảy máu nặng hay kéo dài mà chữa nội khoa không kết quả, lối thoát duy nhất là cắt đoạn dạ dày.  358. Tại sao phải cắt tới 2/3 dạ dày?  "Khi  mổ loét dạ dày - tá tràng, tại sao bác sĩ cứ phải cắt bỏ tới 2/3 dạ  dày, mà không tiến hành khoét chỗ loét đi rồi khâu lại, có phải nhẹ  nhàng hơn không?".  Nếu "sáng kiến"  của bạn mang lại kết quả tốt thì hay biết mấy! Rất tiếc là không thể làm  như vậy, bởi vì nếu chỉ khoét bỏ ổ loét đi rồi khâu lại thì sau khi mổ,  một ổ loét mới sẽ xuất hiện ngay tại nơi đã xử trí.  Vì  sao vậy? Loét dạ dày hay loét tá tràng là hậu quả của hiện tượng đa  toan (nhiều axit) của dạ dày; nếu không thanh toán được nguyên nhân này  thì phẫu thuật sẽ thất bại.  Người ta chia dạ dày thành 3 vùng, tính từ dưới lên, như sau:  - Vùng hang vị: Chiếm non 1/3 cuối của dạ dày, chuyên việc tiết chất kiềm.  - Vùng thân vị: Chiếm khoảng già 1/3 giữa, chuyên tiết chất toan (axit).  - Vùng phình vị, chiếm khoảng non 1/3 trên, tiết hỗn hợp kiềm-toan.  Khi  thức ăn xuống dạ dày, vùng hang vị bị kích thích đầu tiên, tiết ra chất  kiềm; chính chất kiềm này sẽ khởi động việc tiết ra chất toan của vùng  thân vị.  Ở người bị loét dạ dày-tá tràng  được mổ cắt 2/3 dạ dày (nghĩa là cắt hết vùng hang vị và gần hết vùng  thân vị), thì mức tiết toan của dạ dày chủ yếu do vùng phình vị đảm  nhiệm, luôn ở mức bình thường. Nếu bác sĩ cắt bỏ không đủ 2/3 dạ dày  (nghĩa là để lại quá nhiều tổ chức của vùng thân vị) thì về sau, ngay  tại miệng nối của dạ dày với ruột non sẽ sinh ra một ổ loét mới, gọi là  loét miệng nối. Trường hợp này phải xử trí lại bằng một phẫu thuật phức  tạp, thậm chí nguy hiểm.  359. Tại sao phải cắt đoạn dạ dày cấp cứu?  "Con  trai tôi 32 tuổi, kêu đau bụng vùng mỏ ác khoảng một năm thì bị thủng  dạ dày, phải đi mổ cấp cứu. Cháu đã ra viện và cho biết bị thủng ổ loét  bờ cong bé, được mổ cắt đoạn dạ dày ngay trong đêm vào viện. Thấy cháu  bình phục, tôi rất mừng, nhưng vẫn băn khoăn sao phải cắt dạ dày sớm  vậy, tưởng thủng thì chỉ khâu chỗ thủng thôi?".  Thông  thường, khi gặp thủng ổ loét tá tràng, bác sĩ chỉ tiến hành khâu lỗ  thủng, lau sạch ổ bụng, đặt ống dẫn lưu, rồi đóng bụng lại. Trước khi ra  viện, họ dặn bệnh nhân "nếu tiếp tục đau thì sau ít nhất 6 tháng phải  trở lại để cắt đoạn dạ dày".  Sở dĩ họ làm như vậy là vì:  -  Một số trường hợp khâu xong thì khỏi luôn, bệnh nhân không đau lại; đó  là trường hợp loét chưa lâu năm, bờ ổ loét còn tương đối mềm mại.  -  Thời gian 6 tháng cho phép ổ bụng ổn định lại, các chỗ dính giữa quai  ruột bớt đi nhiều. Nếu mổ sớm hơn, sẽ gặp nhiều tổ chức dính hơn, gây  khó khăn cho tiến trình mổ cũng như giai đoạn sau mổ.  - Khi dạ dày bị thủng, chất dịch và thức ăn tràn ngập ổ bụng, vì vậy chỉ xử trí tối thiểu như trên là an toàn nhất.  Tuy  nhiên, có những tình huống buộc bác sĩ mổ phải cân nhắc lợi hại, có thể  phải "mạnh tay hơn" thì mới đem lại kết quả cao nhất cho bệnh nhân. Đó  là khi gặp phải một số tình huống như sau:  -  Vừa thủng dạ dày vừa chảy máu dạ dày (tổn thương mạch máu ngay tại chỗ  thủng). Việc cứng nhắc, chỉ tiến hành khâu không thôi thì sẽ nguy hiểm  đến tính mạng bệnh nhân (nếu như máu vẫn tiếp tục chảy, chữa không cầm  thì lại phải mở ổ bụng để cắt đoạn dạ dày, khiến bệnh nhân mất thêm  nhiều máu).  - Thủng ổ loét bờ cong bé:  Loét bờ cong bé thường có khuynh hướng ung thư hóa. Nếu chỉ khâu lỗ  thủng rồi chờ 6 tháng e không kịp, bởi lẽ, nếu đã ngấm ngầm có hiện  tượng ác tính hóa thì cuộc mổ ấy sẽ thúc cho tiến trình đó nhanh lên gấp  bội. Mà mổ lại trước 6 tháng sẽ khó hơn vì chưa thật ổn định.  -  Chỉ thủng ổ loét tá tràng, nhưng là một ổ loét lâu năm và xơ chai; nếu  chỉ khâu không thôi sẽ dễ gây hẹp làm cản trở lưu thông (hẹp môn vị),  chỗ khâu có nguy cơ bị bục.  Trong những  tình huống nói trên, nếu tình trạng bệnh nhân tốt, ổ bụng tương đối  sạch..., bác sĩ sẽ tiến hành mổ cắt đoạn dạ dày luôn. Và khi mổ, nếu xét  thấy đã có dấu hiệu ác tính hóa, bác sĩ còn phải cắt rộng hơn (3/4 thay  vì 2/3 dạ dày như thường lệ).  Như vậy,  trường hợp con trai bác rơi vào tình huống sau cùng, và dù sao cháu cũng  may mắn đã gặp được vị bác sĩ có đầu óc tỉnh táo, hết lòng vì bệnh nhân  và có kỹ thuật mổ tốt; xung quanh vị đó có những bác sĩ phụ mổ ăn ý,  kíp gây mê hồi sức trực có trình độ. Bởi lẽ mổ cắt dạ dày cấp cứu thường  không được thuận lợi như mổ theo kế hoạch hằng tuần.  360. Nôn ra máu nhưng không thấy ổ loét  "Em  trai tôi 35 tuổi, đang khỏe mạnh bỗng nôn ra nhiều máu tươi và lâm râm  đau bụng; bệnh viện cho thuốc cầm máu và truyền máu thì khỏi. Hơn hai  năm nay, nó không đau bụng hoặc nôn, không phải dùng thuốc gì, sức khỏe  tốt, chụp X-quang dạ dày không thấy loét. Gia đình rất mừng nhưng vẫn lo  vì thấy người ta bảo chảy máu dạ dày là do bị loét dạ dày-tá tràng,  phải thuốc men liên tục vì đau, thậm chí bị nôn ra máu tái phát".  Nếu  đúng là kết quả chiếu chụp X-quang cho thấy niêm mạc dạ dày bình  thường, bờ cong bé và bờ cong lớn mềm mại, không có ổ loét ở dạ dày hay  tá tràng thì nhiều khả năng là cách đây hai năm, em trai bạn bị nôn ra  máu không phải do một ổ loét của dạ dày hay tá tràng, mà là do một vết  trợt ở niêm mạc dạ dày.  Vết trợt niêm mạc  dạ dày (VTNMDD) là một tổn thương cấp tính, ít gặp, xảy ra trên người  trước đó không có dấu hiệu gì của bệnh dạ dày-tá tràng, thường ở người  trẻ. Chảy máu có thể dữ dội ngay từ đầu nhưng có thể cầm được bằng thuốc  men và truyền máu, sau đó vết trợt khỏi hẳn, không để lại dấu vết.  Nguồn  gốc của VTNMDD chưa được làm sáng tỏ (không rõ thức ăn thức uống nhất  thời hay vi khuẩn Helicobacter pylori có can dự gì vào đây không?)  361. Khi đã mổ viêm ruột thừa cấp  "Cháu  là nữ, 18 tuổi, hồi còn 5 tuổi bị viêm ruột thừa cấp, đã mổ. Cháu nghe  nói những ai mổ ruột thừa thì sau 6-7 năm sẽ bị tắc ruột, nhưng cháu thì  không. Xin cho biết từ nay về sau cháu có bị tắc ruột như họ không?".  Nói  chung, viêm ruột thừa cấp nếu được mổ thật sớm (trong vòng 4-6 giờ, tốt  nhất là chỉ sau 2 giờ) thì mổ xong coi như không phát sinh vấn đề gì.  Tuy nhiên, trong trường hợp được mổ sớm, vẫn có những yếu tố ảnh hưởng  không tốt:  - Ở trẻ em, việc khám xét, chẩn đoán khó khăn, cho nên chúng ta bị chậm chân mà cứ tưởng còn sớm.  - Tuy hiếm, nhưng ở trẻ nhỏ có thể gặp một dạng viêm ruột thừa tiến triển cực nhanh, ngoài sự tiên lượng của bác sĩ.  -  Kỹ thuật mổ xẻ của người thầy thuốc có thể gây dính ruột như: gây đụng  giập, bỏ sót dị vật (dịch tiết do viêm, máu rỉ ra trong quá trình mổ);  không khâu kín hoàn toàn màng bụng ( nếu còn lại một chỗ hở nhỏ là ruột  sẽ chạy tới dính vào đó; và trong trường hợp này, tắc ruột thường xảy ra  sớm và nặng, bởi một đoạn ruột khác có thể bị chẹt vào đấy).  -  Trong vòng 36-48 giờ sau khi mổ, toàn bộ ruột nằm im bất động, áp sát  nhau, nên dễ dính với nhau. Vì vậy bệnh nhân phải ngồi lên rồi đi lại  thật sớm nhằm ngăn không cho ruột "ôm ấp nhau lâu" trong quãng thời gian  ngắn ngủi nhưng quan trọng đó.  Thái độ  đúng đắn nhất là: Nếu đã có một lần bị mổ bụng trong đời rồi thì phải  cảnh giác, thông báo chuyện này ngay cho bác sĩ khi có cơn đau quặn  bụng. Có trường hợp chỉ mổ thắt ống dẫn trứng, mãi hơn 20 năm sau mới bị  tắc ruột do ruột dính vào chỗ mổ ống dẫn trứng không được khâu vùi đúng  quy cách.  Cần chú ý để phát hiện sớm viêm ruột thừa ở trẻ nhỏ, biểu hiện là khóc liên miên.  Câu  hỏi của cháu mang một nội dung rộng nên phải nói hơi dài. Chắc rằng đọc  xong, cháu sẽ vừa yên tâm vừa tiếp tục cảnh giác như hiện nay. Có điều  mừng là cơ thể trẻ em có đặc tính "lập lại trật tự một cách nhanh  chóng", thường "xóa sạch được mọi dấu vết trong người".  362. Có nên mổ viêm ruột thừa mạn tính?  "Tôi  32 tuổi, bị đau bụng vùng hố chậu phải một lần cách đây hơn 2 năm,  tưởng phải mổ vì viêm ruột thừa cấp, nhưng sau thấy đỡ dần nên bác sĩ  lại thôi. Từ bấy đến nay, thỉnh thoảng tôi lại lâm râm đau tại vị trí  đó; đi khám, chụp X-quang ruột thừa được phát hiện là viêm ruột thừa mạn  tính. Như vậy tôi có cần phải mổ không?".  1.  Có người bị viêm ruột thừa cấp với triệu chứng điển hình, nhưng sau đó  bệnh dịu dần rồi biến mất. Một số trường hợp như vậy về sau thỉnh thoảng  đau nhẹ như bạn nói, và được xếp vào danh mục viêm ruột thừa mạn tính.  2.  Có trường hợp viêm ruột thừa cấp biến chứng thành đám quánh ruột thừa  (mỡ chài chạy đến ôm lấy chỗ bị tổn thương quan trọng ở ruột thừa). Dạng  này không có chỉ định mổ mà phải chữa tích cực bằng kháng sinh liều  cao, chườm lạnh tại chỗ và bất động; nếu khỏi sẽ được xếp hạng như trên.  3.  Có trường hợp viêm ruột thừa cấp để muộn, gây biến chứng áp xe ruột  thừa, được rạch dẫn lưu. Cái ruột thừa còn lại cũng được xếp hạng tương  tự.  Có nên mổ cắt viêm ruột thừa mạn tính  hay không? Với hai tình huống (2) và (3), nên mổ bởi vì trước đây đã có  biến chứng; nhưng phải chờ sau 6 tháng để cho ổ bụng ổn định đã. Với  tình huống (1) như của bạn thì tùy tình hình:  - Nếu rất ít khi đau, bạn có thể "chung sống hòa bình" với nó, nhưng phải cảnh giác, phòng khi nó bột phát.  -  Nếu đau ê ẩm thường xuyên hoặc kèm rối loạn tiêu hóa (dễ có nguy cơ bột  phát) hoặc nếu bạn sắp đi vào một vùng xa trung tâm y tế, thì nên mổ.  Vì việc mổ "nguội" theo kế hoạch sẽ đơn giản và an toàn tuyệt đối; còn  khi phải mổ "nóng" (cấp cứu) thì sẽ gặp nhiều khó khăn.  363. Khi bị sỏi mật  "Có  phải người bị bệnh sỏi mật như tôi phải kiêng ăn các thứ chiên rán, dầu  mỡ, quẩy, vịt quay, ngan quay, bánh rán, thịt lợn, pho mát, tạng động  vật, sò, cua...? Có thuốc gì chữa được sỏi mật mà không cần mổ không?".  Có  hai loại sỏi mật khác nhau về bệnh sinh, diễn biến, tiên lượng cũng như  cách chữa trị và dự phòng, trong đó có ăn uống. Bác hãy liên hệ xem  mình thuộc diện nào:  - Sỏi túi mật: Hay  gặp ở phụ nữ, nhất là những người béo phì do ăn uống vô độ. Thường là  sỏi cholesterol (cản quang ít, thả vào nước thấy nổi và có thể đốt  cháy); bệnh diễn biến lâu năm, có những đợt cấp, đau tăng và sốt do túi  mật bị viêm. Xử trí bằng cách cắt túi mật nếu chữa trị bằng thuốc không  hết. Thành túi mật viêm mạn tính nên dày chắc.  Vì nguyên nhân gay bệnh là dinh dưỡng nên bệnh nhân cần hạn chế ăn chất béo để bệnh không nặng lên.  -  Sỏi đường mật: Xuất hiện do giun đũa chui lên đường mật, gây viêm nhiễm  rồi đẻ trứng hay chết tại đó; xác và trứng giun tạo điều kiện cho sắc  tố mật vón dần lại thành một hay nhiều viên, rải rác trong đường mật  (sỏi bilirubinat rất cản quang, đốt không cháy, và thả vào nước thì  chìm). Nếu sỏi làm tắc ống mật chủ, nó sẽ gây ứ mật hoàn toàn, kể cả túi  mật, làm cho thành túi mật giãn mỏng kèm theo viêm cấp và vỡ ra. Xử trí  bằng cách mở ống mật chủ lấy sỏi và dẫn lưu; bảo tồn túi mật nếu thấy  còn giữ được. Cách phòng bệnh là tránh nhiễm giun.  Đến đây, chắc bác cũng thấy danh sách kiêng cữ của mình quá dài, kể cả khi bệnh của bác là sỏi túi mật.  Về  thuốc Tây chữa sỏi mật, bác có thể tham khảo Mục 83. Thuốc Nam có Kim  tiền thảo, dùng hằng ngày 10-30 g dưới dạng thuốc sắc, hoặc dùng viên  Kim tiền thảo của Xí nghiệp Dược phẩm trung ương 26, uống theo liều chỉ  dẫn.  364. Sau khi mổ viêm phúc mạc mật  "Năm  ngoái, ba cháu (49 tuổi) được mổ cấp cứu cắt túi mật do bị hoại tử gây  viêm phúc mạc mật; một tuần sau phải mổ lại vì áp xe dưới cơ hoành phải.  Từ ngày xuất viện đến nay, ba cháu bị đau âm ỉ ở vùng bên phải (trước  đây ba có tiền sử loét dạ dày, nhưng mấy năm gần đây thấy giảm hẳn)".  Cháu  không nói rõ là kèm theo viêm túi mật, ba cháu có bị sỏi đường mật hay  không, cho nên chỉ nêu mấy điểm chính với gia đình cháu như sau:  -  Nếu viêm túi mật đơn thuần (triệu chứng ban đầu: ấn vào điểm giữa của  bờ sườn phải thấy đau chói, vàng da, vàng mắt ít nhiều, sốt...) nhưng  không được chẩn đoán và xử trí kịp thời, túi mật bị hoại tử gây viêm  phúc mạc, thì sau khi cắt túi mật, rửa sạch và dẫn lưu ổ bụng, coi như  đã giải quyết xong nguyên nhân và hậu quả. Ba cháu phải mổ lại là vì còn  chất dịch mật bẩn ở mặt trên gan, ngay dưới cơ hoành phải; phát hiện ra  được và mổ lại an toàn như vậy là điều rất may mắn. Từ nay, ba cháu chỉ  cần có chế độ dinh dưỡng (chất bổ, vitamin...) và nghỉ ngơi tốt là  được.  Tuy nhiên, với tình trạng đau bụng  âm ỉ như hiện nay, ba cháu hãy cẩn thận, dè chừng bệnh loét dạ dày có  thể nặng lên sau hai cuộc mổ lớn. Nếu đau kéo dài hoặc tăng, nhất thiết  phải đi chụp X-quang dạ dày để xác định tình hình của ổ loét cũ, để có  cách xử trí thích đáng.  Về thuốc nhuận  mật, xin giới thiệu với cháu cây actisô (tên khoa học Cynara scolymus  L.) đã được ghi trong sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, không  độc, có bán ở nhiều nơi. Nên thường xuyên sắc lá tươi hay khô (thân và  rễ cũng công dụng như lá) để uống, hoặc uống dạng cao lỏng, mỗi lần  10-40 giọt, mỗi ngày 1-3 lần.  - Nếu viêm  túi mật hoại tử do sỏi đường mật thì về lâu dài, ba cháu phải cảnh giác  với chứng sỏi mật tái phát (biểu hiện dễ thấy nhất là vàng mắt, vàng da)  và chú ý tẩy giun đũa nếu có.  365. Lỵ trực khuẩn bị đi bị lại  "Tôi  có một cháu trai 25 tháng tuổi. Lúc 18 tháng, cháu bị tiêu chảy 5-6  lần/ngày, bác sĩ chẩn đoán là kiết lỵ và cho chữa, sau 5 hôm thì hết.  Sau đó 4 tháng cháu lại bị, được bệnh viện chẩn đoán và chữa trị, cũng  hết sau 5 hôm. Gần đây nhất, cháu lại phát bệnh nhưng nặng hơn, sốt  40-41độ C, đau bụng dữ; bệnh viện cũng điều trị 5 hôm là hết. Xin cho  biết có thuốc gì phòng tái phát bệnh, và có cần kiêng cữ gì cho cháu  không?".  Cháu liên tiếp bị nhiều đợt  lỵ trực khuẩn, và gia đình phải cám ơn các bác sĩ ở bệnh viện đã chữa  trị kịp thời, nhất là lần vừa rồi.  Bác cần  xem lại tình hình vệ sinh trong gia đình. Có thể ruồi nhặng mang trực  khuẩn lỵ từ một nguồn lây nào đó tới cho cháu; hoặc trong số những người  thường xuyên tiếp xúc với cháu có ít nhất một người mang trực khuẩn lỵ  (tuy không có triệu chứng lỵ nhưng trong phân lại có trực khuẩn lỵ).  Người này vì kém vệ sinh đã thông qua bàn tay bẩn của mình trực tiếp đưa  mầm bệnh vào miệng cháu, hoặc gián tiếp truyền bệnh qua quà bánh, đồ  chơi, vật dụng... mà họ cầm vào.  Cách đề  phòng duy nhất là giữ vệ sinh thật tốt: nhúng nước sôi các dụng cụ ăn  uống; giữ tay cháu thường xuyên sạch, và dạy cháu không mút tay; giữ  sạch các đồ chơi hoặc những vật mà cháu có thể tiếp xúc. Chú ý ăn uống  sạch, nhất là quà bánh; và không bao giờ quên rửa sạch tay mình trước  khi bồng bế, vuốt ve cháu.  366. Viêm đại tràng  "Hồi  bé cháu hay bị táo, hơn 2 năm nay hay đau bụng dưới, phân thì khi bé,  ít, thậm chí rất táo, khi thì lỏng. Năm ngoái cháu đi chụp điện, được  kết luận là viêm loét thành tá tràng, nhưng uống thuốc chữa lại thấy đau  hơn nên cháu thôi. Hiện tại thường hay táo bón".  Cháu  nên nhớ rằng, đại tràng (ruột già) của con người có một đoạn nằm ngang  vắt qua trước phần dưới của dạ dày, và những rắc rối ở đại tràng thường  dễ nhầm lẫn với dạ dày.  Ở cháu không thấy  có triệu chứng điển hình của loét hành tá tràng (không phải thành, mà là  hành, vì đoạn cuối này của dạ dày trông giống như củ hành): đau bụng  khi đói, ăn vào đỡ đau. Ở cháu cũng không thấy có triệu chứng điển hình  của viêm dạ dày hoặc loét dạ dày: ăn vào thì đau, nôn ra hoặc đói thì  đỡ. Triệu chứng đau do bệnh của dạ dày thì diễn ra thường xuyên, liên  quan đến giờ giấc ăn uống, tăng lên khi chuyển thời tiết...  Cháu  bị viêm đại tràng mạn thì đúng hơn. Cháu thử dùng tay ấn sâu vào bụng  dưới bên trái xem, sẽ thấy nổi lên một đoạn ruột đi chếch từ ngoài vào  trong, ấn vào thấy chăng chắc, lăn dưới tay; đó là do đại tràng bị viêm  lâu ngày nên thành của nó dày lên, chuyên môn gọi là "dây thừng đại  tràng".  Cháu nên tránh mỡ và những thức ăn  gì mà "nó" từ chối (hễ ăn thứ đó vào là bị đau quặn bụng dưới, phân  lỏng, có khi thêm cả cảm giác mót rặn). Ăn nhiều rau xanh, rau củ, các  loại khoai giúp nhuận tràng.  Thường xuyên  xoa bụng theo chiều kim đồng hồ: Nằm ngửa thoải mái, đưa bàn tay phải từ  bụng dưới bên phải đi thẳng lên rồi đi ngang rốn để sang trái, rồi vòng  xuống bụng dưới bên trái.  Gặp khi phân lầy nhầy như mũi, phải đi khám để được điều trị bằng kháng sinh đường ruột.  Nên  dùng thêm mỗi ngày 1 viên Theravit để bổ sung đầy đủ các loại vitamin  và chất khoáng tối cần cho cơ thể mà cháu có thể bị thiếu do bệnh đường  ruột.  Cháu có thể chữa bằng nõn lá bàng.  367. Táo bón kéo dài  "Cháu  là con gái, 26 tuổi, cứ 1 tuần hay 10 ngày mới đi đại tiện một lần (mặc  dầu vẫn chú ý ăn uống các thức mát, nhuận tràng), lần nào cũng bị chảy  máu vì cháu còn bị bệnh trĩ. Xin giúp cháu cách gì để có thể đi ngoài  hằng ngày như mọi người".  Có một số việc cháu cần tiến hành đồng thời và kiên trì, chắc chắn sẽ có kết qủa:  -  Uống nhiều nước đều đặn, không thấy khát cũng uống (lượng nước dư thừa  sẽ giúp cho phân đỡ bị "khô"). Nếu uống được nước chè tươi hay trà xanh  càng hay, vì chè chứa nhiều chất chống ôxy hóa, giúp phòng ngừa một số  bệnh nan y.  - Ăn thật nhiều rau xanh trong  các bữa ăn. Tiếp tục ăn đều đu đủ chín. Tránh các chất chát (chuối  xanh, sung...) và những thứ cho bã rắn (chuối hột, ổi, dâu da...). Nếu  có điều kiện, nên ăn cơm gạo lứt (không giã), rất tốt vì có nhiều cám  làm nhuận tràng.  - Tập vận động nhóm cơ  bụng bằng động tác nằm ngửa, hai chân dang và duỗi thẳng, rồi ngồi lên,  đưa ngón tay bên nọ chạm vào ngón chân bên kia; số lần tăng dần.  -  Xoa nắn vùng bụng theo chiều kim đồng hồ: Nằm ngửa, hai bàn tay chồng  lên nhau, ép vào hố chậu phải rồi vuốt ngược lên, vuốt tiếp sang ngang  rốn, vòng xuống hố chậu trái thì kết thúc. Làm liên tiếp nhiều lần khi  có điều kiện. Động tác này giúp ruột già tăng cường co bóp, đẩy phân đi  xuống. Có thể tranh thủ mọi lúc hỗ trợ cho động tác trên bằng cách: Chụm  các ngón tay phải xung quanh rốn, rồi "xoay rốn" cũng theo chiều kim  đồng hồ.  - Vào một giờ nhất định nào đó  thuận tiện trong ngày, tốt nhất là buổi sáng, sau khi uống một cốc nước  đun sôi để nguội, cháu vào toa lét, rặn nhẹ nhàng trong 15-20 phút; nếu  chưa đại tiện được, thì hôm sau lại "thử" một lần nữa, nếu vẫn chưa cũng  không sao. Chú ý: Nếu thấy phân ra, phải nín lại, chỉ cho phép cục phân  nhích dần thật chậm, để phòng chảy máu ở búi trĩ.  -  Nếu cần thiết, cháu có thể uống gói thuốc bột nhuận tràng Forlax (hoạt  chất là Macrogol 4.000 trong mỗi gói, làm tăng lượng nước trong ruột khi  uống vào, nước trong ruột không bị đại tràng hấp thu như trước). Mỗi  ngày uống 1 gói 10 g hòa vào cốc nước (tối đa 2 gói); khi thấy kết qủa  khá thì ngưng ngay vì thuốc có thể gây đi lỏng. Cháu mua loại hộp 10 gói  cho đỡ phí. Nếu cứ 2 ngày đại tiện 1 lần phân mềm cũng sung sướng lắm  rồi, chớ cầu toàn. Nhớ trong vòng 2 giờ sau khi uống Forlax, cháu không  nên dùng bất kỳ thuốc gì vì các thuốc đó sẽ ít được hấp thu.  Về  bệnh trĩ thì nếu cần, sau khi chữa khỏi táo bón, cháu có thể uống viên  nang Ginkor fort mỗi ngày 3 viên trong một tuần liền. Ngoài ra, hằng  ngày cháu có thể ăn thêm rau diếp cá (theo kinh nghiệm dân gian thì diếp  cá có thể làm đỡ trĩ). Có thể dùng hoa hoè dưới dạng nước sắc uống thay  nước chè (giúp cho sự vững chắc của thành mạch). Khi cần, nên đi khám  tại khoa ngoại bụng của ngành y tế, để bác sĩ xét có chỉ định mổ hay  không.  Nên duy trì một cuộc sống thanh thảnh và cởi mở, vận động đều đặn để giúp thanh toán tình trạng ì trệ của đường tiêu hóa.  Nếu như chứng táo bón đã có từ nhỏ và kéo dài cho đến nay, cháu hãy đi chụp X-quang xem đại tràng có bị dài hay không.  368. Táo bón thường xuyên do đại tràng dài  "Bố  cháu bị táo bón thường xuyên, chữa mãi không khỏi; vừa qua đi chụp  X-quang khung đại tràng, thấy bác sĩ nói là có hiện tượng đại tràng dài.  Xin cho bố cháu một lời khuyên".  Khung  đại tràng dài cũng là một nguyên nhân gây táo bón. Như đã biết, thức ăn  tiêu hóa xong trong ruột non vẫn còn rất lỏng; khi qua đại tràng nó sẽ  bị hút bớt nước, do đó mềm, nhão mà không lỏng như khi vừa mới ra khỏi  ruột non. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, phân lưu lại quá lâu trong đại  tràng (quên hoặc nhịn đại tiện do bận rộn), phân càng bị hút mất nước,  do đó trở nên rắn, gây táo bón.  Đại tràng  của bố cháu rất dài, phân phải mất một thời gian dài hơn bình thường để  vượt qua, vì vậy rơi vào tình trạng bị khô, gây táo bón.  Có  thể khắc phục bằng các biện pháp tập luyện, dinh dưỡng, sống thư giãn.  Nên tránh lạm dụng thuốc nhuận tràng (chẳng lẽ lại dùng suốt đời?).  372. Co thắt tâm vị  "Cháu  18 tuổi, bị mắc một chứng bệnh hiểm nghèo từ nhỏ, đã đi khám nhiều nơi  nhưng không chẩn đoán được là bệnh gì: ăn cơm, uống nước hay ăn uống bất  cứ cái gì cũng bị nghẹn; khi ăn vào cảm thấy rất đau ở vùng ngực, khi  nghẹn không chịu được, đành phải nôn ra, đến lúc tiếp tục ăn lại bị  nghẹn rất nhiều lần. Xin cho biết đó là bệnh gì và cách điều trị".  Chưa  có kết qủa X-quang, nhưng nhiều khả năng cháu bị chứng co thắt tâm vị  (chỗ thực quản nối với dạ dày), làm cho thức ăn trôi xuống khó khăn. Nếu  đúng là bệnh này thì khi chụp X-quang có uống baryte sẽ thấy rõ hình  ảnh chỗ hẹp; trường hợp để muộn, sẽ thấy thực quản phía trên chỗ co thắt  bị rộng ra.  Cháu nên sớm về một bệnh viện  lớn tại Hà Nội hay TP Hồ Chí Minh; ở đó các chuyên gia sẽ chẩn đoán và  xử lý cho cháu. Gặp chứng co thắt tâm vị, người ta làm phẫu thuật Heller  như sau: rạch dọc chỗ co thắt cho đến khi gần tới niêm mạc của thực  quản (không làm thủng niêm mạc), giúp niêm mạc được trải rộng ra. Sau  khi mổ, vết rạch trên lớp cơ của vùng tâm vị - thực quản há rộng miệng,  dần dà sẽ đầy lên và liền lại, che kín niêm mạc, làm cho lỗ tâm vị trở  nên rộng hơn, giúp cho lưu thông thức ăn bình thường.  373. Khối u thực quản  "Ông  cháu 75 tuổi, thỉnh thoảng ăn cơm bị nghẹn ứ cổ, không nuốt được nữa;  khi nghẹn, ông cháu thường kêu đau tức khắp ngực. Hiện tượng này ông  cháu bị từ hồi còn trẻ, sau thời gian bị giặc bắt giam rồi tra tấn bằng  cách giẫm lên ngực và vùng mỏ ác. Có cách gì chữa được cho ông cháu  không?".  Cháu nói thiếu chi tiết, nhưng vì không có địa chỉ cụ thể để trao đổi thêm, đành nêu hai hướng chẩn đoán. Ông cháu có thể bị:  -  Co thắt thực quản do hậu qủa của chấn thương vùng đó (nếu đúng thế thì  may mắn, vì có thể chữa đỡ bằng thuốc men, châm cứu..., nhưng ít khả  năng).  - Hẹp thực quản do khối u (khả năng này nhiều hơn). Nếu đúng có khối u thì bệnh sẽ ngày càng nặng vì khối u cứ ngày càng lớn.  Gia  đình cháu nên sớm đưa cụ về một bệnh viện trung ương để khám xét, chủ  yếu bằng X-quang (chụp thực quản có uống baryte). Nếu là u thực quản,  thường là u ác tính, các bác sĩ sẽ định liệu phương pháp xử trí:  -  Mổ tạo một cầu nối vượt qua chỗ hẹp, giúp bệnh nhân ăn uống được (ít  khả năng, vì ông cháu đã già, hoặc khối u này đã lan rộng).  -  Chiếu xạ lên vùng ngực (xạ trị liệu), hay dùng hóa chất (hóa trị liệu),  hoặc kết hợp cả hai, nhằm mục đích diệt các tế bào ác tính; kết qủa tùy  thuộc vào mức độ lớn của khối u và sức chịu đựng của ông cháu.  374. Đã mổ thoát vị   "Cháu  17 tuổi, lúc 16 tuổi đã đi mổ thoát vị; khi được ra viện về nhà thì  những người thân bảo là mấy năm nữa cháu lại phải đi mổ tiếp, nếu không  sẽ bị ung thư, nên cháu rất lo sợ. Xin cho cháu một lời khuyên".  Cháu  không nói rõ là thoát vị gì (thoát vị bẹn, thoát vị rốn...), nhưng chắc  đây là thoát vị bẹn (có một lỗ thông làm cho ruột chui được ra khỏi ổ  bụng, thậm chí xuống tận thấp trong bìu dái).  Cháu  cứ an tâm và vui vẻ học hành, bởi vì nếu phẫu thuật mổ thoát vị được  tiến hành đúng quy tắc ngoại khoa, đảm bảo không tái phát, thì cháu  không cần phải đi bệnh viện một lần nào nữa (nếu bị tái lại là do lỗi  của bác sĩ mổ, chứ không phải do cháu)!  Bệnh ung thư không dính dáng gì ở đây.  375. Thoát vị bẹn mổ rồi nay tái phát  Em  là con trai, 19 tuổi. Năm ngoái, em được mổ thoát vị bẹn, sau đó em vẫn  kiêng không dám đá bóng hoặc mang vác, nhưng gần đây lại tái phát. Xin  cho biết nguyên nhân, và liệu em có nên đi mổ lại không?  Có hai loại thoát vị bẹn (TVB): TVB bẩm sinh và TVB mắc phải (còn gọi là TVB trực tiếp).  TVB  bẩm sinh có thể xuất hiện rất sớm, nhưng cũng có thể xuất hiện khá  muộn, khi ta trưởng thành, thậm chí khi đã có tuổi. Nguyên nhân là do lỗ  bẹn đã không được đóng kín lại khi còn trong bụng mẹ; do có cái lỗ này  mà ruột có thể chui ra khỏi ổ bụng, có khi xuống nằm trong bìu dái, lỗ  càng to thì ruột xuống càng dễ, bệnh bộc lộ càng sớm.  TVB  mắc phải là do thành bụng bị suy yếu (do mang vác nặng và ráng sức qúa  nhiều, do thiếu dinh dưỡng, do một số bệnh làm cho các bắp thịt tại đây  bị nhẽo), chỉ thấy ở người lớn sống trong những hoàn cảnh kể trên.  Biến  chứng của TVB là nghẹt ruột (khúc ruột tụt xuống không trở lên được  nữa) là một trường hợp cấp cứu ngoại khoa, nếu để muộn, đoạn ruột nghẹt  có thể bị hư hại (hoại tử) phải cắt bỏ; trong tình huống này, tính mạng  có thể bị đe doạ.  Trường hợp của em thì,  nếu chưa có điều kiện đi mổ lại, em nên dùng một mảnh vải nhỏ bằng lòng  bàn tay, bốn góc có bốn sợi dây, ở giữa khâu đính một nùi vải vụn bằng  đầu ngón tay cái, đem áp lên chỗ lỗ thoát vị và buộc lại, nhằm ngăn  không cho ruột tụt xuống. Nếu trong khi tắm rửa, ruột tụt xuống, thì sau  đó em nhẹ nhàng lựa thế đẩy nó trở lên, rồi băng lại như trên.  Khi  có điều kiện, em nên đến một cơ sở ngoại khoa tốt hơn để xin mổ lại,  đừng tìm đến nơi cũ làm gì! Bởi lẽ mổ TVB mắc phải mà tái phát, thậm chí  tái phát nhiều lần, thì nhiều khả năng là do thành bụng qúa yếu. Còn mổ  TVB bẩm sinh mà tái phát thì chắc chắn do thiếu sót kỹ thuật của bác sĩ  mổ. Phẫu thuật tuy đơn giản nhưng không phải bất cứ ai thực hiện cũng  thành công, vì có những chi tiết rất nhỏ mà người có tay nghề vững mới  quan tâm đúng mức.  376. Tắc ruột tái phát nhiều lần  Năm  1990, tôi được mổ viêm ruột thừa, nằm viện 7 ngày thì được cho về nhà.  Ngày thứ 8, phải trở lại bệnh viện mổ lần thứ 2 vì tắc ruột; sau đó 2  năm, mổ lần thứ 3; sau đó 1 năm mổ lần thứ 4. Như vậy là sau khi mổ viêm  ruột thừa, tôi đã bị mổ tắc ruột tới 4 lần. Xin cho biết ở đâu có thể  mổ được khỏi hẳn và lý do tại sao bị tắc ruột nhiều lần như vậy?  Bạn  nói "mổ viêm ruột thùa" e rằng chưa đầy đủ, bởi vì viêm ruột thừa cấp  (VRTC) được mổ sớm trong vòng 2 giờ đầu hầu như không có biến chứng gì  về sau.  Trường hợp của bạn trước đây có thể nằm vào một trong hai tình huống sau đây:  a) VRTC để muộn có viêm màng bụng cục bộ.  b) Viêm màng bụng toàn thể (VMBTT) do VRTC để muộn.  Nếu  theo tình huống (a), thì khi bị tắc ruột lần 1, ruột dính không rộng,  chủ yếu là ở hố chậu phải; và sau đó, mỗi lần mổ lại đã làm tăng nguy cơ  dính tiếp.  Nếu theo tình huống (b), thì  nguy cơ dính ruột ngay sau khi mổ VMBTT rất cao, thậm chí phải mổ xử trí  tắc ruột ngay trong tuần lễ đầu tiên, khi đang nằm viện; và nguy cơ đó,  bao giờ phẫu thuật viên cũng cảnh báo cho thân nhân, sau khi mổ xong  VMBTT.  Về điều trị tắc ruột tái phát, có hai thái độ trái ngược nhau:  1.  Xử trí tối thiểu: Gỡ dính đơn thuần (có thể bơm một dung dịch nào đó  vào ổ bụng với hy vọng hạn chế dính). Nếu tắc lại: mổ! Tắc lại nữa: mổ  nữa!  2. Xử lý triệt để: Gỡ dính, xong xếp  toàn bộ các quai ruột non vào một tư thế sinh lý, rồi cố định chúng lại.  Thế là chỗ nào dính tiếp cứ dính, nhưng không còn gây ra tắc ruột nữa.  Thủ thuật này do T.B. Noble, phẫu thuật viên người Mỹ, công bố năm 1937,  đến năm 1960 được W.A Childs và R.B. Phillips cải tiến bằng cách xuyên  chỉ cố định các nếp gấp mạc treo (thay vì khâu trên thành ruột), thời  gian thủ thuật được rút ngắn hơn nhiều.  Ở  nước ta, Giáo sư Nguyễn Trinh Cơ, Bệnh viện Việt-Đức, Hà Nội, là người  đi tiên phong trong việc ứng dụng thủ thuật này từ năm 1965, nhưng giáo  sư không được những người phụ trách ủng hộ, nên chỉ thực hiện được trên  dưới 15 trường hợp rồi thôi. Trong khi đó, tại một bệnh viện khác, từ  1966 đến 1976, một bác sĩ thuộc lớp đàn em có điều kiện thực hiện thủ  thuật này cho 70 bệnh nhân tắc ruột, chủ yếu là tắc ruột do dính tái  phát nhiều lần, theo dõi liên tục kết qủa sau 6-17 năm, thấy kết qủa tốt  (luận án tiến sĩ y học trong nước năm 1984).  Tới nay, thủ thuật đơn giản và an toàn này ít được lớp trẻ biết đến để có thể vận dụng khi cần thiết.  377. Hồi bé đã mổ ở rốn  "Cháu 17 tuổi, khỏe mạnh. Nhưng lúc còn bé cháu đã phải mổ khâu rốn, liệu việc này có ảnh hưởng gì đến sinh đẻ không?"  Trước  đây, cháu mổ ở rốn là để làm phẫu thuật xử trí thoát vị rốn (do màng  cân nằm giữa bụng lỏng lẻo, yếu, nguyên nhân bẩm sinh hoặc nhiễm khuẩn  tại chỗ, làm cho ruột cứ lồi ra trước bụng).  Nếu  mổ không tốt thì cháu đã bị thoát vị trở lại từ lâu rồi; hơn nữa, khi  mổ, thường bác sĩ cố gắng không làm đụng giập ruột, nên cháu cũng không  bị tắc ruột do dính.  Cháu cứ yên tâm, đến  tuổi kết hôn cứ tiến hành, và đến tuổi làm mẹ cũng xin cứ việc! Chỉ có  điều cái rốn khâu rồi nó không được xinh xẻo như của người ta, nhưng lo  gì, nếu bơi lội thì dùng áo tắm một mảnh che đi, ai mà biết được!  378. Dị tật không hậu môn đã mổ  "Khi  còn sơ sinh, em đã được mổ tạo hậu môn. Năm 12 tuổi, do ăn nhiều trái  cây xanh, trong khoảng 2 tuần em không đi cầu được, phải đưa đến bệnh  viện để thụt tháo; siêu âm cho biết có một đoạn 20 cm ruột phía trên hậu  môn bị hẹp. Em lo cho căn bệnh của mình, không biết sau này xây dựng  gia đình rồi sanh con có dễ dàng không?".  Dị  tật trước đây của em (không hậu môn) đã được xử trí với kết quả mỹ mãn;  hiện tượng còn lại một đoạn trực tràng bị hẹp là điều không tránh khỏi.  Chỉ  cần em chú ý: không nuốt các hạt dâu da, bứa, măng cụt, không ăn những  trái cây có nhiều hạt như ổi, chuối hột hoặc trái cây xanh như sung, vả,  chuối xanh... Những thức ăn này chứa nhiều chất tanin, dễ gây táo bón.  Nên ăn nhiều rau, củ. Khi ăn nhớ nhai thật kỹ. Uống nhiều nước để cho  phân luôn mềm. Sau này, khi có bầu càng phải chú trọng chế độ ăn uống.  Em  cứ yên tâm: Dị tật cũ đã chữa khỏi này không ảnh hưởng chút nào đến khả  năng thụ thai cũng như việc chuyển dạ sanh con, do đó không hề có chống  chỉ định yêu và lập gia đình.  379. Đã mổ u nang buồng trứng  "Tôi  25 tuổi; 10 tháng trước đây được bệnh viện mổ u nang buồng trứng, nhưng  không biết là cắt một bên hay hai bên. Hiện tôi vẫn có kinh nguyệt, và  thỉnh thoảng đau bên phải. Tôi có còn sinh đẻ được nữa không?".  Trong  phẫu thuật ở buồng trứng, bác sĩ bao giờ cũng tôn trọng và tiết kiệm  đối. Nếu u nang có cuống, không dính chặt vào buồng trứng thì chỉ cắt bỏ  u và giữ buồng trứng nguyên vẹn. Trường hợp mổ u nang hai bên càng phải  tôn trọng và tiết kiệm hơn, bởi vì ở người phụ nữ bị cắt hết buồng  trứng sẽ xảy ra hiện tượng nam tính hóa (mọc râu, giọng nói ồ, thay đổi  vóc dáng...) và dĩ nhiên không còn kinh nguyệt, không sinh đẻ.  Nếu  sau khi được mổ cắt u nang buồng trứng mà vẫn có kinh nguyệt thì chắc  chắn bạn vẫn còn ít nhất một buồng trứng; như vậy, bạn không thua em kém  chị về phương diện sinh sản. Hiện tượng thỉnh thoảng đau nhẹ ở vùng mổ  sẽ đỡ dần và hết.  Tuy nhiên, cũng giống  như bất cứ ai đã được mổ ở vùng bụng, bạn hãy chú ý: nếu chẳng may thấy  đau quặn bụng từng cơn kèm theo bí trung tiện, ói mửa..., phải tới ngay  một cơ sở ngoại khoa tốt để được theo dõi sát và xử trí nếu cần.  Ngoài  ra, bạn nên thu xếp để định kỳ tới khám một bác sĩ giỏi về phụ khoa.  Người này, do nắm vững "lý lịch" của bạn, chắc chắn sẽ giúp ích được  nhiều điều.  Còn nếu muốn thật chắc chắn về  tình hình của hai ống dẫn trứng (nguyên vẹn cả hai, nguyên vẹn một bên,  hay cả hai bên đều đã được thắt do yêu cầu của tình huống phẫu thuật),  bạn nên biên thư hỏi cơ sở đã mổ cho bạn trước đây, bởi vì thế nào phẫu  thuật viên cũng ghi chép chi tiết vào biên bản mổ. Nếu cả hai ống dẫn  trứng đều được thắt, muốn có con, bạn phải xin làm kỹ thuật thụ thai  trong ống nghiệm tại Bệnh viện phụ sản Từ Dũ, TP Hồ Chí Minh, là cơ sở  đầu tiên của nước ta thực hiện thành công kỹ thuật này. Trường hợp của  bạn thuận lợi vì nhiều khả năng người ta sẽ cấy phôi vào dạ con của bạn,  không phải nhờ người mang thai giúp, vì bạn đang ở độ tuổi sinh sản.  380. U nang buồng trứng xoắn  "Chúng  cháu cưới nhau đã gần hai năm và còn đang kế hoạch nên chưa có con.  Khoảng năm sáu tháng nay, vợ cháu thỉnh thoảng bị đau bụng dưới. Đêm gần  đây cô ấy đau bụng rất dữ, đến bệnh viện khám và siêu âm thì bác sĩ cho  biết bị u nang buồng trứng bên phải, kê đơn và hẹn tái khám. Chúng cháu  không hiểu bệnh này có nguy hiểm lắm không, có phải phẫu thuật không,  và có ảnh hưởng gì đến đường con cái?".  Về hình thể, u nang buồng trứng có hai loại: có cuống và không cuống.  Trường  hợp không cuống, u nang phát triển mà không gây đau, chỉ khi nào đủ lớn  thì người bệnh mới cảm thấy tưng tức tại chỗ, bụng phía bên đó hơi to  ra... Thậm chí có người mang một u nang chứa gần hai chục lít dịch mới  chịu đi mổ.  Trường hợp có cuống thì trái  lại, triệu chứng đau xuất hiện rất sớm, vì u nang dễ bị xoắn nhẹ (cuống  càng dài càng dễ xoắn) và sau đó lại trở về vị trí cũ nên người bệnh đỡ  đau hoặc hết đau. Nếu xoắn mạnh hơn, u nang sẽ không thể trở về vị trí  ban đầu, và do không được máu tới nuôi dưỡng nên nếu không được mổ kịp  thời, nó sẽ bị hoại tử và vỡ, gây viêm màng bụng. Do đó, khi thấy u nang  buồng trứng gây đau, bác sĩ nghĩ ngay đến loại có cuống và khuyên nên  mổ sớm. Nhưng không phải bệnh nhân nào cũng đồng ý ngay, bởi vì họ còn  rất trẻ, nhiều trường hợp chưa xây dựng gia đình, nên rất ngại ngùng, lo  sợ cho hạnh phúc lứa đôi, cho việc sinh sản về sau.  Mổ  cắt bỏ u nang buồng trứng có cuống trong điều kiện bình thường khá đơn  giản, người bệnh nhanh chóng hồi phục sức khỏe. Nếu phải xén một phần  hoặc cắt đi một buồng trứng, phần còn lại vẫn tiếp tục hoạt động bình  thường và đảm bảo chức năng sinh sản. Còn mổ cấp cứu (khi đã có biến  chứng) sẽ phức tạp, thậm chí nguy hiểm trước mắt (nhiễm khuẩn ổ bụng  tiến triển sau mổ) và lâu dài về sau (dính ruột gây tắc ruột).  Vợ  cháu cần được theo dõi sát để có thể tới bác sĩ kịp thời. Nên đến tái  khám đúng hẹn để bác sĩ có thể có quyết định cần thiết. Trong thời gian  này, không nên để vợ cháu đi về những vùng thiếu giao thông thuận lợi,  sẽ khó đến bệnh viện đúng lúc.  381. Lao màng bụng  "Em  trai tôi 28 tuổi, được bệnh viện chẩn đoán là lao màng bụng, cho chữa  theo đơn, mỗi tháng tái khám một lần. Đã 2 tháng rồi mà bụng em vẫn còn  lớn. Xin cho biết bệnh của em tôi như thế nào, sau 7 tháng nữa có khỏi  không, đến bao giờ có thể cưới vợ, và lúc này có nên cho uống thêm thuốc  ta không?".  Lao màng bụng (có thể  riêng rẽ hoặc xuất hiện cùng lúc với lao màng phổi và lao màng tim, gọi  là viêm đa màng) có đặc điểm: màng bụng, dưới tác động của trực khuẩn  Koch, tiết ra một chất dịch thanh tơ, màu vàng chanh (khi xét nghiệm  dịch thấy phản ứng Rivalta dương tính).  Nếu  được điều trị tốt, chủ yếu bằng thuốc chống lao và nâng cao đề kháng,  thì trong trường hợp thuận lợi, bệnh sẽ thoát lui, dịch tiết ra được hấp  thu hết, ổ bụng trở lại "khô ráo" bình thường sau một thời gian chừng  2-3 tháng.  Nếu sau thời gian đó mà dịch  trong ổ bụng bớt ít hoặc vẫn như cũ, thậm chí nhiều thêm, thì tốt nhất  là phẫu thuật mở ở bụng với mục đích dẫn lưu chất dịch. Cuộc mổ chóng  vánh và không phức tạp. Ngày hôm sau, bệnh nhân đã có thể đi lại; sau 7  hôm, vết mổ khỏi, bụng trở nên bình thường, bệnh nhân ra viện, dùng tiếp  thuốc chống lao theo đơn và định kỳ tái khám, chủ yếu là kiểm tra phổi.  Trường  hợp em bạn, nếu chụp phim trong tư thế đứng thấy tim phổi bình thường  thì đó là trường hợp lao màng bụng đơn thuần nhưng chậm thoái lui, có  chỉ định can thiệp bằng phẫu thuật hỗ trợ.  Trong  thời gian chuẩn bị cho em đi chữa, có thể giúp em ngủ tốt hơn bằng cách  cho ăn thêm ngó sen, củ sen, hạt sen, tâm sen, trái dâu tằm... (tránh  lạm dụng thuốc ngủ); tăng cường trái cây, rau xanh... để giúp em ăn ngon  miệng hơn.  Lao màng bụng không lây, cho nên người nhà có thể yên tâm chăm sóc hoặc gần gũi, động viên em.  Thời  gian "7 tháng khỏi" mà bạn ao ước xem ra có thể đạt được nếu ta chọn  phương pháp ngoại khoa nói trên và cùng ráng sức, nhất là bệnh nhân phải  thật tin tưởng, lạc quan.  Còn bao giờ em bạn có thể cưới vợ thì xin nhường lời cho chú rể đúng vào thời điểm tuyệt vời đó.    Thuốc  dạng viên sủi  |         
 |          
 |          
 |       
No comments:
Post a Comment