Trưa hôm sau, tôi bay về VN. Tới TSN, VN đã không còn bắt du khách làm tờ khai hải quan từ tháng 11-2010 nên ai cũng đi ra thoải mái. Lên taxi, tôi đi về nhà thăm mẹ tôi ngay. Nghĩ ngơ, tắm rửa xong, tôi đi taxi ra Saigon để coi có gì thay đổi. Có 5 điều mà tôi có thể ghi nhận được ngay:
- $1 USD hôm nay đổi được trong Agribank là $20.500VNĐ.
 - Saigon hôm nay vật giá mắc mỏ hơn; nhất là khu nào du khách ưa tụ tập.
 - Saigon hôm nay có khá nhiều taxi, lớn nhất là công ty Mai Linh, Vinasun...
 - Saigon hôm nay có khá nhiều khu shopping, siêu thị, chung cư cao tầng, biệt thự sang trọng...; nhất là khu quận 1, 2, 7.  Thích nhất là nhiều ngôi nhà rất đẹp nằm ẩn khuất trong những con đường nhỏ hẹp.
 - Saigon nói riêng, miền Nam nói chung hôm nay có khá nhiều di dân từ miền Bắc & Trung đổ xô vào đây sinh sống lập nghiệp, buôn bán...
 
Từ Saigon, tôi theo Air Mekong bay ra Côn Đảo, sau 45' thì đáp xuống sân bay Cỏ Ống.  Khi HDV đưa về Côn Đảo resort  nhận phòng, chúng tôi đi qua làng Cỏ Ống, Suối Ớt, mũi Chim Chim, Đất  Dốc.... Khu  du lịch Sài Gòn – Côn Đảo resort thuộc hệ thống Saigontourist, tọa lạc  ngay trung tâm đảo Côn Sơn.  Ăn trưa tại nhà hàng của resort, chúng tôi  mới biết Côn Đảo có rất ít nhà hàng, quán ăn.Chiều, chúng tôi viếng chùa Núi Một; từ trên độ cao 50m nhìn thấy toàn cảnh trung tâm Côn Đảo.   Côn Đảo là một quần đảo nằm ở phía Đông-Nam của Việt Nam, cách Vũng  Tàu  97 hải lý và cách thành phố Hồ Chí Minh 120 hải lý. Côn Đảo gồm có  16  hòn đảo lớn nhỏ, với diện tích 76 km2. Trong đó đảo lớn nhất là đảo  Côn  Sơn, có diện tích 51 km2. Dân số khoảng 6.000 người (tính đến cuối  năm  2010). So với Phú Quốc, tôi thích Côn Đảo hơn vì nét hoang sơ, không bát nháo...
Nhìn  trên bản đồ, Côn Đảo giống như một chú gấu vươn mình ra biển  Đông,   nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp, nước biển trong xanh và bờ cát  dài…  được che mát bởi những hàng cây Bàng cổ thụ. Côn Đảo còn là vườn  Quốc  gia với rừng nguyên sinh và thảm động thực vật phong phú và đa dạng  với  nhiều loài cá đủ màu bơi tung tăng bên những rạn san hô nhiều tầng  và  đầy màu sắc. Rừng có nhiều chủng loại phong lan, động vật rừng có sóc   đen, sóc đỏ dạ, chim gầm gì… Đặc biệt Côn Đảo là một trong những nơi   duy nhất tại Việt Nam về bảo tồn bò biển (Dugong), cá heo, các loại rùa   biển (Vích)...
Côn Đảo từng được biết đến như là trại tù giam giữ những người yêu nước Việt Nam. Ngày nay, Côn Đảo thật sự là một thiên đường hoang sơ để khám phá. Người dân Côn Đảo hiếu khách, hiền lành và thân thiện tạo cho du khách cảm giác như là nhà của mình khi đặt chân đến đây.
Đến với Côn Đảo để tìm về nơi thiêng liêng, hầu như du khách nào cũng được mời đến nghĩa trang Hàng Dương. Bảo tàng Côn Đảo là nơi lưu giữ hiện vật, hình ảnh lịch sử của đảo, nào là chuồng cọp, chuồng bò, cầu Ma Thiên Lãnh... Đến Côn Đảo là tìm đến thiên nhiên hoang sơ, chiêm ngưởng khu rừng nguyên sinh Ông Đụng, Sở Rẩy. Câu cá tại hòn Bông Lan, câu mực ở mủi tàu Bể, lặn snorkelling, diving tại hòn Tre, xem rùa đẻ vào ban đêm tại hòn Bảy Cạnh... (xin xem bài: Côn Đảo - http://xaydungqh.blogspot.com/2010/11/con-ao.html ). Thật lòng mà nói, đến Côn Đảo chơi 2 ngày 1 đêm là đủ ! Ai cũng biết Côn Đảo phải đầu tư nhiều hơn về nhiều mặt thì mới có thể thu hút nhiều hơn du khách từ khắp TG về đây vui chơi, nghĩ dưỡng nhưng bảo vệ thiên nhiên & môi sinh cũng là điều quan trọng không kém.
Tượng đài Trương Định
Đường Trương Định - đẹp nhất ở xứ Gò
Khu lăng mộ ông Trương Định
Trường THPT Thị xã Gò Công
Một góc ao Trường Đua
Trường THPT Trương Định nằm trên đường Nguyễn Văn Côn
Ngôi trường và con đường lớn nhất Gò Công
Dinh Tỉnh Trưởng Gò Công ngày xưa
Phượng trái mùa trước nhà thờ Thánh Tâm
Quốc lộ 50 - hướng về Sài Gòn
Lăng Hoàng Gia - khu mộ của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng - ông ngoại vua Tự Đức - Thân phụ bà Từ Dũ
Một góc khu lăng mộ Hoàng Gia
Mua đặc sản biển Gò Công ở đây
Vườn sơ ri - tiếc là mùa này ít trái quá
Có 1 trái đỏ hồng nhưng lẻ loi....
Đêm  Gò Công yên lắng, buồn hiu... nên tôi chỉ ghé qua chợ chơi chút rồi về  ngủ thẳng giấc đến sáng.  Sáng sớm thì tôi đã chạy ra chợ Gò Công ăn  sáng rồi chạy đến đền thờ & mộ ông Trương Định, khu nhà ông Phạm  Đăng Hưng, Trường THPT Thị xã Gò Công,nhà thờ Thánh Tâm... ra Quốc lộ 50 - hướng về Chợ Gạo & Mỹ Tho, thay vì về Sài Gòn. Ghé qua Chùa Vĩnh Tràng là một ngôi chùa ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.   Đây là một ngôi chùa nổi tiếng ở miền Nam, được xếp hạng di tích lịch   sử - văn hóa cấp quốc gia, và là một điểm du lịch nổi tiếng, trước 1975  là ổ VC nằm vùng. Chùa Vĩnh Tràng được xây dựng vào đầu thế kỷ 19;   Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ, bao lam chạm trổ công phu. Bộ Thập   bát La hán thượng kỳ thú là những tác phẩm tượng tròn độc đáo được các nghệ nhân Nam Bộ  tạc vào những năm đầu thế kỷ 20.Chùa được xây cất do công trình kiến  trúc của nhiều người, trong  nhiều năm, là một chùa lớn, được kiến trúc  khá tinh vi, đa dạng theo lối  kiến trúc tổng hợp Á - Âu (Pháp, La Mã,  Thái, Miên, Chàm). Tuy nhiên,  chùa vẫn mang đậm nét lối kiến trúc điêu  khắc truyền thống Việt Nam.
 Chùa  Vĩnh Tràng được kiến trúc theo dạng chữ Quốc, gồm 4 gian nối  tiếp nhau  (tiền đường, chánh điện, nhà tổ và nhà hậu) rộng 14.000 m²,  dài 70 m,  rộng 20 m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1 m, xung  quanh xây  tường vững chắc.
Ghé  vô Mỹ Tho thăm dì 6 xong, tôi qua cầu Rạch Miễu đi thẳng vô thị xã Bến  Tre.  Bến Tre cũng khang trang hơn, nhất là sau khi có cầu Rạch Miễu thì  con đường đi thẳng vô thị xã Bến Tre rộng rãi, thoáng đãng hơn, có dải  phân cách trồng cây cảnh & cột đèn. Mưa ập xuống bất ngờ nên tôi lái  xe gắn máy đi thẳng về huyện Giồng Trôm.  Đến chợ Giồng Trôm thì tạnh  mưa, trời nóng như đổ lửa, vừa ăn cơm, vừa uống nước mía (thay vì nước  dừa) mà mồ hôi rớt lộp độp !  Leo lên võng đung đưa mà ngủ quên hồi nào  không hay...  Chiều xuống, lái xe gắn máy đi thẳng về huyện Ba Tri nhưng  mưa bất ngờ ập xuống...  Mặc kệ, cứ đi.  Đến chợ Ba Tri thì tạnh mưa,  ghé vào nhà ông 6 coi bói để xem tình duyên, gia đạo, công danh sự  nghiệp ra sao. Ra cảng Ba Tri định mua tôm cua nhưng chẳng mua được gì  mà vẫn phải trả tiền vé vào cảng. Quẹo vô bãi Ngao thì con đường đang  làm nên không đi vô được.  Ra chợ Ba Tri thì quán xá đóng cửa, đành ăn  chè để nghĩ ngơi rồi chạy thẳng một lèo vô thị xã Bến Tre, ra nhà hàng  nổi thấy bảng giá chặt chém kinh khủng nên đành gọi 3 món: lẫu canh chua  cá, gỏi tôm thịt cổ hủ dừa, nghêu xào lá quế.  Thà ra chợ ăn ngon &  rẻ hơn chứ nhà hàng nổi quá tệ & mắc ! Ăn xong, lái xe gắn máy đi  thẳng về huyện Giồng Trôm mà đường sá vắng hoe, thiếu ánh sáng của đèn  đường nên về đến nhà thì ai nấy tắm rửa, thay đồ xong là lăn đùng ra ngủ  khò.
Sáng  hôm sau, tôi đi mua bánh tráng Mỹ Lồng với bánh phồng Sơn Đốc cùng với  kẹo dừa Bến Tre đem về Mỹ làm quà cho bạn bè. Đây là đặc sản, niềm tự  hào của người  dân xứ dừa Bến Tre. Mỹ Lồng nổi danh nhất là loại bánh  tráng dừa vừa  béo vừa xốp, vừa đặt lên lò than đã tỏa hương thơm lừng.  Thứ bánh tráng  dừa đó được chia làm ba loại, bánh đặc biệt có sữa,  trứng gà, dừa; bánh  ngang chỉ có dừa không sữa; bánh sữa không dừa...  Các lò bánh tráng Mỹ Lồng tập trung  nhiều nhất ở ấp Nghĩa Huấn, nhưng  đặc biệt bánh thuộc các lò ở khu II,  khu IV vẫn được đánh giá là ngon  hơn. Theo người dân ở đây thì cái khác  rõ rệt nhất của bánh tráng Mỹ  Lồng với bánh vùng khác là bánh được làm  từ gạo dẻo và nước cốt dừa đậm  đặc... Công việc của nghề làm bánh tráng bắt  đầu từ lúc ba giờ chiều.  Ngâm bột, nạo dừa. Khuya đến xay bột, ép nước  cốt, gần sáng tráng bánh  đi phơi. Nói thì đơn giản, nhưng để có một cái  bánh tráng vừa tròn, vừa  mỏng đều phải nhờ bàn tay khéo léo và biết bao  giọt mồ hôi. Bánh Mỹ  Lồng còn có thêm loại bánh nem (bánh tráng cuốn)  vừa mỏng, vừa dai, vừa  tay cuốn. Loại bánh nem này hiện có mặt ở rất  nhiều các nhà hàng sang  trọng chốn thị thành...
Từ  Mỹ Thạnh đi tiếp về hướng Ba Tri  mười cây số, gặp ngã ba có bày bán  thiệt nhiều dừa, rẽ tay phải chưa đầy  cây số là về đến Sơn Đốc. Chỉ với  ba, bốn lò bánh trong vòng vài  chục năm trước đây, bánh phồng Sơn Đốc  vẫn giữ vững được truyền thống  và danh tiếng của mình. Tấm bánh phồng  Sơn Đốc thơm lừng, vừa ngọt, vừa  giòn, vừa bùi vừa béo vẫn là thứ quà  mà trẻ nhỏ ở những vùng quê miền  tây trông đợi khi bà, khi mẹ đi chợ  về. Có lẽ làm bánh phồng còn cực hơn cả  bánh tráng. Nguyên liệu chính  được làm từ nếp, nhưng phải đồ thành xôi,  cho vào cối "quết" nhuyễn  cùng với các phụ liệu khác, rồi mới cán mỏng  đem phơi. Cũng như bánh  tráng, phơi bánh phồng là một kỳ công. Phải vừa  nắng, nắng quá bánh sẽ  chai, gặp mưa xuống là kể như bỏ. Một chục lít  nếp (1 lít bằng khoảng  600 gam) cán chừng hơn ba trăm bánh, công việc  bắt đầu khoảng 3 giờ  sáng và kết thúc khi nắng vừa lên. Khó nhất là khâu  quết bánh, năm  người đàn ông làm cật lực để quết mỗi mẻ năm lít nếp.  Vào làng nghề  quết bánh phồng mỗi sáng, tiếng chày thậm thịch rộn rã  khác thường.  Bình thường mỗi lò quết khoảng ba bốn chục lít nếp mỗi  ngày. Cao điểm  nhất là vào dịp Tết, có khi đến hai trăm lít.
Đặc  sản kẹo dừa Bến Tre xuất xứ từ huyện Mỏ Cày, có từ trước những năm  1960, nên lúc đó người ta gọi là kẹo Mỏ Cày. Công thức làm ra những viên  kẹo Mỏ Cày thật đơn giản: Đường thùng (đường mía) hòa nước cốt dừa,  mạch nha rồi đem lên chảo, quậy cho tới; xuống chảo, vô khuôn rồi xắt ra  thành từng viên kẹo nhỏ. Lúc này, kẹo Mỏ Cày hình vuông, dẹt, to chỉ  bằng đầu ngón tay cái. Sau năm 1975, cũng với công thức trên, nhưng viên  kẹo được xắt to hơn, có hình chữ nhật, được gọi chung là kẹo dừa. Nói  công thức làm ra kẹo dừa nghe đơn giản, nhưng để làm ra loại kẹo dừa  càng ăn càng bắt ghiền, còn gọi là “kẹo béo”, thì chủ nhân lò kẹo phải  có kinh nghiệm tay nghề, nhất là không “mánh” trong khâu pha chế. Nói  thế có nghĩa là lượng nước cốt dừa, đường (đường thùng và đường cát),  mạch nha trong một nồi nước hòa không bị rút bớt để người sản xuất thu lời nhiều hơn. Đó còn gọi là loại “kẹo ngang”.
Sản xuất kẹo dừa xuất khẩu
Thời  bao cấp, bắt đầu từ năm 1982 – 1990, sản phẩm kẹo dừa sản xuất tại Bến  Tre đắt như tôm tươi. Toàn tỉnh mà tập trung nhất là tại thị xã Bến Tre  và huyện Mỏ Cày, có trên 300 cơ sở sản xuất lớn nhỏ, với mỗi cơ sở từ  30-50 nhân công. Hầu hết nhân công làm kẹo là lao động nghèo tại thành  thị, vùng ven, nông thôn. Nghề làm kẹo truyền thống tạo cho họ nguồn thu  nhập tương đối sống được. Kẹo dừa sau khi có mặt khắp các tỉnh miền Tây  Nam bộ, miền Trung, kẹo tiếp tục mở rộng thị trường ra các tỉnh phía  Bắc và sẵn đà đó tiến luôn sang Campuchia, Lào và đặc biệt là Trung Quốc  – thị trường khổng lồ với cả tỷ dân. Tại Trung Quốc, kẹo dừa mang nhãn  hiệu Bến Tre của “Bà Hai mắt kiếng” (bà Phạm Thị Tỏ, Công ty TNHH Đông  Á) bán rất đắt hàng. Thanh danh một đặc sản của Bến Tre càng lúc được  nhiều người Trung Quốc biết đến. Tại quê nhà, Công ty TNHH Đông Á dồn  sức sản xuất kẹo dừa cho thị trường Trung Quốc. Công ty TNHH Đông Á lớn  mạnh từ đó.  Thế rồi,  kẹo dừa nhãn hiệu Bến Tre bị người Trung Quốc làm giả. Bị làm giả, bà  Hai đi kiện. Một thân một mình bà Hai Tỏ từ Việt Nam lặn lội sang tận  Trung Quốc để kiện, mọi việc diễn ra thật cam go nhưng cuối cùng bà đã  thắng kiện. Người ta biết nhiều đến “Bà Hai mắt kiếng – Bến Tre” cũng từ  vụ đi kiện tiên phong dành lại thương hiệu này.
Tại  Lào, những đợt kẹo dừa đầu tiên từ Bến Tre sang đây (1982) cũng được  những người bạn trên đất triệu voi ưa thích, kẹo bán rất đắt hàng. Một  người bạn của tôi, lúc đó chở kẹo dừa sang Lào bán, nói: “Xe vừa chở kẹo  qua, xuống hàng, có người mua ngay một bịch kẹo nửa kí rồi đứng bên  cạnh xe, ăn một mạch gần hết bịch. Có phải họ thích chất béo, thứ chất  béo từ trái dừa trên đất cù lao Bến Tre?”  Thế nhưng, khi kẹo dừa đang  bán chạy ngon trớn thì bắt đầu xuất hiện chuyện cạnh tranh không cần  nghĩ đến tương lai của các cơ sở sản xuất kẹo dừa tại Bến Tre. Khi hàng  kẹo được đặt làm với số lượng lớn, sản xuất ồ ạt cho kịp thời gian giao  hàng, nhiều cơ sở đã mở rộng ra với nhiều “vệ tinh” (cơ sở gia công) và  biến kẹo béo xuống thành “kẹo ngang”! Kẹo béo sản xuất với mạch nha nếp,  còn “kẹo ngang” được thay vào bằng mạch nha Tây (làm từ củ mì), làm cho  viên kẹo cứng hơn kẹo béo, để lâu kẹo lại mau chảy nên khi không bán  được, hàng bị trả về kể như chủ cơ sở sản xuất ôm trọn! Rất nhiều cơ sở  sản xuất kẹo dừa lúc đó bị phá sản, nợ nần chồng chất cũng từ chuyện làm  “kẹo ngang”! Một chủ lò kẹo tâm sự: “Sau năm 1997, dừa khô bắt đầu được  xuất thô ào ạt sang Trung Quốc, đó là điều kiện thuận lợi để người  Trung Quốc sản xuất ra viên kẹo dừa giống hệt như tại Bến Tre. Với lại,  như mọi người biết, công thức và kỹ thuật sản xuất kẹo dừa cũng đâu phải  là điều gì kỳ bí, cao siêu”.  Nhưng với kẹo dừa như kẹo dừa nhãn hiệu  Thanh Long chẳng hạn, doanh nghiệp này không có tham vọng đem sản phẩm  của mình đi chinh phục ở hải ngoại. Trên 30 năm rồi, vẫn với công thức  và chất lượng truyền thống được gìn giữ, thương hiệu kẹo dừa Thanh Long  chiếm thị phần vững vàng trong nước. 
Kẹo  dừa nhãn hiệu Bến Tre sau thời gian dài xuất khẩu sang Trung Quốc, nay  quay về với thị trường trong nước, làm cho cuộc cạnh tranh giữa các “đại  gia” kẹo dừa tại Bến Tre nóng lên từng ngày. Trên quốc lộ 60, cửa ngõ  vào thị xã Bến Tre hay trên những tỉnh lộ về các huyện, đâu đâu cũng  thấy các thương hiệu kẹo dừa tranh nhau quảng bá, san sát. Cuộc cạnh  tranh đang hồi nóng lên thì lúc này đây, giá dừa khô để sản xuất kẹo dừa  hiện đã lên trên 50.000đ/chục (12 trái), khiến nhiều cơ sở sản xuất kẹo  dừa tại Bến Tre phải tạm ngưng hoạt động vì sản xuất không có lãi hoặc  chỉ sản xuất cầm chừng để giữ chân thợ. Tại thị xã Bến Tre và huyện Mỏ  Cày, Châu Thành có trên 100 cơ sở sản xuất kẹo dừa, thì hiện nay khoảng  80% cơ sở đang ngưng hoạt động. Các chủ cơ sở sản xuất kẹo dừa cho biết,  đây là lần đầu tiên mà họ phải đối mặt và giải bài toán hóc búa giữa  nguyên liệu đầu vào, tiền nhân công và giá đầu ra thị trường có thể chấp  nhận cho sản phẩm truyền thống này. Khi được hỏi “Giá kẹo dừa ngon  (béo) hiện 18.000 - 20.000đ/kg, không thể sản xuất nổi sao?”, chủ lò kẹo  Hương Lan giãi bày: “Giá dừa 50.000đ/chục, cộng với giá đường cát, mạch  nha như hiện nay, chỉ có thể sản xuất cầm cự. Còn như giá dừa tiếp tục  lên cao, tất nhiên giá kẹo bán ra phải tăng thêm nữa, mà tăng như vậy  chắc gì được thị trường chấp nhận”.
Đóng gói kẹo dừa 
Các  cơ sở sản xuất kẹo dừa hiện không thể mua nổi dừa để sản xuất vì tổng  sản lượng dừa tại Bến Tre giảm nhiều sau bão Durian (bão số 9 – tháng  12-2006). Càng gay gắt hơn khi chủ vườn xuất bán dừa khô nguyên trái  sang Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia với số lượng lớn, liên tục và với  giá luôn cao hơn nội địa. Ông Sáu Thịnh, chủ vườn dừa tại xã Bình Phú,  thị xã Bến Tre, đăm chiêu: “Tôi có 3,5 công đất trồng dừa (3.500 m2).  Năm ngoái, vào thời điểm này, tôi thu hoạch trên 300 dừa khô nhưng hiện  nay chỉ còn phân nửa. Hồi bão số 9 đi qua, hầu hết vườn dừa tại Bến Tre  đều bị “thần phong” vặn cổ, bông dừa, trái dừa non rụng tơi bời!”. Giá  dừa lên cao vút, một chủ lò kẹo vừa cho thợ nghỉ, than: “Trong sản xuất  kẹo dừa, việc giữ chân thợ là hết sức quan trọng. Bởi vì, “tay ngang”  làm sao đôi ba bữa có thể trở thành người thợ làm kẹo. Thế nên, đã ngưng  hoạt động thì sau đó sẽ rất khó tìm thợ cho cơ sở mình!”
Hiện  nay, giá nguyên phụ liệu ngày càng lên cao (như dừa chẳng hạn), làm đội  giá thành. Vậy nên, để có thể đứng vững và phát triển lâu dài, chúng  tôi phải tính toán hết sức chi li: Trong sản xuất, không còn con đường  nào khác hơn là phải tạo ra dòng sản phẩm cho cơ sở của mình dựa trên  các phương thức sản xuất truyền thống, đặc biệt là từ chất lượng của cây  trái trồng trên đất cù lao Bến Tre. Các sản phẩm kẹo của cơ sở chúng  tôi không sử dụng chất bảo quản, oxit titan để làm trắng kẹo cũng như  đường hóa học hay ét-xăn để tạo mùi”.   Vì lợi nhuận cao, không ít cơ sở sản xuất kẹo dừa đã sử dụng những hóa  chất trên nên đã đánh mất thanh danh đặc sản kẹo dừa Bến Tre một cách  đáng tiếc. Giờ đây, đường đi của sản phẩm kẹo dừa đang hẹp lại, người ta  cũng sợ ngọt & béo hơn với bệnh tiểu đường + cao huyết áp; vậy nên  sẽ khó tồn tại nếu sản xuất mà không duy trì chất lượng “như thuở ban  đầu” của kẹo dừa Bến Tre.
Trưa hôm sau, tôi đi về Saigon, ghé vô chợ Mỹ Tho và Mekong Express... Vừa ra khỏi Tân Hương thì mưa  bất ngờ ập xuống... Qua khỏi Tân An thì đường ngập nước, xe tắt máy,  dẫn bộ một đoạn mới gặp một chòi sửa xe ven đường do 2 vợ chồng trẻ từ  miền Bắc mới vào đây lập nghiệp với 2 đứa con nhỏ. Khổ nỗi tay nghề yếu  kém mà 2 vợ chồng trẻ này lại làm ăn thiếu lương thiện khi nói với tôi là phải thay cục pin lửa (IC =Capasitive Dischager Ignition Unit) hàng  Nhật với giá $320.000 + cộng tiền công nhưng khi về Saigon thì mới biết  họ xài hàng TQ ! Kiểu làm ăn này sẽ khó khá nỗi.  Về đến Saigon, tôi  đến thẳng Hà Ký trên đường Tạ Uyên(Tôn Thọ Tường) ăn cơm gà + thịt quay  rồi qua ăn chè hột gà trà, sâm bổ lượng để tự "bồi dưỡng".  Sáng hôm sau, tôi phải đi Hộ Phòng và đi ra Đất Mũi. Hộ Phòng bây giờ khá hơn xưa nhiều. Khoái nhất là ăn cua gạch với giá $100.000/ kg. Đi qua nhà thờ Tắc Sậy với mộ của cha Trương Bửu Diệp, đồng Nọc Nạn, trại giam Cây Gừa...

Đến Cà Mau, chúng tôi hối hả ra bến tàu cao tốc ở gần chân cầu Gành Hào mới để kịp đi ra Đất Mũi. Tàu cao tốc đi từ Cà Mau xuống Đất Mũi chở khách giá mỗi lượt là $130.000/ người, khoảng 2g30' thì đến Rạch Cái Tàu sau khi ghé qua nhiều trạm rước khách(Đầm Cùng, Năm Căn, Nhưng Miên,Ông Trang, v.v...). Trời nắng cháy da. Tôi đón xe ôm vô khu du lịch Đất Mũi, lệ phí vô cửa:$10.000/ người. Khu này có nhà hàng, nhà trọ nhưng nổi bật nhất là Cột Mốc QG và con tàu ghi tọa độ, gần đó là mấy cây do các vị lãnh đạo Đảng & Nhà Nước trồng làm kỷ niệm. Trở ra chợ Đất Mũi ăn trưa, có món vọp hấp lá gừng là độc đáo nhưng 1 trái dừa giá $15.000 thì quả là ....đập đổ. Rời Đất Mũi trở về Cà Mau khoảng 5g chiều.
Tại Năm Căn, bạn có thể đi xe bus về Cà Mau, cũng có thể thưởng thức món ngon tại các quán: Hòa Ký, 155, 222, AAA, Thịt chó Nhật Trường, KS DL Công đoàn ..., uống sinh tố, cafe tại quán Sinh tố Liên. Bạn có thể chụp ảnh kỷ niệm tại Tượng đài của Thị Trấn với Biểu tượng Mũi Cà Mau, đi chợ Năm Căn (nổi tiếng với Cua Năm Căn, hải sản tươi sống, tôm đất khô, các món cá khô) (hoa quả và rau thì đều từ trên mang xuống nên ko phải đặc sản nhé), đũa đước và mật ong; có thể đi thăm vườn chim Cái Nai - một “vương quốc” thu nhỏ của các loài chim, bạn có thể thoả sức ngắm chim muông và tận hưởng những giờ phút thư giãn bên những túp lều mát rượi giữa rừng đước bạt ngàn, thưởng thức những món hải sản bình dị, dân dã của vùng sông nước Cà Mau. Khá nhiều người từ miền Bắc đã vào Cà Mau lập nghiệp, cưới vợ và khá thành công.
Mũi Cà Mau hướng về phía tây, thuộc địa phận xóm Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cách thành phố Cà Mau hơn 100 km. Bên trái mũi là biển Đông, bên phải là biển Tây, tức Vịnh Thái Lan.
Hiện  nay nếu xét chi li thì mũi Cà Mau không phải là điểm cực Nam  trên đất  liền của Việt Nam, mà chỉ nằm ở vùng cực Nam của Việt Nam. Điểm  cực nam  trên đất liền của tỉnh Cà Mau nằm ở xã Viên An huyện Ngọc Hiển,  có độ  vĩ 8°30' Bắc. Mũi Cà Mau là điểm cực Tây của tỉnh Cà Mau.
Trước  đây một số tài liệu nói rằng điểm cực Nam trên đất liền của  Việt Nam  là xóm Rạch Tàu, cũng thuộc xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, ở tọa  độ 8°34'  (hoặc 8°30') độ vĩ Bắc, 104°40' (hoặc 104°50') độ kinh Đông.
Hòn Khoai       Rừng đước Năm Căn
Hòn đá Bạc
Rừng U Minh
Mũi Cà Mau
|               | 
| Tượng đài Năm Căn | 
| Đường về Đất Mũi mênh mông biển- trời | 
| Điện lưới quốc gia đã về Đất Mũi | 
| Đền thờ Bác Hồ ở ngã ba Rạch Ông Trang (ngôi đền được lập từ kháng chiến chống Mỹ) | 
| Đáy | 
| Trại nuôi tôm giống | 
| Chợ Đất Mũi | 
| Vá lưới | 
| Học sinh đi học | 
| Đất Mũi hôm nay | 
| Hành hương về Đất Mũi | 
| Mốc toạ độ | 
| Đước sẽ mọc thành rừng gỗ cứng | 
Sáng hôm sau, tôi và anh Sự chạy ra thị xã BL thiệt sớm, dạo quanh đường Hòa Bình, Nguyễn Tất Thành... rồi đến đền thờ ông Cao Văn Lầu, ra Giồng Nhãn, Nhà Mát, đến chùa Xiêm Cán, coi cây xoài 300 năm. Trở về thị xã BL, ghé vô ăn sáng ở nhà công tử BL xong là phải ra xe khách Cty Phương Trang để kịp về SG. Đứng thứ 2 sau cty Mai Linh nhưng xe khách Cty Phương Trang có vẻ phục vụ rất chuyên nghiệp; nhất là khi ghé trạm dừng chân ở Cái Bè, Tiền Giang thì tôi mới chưng hửng trước sự bề thế, rộng lớn tuy cơm trưa & hủ tíu cũng như café quá dở & mắc. Về đến bến xe miền tây, tôi phải đón xe về nhà chứ không có xe ôm như các cty xe khách tốc hành khác.
3 hôm sau, tôi lại bay ra Hà Nội để đi tham quan vùng Tây Bắc & Đông Bắc, chủ yếu là Sapa và vùng "thánh địa" của mấy ông bà CSVN(Cao Bằng, Điện Biên) với hang Pác Bó + núi Lenin, hang Các Mác..., thác Bản Giốc(xin xem: Du lịch vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam; http://xaydungqh.blogspot.com/2011/05/ong-bac-tay-bac-viet-nam.html)
Tôi đã đi Hạ Long nhiều lần rồi nên kỳ này, tôi quyết định chỉ đi Sapa và vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam. Năm nay (2011), giá tour trong nước tăng cao do nhiều nguyên nhân(điện + nước + xăng dầu tăng, vật giá tăng nên cái gì cũng tăng theo); thậm chí so với giá tour nước ngoài(như đi Thái Lan, Campuchia, Sing - Mã, etc...) thì bà con thà rủ nhau đi nước ngoài vẫn thích hơn; nhất là thái độ phục vụ.
Nói đến du lịch vùng đông bắc Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến Cao nguyên Đá Đồng Văn(Hà Giang), thác Bản Giốc và Hồ Ba Bể ( Bắc Cạn), v.v...; trong khi Tây Bắc Việt Nam có Sapa, đỉnh Fan Si Pan, Sơn La, Mộc Châu, Điện Biên, v.v...; những danh thắng nổi tiếng đang được cơ quan UNESCO xem xét công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này có khi được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng).
- Vùng Đông Bắc   là vùng lãnh   thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi   là Đông Bắc để phân biệt   với vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào  phía  bắc và đông bắc của Hà Nội,   rộng hơn vùng Việt Bắc. Vùng Đông  Bắc là  một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ   Việt Nam (2 tiểu vùng kia là  Vùng Tây  Bắc và Đồng bằng sông Hồng).
Thế  nhưng  trước đây hiếm  nhà lữ hành nào  nghỉ  đến việc  thiết kế  kết   nối  hai điểm này  trở thành tour du lịch  liên  tuyến do mất nhiều thời  gian di chuyển bằng đường bộ. Còn  bây  giờ, Hà  Giang – Tuyên Quang –  Bắc Cạn đã được kéo lại gần bởi nhờ con  đường thủy  lộ trên dòng sông  Gâm – sông Năng. Năm 2010, nhiều công ty  du lịch VN đã tổ chức tour du  lịch vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam.  Từ  Hà  Nội đi lên Sơn La - Điện Biên - Lai Châu - Yên Bái -   Tuyên Quang -  Mèo Vạc  - Hà Giang - Ba Bể - Cao Bằng - Thái Nguyên rồi trở về Hà Nội    (tổng cộng 10 ngày 09 đêm).Ngày đầu tiên, từ Saigon, tôi bay ra Hà Nội và công ty du lịch đón tôi tại sân bay Nội Bài rồi đưa về Hà Nội trước khi đi Sơn La, qua Mộc Châu (đường quốc lộ 6: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Lai Châu, khoảng 300km) và ghé ăn trưa tại Thị trấn Phù Yên.
Chiều, chúng tôi tới TP    Sơn La. Sau khi nhận phòng và dùng bữa tối, chúng tôi đi thăm qua TP Sơn    La về đêm và đi tắm    suối khoáng nóng rồi mới về nghỉ đêm tại khách sạn.  Sơn La cách Hà Nội khoảng 302 km về phía Tây Bắc. Phía Tây và phía Bắc giáp huyện Thuận Châu, phía Đông giáp huyện Mường La, phía Nam giáp huyện Mai Sơn. Quốc lộ 6 đi qua thành phố, nối thành phố với thành phố Điện Biên Phủ và thành phố Hòa Bình.Thành phố Sơn La có một di tích lịch sử đáng chú ý, đó là bia văn của hoàng đế Lê Thái Tông    tại cửa động La. Tháng 5 năm 1440, trên đường trở về sau khi dẫn quân    chinh phạt vùng Tây Bắc thắng lợi, Lê Thái Tông đã nghỉ tại động La  và   sáng tác bài thơ "Quế Lâm Ngự Chế" gồm 140 chữ Hán.Tại Thành phố Sơn La có trường Đại học Tây bắc, bệnh viện đa khoa khu vực 500 giường.Thành phố Sơn La nằm trong vùng kaste hóa mạnh, địa hình chia cắt phức tạp, núi đá cao xen lẫn đồi, thung lũng, lòng chảo.    Diện tích đất canh tác nhỏ hẹp, thế đất dốc dưới 250 chiếm tỷ lệ  thấp.   Một số khu vực có các phiêng bãi tương đối bằng phẳng thuận lợi  cho sản xuất nông nghiệp,    tập trung ở các xã Chiềng Ngần, Chiềng Đen, Chiềng Xôm và phường   Chiềng  Sinh. Độ cao bình quân từ 700 - 800 m so với mực nước biển.Gió   thịnh hành theo 2 hướng gió chính: gió mùa    đông bắc từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau; gió tây nam từ tháng 3 đến    tháng 9. Từ tháng 3 đến tháng 4 còn chịu ảnh hưởng của gió Tây (gió  Lào  nóng và  khô). Một số khu vực của thị xã còn bị ảnh hưởng của sương muối từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau.  
Nhà tù Sơn La - Cây đào Tô Hiệu(chỉ còn gốc đào thôi !).
Cô    hướng dẫn viên xinh đẹp người Thái dẫn chúng tôi đi thăm các xà lim    ngầm, xà lim chéo, trại ba gian… Đến mỗi một địa danh, chúng tôi lại    được nghe những câu chuyện nhằm tuyên truyền  về những cán bộ ưu   tú  của Đảng như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương  Bằng,  Văn  Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Xuân Thủy, Trần Huy  Liệu….
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đồi A1 nằm dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm 2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m, Đông Nam cao hơn 493m. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi. Sau nhiều trận chiến vô cùng ác liệt đã diễn ra ở đây thì đến 4h sáng ngày 7/5/1954 quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
Ngày nay, đến với Điện Biên Phủ, du khách sẽ thấy trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đao. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ , xung quanh là vòng tường hoa.
Bảo tàng chiến thắng Điện Biên                      Phủ
Nằm                      tại khu phố 1, P. Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện                      Biên.
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Vào   cuối năm 2003, bảo tàng Điện Biên Phủ đã                      tiến  hành  nâng cấp và chỉnh lý lại khu trưng bầy. Đến nay                        bảo tàng có 5 khu trưng bầy với 274 hiện vật và 122 bức tranh                        theo từng chủ đề sau                   
-Vị trí chiến lược của Điện Biên Phủ.
-Tập đoàn cứ điểm của địch tại Điện Biên Phủ.
-Đảng chuẩn bị đường lối chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
-Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ.
-Điện Biên Phủ ngày nay.
-Hầm chỉ huy tướng Đờ Cát : Nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc cánh đồng Mường Thanh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Nằm                          trong một khu rừng nguyên sinh tại địa phận xã   Mường Phăng,                        huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên,   cách thành phố Điện Biên                        Phủ 25km về phía đông. 
Để   đến đây du khách phải đi bằng ô tô, vượt                        qua  dốc  Tà Lơi hiểm trở và nhiều đoạn đường quanh co, khúc                          khuỷu. Gần với Sở chỉ huy có đài quan sát trên đỉnh núi                          độ cao trên 1.000m, từ đài quan sát này có thể bao quát                          hoạt động và diễn biến ở thung lũng Mường Thanh.  Đến sở                         chỉ huy, du khách sẽ được thăm các điểm  sau :
-Chòi canh gác số 1
-Hầm thông tin liên lạc
-Đài quan sát
-Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
-Lán ở và làm việc của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái
-Đường hầm xuyên núi dài 96m nối liền lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái Hầm của ban cố vấn Trung Quốc
-Nhà hội trường
-Hầm ban chính trị
Đèo Pha Đin
                       Đèo                          Pha Đin nằm trên đường từ Hà Nội lên Điện Biên,  ở  ranh giới                        giữa tỉnh Sơn La và Điện Biên.
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Xưa   kia, vì có sự tranh chấp ranh giới giữa                        hai  tỉnh  Sơn La và Lai Châu (cũ), người ta đã giải quyết                          bằng một cuộc đua ngựa. Từ hai phía đèo, cùng một lúc ngựa                          hai bên phi hướng về nhau. Nơi gặp gỡ sẽ là ranh giới.  Ngựa                         Lai Châu phi nhanh hơn, nên phần đèo thuộc  về Lai  Châu (nay                        thuộc tỉnh Điện Biên) dài hơn  phần đèo  của Sơn La. 
Hồ Pá Khoang
Hồ                          Pá Khoang thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện   Điện Biên,                        tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện   Biên Phủ gần 20km. Trong                        khu vực lòng hồ có các   bản dân tộc Thái, Khơ Mú là những                        dân tộc còn giữ   được những phong tục tập quán, nét đặc sắc                        của   các dân tộc vùng Tây Bắc ...
Hang Thẩm Báng
Thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Hang Thẩm Báng đã được xếp hạng di tích và là một điểm tham quan của du khách. Đây là hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn nguyên vẹn. Lòng hang rộng và sâu, cao gần 100m, có nhiều ngách.
Hang Thẩm Báng
Thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Hang Thẩm Báng đã được xếp hạng di tích và là một điểm tham quan của du khách. Đây là hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn nguyên vẹn. Lòng hang rộng và sâu, cao gần 100m, có nhiều ngách.
Giữa   hang có phiến đá to bằng phẳng như mặt                        bàn.  Nhìn  lên các vách, trần đá, nhiều măng đá, nhũ đá tạo                          thành những hình thù những con rồng, con phượng, sư tử,                          voi quì hoặc những đoá phong lan tuyệt đẹp.
Hang   Thẩm Báng không chỉ là một hang đá đẹp                        mà tại   đây, nhân dân địa phương đã phát hiện một số loại                          rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một số mẩu xương động                          vật hoá thạch.Không chỉ là một cứ điểm lịch sử mà còn là                          nơi có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và xinh đẹp.  Điện  Biên                        Phủ là điểm đến lí tưởng cho những bạn  muốn  tìm hiểu về                        lịch sử dân tộc cũng như thăm  thú  cảnh đẹp của núi rừng                        Tây Bắc.
Điện   Biên Phủ cách Hà Nội 474 km theo quốc lộ                      279 và  6.  Thành phố Điện Biên Phủ phía đông nam giáp huyện                        Điện Biên Đông, các phía còn lại giáp huyện Điện Biên. Tên gọi Điện  Biên  do vua Thiệu Trị đặt năm 1841                      từ châu Ninh  Biên;  Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là                      vùng  biên  giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên phủ)                        thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức                        là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu.
Thành   phố Điện Biên được biết đến với trận Điện Biên Phủ                        năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp                        chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries                        chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc  kết  thúc                      vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông  Dương,  và đưa tới việc                      kí kết hiệp định chia Việt  Nam ra  thành 2 miền: Bắc và Nam.                      Trận Điện Biên  Phủ được  nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại                      nhất  của các  nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương                        Tây. Trong trận này, Lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh                        của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ  điểm Điện                       Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân  đội Pháp.  Bằng cách                      huy động sức người một cách  tối đa và với  lực lượng hậu cần                      đông đảo của mình,  Việt Minh đã  làm nên một trong những chiến                      thắng  quan trọng nhất  trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Khí hậu tỉnh Điện Biên   là khí hậu nhiệt đới núi cao, chia làm 2 mùa,                      mùa   mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21ºC –                        23ºC. Nhờ khí hậu núi cao, thiên nhiên hoang sơ nên Điện Biên đang được đầu tư để trở thành điểm du lịch nhưng nói thật là thái độ phục vụ & ăn uống quá tệ, e rằng khó có du khách nào muốn trở lại lần nữa.
Quần   thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp                        hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng                        đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp  kỷ  niệm                      50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004).  Hiện  nay chạy dọc                      thung lũng Mường Thanh, nơi diễn  ra  cuộc đọ sức lịch sử năm                      xưa là đại lộ 279, con  phố  chính và lớn nhất thành phố Điện                      Biên Phủ.
Về   đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng                        đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo                        đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6.Về đường  hàng  không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ                       nối  với Hà Nội.
Sáng  ngày thứ 3, chúng tôi đã khởi hành đi tham quan cửa khẩu  Tây  Trang -  cửa   khẩu  quốc tế giữa Việt Nam   và Lào. Trở lại  TP  Điện Biên, dùng   bữa trưa tại nhà hàng.
Sáng ngày thứ 3, dùng điểm tâm tại khách sạn. Chúng tôi khởi hành đi tham quan cửa khẩu Tây Trang - cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và Lào. Trở lại TP Điện Biên, dùng bữa trưa tại nhà hàng.
Sáng ngày thứ 3, dùng điểm tâm tại khách sạn. Chúng tôi khởi hành đi tham quan cửa khẩu Tây Trang - cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và Lào. Trở lại TP Điện Biên, dùng bữa trưa tại nhà hàng.
Sáng ngày thứ 4, dùng điểm tâm tại khách sạn rồi chúng tôi đi  Tuyên Quang, qua    Than Uyên, thăm Mù Cang Chải, ăn trưa tại thị trấn Tú Lệ.
Một nhà thờ ở thị xã Nghĩa Lộ
Những người dân hiền lành, chất phác cùng những vũ khí thô sơ xung trận
Mô hình bộ đội ta hò kéo pháo, những chiếc xe thồ chở lương thực lên Điện Biên
Lá cờ quyến chiến, quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castries ngày 07/5
Chiếc xe tăng trên đồi A1 được một tiểu đội lính Mỹ lắp ráp tại chiến trận cứ 3 ngày xong một chiếc
Đỉnh đồi A1
- Trước đền thờ các anh hùng liệt sĩ
Từ trên tượng đài chiến thắng nhìn xuống Thành phố Điện Biên
Tượng đài hò kéo pháo Trên đường đi vào thăm trung tâm chỉ huy
(chỉ đúc bằng xi măng vừa đỡ tốn và... kém). của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Tram gác (Đường vào bộ chỉ huy) Lán ngủ Trạm giao liên
Giường ngủ của Đại Tướng Đường hầm, trung tâm chỉ huy
Nhà tác chiến


Sáng ngày thứ 5, dùng    điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi  trả phòng, khởi hành đi khu di tích lịch    sử Tân Trào (ATK) -    thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi mà Đảng    Cộng Sản Đông  Dương   tiến hành hội nghị toàn quốc (13/08/1945) đến Tân    Trào, chúng tôi  vào thăm  quan Bảo tàng Tân Trào và nghe giới thiệu về khu      di tích lịch  sử Tân Trào (ATK) thăm quan Đình Tân Trào, Đình Hồng   Thái,    Cây Đa  Tân Trào, lán Là Nừa, ăn trưa tại thị trấn Hàm Yên.
Chiều: Tiếp    tục hành trình đi Mèo Vạc, chúng tôi khởi hành theo đường 4C đi Mèo Vạc - “Cổng    Trời”,    với độ cao khoảng 1.000m so với mặt biển, địa hình chập chùng    núi    rất khó khăn trong việc đi lại nhưng với phong cảnh thiên nhiên hùng       vĩ đã tạo cho huyện vùng cao biên giới này một sức hút kỳ lạ đối với  du      khách. Đến Mèo Vạc, chúng tôi thăm chợ Mèo Vạc. 
Sau đó, chúng tôi tiếp tục khởi hành đi  Đồng Văn. Từ   thị xã Hà Giang, qua những con đèo cao ngất tới Quản Bạ,    rồi Yên   Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Phong cảnh vừa hùng vĩ vừa trữ tình dần  hiện   ra ngoài cửa xe như trong một bộ phim du lịch khám phá. Lãng   mạn hơn cả là chặng đường Tuyên Quang  đến thị xã Hà  Giang cặp theo   dòng sông Lô, dòng sông đã đi vào nhạc phẩm  nổi tiếng  của Văn Cao, và   những dãy núi đá vôi trùng điệp. Đầu   xuân,  những vườn mận, vườn đào hoa nở trắng xoá hoặc hồng rực. Đầu  hè,  những  triền ngô(bắp) xanh nõn bám trên các sườn núi đá. Trễ hơn  chút  nữa, mùa lúa  duy nhất trong năm bắt đầu, từ trên những sườn núi  cao  nhìn xuống thung  sâu, thấp thoáng các khu ruộng bậc thang loáng  nước, ở  đó, người H'Mông  đang hối hả cày cấy... Trong không gian như  mơ như  thực ấy, không  khi nào thiếu những vạt cải hoa vàng rực rỡ. Và  thật thú  vị, đó chính  là món ngon đầu tiên được ăn khi lần đầu tiên  đến  với  vùng cao nguyên đá Hà Giang. Cải ngồng Hà Giang rất lạ, cọng  mũm  mĩm  như đọt măng tây, điểm những chấm hoa vàng tươi rói cả khi còn  tươi  lẫn  khi đã luộc chín. Ngọt, chắc, bùi là những cảm giác rõ mồn  một khi   thưởng thức món ngồng cải luộc rất bình dân nhưng cực kỳ khoái  khẩu với   người miền xuôi vốn thèm rau sạch khi đến Hà Giang!   Thắng cố và rượu ngô là 2 món phổ biến nhất ở vùng này.
Ấn    tượng nhất là cung đường lên cao nguyên Đồng Văn, một bên vách núi     dựng đứng còn bên kia là vực sâu và con lộ phía trước tưởng chừng hút     thẳng lên trời cao. Một điểm đến hấp dẫn trong hành trình Đông - Tây  Bắc    mà nhiều du khách mong đợi được đặt chân đến chính là điểm cực  bắc   Việt  Nam trên đỉnh Lũng Cú. Nơi đây từng được ví là “nóc nhà Việt  Nam”,   nơi  mà người dân đất Việt nào cũng đều mơ ước một lần thưởng  lãm.
Sau quãng đường dài với những thử thách ấy, chúng tôi được đền bù xứng đáng vì phong cảnh hoang sơ, hùng vỹ trải dọc các danh thắng cổng trời Quản Bạ, núi Đôi, dinh thự vua Mèo, đèo Mã Pí Lèng, những làng mạc của người dân tộc H’Mông trắng, Lô Lô, Dao đỏ... cứ vụt qua ô cửa sổ xe trên từng cây số xe chạy qua.
Khí hậu quanh năm mát mẻ của núi cao, nhất là vùng "lõi của cao nguyên đá" là hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc khiến nơi đây trồng được những loại rau, đậu rất ngon và lạ. Trái "dưa mèo" mũm mĩm như chú chuột bạch cỡ lớn, đậu Hà Lan xanh mượt, giòn và ngọt lạ lùng. Dẫu không nổi tiếng như ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Mường Thanh (Điện Biên), lúa gạo trồng trong những thung lũng lọt giữa ngút ngàn núi đá ở Đồng Văn, Quản Bạ vẫn làm nên những nồi cơm ngon nhất. Cơm gạo mới ở Đồng Văn, Mèo Vạc luôn nấu bằng nồi nhôm đúc và vùi trong than củi nên thơm dẻo khác hẳn cơm nấu trong nồi điện dưới xuôi.
Thường   thì muốn đi hết một vòng bốn huyện  miền núi cao, du khách phải nghỉ   lại Hà Giang sau khi vượt qua 320km  đường xe từ Hà Nội. Sáng hôm sau,   lại đi trên những con đường chênh vênh  trên sườn núi cao ngất. Đi theo   hành trình ấy, ăn trưa tại thị trấn  Yên Minh là hợp lý. Chặng về cũng   vậy, khởi hành từ Đồng Văn hoặc Mèo  Vạc vào buổi sáng thì tầm trưa  cũng  lại đi qua "cửa ải" Yên Minh. Thị  trấn cửa ngõ của hai huyện Đồng  Văn,  Mèo Vạc có hai quán ăn nhỏ nằm bên  chợ huyện Yên Minh đã sẵn  sàng đón  khách. Món ăn ở đây khá "độc". Ngồng  cải luộc vừa ngọt vừa  bùi, bó ngô  non nhồi thịt thơm phức, tôm suối xào  lá chanh giòn tan.  Đặc biệt vào  mùa lạnh, món lạp xường và thịt xông  khói trở thành đặc  sản. Quy trình  làm lạp xường nhiều người đã biết,  thịt băm nhỏ trộn  gia vị nhồi vào  ruột heo non và nướng trên than hồng  cho chín rồi trên  trên gác bếp.  Thịt xông khói được làm theo cách khác.  Thịt mông, vai,  ba chỉ của con  lợn cắp nách xẻ thành miếng dài đem ướp  muối chừng một  tuần rồi đem  treo lên gác bếp. Đem làm món, vị mặn của  muối quyện với  chất béo của  mỡ khiến người mới ăn không biết đằng nào mà  lần!
Lõi của vùng cao cực Bắc là thị trấn Đồng Văn. Thủ phủ của cao nguyên đá khiến ta nao lòng bởi vẻ đẹp u hoài của khu phố cổ bên ba dãy chợ mà người Pháp khi xâm chiếm Đồng Văn đã xây từ những năm 30 của thế kỷ trước. Vào các buổi sáng chủ nhật, dưới những mái ngói thâm nâu ấy là cả một thế giới kỳ lạ của ẩm thực! Rượu ngô người Mông 8.000 đồng/ lít, uống say tràn cung mây. Một dãy nhà ngang của chợ được dành riêng cho hàng ăn uống với rất nhiều quán phở thịt lợn. Trước dãy nhà này, xôi bảy màu của người Tày xếp thành dãy. Xế vào phía uỷ ban huyện Đồng Văn là những phản thịt lợn và kế bên là các lò thắng cố thơm phức vị thảo quả lẫn với mùi khói gỗ nghiến hệt mùi gỗ pơ mu.
Nếu đã một lần đến cao nguyên đá, bạn hãy cố tìm để được ăn món "gà mèo", một giống gà đặc biệt chỉ có ở vùng cao núi đá này và xứng đáng được liệt vào hàng đặc sản. Con gà mèo không khác gì gà thường nhưng chân đen, mặt đen, mào đen, da đen, thịt đen và xương cũng đen nốt. Luộc, rang và nấu canh gừng là cách người vùng cao nguyên đá "ứng xử" với gà mèo. Thịt gà mèo rất lạ: không béo, không nát, chắc mà không dai, nạc mà không xác. Tóm lại, nếu một lần đã được xơi món thịt gà đen như bánh gai ấy, thì một ngày đẹp trời nào đó, ta sẽ lại khao khát được leo cao nguyên đá lần thứ hai, rồi lần thứ ba!
Sau quãng đường dài với những thử thách ấy, chúng tôi được đền bù xứng đáng vì phong cảnh hoang sơ, hùng vỹ trải dọc các danh thắng cổng trời Quản Bạ, núi Đôi, dinh thự vua Mèo, đèo Mã Pí Lèng, những làng mạc của người dân tộc H’Mông trắng, Lô Lô, Dao đỏ... cứ vụt qua ô cửa sổ xe trên từng cây số xe chạy qua.
Khí hậu quanh năm mát mẻ của núi cao, nhất là vùng "lõi của cao nguyên đá" là hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc khiến nơi đây trồng được những loại rau, đậu rất ngon và lạ. Trái "dưa mèo" mũm mĩm như chú chuột bạch cỡ lớn, đậu Hà Lan xanh mượt, giòn và ngọt lạ lùng. Dẫu không nổi tiếng như ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Mường Thanh (Điện Biên), lúa gạo trồng trong những thung lũng lọt giữa ngút ngàn núi đá ở Đồng Văn, Quản Bạ vẫn làm nên những nồi cơm ngon nhất. Cơm gạo mới ở Đồng Văn, Mèo Vạc luôn nấu bằng nồi nhôm đúc và vùi trong than củi nên thơm dẻo khác hẳn cơm nấu trong nồi điện dưới xuôi.
Lõi của vùng cao cực Bắc là thị trấn Đồng Văn. Thủ phủ của cao nguyên đá khiến ta nao lòng bởi vẻ đẹp u hoài của khu phố cổ bên ba dãy chợ mà người Pháp khi xâm chiếm Đồng Văn đã xây từ những năm 30 của thế kỷ trước. Vào các buổi sáng chủ nhật, dưới những mái ngói thâm nâu ấy là cả một thế giới kỳ lạ của ẩm thực! Rượu ngô người Mông 8.000 đồng/ lít, uống say tràn cung mây. Một dãy nhà ngang của chợ được dành riêng cho hàng ăn uống với rất nhiều quán phở thịt lợn. Trước dãy nhà này, xôi bảy màu của người Tày xếp thành dãy. Xế vào phía uỷ ban huyện Đồng Văn là những phản thịt lợn và kế bên là các lò thắng cố thơm phức vị thảo quả lẫn với mùi khói gỗ nghiến hệt mùi gỗ pơ mu.
Nếu đã một lần đến cao nguyên đá, bạn hãy cố tìm để được ăn món "gà mèo", một giống gà đặc biệt chỉ có ở vùng cao núi đá này và xứng đáng được liệt vào hàng đặc sản. Con gà mèo không khác gì gà thường nhưng chân đen, mặt đen, mào đen, da đen, thịt đen và xương cũng đen nốt. Luộc, rang và nấu canh gừng là cách người vùng cao nguyên đá "ứng xử" với gà mèo. Thịt gà mèo rất lạ: không béo, không nát, chắc mà không dai, nạc mà không xác. Tóm lại, nếu một lần đã được xơi món thịt gà đen như bánh gai ấy, thì một ngày đẹp trời nào đó, ta sẽ lại khao khát được leo cao nguyên đá lần thứ hai, rồi lần thứ ba!
Tới đây chúng tôi  không chỉ được thoả sức ngắm nhìn trời  đất mà còn được    tham quan một điểm du lịch lý thú đó là dinh họ Vương  thuộc địa phận    xã Sà Phìn - đây là một công trình kiến trúc đẹp hiếm  có và rất độc đáo    của vùng cao nguyên Núi Đá. 
Về   địa thế, Hà Giang có 8 huyện, một  thị xã thì 2 huyện phía Tây bắc là   vùng cao núi đất và 4 huyện phía Đông  bắc là vùng cao núi đá. Năm 2010   tổ chức unesco - Liên hiệp quốc đã  công nhận vùng cao nguyên núi đá  này  là công viên địa chất Quốc gia và  Quốc tế. Đây là công viên đá thứ  69  trong các công viên địa chất toàn  cầu và thứ hai trong vùng Đông  Nam Á.
Khu vực phía Đông bắc Hà Giang gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc được gọi một tên chung là cao nguyên Đồng Văn. Ở đây, đá chiếm đến 3/4 đất đai; người, vật, cây cối, sông suối bám vào đá để tồn tại, sinh sôi phát triển. Toàn bộ cao nguyên là di sản đa dạng địa chất, đa dạng cổ sinh địa tầng có ý nghĩa quốc gia và quốc tế thuộc các lĩnh vực lịch sử tiến hoá của vỏ trái đất.
  
Khu vực phía Đông bắc Hà Giang gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc được gọi một tên chung là cao nguyên Đồng Văn. Ở đây, đá chiếm đến 3/4 đất đai; người, vật, cây cối, sông suối bám vào đá để tồn tại, sinh sôi phát triển. Toàn bộ cao nguyên là di sản đa dạng địa chất, đa dạng cổ sinh địa tầng có ý nghĩa quốc gia và quốc tế thuộc các lĩnh vực lịch sử tiến hoá của vỏ trái đất.
| Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng. | 
Cùng với những giá trị đặc hữu về địa chất, địa mạo, sinh học, cảnh quan… cao nguyên đá Đồng Văn còn ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá truyền thống đẹp đẽ của 22 dân tộc anh em cư trú nơi đây. Từ bao đời nay bà con các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã sáng tạo ra cách sản xuất, cách sống, ăn, ở… riêng biệt để thích nghi với môi trường thiên nhiên.
Những khoảnh đất trong các thung lũng giữa trùng vây đá núi được kết cấu thành những mảnh ruộng bậc thang; tận dụng các hốc đá tai mèo, bà con đã gùi đất lên bỏ vào từng hốc để gieo ngô, đậu. Vào mùa hè, mùa mưa ở cao nguyên, lúa, ngô, đậu, lanh, tam thất, hương nhu… trên nương rẫy, hốc đá vách núi tốt tươi xanh mướt hoà lẫn trong hương thơm ngào ngạt của hoa dại và cỏ mật. Nhà cửa, bờ rào vườn tược, chuồng gia súc đều xây dựng bằng đá. Nghệ thuật kiến trúc đá đã đạt mức độ tinh xảo.
Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc dân gian dân tộc ấy là dinh thự họ Vương ở Sà phìn, cách thị trấn Đồng Văn khoảng 10 cây số. Đây là dinh thự của Thổ ty Vương ChínhĐức. Đầu thế kỷ thứ 20, khi chấp chính ngôi vị Thổ ty - một chức quan cai trị Đồng Văn, Vương Chính Đức triệu thợ giỏi các tộc người Mông, Lô Lô, Phù Lá… các địa phương trong vùng về xây dựng dinh thự. Toàn bộ 10 ngôi nhà ngang, dọc rộng hơn 1200m2, các dãy nhà phụ, tường rào bao quanh đều xây bằng đá. Từng chi tiết xây cất, đẽo gọt đá, gỗ ván đã thể hiện sự khéo léo, tinh tế, đặc sắc của tay nghề những người thợ dân gian bản địa.
Thời Pháp thuộc, Vương Chính Đức đã giành được quyền tự trị đất Đồng Văn. Người kế nhiệm Vương Chí Thành đã ngăn giữ không cho người Nhật xâm nhập vào Đông Văn. Cách mạng tháng 8 thành công, Vương Chí Thành giao đất Đồng Văn cho chính quyền cách mạng quản lý. Bác Hồ kết nghĩa huynh đệ với Vương Chí Thành, những năm 60 thế kỷ trước ông được Bác Hồ mời về sống ở Hà Nội để có điều kiện chăm sóc sức khoẻ tuổi già.
Điểm cực Bắc của Tổ quốc và cũng là trung tâm của cao nguyên đá là thị trấn Đồng Văn. Nơi đây là xứ sở độc đáo về khí hậu và địa hình “Đất rộng mênh mông nhưng không được bao nhiêu thước bằng phẳng - Trời quanh năm không được vài ngày nắng”. Khu phố cổ Đồng Văn được hình thành từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 19. Tuy thời điểm xây dựng không đồng nhất nhưng cung cách kiến trúc đều có nét khá tương đồng: nhà hai tầng, tường đá xanh, khung nhà gỗ không có mộng thắt, không chạm trổ cầu kỳ, mái lợp ngói âm dương… Hiện nay còn lưu giữ 20 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm. Dinh thự họ Vương và khu phố cổ Đồng Văn đã được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Phố thị Đồng Văn còn là nơi tiêu biểu của những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ở cao nguyên.
Những ngày hội dân gian, các ngày phiên chợ hàng tháng, người người từ các bản làng gần xa tụ hội về đông vui tấp nập, màu sắc trang phục sặc sỡ, đẹp mắt; cả không gian tràn ngập tiếng cười nói, lời ca ngọt ngào, âm thanh đàn, khèn, sáo du dương, quyến rũ. Người lớn tuổi, thanh niên không phân biệt nam nữ gặp nhau trong các hàng quán bình dân, tuỳ lứa tuổi và sức khoẻ, họ mời nhau chén rượu ngô thơm nồng, bát thắng cố béo ngậy, bát cháo ẩu tẩu vừa có vị đăng đắng lại ngòn ngọt… những món ẩm thực đặc sản, ai được thưởng thức một lần là nhớ mãi….
Từ thị trấn Đồng Văn ngược thẳng về phía Bắc khoảng 20 cây số là xã Lủng Cú, mỏm địa đầu của đất nước, nhìn lên bản đồ Việt Nam, cái chóp nhô cao như một mũi mác, chính là đất Lủng Cú. Những ngọn núi xếp lớp đơn nguyên nơi đây là điển hình của loại đá trầm tích, loại đá cổ nhất của trái đất. Lũng Cú ở độ cao gần 1800 mét. Đứng giữa xứ sở này, ta có cảm giác như đang sống bồng bềnh giữa mây ngàn gió núi; mây trắng bời bời phủ che trên đầu, trôi lững lờ dưới chân, bao quanh lẩn quất bên mình.
Tại thôn Séo Lũng, cách trung tâm xã gần 5 cây số có ngọn núi Rồng, cột cờ Tổ quốc dựng trên đỉnh núi, sát cột mốc số 17 biên giới Việt - Trung. Tên núi Rồng đã có từ lâu đời, do đồng bào địa phương đặt. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên núi nơi địa đầu Tổ quốc với dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng với diện tích 54 mét vuông - tượng trưng cho 54 dân tộc anh em ngày ngày kiêu hãnh tung bay giữa trời xanh, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ta. Bao thế hệ qua, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, mọi áp lực, những người dân thuộc hai dân tộc kiên cường Mông, Lô Lô ở Lũng Cú đã không tiếc mồ hôi, xương máu để bảo vệ quốc kỳ, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng. Lớp lớp người dân Lũng Cú xứng đáng với niềm tin, sự kính phục của nhân dân cả nước.
Phía tả đèo, một thung lũng hẹp hun hút dưới sâu với đôi ba chục nóc nhà nhỏ tựa lưng vào dãy núi đá vời vợi, một ngôi làng quá heo hút nhưng lại được khá nhiều người không chỉ Hà Giang biết đến, bởi hàng năm ở đây diễn ra một phiên chợ đặc biệt: chợ tình khau vai, mỗi năm chỉ họp một lần vào cuối mùa xuân. Gọi chợ tình là theo nghĩa thông tục, chứ ở đây, người về chợ là để giao lưu tình cảm, tình yêu đôi lứa, không hề có chuyện mua bán hiện đại. Chợ tình khau vai hay gọi đúng hơn ngày hội tình yêu - tình bạn là một trong những nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng của các dân tộc Đồng Văn.
Cho đến nay, cảnh vật, con người trên cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang vẫn giữ được khá đậm đà những nét hoang sơ, kỳ vĩ, tinh khiết có sức lôi cuốn đối với du khách trong và ngoài nước.
dinh họ Vương  thuộc địa phận    xã Sà Phìn 
   Trong tour du lịch về  miền đá Đồng Văn, Lũng Cú, không ai muốn bỏ qua   cơ hội thăm di tích nhà  họ Vương, một dinh thự cổ ngủ vùi giữa thung   lũng sa mộc, hội tụ nhiều  giá trị kiến trúc Trung Hoa và người Mèo Hà   Giang. Người ta vẫn gọi đây  là dinh vua Mèo.
Mái ngói âm dương phân lớp theo kiến trúc cổ  | 
Dinh    vua Mèo ở huyện Đồng Văn, cách Hà Nội chừng 500km, sau khi vượt qua    những chặng đường men theo sườn núi, ngoằn ngoèo như những sợi chỉ,  vượt   qua Cổng trời Quản Bạ. Nơi đây, một thời, ông Vương Chính Đức  đóng  Cổng  trời lại, xưng vương. Miền đá tỉnh Hà Giang hiếm có một ngôi  nhà  có  kiến trúc độc đáo thế này. Mấy chục năm qua, những ai lên đến  Hà  Giang  thường không bỏ qua di tích này.
Nhà    họ Vương nằm nép mình dưới tán rừng cây sa mộc cổ thụ, cao vút. Những    phần nhà xuống cấp đã được phục hồi nguyên trạng. Toàn bộ hệ thống   tường  thành được xếp bằng đá nhẵn thín với phiến đá to, chẳng cần vôi   vữa mà  vẫn vững chắc. Nhà được bố trí theo kiểu cung điện Trung Hoa,   được phân  ra nhiều khu: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, nhà kho, phòng   của vợ ông  Vương Chính Đức, hay nhà thờ. Trước cổng của ngôi nhà là   ngôi mộ bằng  đá chạm khắc tinh vi, là mẹ ông Vương Chí Sình, đại biểu   Quốc hội các  khoá I, II, III. Nơi đây còn lưu giữ một số hình ảnh về   ông vua mèo oai  phong lẫm liệt. Qua cổng chính là đến ba, bốn lần cổng   nhỏ. Dọc hai bên  hành lang của dãy nhà cao nhất là dãy nhà ngang, nhà   dọc, bố trí từ thấp  lên cao (theo lối kiến trúc Trung Hoa), phần trên   là ảnh thờ ông Đức  phóng to khi còn làm bang tá. Có cầu thang đi lên   khu pháo đài, lỗ châu  mai, có kè đá tảng. Các hạng mục chủ yếu được   phục dựng bằng gỗ và đá.  Một số đồ dùng xưa như tủ quần áo, lò sưởi của   gia đình họ Vương vẫn  được lưu giữ như những tín vật.
chợ    Đồng VănSáng ngày thứ 6, chúng tôi dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi  trả phòng, khởi hành đi thăm quan chợ    Đồng Văn. Sau đó, chúng tôi khởi hành đi thăm Lũng Cú điểm cực Bắc địa đầu    tổ Quốc, chúng tôi thăm quan và chụp ảnh lưu niệm tại cột mốc cực Bắc địa đầu tổ    Quốc. Ăn trưa tại thị trấn Yên Minh, sau đó chúng tôi tiếp tục khởi hành về    thị xã Hà Giang nhận phòng, ăn tối. Nghỉ đêm tại Hà Giang.
Sáng ngày thứ 7, dùng điểm tâm tại khách sạn, khởi hành theo quốc lộ 2 qua Chiêm Hoá    và đường 279. Đoàn dùng bữa trưa tại nhà hàng.
   Chiêm Hoá    và đường 279
Chiều: Tới Ba    Bể chúng tôi đi thuyền tham quan dọc theo Hồ 1, Hồ 2 và Hồ 3 tham quan động    Puông bí ẩn, thác Đầu Đẳng kỳ vĩ, thăm Ao Tiên, đảo Bà Goá. Thích nhất là đi du thuyền  thăm hồ Ba Bể, hồ Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng rồi đi thăm đảo An  Mã, thác Đầu Đẳng, Ao Tiên trước khi dùng bữa tối & nghỉ đêm tại Ba Bể.
Sáng ngày thứ 8, dùng điểm tâm tại khách sạn, trả phòng, khởi hành đi Cao Bằng theo quốc lộ    3. Qua 250km, chúng tôi  tới Cao Bằng
TX Cao Bằng
Chiều: Đi    thăm khu du lịch thác Bản Giốc    - một trong những thác nước đẹp    nhất Việt Nam nằm ở địa phận xã  Đàm   Thuỷ, huyện Trùng Khánh, từ độ cao    trên 30m những khối nước lớn  đổ   xuống qua nhiều bậc đá vôi làm tung lên    vô vàn hạt bụi trắng  toả mờ   cả một vùng rộng lớn.  Thác  Bản Giốc là  thác đẹp thuộc hàng đệ nhất danh thác Việt Nam. Thác  Bản  Giốc nằm trên  biên giới VN và Trung Quốc, thuộc xã Đàm Thủy,  huyện  Trùng Khánh, cách  thị xã Cao Bằng 89 km, theo tỉnh lộ 206 về  phía  bắc.Điều thú vị trong chặng đường gần 400 km từ Hà Nội lên tới  thác Bản   Giốc, là du khách có thể tha hồ ngắm cảnh đẹp. Qua cửa kính  xe ô tô,  núi  rừng hùng vĩ xen kẽ trùng trùng điệp điệp nối vào nhau.  Những cánh  đồng  ngát xanh, vạt hoa dại bên đường, nếp nhà yên bình nép  mình bên  núi,  bầy trâu lọt thỏm giữa cánh đồng làm nao lòng du khách.  Thác   Bản Giốc nằm trong dòng chảy sông Quây Sơn, bắt nguồn từ Trung  Quốc,   chảy qua biên giới hai nước VN và Trung Quốc, uốn lượn quanh chân  núi   Cô Muông, qua những cánh đồng thuộc địa phận Đàm Thủy. Gần cuối dòng    chảy, dòng sông Quây Sơn đổ từ độ cao hơn 30 mét xuống dưới chân núi    tạo thành dòng thác hùng vĩ, sủi bọt trắng xóa. Thác Bản Giốc được chia    làm hai phần, phía nam là thác cao, phía bắc là thác thấp. Thác thấp  là   thác chính, hùng vĩ hơn, tiệp mình vào núi rừng rộng lớn nay đã  thuộc  TQ. Hôm chúng tôi  đến, nhìn từ xa, dòng nước chảy từ trên cao  xuống tựa  những sợi tơ trắng  xóa đang nằm vắt vẻo uyển chuyển trên núi  rừng  hoang sơ. Nước sủi tung  bọt, ầm vang. Ánh nắng hắt trên nước,  lấp lánh   sáng. Vẻ đẹp, sự thuần  khiết, hùng vĩ hòa quyện vào nhau.
 Dòng   sông dưới chân thác khá phẳng lặng, có thể đi thuyền tham quan. Ở  đây   có dịch vụ chèo thuyền đưa khách tham quan toàn bộ thác Bản Giốc và    những cánh rừng, đồng ruộng bên bờ Quây Sơn. Cuối chiều, mặt trời    xuống, ngắm nhìn thác nước tuôn trào, cảm giác thật lạ. Gió biên cương    thổi lành lạnh, nhìn mặt sông xanh ngắt, lại ngước lên  nhìn dòng nước    tuôn trào, tựa như phun ra từ núi, đủ khiến niềm xúc cảm không tên  trong   lòng trỗi dậy.      
 Ở   Bản Giốc, đến nay vẫn chưa phát triển dịch vụ ăn, ngủ  cho khách du   lịch. Vì vậy, chiều buông, chúng tôi phải lên xe về lại thị  trấn Trùng   Khánh tìm chỗ nghỉ ngơi. Nhưng không vì trở ngại nhỏ đó mà  du khách   phiền lòng. Bởi, chính sự hoang sơ nơi ngọn thác biên cương là  điều làm   người ta thấy thú vị.
TX Cao Bằng
       Từ Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều nơi ở Cao Bằng, nhiều lần   sang Trung Quốc bắt liên lạc với các lực lượng cách mạng Việt Nam  và   đồng minh. Trong chuyến đi Trung Quốc ngày 13/08/1942, Quốc đã bị  chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến ngày 10/09/1943 mới  được trả tự do. Cuối tháng 09/1944, Quốc trở về Pác Bó tiếp tục chỉ đạo  cách mạng Việt Nam. Đầu tháng 12/1944, tại Nà Sác, Quốc   đã ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân -   tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam  ngày nay. Ngày 04/05/1945, Quốc rời   Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang)  để chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành   chính quyền trong cả nước. Ngày  20/02/1961, Hồ chí Minh về thăm lại Pác   Bó sau 20 năm xa cách.
Chiều:chúng tôi đi qua 150km về khu du lịch Hồ Núi Cốc.
Sáng ngày thứ 10, dùng điểm tâm tại khách sạn xong  rồi đi thuyền tham quan Hồ    Núi Cốc; ăn trưa xong, chúng tôi    khởi hành về Hà Nội.
Chiều: chúng tôi    về tới Hà Nội, rủ nhau đi thưởng   thức  ẩm thực phố cổ với bánh cốm Hàng Than, các  loại ô mai Hàng   Đường, mắm  tép chưng thịt Hàng Bè, bún chả Hàng  Mành, bún đậu mắm tôm   ngõ Phất Lộc, miến trộn  Lê Ngọc Hân, cháo sườn  Nhà Thờ, bánh cốm chấm   tinh dầu cà cuống ở Lương  Văn Can, bún ốc nguội Ô  Quan Chưởng, vịt  om  sấu Quán Thánh, bánh tôm Hồ  Tây, phở cuốn hồ Trúc  Bạch...  Nghe thấy ham nhưng khác khẩu vị nên nói thật là tôi chịu thua, không thấy ngon gì hết !Ngủ 1 đêm ở Hà Nội, sáng hôm sau chúng tôi lại đi loanh quanh phố phường Hà Nội để đợi đến chiều thì ra ga Trần Quý Cáp đi Lào Cai - Sapa và Hà Khẩu(VK Mỹ không được qua cửa khẩu TQ nên sẽ ở lại bên này để shopping), chúng tôi ngủ luôn trên xe lửa.
Lào    Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội    296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà    Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên    Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên  giới.  Cách  ngày nay hơn vạn năm,  con  người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời  Hùng Vương dựng nước,  vùng  đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong  15 bộ của Nhà nước  Văn Lang  - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở  thượng nguồn sông  Hồng. Đến  đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động  về địa danh...  Đến đời  nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất  của châu Thuỷ  Vỹ, châu  Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một  phần nhỏ thuộc  châu Lục  Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa  danh Lào Cai  chưa được  hình thành.

No comments:
Post a Comment