Từ Saigon, tôi bay ra Hà Nội và công ty du lịch đón tại sân bay rồi đưa đi Sơn La, qua Mộc Châu (đường quốc lộ 6: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Lai Châu) và ghé ăn trưa tại Thị trấn Phù Yên. Nếu theo quốc lộ 37: Mai Sơn – Bắc Yên – Điện Biên – Phù Yên – Yên Bái, chúng ta sẽ đi Điện Biên hay Yên Bái.
Trong những năm qua,  khi du lịch trở  thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều tỉnh, thì  ngành du lịch Sơn  La cũng đã tổ chức nhiều tour ngắn ngày và đã  tạo ra  được sức hấp dẫn đối với du khách cả trong và ngoài nước. Sau khi  đến  sân bay Nà Sản, du khách được đi tham quan những di tích lịch sử và   những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng đã được xếp hạng: Nhà ngục Sơn La,   nơi giam giữ tù chính trị trong thời kỳ chống Pháp, hang bia « Quế Lâm   Ngự Chế» – bút tích của Vua Lê Thái Tông năm 1440… Bài thơ được khắc   trên vòm hang vách đá thẳng đứng, dưới lòng hang rộng, có nhiều thạch   nhũ mọc từ vòm hang buông xuống. Đây là những thắng cảnh kỳ vĩ do thiên   nhiên và con người kiến tạo.
Khi  áng chiều đã trải dài bóng mỗi ngọn  cây, nhuộm đỏ những dòng suối,  những chiếc lá vàng trôi lững lờ hiền  dịu, thanh bình, là lúc du khách  có thể đi trên con đường trải nhựa lượn  quanh các triền đồi trông như  một dải lụa. Xa xa, những dải khói lam  chiều nhẹ nhàng uốn mình theo  triền núi. Cách trung tâm thị xã gần 5 km,  điểm tham quan và thư giãn  tại khu Suối nước nóng Bản Mòng hiện ra còn  nguyên những nét đẹp hoang  sơ, thuần khiết đầy quyến rũ.
Trong  những tour du lịch, bước chân của  du khách sẽ đến với những địa danh,  những khu văn hóa đậm đà bản sắc dân  tộc. Khu Bảo Tàng tỉnh Sơn La nằm  trên đồi Khau Cả đã lưu giữ hàng ngàn  những hiện vật văn hóa đa dạng  các dân tộc Sơn La, thăm những khu làng,  bản văn hóa. Trên những nếp  nhà sàn truyền thống, du khách có thể  thưởng thức những món ăn đặc sản,  hương vị mới lạ đậm đà, hấp dẫn như  măng lay, cá nướng, cơm lam. Sau  khi chiêm ngưỡng những danh thắng ở thị  xã Sơn La, du khách có thể tiếp  tục cuộc hành trình của mình để ngắm  những cảnh đẹp hùng vĩ mà nên thơ  như Hang Dơi, Thác Dải Yếm ở Mộc Châu  và để tận hưởng không khí trong  lành của vùng khí hậu tiểu ôn đới đang  quyện hòa cùng hương chè ngan  ngát.
Những du khách yêu thích du  lịch sinh  thái vùng cao sẽ có nhiều cơ hội ngắm nhìn những vẻ đẹp hoang  sơ của  những nhành phong lan rừng, những đỉnh núi cao mây vờn, những  dòng suối  nước trong veo và cả tấm lòng chân chất, hiếu khách của người  dân bản  xứ. Hương vị thơm nồng của rượu cần hòa quyện cùng điệu xòe  bên ánh lửa  bập bùng sẽ còn lưu giữ mãi trong lòng du khách. Mùa xuân  về, hoa ban nở  trắng càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc trên suốt  cuộc hành  trình về với Sơn La. Mời các bạn hãy đến thăm Sơn La.
Chiều, chúng tôi tới TP    Sơn La. Sau khi nhận phòng và dùng bữa tối, chúng tôi đi thăm qua TP Sơn    La về đêm và đi tắm    suối khoáng nóng rồi mới về nghỉ đêm tại khách sạn.  Sơn La cách Hà Nội khoảng 302 km về phía Tây Bắc. Phía Tây và phía Bắc giáp huyện Thuận Châu, phía Đông giáp huyện Mường La, phía Nam giáp huyện Mai Sơn. Quốc lộ 6 đi qua thành phố, nối thành phố với thành phố Điện Biên Phủ và thành phố Hòa Bình.Thành phố Sơn La có một di tích lịch sử đáng chú ý, đó là bia văn của hoàng đế Lê Thái Tông   tại cửa động La. Tháng 5 năm 1440, trên đường trở về sau khi dẫn quân   chinh phạt vùng Tây Bắc thắng lợi, Lê Thái Tông đã nghỉ tại động La và   sáng tác bài thơ "Quế Lâm Ngự Chế" gồm 140 chữ Hán.Tại Thành phố Sơn La có trường Đại học Tây bắc, bệnh viện đa khoa khu vực 500 giường.Thành phố Sơn La nằm trong vùng kaste hóa mạnh, địa hình chia cắt phức tạp, núi đá cao xen lẫn đồi, thung lũng, lòng chảo.   Diện tích đất canh tác nhỏ hẹp, thế đất dốc dưới 250 chiếm tỷ lệ thấp.   Một số khu vực có các phiêng bãi tương đối bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,   tập trung ở các xã Chiềng Ngần, Chiềng Đen, Chiềng Xôm và phường  Chiềng  Sinh. Độ cao bình quân từ 700 - 800 m so với mực nước biển.Gió  thịnh hành theo 2 hướng gió chính: gió mùa   đông bắc từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau; gió tây nam từ tháng 3 đến   tháng 9. Từ tháng 3 đến tháng 4 còn chịu ảnh hưởng của gió Tây (gió Lào  nóng và  khô). Một số khu vực của thị xã còn bị ảnh hưởng của sương muối từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau.  
Những   con đường rộng bình yên, những thiếu nữ dân tộc người Thái và Mường   xúng xính trong váy áo với nhiều hoa văn làm say lòng khách lạ, làm tan   đi cảm giác mỏi mệt sau một hành trình dài hơn 300km từ một bến xe của   Hà Nội. Được xây dựng vào năm 1908, ban đầu chỉ là một nhà tù nhỏ cấp  tỉnh với diện tích 500m2,  sau được thực dân Pháp mở rộng  diện tích lên gấp ba lần, nhà ngục Sơn  La nổi tiếng trong các nhà tù  của thực dân Pháp là nhà tù thép, là nơi  giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý  chí đấu tranh của những người Cộng sản  Việt Nam.Với  những căn phòng  tối bằng gạch và đá khá kiên cố, mái lợp tôn, mùa hè  nơi đây tựa một lò  nung và mùa đông thực sự là một chiếc tủ lạnh trong  gió mùa biên ải  khắc nghiệt.Giữa  những bức tường nhà ngục đổ nát như là minh chứng cho  những tội ác dã  man của kẻ thù, tình cờ tôi đã gặp bác Trần Nguyên, một  cán bộ thông tin  của chiến trường miền Đông Nam Bộ, từng tham gia  chiến dịch Hồ Chí Minh  lịch sử, lặn lội từ Quân khu 4 ra thăm. Ông ra  thăm với mục đích duy  nhất là muốn được nghe lại những câu chuyện cảm  động về hoạt động của  chi bộ đảng nhà tù Sơn La, đi thăm và cảm nhận về  sự dã man của thực dân  Pháp qua những chứng cứ lịch sử.
Nhà tù Sơn La - Cây đào Tô Hiệu(chỉ còn gốc đào thôi !).
Cô   hướng dẫn viên xinh đẹp người Thái dẫn chúng tôi đi thăm các xà lim   ngầm, xà lim chéo, trại ba gian… Đến mỗi một địa danh, chúng tôi lại   được nghe những câu chuyện cảm động về sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau   nhằm tuyên truyền giác ngộ cách mạng trong và ngoài nhà tù, tổ chức đấu   tranh đòi quyền lợi cho tù nhân, tổ chức vượt ngục… của những cán bộ ưu   tú của Đảng như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương  Bằng,  Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Xuân Thủy, Trần Huy  Liệu….
Bản Mòng là một địa điểm du lịch sinh thái, văn hóa và nghỉ dưỡng hấp dẫn thuộc xã Hua La, Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La
Điều  đầu tiên mà du khách cảm nhận được  là cảnh quan thiên nhiên đẹp, sơn  thủy hữu tình nơi đây. Những dãy núi  nhấp nhô như thân rồng uốn lượn  soi mình xuống dòng Nậm La. Trên các  sườn đồi cà phê, mơ, mận, thông,  tre mọc um tùm. Xa xa là rừng cây với  các loại gỗ quý: đinh hương, sến,  nghiến, thông, trẩu….và hàng chục loài  hoa phong lan với nhiều màu  sắc. Vào độ xuân về, hoa mơ, hoa mận và hoa  ban đua nở trằng rừng với  từng bày ong bay tìm mật tạo nên không khí  vui nhộn. Khi đông về, hoa  vông gai nở đỏ rực bên sườn đồi như tô điểm  cho những ngôi nhà sản lợp  ngói đỏ. Cái rét se lạnh cũng là thời điểm lý  tưởng để thả mình trong  dòng suối nước nóng.
Suối Bản Mòng - Sơn La
Tại  Bản Mòng có suối nước nóng thiên tạo với tên gọi là Bó Nặm Ún nằm  cách  TP Sơn La 5 km về phía Tây Nam. Nguồn nước nóng ở đây có tác dụng  điều  dưỡng và chữa bệnh. Theo kết quả khảo sát của công ty mỏ INCODEMIC   thuộc Tổng công ty Hoá chất Việt Nam, nhiệt độ ở nguồn nước nóng này   thay đổi theo mùa và thời tiết. Nhiệt độ nước lộ thiên là 380 c, nước   không có mùi lạ, trong suốt không có màu và về mùa mưa có mầu cô ban.   Nguồn nước ở đây về cơ bản đạt yêu cầu chất lượng theo quy định về quản   lý chất lượng nước khoáng, nước uống đóng chai của Bộ Công nghiệp và   Khoa học- Môi trường ngày 23/10/1997.Đến  với vùng đất này du khách còn có thể  tìm hiểu những nét đặc trưng văn  hoá của dân tộc Thái, dân tộc có chữ  viết từ thế kỷ XI. Hiện tại, Bản  Mòng có 106 hộ dân thuần Thái sinh  sống. Họ sống trong nhà sàn lợp ngói  ven các sườn đồi. Bên trên nóc nhà  được trang trí bởi các loại khau  cút, và cửa sổ cũng có đủ các loại hình  thù: hình ngà voi, hình mặt  trăng… Người dân nơi đây làm các nghề thủ  công truyền thống như nghề  rèn, dệt thổ cẩm, đan lát, làm gốm.
Với  nền nông nghiệp lúa nước phát triển,  những cư dân nơi đây đã biết tạo  nên những món ăn dân dã nổi tiếng như  món xôi được chế biến từ gạo nếp  dẻo thơm ủ trong những cái ếp khảu nhỏ  xinh xắn, món cơm lam nấu từ gạo  được ngâm sau mấy giờ cho vào một loại  ống tre non đốt trên than củi  có mùi thơm đặc biệt, cá nướng, thịt khô,  các món rau, măng đặc sản của  vùng núi: măng lay, măng bói, măng đắng,  nấm hương, nấm mối, rau sắng,  sổm lôm…….
Trong những đêm trăng  bên ánh lửa bập  bùng trong nhà sàn, du khách sẽ được cùng với chủ nhà  thưởng thức những  hương vị đặc sắc cùng chum rượu cần. Lòng hiếu khách  của người dân và  phong cảnh hữu tình nơi đây sẽ giúp quý khách quên hết  những mệt nhọc  của một chuyến đi xa và những bận rộn đời thường. Những  âm hưởng hòa  quyện của tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng chim rừng  thánh thót cùng  điệu múa xoè, múa cánh bướm, múa piêu… thúc giục như  mời chào quý khách  cùng hoà nhập với âm điệu của lời hát Inh lả ơi…”  chắc chắn sẽ để lại  cho du khách cảm giác bâng khuâng, lưu luyến và  mong có ngày được trở  lại với Bản Mòng.
Hang  Dơi thuộc huyện Mộc  Châu, tỉnh Sơn La với diện tích là 6.915 m2. Nơi  đây dưới sự tác động  của thiên nhiên đã tạo ra những hang động lớn với  những cảnh đẹp mê hồn,  cùng địa hình có độ dốc lớn những dòng suối chảy  đã tạo ra những dòng  thác khiến không ít du khách phải trầm trồ thán  phục.
Từ đường quốc lộ, muốn tới hang thì  bạn  phải leo 240 bậc mới tới được cửa hang. Tuy nhiên, đường được tạo  dáng  uốn khúc nên sẽ làm giảm bớt cảm giác mỏi mệt của du khách. Khi  lên đến  cửa hang, điều đầu tiên mà du khách cảm nhân được chính là khí  hậu nơi  đây vô cùng mát vẻ khiến bao mỏi mệt bỗng chốc tan biến.Những  dãy núi uốn lượn bao quanh thung  lũng tạo nên một cảnh tượng có một  không hai: Vào buổi sáng thì bầu trời  chỉ toàn một màu trắng, đến buổi  trưa thì màu xanh biếc, buổi trưa thì  rực hồng và màu tím biếc khi  hoàng hôn.
Từ cửa hang bước vào, du  khách sẽ cảm  thấy sững sờ khi thấy một cảnh sắc diệu kỳ hiện ra trước  mắt trong ánh  sáng mờ ảo từ cúa hắt vào như thể tạo hóa đã cảm tỉnh  riêng với nơi đây  mà nhô ra những vẻ đẹp kỳ thú. Trên trần động cao rủ  xuống những dải nhũ  thạch lấp lánh đủ 7 sắc cầu vồng.
Phần giữa  hang vòm động được nâng cao  lên, có bức mành đá chắn ngang và được gọi  là buồng “Công chúa”. Bên  phía trái là khối nhũ đá hình người con gái  đang ngồi quay sợi. Không  những vậy, nơi đây còn có rất nhiều nhũ đá đủ  mọi hình dáng do thiên  nhiên khéo léo tạo thành.
Trong  lòng hang cao ráo, rộng rãi và sạch sẽ, nhìn vào những đường  nét trạm  trổ trên nhũ đá cho ta cái cảm giác như có bàn tay của con  người can  thiệp vào bởi nó quá tinh xảo và sống động. Tuy nhiên, những  cảnh đẹp  nơi đây đều do thiên nhiên ban tặng.Trên  vòm hang có nhiều hốc đá, đây chính  là tổ của những đàn dơi đông đúc,  đen kịt và do đó nó mới có tên là  Hang Dơi. Từ trên vòm hang, những  giọt nước nhỏ xuống nhủ đá tạo nên một  thứ âm thanh vô cùng thánh thót  và êm dịu, thứ âm thanh đó đã khiến  không biết bao du khách mãi nhớ đến  Hang Dơi.
Sân bay Điện Biên ngày nay
Phóng viên ảnh Hoàng Chương, Minh Nguyệt, Chị Oanh cùng Đào Xuân Mai và cây bút hài Nguyễn Hữu Nhiệm từ trái qua trước bảo tàng Điện Biên
Những người dân hiền lành, chất phác cùng những vũ khí thô sơ xung trận
Mô hình bộ đội ta hò kéo pháo, những chiếc xe thồ chở lương thực lên Điện Biên
Lá cờ quyến chiến, quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng đờ castri ngày 07/5
Chiếc xe tăng trên đồi A1 được một tiểu đội lính Mỹ lắp ráp tại chiến trận cứ 3 ngày xong một chiếc
Đỉnh đồi A1
Hai cô gái xinh đẹp là cộng tác viên bản tin từ trong hầm chỉ huy ra Minh Nguyệt, Hoàng Anh Phương
Hầm chỉ huy tướng đờ cát Trước đền thờ các anh hùng liệt sĩ
Ngày xưa đồng vẫn màu đồng
Ngày nay đồng chuyển màu hồng sang ...đen.
(Đó là cách nói ví von về các vị chức sắc biết cách "ăn đồng").
Từ trên tượng đài chiến thắng nhìn xuống Thành phố Điện Biên
Tượng đài hò kéo pháo Trên đường đi vào thăm trung tâm chỉ huy
(chỉ đúc bằng xi măng vừa đỡ tốn và... kém). của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Tram gác (Đường vào bộ chỉ huy) Lán ngủ Trạm giao liên
Đào Xuân Mai và anh Trần Hồi Trước hầm chỉ huy Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Phó tổng giám đốc, Tổng biên tập bản tin
Giường ngủ của Đại Tướng Đường hầm, trung tâm chỉ huy
Nhà tác chiến
Gái này chẳng phải Thái đâu Trong bản làng văn hóa Điện Biên
Trước hồ em đứng ...lên màu liêu trai
Giới thiệu cách thức nấu xôi nếp cẩm Hoàng Anh Phương và cụ bà hơn trăm tuổi
Điện  Biên Phủ cách Hà Nội 474 km theo quốc lộ                      279 và 6.  Thành phố Điện Biên Phủ phía đông nam giáp huyện                       Điện Biên Đông, các phía còn lại giáp huyện Điện Biên. Tên gọi Điện Biên  do vua Thiệu Trị đặt năm 1841                      từ châu Ninh Biên;  Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là                      vùng biên  giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên phủ)                       thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức                       là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu.
Thành  phố Điện Biên được biết đến với trận Điện Biên Phủ                       năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp                       chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries                       chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc kết  thúc                      vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương,  và đưa tới việc                      kí kết hiệp định chia Việt Nam ra  thành 2 miền: Bắc và Nam.                      Trận Điện Biên Phủ được  nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại                      nhất của các  nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương                       Tây. Trong trận này, Lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh                       của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện                       Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân đội Pháp.  Bằng cách                      huy động sức người một cách tối đa và với  lực lượng hậu cần                      đông đảo của mình, Việt Minh đã  làm nên một trong những chiến                      thắng quan trọng nhất  trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Khí hậu tỉnh Điện Biên  là khí hậu nhiệt đới núi cao, chia làm 2 mùa,                      mùa  mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21ºC –                       23ºC. Nhờ khí hậu núi cao, thiên nhiên hoang sơ nên Điện Biên đang được đầu tư để trở thành điểm du lịch nhưng nói thật là thái độ phục vụ & ăn uống quá tệ, e rằng khó có du khách nào muốn trở lại lần nữa.
Quần  thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp                       hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng                       đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp kỷ  niệm                      50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện  nay chạy dọc                      thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra  cuộc đọ sức lịch sử năm                      xưa là đại lộ 279, con phố  chính và lớn nhất thành phố Điện                      Biên Phủ.
Về  đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng                       đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo                       đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6.Về đường hàng  không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ                      nối  với Hà Nội.
Du khách dừng chân trên đỉnh đèo Mã Pí Lèng  | 
Sông Gâm trong một buổi sáng đầy sương mù  | 
| Đảo đá trên sông Gâm, phong cảnh kỳ thú không kém vịnh Hạ Long . | 
| Sông Năng xâm thực lòng núi đá vôi Lũng Nham suốt hàng triệu năm, tạo ra động Puôn có chiều dài 300m, trần động có chỗ cao đến 50m với nhiều chòm nhũ đá ngoạn mục. | 
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đồi A1 nằm dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm 2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m, Đông Nam cao hơn 493m. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi. Sau nhiều trận chiến vô cùng ác liệt đã diễn ra ở đây thì đến 4h sáng ngày 7/5/1954 quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
Ngày nay, đến với Điện Biên Phủ, du khách sẽ thấy trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đao. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ , xung quanh là vòng tường hoa.
Bảo tàng chiến thắng Điện Biên                      Phủ
Nằm                      tại khu phố 1, P. Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện                      Biên.
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Vào  cuối năm 2003, bảo tàng Điện Biên Phủ đã                      tiến hành  nâng cấp và chỉnh lý lại khu trưng bầy. Đến nay                       bảo tàng có 5 khu trưng bầy với 274 hiện vật và 122 bức tranh                       theo từng chủ đề sau                   
-Vị trí chiến lược của Điện Biên Phủ.
-Tập đoàn cứ điểm của địch tại Điện Biên Phủ.
-Đảng chuẩn bị đường lối chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
-Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ.
-Điện Biên Phủ ngày nay.
-Hầm chỉ huy tướng Đờ Cát : Nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc cánh đồng Mường Thanh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Nằm                         trong một khu rừng nguyên sinh tại địa phận xã  Mường Phăng,                        huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên,  cách thành phố Điện Biên                        Phủ 25km về phía đông. 
Để  đến đây du khách phải đi bằng ô tô, vượt                        qua dốc  Tà Lơi hiểm trở và nhiều đoạn đường quanh co, khúc                         khuỷu. Gần với Sở chỉ huy có đài quan sát trên đỉnh núi                         độ cao trên 1.000m, từ đài quan sát này có thể bao quát                         hoạt động và diễn biến ở thung lũng Mường Thanh. Đến sở                         chỉ huy, du khách sẽ được thăm các điểm sau :
-Chòi canh gác số 1
-Hầm thông tin liên lạc
-Đài quan sát
-Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
-Lán ở và làm việc của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái
-Đường hầm xuyên núi dài 96m nối liền lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái Hầm của ban cố vấn Trung Quốc
-Nhà hội trường
-Hầm ban chính trị
Đèo Pha Đin
                       Đèo                         Pha Đin nằm trên đường từ Hà Nội lên Điện Biên, ở  ranh giới                        giữa tỉnh Sơn La và Điện Biên.
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Xưa  kia, vì có sự tranh chấp ranh giới giữa                        hai tỉnh  Sơn La và Lai Châu (cũ), người ta đã giải quyết                         bằng một cuộc đua ngựa. Từ hai phía đèo, cùng một lúc ngựa                         hai bên phi hướng về nhau. Nơi gặp gỡ sẽ là ranh giới. Ngựa                         Lai Châu phi nhanh hơn, nên phần đèo thuộc về Lai  Châu (nay                        thuộc tỉnh Điện Biên) dài hơn phần đèo  của Sơn La. 
Hồ Pá Khoang
Hồ                         Pá Khoang thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện  Điện Biên,                        tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện  Biên Phủ gần 20km. Trong                        khu vực lòng hồ có các  bản dân tộc Thái, Khơ Mú là những                        dân tộc còn giữ  được những phong tục tập quán, nét đặc sắc                        của  các dân tộc vùng Tây Bắc ...
Hang Thẩm Báng
Thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Hang Thẩm Báng đã được xếp hạng di tích và là một điểm tham quan của du khách. Đây là hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn nguyên vẹn. Lòng hang rộng và sâu, cao gần 100m, có nhiều ngách.
Hang Thẩm Báng
Thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Hang Thẩm Báng đã được xếp hạng di tích và là một điểm tham quan của du khách. Đây là hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn nguyên vẹn. Lòng hang rộng và sâu, cao gần 100m, có nhiều ngách.
Giữa  hang có phiến đá to bằng phẳng như mặt                        bàn. Nhìn  lên các vách, trần đá, nhiều măng đá, nhũ đá tạo                         thành những hình thù những con rồng, con phượng, sư tử,                         voi quì hoặc những đoá phong lan tuyệt đẹp.
Hang  Thẩm Báng không chỉ là một hang đá đẹp                        mà tại  đây, nhân dân địa phương đã phát hiện một số loại                         rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một số mẩu xương động                         vật hoá thạch.Không chỉ là một cứ điểm lịch sử mà còn là                         nơi có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và xinh đẹp. Điện  Biên                        Phủ là điểm đến lí tưởng cho những bạn muốn  tìm hiểu về                        lịch sử dân tộc cũng như thăm thú  cảnh đẹp của núi rừng                        Tây Bắc.
Hầm bộ chỉ huy quân đội Pháp - Tướng De Castries
Sáng ngày thứ 3, dùng điểm tâm    tại khách sạn. Chúng tôi khởi hành đi tham quan cửa khẩu Tây Trang -    cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và Lào. Trở lại TP Điện Biên,    dùng bữa trưa tại nhà hàng.
Chiều: Chúng tôi    khởi hành đi Lai Châu theo quốc lộ 4D dọc theo sông Nậm Na. 
Chúng tôi thăm    quan cửa khẩu Ma Lu Thàng, tiếp tục khởi hành về TX Lai Châu,    dùng bữa tối tại nhà hàng. Chúng tôi nghỉ đêm tại khách sạn.(TX Lai Châu mới).
Sáng ngày thứ 4, dùng điểm tâm tại khách sạn. Chúng tôi  trả phòng, khởi hành đi Tuyên Quang, qua    Than Uyên, thăm Mù Cang Chải, ăn trưa tại thị trấn Tú Lệ.
Một nhà thờ ở thị xã Nghĩa Lộ
Những người dân hiền lành, chất phác cùng những vũ khí thô sơ xung trận
Mô hình bộ đội ta hò kéo pháo, những chiếc xe thồ chở lương thực lên Điện Biên
Lá cờ quyến chiến, quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castries ngày 07/5
Chiếc xe tăng trên đồi A1 được một tiểu đội lính Mỹ lắp ráp tại chiến trận cứ 3 ngày xong một chiếc
Đỉnh đồi A1
Hầm chỉ huy tướng đờ cát Trước đền thờ các anh hùng liệt sĩ
Từ trên tượng đài chiến thắng nhìn xuống Thành phố Điện Biên
Tượng đài hò kéo pháo Trên đường đi vào thăm trung tâm chỉ huy
(chỉ đúc bằng xi măng vừa đỡ tốn và... kém). của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
Tram gác (Đường vào bộ chỉ huy) Lán ngủ Trạm giao liên
Giường ngủ của Đại Tướng Đường hầm, trung tâm chỉ huy
Nhà tác chiến
Sáng ngày thứ 5, dùng    điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi  trả phòng, khởi hành đi khu di tích lịch    sử Tân Trào (ATK) -   thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi mà Đảng    Cộng Sản Đông Dương   tiến hành hội nghị toàn quốc (13/08/1945) đến Tân    Trào, chúng tôi  vào thăm  quan Bảo tàng Tân Trào và nghe giới thiệu về khu     di tích lịch  sử Tân Trào (ATK) thăm quan Đình Tân Trào, Đình Hồng  Thái,    Cây Đa  Tân Trào, lán Là Nừa, ăn trưa tại thị trấn Hàm Yên.
Chiều: Tiếp    tục hành trình đi Mèo Vạc, chúng tôi khởi hành theo đường 4C đi Mèo Vạc - “Cổng    Trời”,   với độ cao khoảng 1.000m so với mặt biển, địa hình chập chùng    núi   rất khó khăn trong việc đi lại nhưng với phong cảnh thiên nhiên hùng      vĩ đã tạo cho huyện vùng cao biên giới này một sức hút kỳ lạ đối với du      khách. Đến Mèo Vạc, chúng tôi thăm chợ Mèo Vạc. 
Sau đó, chúng tôi tiếp tục khởi hành đi  Đồng Văn. Từ  thị xã Hà Giang, qua những con đèo cao ngất tới Quản Bạ,    rồi Yên  Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Phong cảnh vừa hùng vĩ vừa trữ tình dần  hiện  ra ngoài cửa xe như trong một bộ phim du lịch khám phá. Lãng  mạn hơn cả là chặng đường Tuyên Quang  đến thị xã Hà  Giang cặp theo  dòng sông Lô, dòng sông đã đi vào nhạc phẩm  nổi tiếng  của Văn Cao, và  những dãy núi đá vôi trùng điệp. Đầu  xuân,  những vườn mận, vườn đào hoa nở trắng xoá hoặc hồng rực. Đầu hè,  những  triền ngô(bắp) xanh nõn bám trên các sườn núi đá. Trễ hơn chút  nữa, mùa lúa  duy nhất trong năm bắt đầu, từ trên những sườn núi cao  nhìn xuống thung  sâu, thấp thoáng các khu ruộng bậc thang loáng nước, ở  đó, người H'Mông  đang hối hả cày cấy... Trong không gian như mơ như  thực ấy, không  khi nào thiếu những vạt cải hoa vàng rực rỡ. Và thật thú  vị, đó chính  là món ngon đầu tiên được ăn khi lần đầu tiên đến  với  vùng cao nguyên đá Hà Giang. Cải ngồng Hà Giang rất lạ, cọng mũm  mĩm  như đọt măng tây, điểm những chấm hoa vàng tươi rói cả khi còn tươi  lẫn  khi đã luộc chín. Ngọt, chắc, bùi là những cảm giác rõ mồn một khi   thưởng thức món ngồng cải luộc rất bình dân nhưng cực kỳ khoái khẩu với   người miền xuôi vốn thèm rau sạch khi đến Hà Giang!   Thắng cố và rượu ngô là 2 món phổ biến nhất ở vùng này.
Ấn   tượng nhất là cung đường lên cao nguyên Đồng Văn, một bên vách núi    dựng đứng còn bên kia là vực sâu và con lộ phía trước tưởng chừng hút    thẳng lên trời cao. Một điểm đến hấp dẫn trong hành trình Đông - Tây Bắc    mà nhiều du khách mong đợi được đặt chân đến chính là điểm cực bắc   Việt  Nam trên đỉnh Lũng Cú. Nơi đây từng được ví là “nóc nhà Việt Nam”,   nơi  mà người dân đất Việt nào cũng đều mơ ước một lần thưởng lãm.
Sau quãng đường dài với những thử thách ấy, chúng tôi được đền bù xứng đáng vì phong cảnh hoang sơ, hùng vỹ trải dọc các danh thắng cổng trời Quản Bạ, núi Đôi, dinh thự vua Mèo, đèo Mã Pí Lèng, những làng mạc của người dân tộc H’Mông trắng, Lô Lô, Dao đỏ... cứ vụt qua ô cửa sổ xe trên từng cây số xe chạy qua.
Khí hậu quanh năm mát mẻ của núi cao, nhất là vùng "lõi của cao nguyên đá" là hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc khiến nơi đây trồng được những loại rau, đậu rất ngon và lạ. Trái "dưa mèo" mũm mĩm như chú chuột bạch cỡ lớn, đậu Hà Lan xanh mượt, giòn và ngọt lạ lùng. Dẫu không nổi tiếng như ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Mường Thanh (Điện Biên), lúa gạo trồng trong những thung lũng lọt giữa ngút ngàn núi đá ở Đồng Văn, Quản Bạ vẫn làm nên những nồi cơm ngon nhất. Cơm gạo mới ở Đồng Văn, Mèo Vạc luôn nấu bằng nồi nhôm đúc và vùi trong than củi nên thơm dẻo khác hẳn cơm nấu trong nồi điện dưới xuôi.
Thường  thì muốn đi hết một vòng bốn huyện  miền núi cao, du khách phải nghỉ  lại Hà Giang sau khi vượt qua 320km  đường xe từ Hà Nội. Sáng hôm sau,  lại đi trên những con đường chênh vênh  trên sườn núi cao ngất. Đi theo  hành trình ấy, ăn trưa tại thị trấn  Yên Minh là hợp lý. Chặng về cũng  vậy, khởi hành từ Đồng Văn hoặc Mèo  Vạc vào buổi sáng thì tầm trưa cũng  lại đi qua "cửa ải" Yên Minh. Thị  trấn cửa ngõ của hai huyện Đồng Văn,  Mèo Vạc có hai quán ăn nhỏ nằm bên  chợ huyện Yên Minh đã sẵn sàng đón  khách. Món ăn ở đây khá "độc". Ngồng  cải luộc vừa ngọt vừa bùi, bó ngô  non nhồi thịt thơm phức, tôm suối xào  lá chanh giòn tan. Đặc biệt vào  mùa lạnh, món lạp xường và thịt xông  khói trở thành đặc sản. Quy trình  làm lạp xường nhiều người đã biết,  thịt băm nhỏ trộn gia vị nhồi vào  ruột heo non và nướng trên than hồng  cho chín rồi trên trên gác bếp.  Thịt xông khói được làm theo cách khác.  Thịt mông, vai, ba chỉ của con  lợn cắp nách xẻ thành miếng dài đem ướp  muối chừng một tuần rồi đem  treo lên gác bếp. Đem làm món, vị mặn của  muối quyện với chất béo của  mỡ khiến người mới ăn không biết đằng nào mà  lần!
Lõi của vùng cao cực Bắc là thị trấn Đồng Văn. Thủ phủ của cao nguyên đá khiến ta nao lòng bởi vẻ đẹp u hoài của khu phố cổ bên ba dãy chợ mà người Pháp khi xâm chiếm Đồng Văn đã xây từ những năm 30 của thế kỷ trước. Vào các buổi sáng chủ nhật, dưới những mái ngói thâm nâu ấy là cả một thế giới kỳ lạ của ẩm thực! Rượu ngô người Mông 8.000 đồng/ lít, uống say tràn cung mây. Một dãy nhà ngang của chợ được dành riêng cho hàng ăn uống với rất nhiều quán phở thịt lợn. Trước dãy nhà này, xôi bảy màu của người Tày xếp thành dãy. Xế vào phía uỷ ban huyện Đồng Văn là những phản thịt lợn và kế bên là các lò thắng cố thơm phức vị thảo quả lẫn với mùi khói gỗ nghiến hệt mùi gỗ pơ mu.
Nếu đã một lần đến cao nguyên đá, bạn hãy cố tìm để được ăn món "gà mèo", một giống gà đặc biệt chỉ có ở vùng cao núi đá này và xứng đáng được liệt vào hàng đặc sản. Con gà mèo không khác gì gà thường nhưng chân đen, mặt đen, mào đen, da đen, thịt đen và xương cũng đen nốt. Luộc, rang và nấu canh gừng là cách người vùng cao nguyên đá "ứng xử" với gà mèo. Thịt gà mèo rất lạ: không béo, không nát, chắc mà không dai, nạc mà không xác. Tóm lại, nếu một lần đã được xơi món thịt gà đen như bánh gai ấy, thì một ngày đẹp trời nào đó, ta sẽ lại khao khát được leo cao nguyên đá lần thứ hai, rồi lần thứ ba!
Sau quãng đường dài với những thử thách ấy, chúng tôi được đền bù xứng đáng vì phong cảnh hoang sơ, hùng vỹ trải dọc các danh thắng cổng trời Quản Bạ, núi Đôi, dinh thự vua Mèo, đèo Mã Pí Lèng, những làng mạc của người dân tộc H’Mông trắng, Lô Lô, Dao đỏ... cứ vụt qua ô cửa sổ xe trên từng cây số xe chạy qua.
Khí hậu quanh năm mát mẻ của núi cao, nhất là vùng "lõi của cao nguyên đá" là hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc khiến nơi đây trồng được những loại rau, đậu rất ngon và lạ. Trái "dưa mèo" mũm mĩm như chú chuột bạch cỡ lớn, đậu Hà Lan xanh mượt, giòn và ngọt lạ lùng. Dẫu không nổi tiếng như ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Mường Thanh (Điện Biên), lúa gạo trồng trong những thung lũng lọt giữa ngút ngàn núi đá ở Đồng Văn, Quản Bạ vẫn làm nên những nồi cơm ngon nhất. Cơm gạo mới ở Đồng Văn, Mèo Vạc luôn nấu bằng nồi nhôm đúc và vùi trong than củi nên thơm dẻo khác hẳn cơm nấu trong nồi điện dưới xuôi.
Lõi của vùng cao cực Bắc là thị trấn Đồng Văn. Thủ phủ của cao nguyên đá khiến ta nao lòng bởi vẻ đẹp u hoài của khu phố cổ bên ba dãy chợ mà người Pháp khi xâm chiếm Đồng Văn đã xây từ những năm 30 của thế kỷ trước. Vào các buổi sáng chủ nhật, dưới những mái ngói thâm nâu ấy là cả một thế giới kỳ lạ của ẩm thực! Rượu ngô người Mông 8.000 đồng/ lít, uống say tràn cung mây. Một dãy nhà ngang của chợ được dành riêng cho hàng ăn uống với rất nhiều quán phở thịt lợn. Trước dãy nhà này, xôi bảy màu của người Tày xếp thành dãy. Xế vào phía uỷ ban huyện Đồng Văn là những phản thịt lợn và kế bên là các lò thắng cố thơm phức vị thảo quả lẫn với mùi khói gỗ nghiến hệt mùi gỗ pơ mu.
Nếu đã một lần đến cao nguyên đá, bạn hãy cố tìm để được ăn món "gà mèo", một giống gà đặc biệt chỉ có ở vùng cao núi đá này và xứng đáng được liệt vào hàng đặc sản. Con gà mèo không khác gì gà thường nhưng chân đen, mặt đen, mào đen, da đen, thịt đen và xương cũng đen nốt. Luộc, rang và nấu canh gừng là cách người vùng cao nguyên đá "ứng xử" với gà mèo. Thịt gà mèo rất lạ: không béo, không nát, chắc mà không dai, nạc mà không xác. Tóm lại, nếu một lần đã được xơi món thịt gà đen như bánh gai ấy, thì một ngày đẹp trời nào đó, ta sẽ lại khao khát được leo cao nguyên đá lần thứ hai, rồi lần thứ ba!
Tới đây chúng tôi  không chỉ được thoả sức ngắm nhìn trời  đất mà còn được    tham quan một điểm du lịch lý thú đó là dinh họ Vương  thuộc địa phận    xã Sà Phìn - đây là một công trình kiến trúc đẹp hiếm  có và rất độc đáo    của vùng cao nguyên Núi Đá. 
Về  địa thế, Hà Giang có 8 huyện, một  thị xã thì 2 huyện phía Tây bắc là  vùng cao núi đất và 4 huyện phía Đông  bắc là vùng cao núi đá. Năm 2010  tổ chức unesco - Liên hiệp quốc đã  công nhận vùng cao nguyên núi đá này  là công viên địa chất Quốc gia và  Quốc tế. Đây là công viên đá thứ 69  trong các công viên địa chất toàn  cầu và thứ hai trong vùng Đông Nam Á.  
| Ngày 03/10/2010, Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang được công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. Cao nguyên này có diện tích 2.350 km2, gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, độ cao trung bình 1.400-1.600 m, nơi tập trung nhiều loại hình di sản, nổi bật là di sản địa chất và di sản văn hóa. Ảnh: Thanh Hà. | 
Khu  vực phía Đông bắc Hà Giang gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn,   Mèo Vạc được gọi một tên chung là cao nguyên Đồng Văn. Ở đây, đá chiếm   đến 3/4 đất đai; người, vật, cây cối, sông suối bám vào đá để tồn tại,   sinh sôi phát triển. Toàn bộ cao nguyên là di sản đa dạng địa chất, đa   dạng cổ sinh địa tầng có ý nghĩa quốc gia và quốc tế thuộc các lĩnh vực   lịch sử tiến hoá của vỏ trái đất. 
  
| Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng. | 
Rời khỏi thị xã là tiếp cận ngay với thế giới huyền bí của đá và mây trời. Con đường độc đạo từ thị xã qua các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc khi len lỏi giữa những rừng đá lởm chởm, lúc men theo những vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm; có đoạn lại vượt qua những ngọn đèo cao vút, quanh năm mây phủ dày đặc, dân địa phương gọi đó là cổng trời. Thế giới đá ấy đã hình thành mấy trăm triệu năm trước, trải qua quá trình phong hoá thầm lặng và dữ dội đã tạo thành những khu vườn đá với nhiều hình thù kỳ dị, đặc biệt, hấp dẫn. Đó đây, trong các thung lũng hẹp, lớp lớp các khối đá to nhỏ xếp gối lên nhau giống như những đàn gấu đen bóng, tựa vào nhau đang nằm nghỉ ngơi. Các dãy núi có hình dạng kim tự tháp nối tiếp nhau chạy dài từ nam lên bắc, đỉnh nhọn cao ngất ngưỡng, sườn dốc lởm chởm đá tai mèo. Khắp vùng Đồng Văn, Mèo Vạc lại có những chóp đá, tháp đá có hình dạng ngộ nghĩnh như những nụ hoa, bông hoa hoặc kiểu rồng cuộn, hổ ngồi… sự cấu tạo đa dạng này đã làm cho cảnh quan toàn miền cao nguyên không buồn tẻ, hiu quạnh như các khu vực chỉ thuần đá vôi cổ. Vùng này trước kia trồng nha phiến và buôn ma túy nổi tiếng; nay là vùng định cư của các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã trồng rất nhiều đào, mận tam hoa(nectarine), v.v... Ai đến Đồng Văn cũng háo hức chinh phục độ cao của đỉnh núi Rồng – Nơi có cột cờ cao 17m treo quốc Kỳ Việt Nam đánh dấu vùng lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.Sau đó chúng tôi kéo đến cổng trời Quản Bạ, dừng chân ngắm cảnh Cổng Trời Quản Bạ, ngắm Núi Đôi rồi mới khởi hành đi Lũng Cú.
11h30 trưa, chúng tôi đến thị trấn Đồng Văn ăn trưa.
13h30: chúng tôi  lên xe đi tham quan Lũng Cú - Mảnh đất Cực bắc của Việt Nam.
14h30: chúng tôi  tham quan Cột Cờ trên đỉnh núi Rồng – di tích đánh dấu vùng lãnh thổ Việt Nam.
15h30: chúng tôi  tiếp tục chuyến hành trình với Dinh Họ Vương - một kiếm trúc cổ kính độc đáo của xãXà Phìn huyện Đồng Văn. Sau đó chúng tôi  lên xe về thị trấn Đồng Văn ăn tối. Nghỉ đêm tại khách sạn Huy Hoàng.
Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục tham quan Động Tiên - Một thắng cảnh đẹp của Hà Giang. Đến Động tiên, chúng tôi chụp ảnh, có thể ngâm mình trong làn nước trong lành của dòng suối tiên - Tương truyền là nơi xưa kia các tiên nữ thường xuyên xuống tắm tại đây.
Bên  cạnh những vách đá màu xám trắng lại xen kẽ những dãy đồi đá phiến   thoai thoải bao phủ một lớp cỏ mượt mà màu xanh lá mạ, khi nắng chiều   rải xuống, màn cỏ ánh lên một màu vàng vàng, tim tím cực kỳ huyền ảo.   Sông suối chảy qua cao nguyên cũng khá kỳ dị, bí ẩn. Những dòng nước   trắng xoá, trong veo đang réo ầm ầm bên chân núi bỗng nhiên mất hút   trong lòng núi đá rồi lại hiện ra dưới các hẻm vực vừa dài vừa rộng như   một lát dao sắc ngọt xẻ đôi khối núi đồ sộ. Sự đa dạng, phong phú về   sinh học của cao nguyên cũng hết sức độc đáo. Xen lẫn giữa những khối   núi đá hùng vĩ là các khoảnh rừng nguyên sinh còn tương đối nguyên vẹn   với nhiều loại gỗ, lâm sản, dược liệu quý hiếm như: nghiến, thông đá,   tùng bách, dẻ, thảo quả, hương nhu, đỗ trọng, nấm hương, các loài phong   lan v.v… Cao nguyên đá cũng là môi trường thân thiện của trên 50 loài   thú, bò sát, chim muông như: sơn dương, gấu, vọc, khỉ, hoẵng, heo rừng,   cầy hương, kỳ đà, trăn, gà rừng, trĩ, đại bàng, hoạ mi v.v… Hai loại  cây được xem là những cây đặc trưng của vùng cao nguyên đá, gồm đào phai  và mận tam hoa, sẽ được trồng dọc tuyến đường vào các điểm du lịch,  điểm dừng chân, danh lam thắng cảnh, làng văn hóa du lịch cộng đồng,  xung quanh trường học, trụ sở cơ quan, quanh các hồ chứa nước sinh hoạt.   Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục tham quan Động Tiên - Một thắng cảnh đẹp của Hà Giang. Đến Động tiên, chúng tôi chụp ảnh, có thể ngâm mình trong làn nước trong lành của dòng suối tiên - Tương truyền là nơi xưa kia các tiên nữ thường xuyên xuống tắm tại đây.
Cùng với những giá trị đặc hữu về địa chất, địa mạo, sinh học, cảnh quan… cao nguyên đá Đồng Văn còn ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá truyền thống đẹp đẽ của 22 dân tộc anh em cư trú nơi đây. Từ bao đời nay bà con các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã sáng tạo ra cách sản xuất, cách sống, ăn, ở… riêng biệt để thích nghi với môi trường thiên nhiên.
Những khoảnh đất trong các thung lũng giữa trùng vây đá núi được kết cấu thành những mảnh ruộng bậc thang; tận dụng các hốc đá tai mèo, bà con đã gùi đất lên bỏ vào từng hốc để gieo ngô, đậu. Vào mùa hè, mùa mưa ở cao nguyên, lúa, ngô, đậu, lanh, tam thất, hương nhu… trên nương rẫy, hốc đá vách núi tốt tươi xanh mướt hoà lẫn trong hương thơm ngào ngạt của hoa dại và cỏ mật. Nhà cửa, bờ rào vườn tược, chuồng gia súc đều xây dựng bằng đá. Nghệ thuật kiến trúc đá đã đạt mức độ tinh xảo.
Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc dân gian dân tộc ấy là dinh thự họ Vương ở Sà phìn, cách thị trấn Đồng Văn khoảng 10 cây số. Đây là dinh thự của Thổ ty Vương ChínhĐức. Đầu thế kỷ thứ 20, khi chấp chính ngôi vị Thổ ty - một chức quan cai trị Đồng Văn, Vương Chính Đức triệu thợ giỏi các tộc người Mông, Lô Lô, Phù Lá… các địa phương trong vùng về xây dựng dinh thự. Toàn bộ 10 ngôi nhà ngang, dọc rộng hơn 1200m2, các dãy nhà phụ, tường rào bao quanh đều xây bằng đá. Từng chi tiết xây cất, đẽo gọt đá, gỗ ván đã thể hiện sự khéo léo, tinh tế, đặc sắc của tay nghề những người thợ dân gian bản địa.
Thời Pháp thuộc, Vương Chính Đức đã giành được quyền tự trị đất Đồng Văn. Người kế nhiệm Vương Chí Thành đã ngăn giữ không cho người Nhật xâm nhập vào Đông Văn. Cách mạng tháng 8 thành công, Vương Chí Thành giao đất Đồng Văn cho chính quyền cách mạng quản lý. Bác Hồ kết nghĩa huynh đệ với Vương Chí Thành, những năm 60 thế kỷ trước ông được Bác Hồ mời về sống ở Hà Nội để có điều kiện chăm sóc sức khoẻ tuổi già.
Điểm cực Bắc của Tổ quốc và cũng là trung tâm của cao nguyên đá là thị trấn Đồng Văn. Nơi đây là xứ sở độc đáo về khí hậu và địa hình “Đất rộng mênh mông nhưng không được bao nhiêu thước bằng phẳng - Trời quanh năm không được vài ngày nắng”. Khu phố cổ Đồng Văn được hình thành từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 19. Tuy thời điểm xây dựng không đồng nhất nhưng cung cách kiến trúc đều có nét khá tương đồng: nhà hai tầng, tường đá xanh, khung nhà gỗ không có mộng thắt, không chạm trổ cầu kỳ, mái lợp ngói âm dương… Hiện nay còn lưu giữ 20 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm. Dinh thự họ Vương và khu phố cổ Đồng Văn đã được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Phố thị Đồng Văn còn là nơi tiêu biểu của những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ở cao nguyên.
Những ngày hội dân gian, các ngày phiên chợ hàng tháng, người người từ các bản làng gần xa tụ hội về đông vui tấp nập, màu sắc trang phục sặc sỡ, đẹp mắt; cả không gian tràn ngập tiếng cười nói, lời ca ngọt ngào, âm thanh đàn, khèn, sáo du dương, quyến rũ. Người lớn tuổi, thanh niên không phân biệt nam nữ gặp nhau trong các hàng quán bình dân, tuỳ lứa tuổi và sức khoẻ, họ mời nhau chén rượu ngô thơm nồng, bát thắng cố béo ngậy, bát cháo ẩu tẩu vừa có vị đăng đắng lại ngòn ngọt… những món ẩm thực đặc sản, ai được thưởng thức một lần là nhớ mãi….
Từ thị trấn Đồng Văn ngược thẳng về phía Bắc khoảng 20 cây số là xã Lủng Cú, mỏm địa đầu của đất nước, nhìn lên bản đồ Việt Nam, cái chóp nhô cao như một mũi mác, chính là đất Lủng Cú. Những ngọn núi xếp lớp đơn nguyên nơi đây là điển hình của loại đá trầm tích, loại đá cổ nhất của trái đất. Lũng Cú ở độ cao gần 1800 mét. Đứng giữa xứ sở này, ta có cảm giác như đang sống bồng bềnh giữa mây ngàn gió núi; mây trắng bời bời phủ che trên đầu, trôi lững lờ dưới chân, bao quanh lẩn quất bên mình.
Tại thôn Séo Lũng, cách trung tâm xã gần 5 cây số có ngọn núi Rồng, cột cờ Tổ quốc dựng trên đỉnh núi, sát cột mốc số 17 biên giới Việt - Trung. Tên núi Rồng đã có từ lâu đời, do đồng bào địa phương đặt. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên núi nơi địa đầu Tổ quốc với dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng với diện tích 54 mét vuông - tượng trưng cho 54 dân tộc anh em ngày ngày kiêu hãnh tung bay giữa trời xanh, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ta. Bao thế hệ qua, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, mọi áp lực, những người dân thuộc hai dân tộc kiên cường Mông, Lô Lô ở Lũng Cú đã không tiếc mồ hôi, xương máu để bảo vệ quốc kỳ, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng. Lớp lớp người dân Lũng Cú xứng đáng với niềm tin, sự kính phục của nhân dân cả nước.
Phía tả đèo, một thung lũng hẹp hun hút dưới sâu với đôi ba chục nóc nhà nhỏ tựa lưng vào dãy núi đá vời vợi, một ngôi làng quá heo hút nhưng lại được khá nhiều người không chỉ Hà Giang biết đến, bởi hàng năm ở đây diễn ra một phiên chợ đặc biệt: chợ tình khau vai, mỗi năm chỉ họp một lần vào cuối mùa xuân. Gọi chợ tình là theo nghĩa thông tục, chứ ở đây, người về chợ là để giao lưu tình cảm, tình yêu đôi lứa, không hề có chuyện mua bán hiện đại. Chợ tình khau vai hay gọi đúng hơn ngày hội tình yêu - tình bạn là một trong những nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng của các dân tộc Đồng Văn.
Cho đến nay, cảnh vật, con người trên cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang vẫn giữ được khá đậm đà những nét hoang sơ, kỳ vĩ, tinh khiết có sức lôi cuốn đối với du khách trong và ngoài nước.
dinh họ Vương  thuộc địa phận    xã Sà Phìn 
  Trong tour du lịch về  miền đá Đồng Văn, Lũng Cú, không ai muốn bỏ qua  cơ hội thăm di tích nhà  họ Vương, một dinh thự cổ ngủ vùi giữa thung  lũng sa mộc, hội tụ nhiều  giá trị kiến trúc Trung Hoa và người Mèo Hà  Giang. Người ta vẫn gọi đây  là dinh vua Mèo.
Mái ngói âm dương phân lớp theo kiến trúc cổ  | 
Dinh   vua Mèo ở huyện Đồng Văn, cách Hà Nội chừng 500km, sau khi vượt qua   những chặng đường men theo sườn núi, ngoằn ngoèo như những sợi chỉ, vượt   qua Cổng trời Quản Bạ. Nơi đây, một thời, ông Vương Chính Đức đóng  Cổng  trời lại, xưng vương. Miền đá tỉnh Hà Giang hiếm có một ngôi nhà  có  kiến trúc độc đáo thế này. Mấy chục năm qua, những ai lên đến Hà  Giang  thường không bỏ qua di tích này.
Nhà   họ Vương nằm nép mình dưới tán rừng cây sa mộc cổ thụ, cao vút. Những   phần nhà xuống cấp đã được phục hồi nguyên trạng. Toàn bộ hệ thống  tường  thành được xếp bằng đá nhẵn thín với phiến đá to, chẳng cần vôi  vữa mà  vẫn vững chắc. Nhà được bố trí theo kiểu cung điện Trung Hoa,  được phân  ra nhiều khu: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, nhà kho, phòng  của vợ ông  Vương Chính Đức, hay nhà thờ. Trước cổng của ngôi nhà là  ngôi mộ bằng  đá chạm khắc tinh vi, là mẹ ông Vương Chí Sình, đại biểu  Quốc hội các  khoá I, II, III. Nơi đây còn lưu giữ một số hình ảnh về  ông vua mèo oai  phong lẫm liệt. Qua cổng chính là đến ba, bốn lần cổng  nhỏ. Dọc hai bên  hành lang của dãy nhà cao nhất là dãy nhà ngang, nhà  dọc, bố trí từ thấp  lên cao (theo lối kiến trúc Trung Hoa), phần trên  là ảnh thờ ông Đức  phóng to khi còn làm bang tá. Có cầu thang đi lên  khu pháo đài, lỗ châu  mai, có kè đá tảng. Các hạng mục chủ yếu được  phục dựng bằng gỗ và đá.  Một số đồ dùng xưa như tủ quần áo, lò sưởi của  gia đình họ Vương vẫn  được lưu giữ như những tín vật.
chợ    Đồng VănSáng ngày thứ 6, chúng tôi dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi  trả phòng, khởi hành đi thăm quan chợ    Đồng Văn. Sau đó, chúng tôi khởi hành đi thăm Lũng Cú điểm cực Bắc địa đầu    tổ Quốc, chúng tôi thăm quan và chụp ảnh lưu niệm tại cột mốc cực Bắc địa đầu tổ    Quốc. Ăn trưa tại thị trấn Yên Minh, sau đó chúng tôi tiếp tục khởi hành về    thị xã Hà Giang nhận phòng, ăn tối. Nghỉ đêm tại Hà Giang.
Sáng ngày thứ 7, dùng điểm tâm tại khách sạn, khởi hành theo quốc lộ 2 qua Chiêm Hoá    và đường 279. Đoàn dùng bữa trưa tại nhà hàng.
Chiêm Hoá    và đường 279
Chiều: Tới Ba    Bể chúng tôi đi thuyền tham quan dọc theo Hồ 1, Hồ 2 và Hồ 3 tham quan động    Puông bí ẩn, thác Đầu Đẳng kỳ vĩ, thăm Ao Tiên, đảo Bà Goá. Thích nhất là đi du thuyền  thăm hồ Ba Bể, hồ Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng rồi đi thăm đảo An  Mã, thác Đầu Đẳng, Ao Tiên trước khi dùng bữa tối & nghỉ đêm tại Ba Bể.
Sáng ngày thứ 8, dùng điểm tâm tại khách sạn, trả phòng, khởi hành đi Cao Bằng theo quốc lộ    3. Qua 250km, chúng tôi  tới Cao Bằng
TX Cao Bằng
Chiều: Đi    thăm khu du lịch thác Bản Giốc   - một trong những thác nước đẹp    nhất Việt Nam nằm ở địa phận xã Đàm   Thuỷ, huyện Trùng Khánh, từ độ cao    trên 30m những khối nước lớn đổ   xuống qua nhiều bậc đá vôi làm tung lên    vô vàn hạt bụi trắng toả mờ   cả một vùng rộng lớn. Thác  Bản Giốc là  thác đẹp thuộc hàng đệ nhất danh thác Việt Nam. Thác Bản  Giốc nằm trên  biên giới VN và Trung Quốc, thuộc xã Đàm Thủy, huyện  Trùng Khánh, cách  thị xã Cao Bằng 89 km, theo tỉnh lộ 206 về phía  bắc.Điều thú vị trong chặng đường gần 400 km từ Hà Nội lên tới thác Bản   Giốc, là du khách có thể tha hồ ngắm cảnh đẹp. Qua cửa kính xe ô tô,  núi  rừng hùng vĩ xen kẽ trùng trùng điệp điệp nối vào nhau. Những cánh  đồng  ngát xanh, vạt hoa dại bên đường, nếp nhà yên bình nép mình bên  núi,  bầy trâu lọt thỏm giữa cánh đồng làm nao lòng du khách. Thác  Bản Giốc nằm trong dòng chảy sông Quây Sơn, bắt nguồn từ Trung  Quốc,  chảy qua biên giới hai nước VN và Trung Quốc, uốn lượn quanh chân  núi  Cô Muông, qua những cánh đồng thuộc địa phận Đàm Thủy. Gần cuối dòng   chảy, dòng sông Quây Sơn đổ từ độ cao hơn 30 mét xuống dưới chân núi   tạo thành dòng thác hùng vĩ, sủi bọt trắng xóa. Thác Bản Giốc được chia   làm hai phần, phía nam là thác cao, phía bắc là thác thấp. Thác thấp là   thác chính, hùng vĩ hơn, tiệp mình vào núi rừng rộng lớn nay đã thuộc  TQ. Hôm chúng tôi  đến, nhìn từ xa, dòng nước chảy từ trên cao xuống tựa  những sợi tơ trắng  xóa đang nằm vắt vẻo uyển chuyển trên núi rừng  hoang sơ. Nước sủi tung  bọt, ầm vang. Ánh nắng hắt trên nước, lấp lánh   sáng. Vẻ đẹp, sự thuần  khiết, hùng vĩ hòa quyện vào nhau.
 Dòng  sông dưới chân thác khá phẳng lặng, có thể đi thuyền tham quan. Ở  đây  có dịch vụ chèo thuyền đưa khách tham quan toàn bộ thác Bản Giốc và   những cánh rừng, đồng ruộng bên bờ Quây Sơn. Cuối chiều, mặt trời   xuống, ngắm nhìn thác nước tuôn trào, cảm giác thật lạ. Gió biên cương   thổi lành lạnh, nhìn mặt sông xanh ngắt, lại ngước lên  nhìn dòng nước   tuôn trào, tựa như phun ra từ núi, đủ khiến niềm xúc cảm không tên trong   lòng trỗi dậy.      
 Ở  Bản Giốc, đến nay vẫn chưa phát triển dịch vụ ăn, ngủ  cho khách du  lịch. Vì vậy, chiều buông, chúng tôi phải lên xe về lại thị  trấn Trùng  Khánh tìm chỗ nghỉ ngơi. Nhưng không vì trở ngại nhỏ đó mà  du khách  phiền lòng. Bởi, chính sự hoang sơ nơi ngọn thác biên cương là  điều làm  người ta thấy thú vị.
TX Cao Bằng
Từ Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều nơi ở Cao Bằng, nhiều lần  sang Trung Quốc bắt liên lạc với các lực lượng cách mạng Việt Nam  và  đồng minh. Trong chuyến đi Trung Quốc ngày 13/08/1942, Quốc đã bị  chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến ngày 10/09/1943 mới  được trả tự do. Cuối tháng 09/1944, Quốc trở về Pác Bó tiếp tục chỉ đạo  cách mạng Việt Nam. Đầu tháng 12/1944, tại Nà Sác, Quốc  đã ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân -  tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam  ngày nay. Ngày 04/05/1945, Quốc rời  Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang)  để chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành  chính quyền trong cả nước. Ngày  20/02/1961, Hồ chí Minh về thăm lại Pác  Bó sau 20 năm xa cách.
Chiều:chúng tôi đi qua 150km về khu du lịch Hồ Núi Cốc.
Sáng ngày thứ 10, dùng điểm tâm tại khách sạn xong  rồi đi thuyền tham quan Hồ    Núi Cốc; ăn trưa xong, chúng tôi    khởi hành về Hà Nội.
Chiều: chúng tôi    về tới Hà Nội, rủ nhau đi thưởng  thức  ẩm thực phố cổ với bánh cốm Hàng Than, các  loại ô mai Hàng  Đường, mắm  tép chưng thịt Hàng Bè, bún chả Hàng  Mành, bún đậu mắm tôm  ngõ Phất Lộc, miến trộn  Lê Ngọc Hân, cháo sườn  Nhà Thờ, bánh cốm chấm  tinh dầu cà cuống ở Lương  Văn Can, bún ốc nguội Ô  Quan Chưởng, vịt om  sấu Quán Thánh, bánh tôm Hồ  Tây, phở cuốn hồ Trúc  Bạch...  Nghe thấy ham nhưng khác khẩu vị nên nói thật là tôi chịu thua, không thấy ngon gì hết !Ngủ 1 đêm ở Hà Nội, sáng hôm sau chúng tôi lại đi loanh quanh phố phường Hà Nội để đợi đến chiều thì ra ga Trần Quý Cáp đi Lào Cai - Sapa và Hà Khẩu(VK Mỹ không được qua cửa khẩu TQ nên sẽ ở lại bên này để shopping), chúng tôi ngủ luôn trên xe lửa.
Lào   Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội   296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà   Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên   Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới.  Cách  ngày nay hơn vạn năm, con  người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời  Hùng Vương dựng nước, vùng  đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong  15 bộ của Nhà nước Văn Lang  - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở  thượng nguồn sông Hồng. Đến  đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động  về địa danh... Đến đời  nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất  của châu Thuỷ Vỹ, châu  Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một  phần nhỏ thuộc châu Lục  Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa  danh Lào Cai chưa được  hình thành.
Vùng   đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta  mở  mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa   phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một   phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư Đào Duy   Anh, từ Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một thời gian   khá dài. Khi làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay. Danh từ   Lào Kay đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu. Nhưng   trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau ngày tỉnh   Lao Cai được giải phóng (11-1950), đã thống nhất gọi là Lào Cai cho  đến  ngày nay.
Sau   khi đánh chiếm Lào Cai (3 -1886) và khi hoàn thành công cuộc bình định   quân sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự.   Ngày 7/01/1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu   Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai. Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo   quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác bóc lột, thực   dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày   12/7/1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV   Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành   lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ   Việt Nam. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào   Cai cũng có nhiều thay đổi. Về địa đanh hành chính,qua nhiều lần tách   nhập:
-   Thành lập tỉnh dân sự Lào Cai (12/7/1907), phần đất của châu Thuỷ Vỹ   bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thuỷ   Vỹ. Từ đó địa danh Chiêu Tấn không còn. Phần đất của châu Thuỷ Vỹ bên  tả  ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai  gồm  hai châu Thuỷ Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ,  Bát  Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai, trong đó có 855 làng bản,  6.812  hộ, 39.099 nhân khẩu, với 11 dân tộc chủ yếu: Hmông, Dao, Tày,  Giáy...  trong đó người Hmông chiếm 26,56%, Dao 22,41%, Tày, Giáy  20,77%, Kinh  4,52%, Nùng 7,33%, Thái 9,25%, U Ní 2,48%, Hoa Kiều 4,44%,  còn lại là  các dân tộc khác.
-   Sau khi tỉnh Lào Cai được giải phóng lần thứ nhất, Lào Cai được chia   thành 8 huyện: Bắc Hà, Mường Khương, Bản Lầu, Bảo Thắng, Sa Pa, Bát Xát,   Phong Thổ và thị xã Lào Cai.
-   Ngày 7/5/1955, khu tự trị Thái Mèo được thành lập, huyện Phong Thổ của   tỉnh Lào Cai chuyển sang khu tự trị Thái Mèo, sau này thuộc tỉnh Lai   Châu.
-   Ngày 27/3/1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V đã nghị quyết hợp  nhất  ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng  Liên  Sơn.
-   Ngày 17/4/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định hợp nhất thị xã Lào   Cai và Cam Đường thành thị xã Lào Cai trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
-   Ngày 12/8/1991 kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết chia tỉnh   Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 10/10/1991 tỉnh   Lào Cai được tái lập, trên cơ sở vùng đất Lào Cai (cũ) và bổ sung thêm   ba huyện: Bảo Yên, Văn Bàn (thuộc Yên Bái cũ), Than Uyên (thuộc Nghĩa  Lộ  cũ) bao gồm 8 huyện, hai thị xã.
- Ngày 9/6/1992, Hội đồng Bộ trưởng quyết định tách thị xã Lào Cai thành hai thị xã Lào Cai và Cam Đường.
- Ngày 30/12/2000, huyện Bắc Hà được tách thành hai huyện Si Ma Cai và Bắc Hà.
-   Ngày 31/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định sáp nhập thị  xã  Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã tỉnh lỵ Lào Cai.
- Ngày 1/01/2004, huyện Than Uyên được tách ra thuộc tỉnh Lai Châu (mới).
-   Ngày 30/11/2004, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số   195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai.
Thắng   cố là một món ăn của dân tộc Mông. Thắng cố biến âm của tiếng Thoảng,   cố theo tiếng Mông có nghĩa là "nồi nước". Ngày xưa, người Mông nấu   thắng cố bằng thịt ngựa, cách nấu cũng rất đơn giản. Thịt được ướp với   muối, mỳ chính, thảo quả. Sau đó đổ thịt vào trong một cái chảo lớn, đảo   đều cho miếng thịt săn lại thì đổ nước vào.  
Bây  giờ, thắng cố thường không được nấu với thịt ngựa nữa mà chủ yếu là  thịt trâu, thịt bò, thịt dê, thịt heo, nhưng có lẽ ngon nhất vẫn là thịt  bò. Khi con vật được giết mổ, rửa sạch và để riêng từng bộ phận, lấy  xương chân và xương ống đem ninh đến khi nhừ thì cho thịt vào, miếng  thịt chín tái thì cho lòng, gan, tim, dạ dày vào.
Ta  có thể thấy niềm vui, sự đam mê, sự trân trọng cội nguồn của từng người  Mông khi nấu món thắng cố. Họ cẩn thận ướp gia vị cho từng miếng thịt  thơm đậm đà, múc từng muỗng bọt cho nồi nước thêm trong. Nồi thắng cố to  sôi lục bục nổi lên những tảng mỡ to màu vàng nhạt điểm xuyến bằng  những lá hành xanh ngắt, mùi thơm của thịt, của thảo quả, địa điềm quyện  lại khiến ta có cảm giác chìm đắm trong tinh hoa thiên nhiên của đất  trời ban tặng.
Vào quán gọi món  thắng cố, ít phút sau thắng cố được mang lên. Đó là một cái nồi lẩu, như  mọi cái nồi lẩu khác. Nước sôi sùng sục, bốc khói nghi ngút, chỉ cần  ngửi mùi thôi là cảm giác thèm ăn trỗi dậy.
Chai  rượu  được rót ra. Đây là rượu nấu bằng gạo, nhưng không phải là thứ  men như ở dưới xuôi. Nó trong vắt, thơm ngái một chất lá và được giới  thiệu là uống không bao giờ đau đầu.
Lượt  thứ nhất lách cách cụng, dốc ngược đáy chén.  Rồi những đôi đũa thay  nhau lật tìm trong nồi lẩu ăm ắp. Đây là miếng dạ dày, đây là miếng ruột  non, đây là miếng tiết, đây là miếng gan... Còn đây miếng cật, miếng  tim, miếng vai... Tất cả được thái nhỏ, vừa gắp. Đúng là có mùi là lạ,  đặc trưng, nhưng ăn được ngay, thấy ngon được ngay.  Lại thêm bát tương,  thìa gia vị, miếng chanh, lát ớt, đĩa rau thơm, rổ rau cải... Cái món  thắng cố xa lạ đã thành gần gũi. Rượu cứ thế rót ra nhộn nhịp, thôi thì  đủ lý do để dốc ngược chén cùng nhau. Uống rồi bắt tay, bắt tay thật  chặt. Người ta bảo uống rượu Tây Bắc là uống mỏi tay.  
Vào  một ngày đông lạnh giá còn gì thú vị hơn là ngồi ăn một tô thắng cố  nóng hổi, nhấm chén rượu ngô nóng, hàn huyên cùng bạn bè. Đây cũng là  một nét văn hoá rất điển hình trong phong cách sống của người Mông.
Du  khách đến Tây Bắc, lên những dãy núi hùng vĩ, ngồi bên hồ nước trong  vắt và trong những niềm vui giản dị đơn sơ là bát thắng cố và rượu ngô  nóng. Mùi thơm ấy, hương vị đậm đà quyến rũ ấy có lẽ sẽ không bao giờ  quên được, nó sẽ đọng lại trong mỗi người khách khi đặt chân lên vùng  đất đẹp và hiền hoà này.
Chiều: Chúng tôi chinh phục núi Hàm Rồng, tham quan Vườn Lan, Vườn Đào, Hòn Con Cóc, Sân Mây, Cổng trời, Vườn Đà Điểu’’. Ngắm toàn cảnh thị trấn Sapa từ độ cao 1700m.
Tối: May mắn là tối thứ bảy, chúng tôi đi chơi Chợ Tình Sapa và "giao lưu" với các đồng bào dân tộc: người Mông, người Dao. Thú thật là tôi hơi thất vọng vì thực tế hoàn toàn khác với điều mà tôi hằng ....tưởng tượng và mong đợi. Con gái người Mông, người Daongười Nùng, người Giấy,v.v... cũng không đẹp và cao như tôi nghĩ. Tôi cũng được nghe về Chợ Tình Khâu Vai và những chuyện tình đẹp như cổ tích của người Nùng, người Giấy, người Mông, người Dao... Thời kinh tế thị trường nên Sapa và các sắc tộc thiểu số hôm nay cũng thay đổi khá nhiều và không ít những điều không hay đã tràn vào khắp các ngõ ngách của từng bản làng, từng con người. Tôi cố tình săn lùng cảnh tắm tiên nhưng cuối cùng cũng thất vọng ra về mà không có 1 tấm ảnh nào để làm kỷ niệm.
Làng Cát Cát thuộc huyện Sa-Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa-Pa 2km.
Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống
Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống
Bản Cát Cát trong sương sớm
Làng Cát Cát có 100% đồng bào dân tộc Mông với nghề thủ công truyền thống là nghề chế tác đồ trang sức bằng bạc hay bằng đồng, nhôm. Sản phẩm chạm bạc ở Cát Cát rất phong phú, tinh xảo nhất là đồ trang sức của phụ nữ như: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn...
Trang sức bằng bạc hay bằng đồng, nhôm -
sản phẩm thủ công truyền thống của bản Cát Cát
Một điều hấp dẫn nữa của làng Cát Cát là người Mông ở đây còn giữ được khá nhiều phong tục tập quán độc đáo, chẳng hạn như tục kéo vợ hay các lễ hội được tổ chức vào các thời điểm đầu xuân hoặc tháng cuối hè và mùa thu. Tuy chỉ có quy mô nhỏ và diễn ra trong phạm vi của làngvới các nghi lễ cúng "thổ ty” - "thổ địa" – những vị thần được thờ là những người có công lập làng nhưng mang đậm nét sinh hoạt văn hoá cộng đồng độc đáo của dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam.
Tôi cũng có dịp tìm hiểu về các món ăn độc đáo của dân tộc Mông. Người Mông ở Cát Cát có rất nhiều món ăn với cách chế biến phong phú độc đáo: rượu ngô Mông, thắng cố, thịt hun khói "khăng gai", tiết canh gà, nhái nấu măng, bánh ngô, món đậu xị...
Chiều: chúng tôi đi mua sắm đồ lưu niệm tại chợ Sapa, khám phá thị trấn Sapa.
Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục đi chơi quanh thị trấn Sapa, tham gia phiên chợ vùng cao cùng đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc, mua sắm các mặt hàng lưu niệm tại chợ Sapa, ăn trưa tại nhà hàng địa phương trước khi làm thủ tục trả phòng và trở lại thành phố Lào Cai. Chúng tôi ghé ăn trưa và mua sắm tại Chợ Mậu Biên Cốc Lếu. Ăn tối tại nhà hàng thành phố Lào Cai trước khi đáp chuyến tàu về Hà Nội.
Đặc điểm
Ranh  giới địa lý phía tây của vùng Đông Bắc còn chưa rõ ràng. Chủ yếu  do  chưa có sự nhất trí giữa các nhà địa lý học Việt Nam về ranh giới  giữa  vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc nên là sông Hồng, hay nên là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Vùng Đông Bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt-Trung. Phía đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ. Phía nam giới hạn bởi dãy núi Tam Đảo và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Đây  là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá vôi hoặc  núi  đất. Phần phía tây, được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng và  thượng  nguồn sông Chảy, cao hơn, được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và  các  cao nguyên đá vôi. Thực chất, đây là rìa của cao nguyên Vân Nam.  Những  đỉnh núi cao của vùng Đông Bắc đều tập trung ở đây, như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti.
Hồ Ba Bể
Phần  phía bắc sát biên giới Việt-Trung là các cao nguyên (sơn nguyên)  lần  lượt từ tây sang đông gồm: cao nguyên Bắc Hà, cao nguyên Quản Bạ,  cao  nguyên Đồng Văn. Hai cao nguyên đầu có độ cao trung bình từ  1000-1200  m. Cao nguyên Đồng Văn cao 1600 m. Sông suối chảy qua cao  nguyên tạo ra  một số hẻm núi dài và sâu. Cũng có một số đồng bằng nhỏ hẹp, đó là Thất Khê, Lạng Sơn, Lộc Bình, Cao Bằng.
Fansipan
Phía đông, từ trung lưu sông Gâm trở ra biển, thấp hơn có nhiều dãy núi hình vòng cung quay lưng về hướng Đông lần lượt từ Đông sang Tây là vòng cung Sông Gâm, Ngân Sơn-Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều. Núi mọc cả trên biển, tạo thành cảnh quan Hạ Long nổi tiếng. Các dãy núi vòng cung này hầu như đều trụm đuôi lại ở Tam Đảo.
Phía  tây nam, từ Phú Thọ, nam Tuyên Quang, nam Yên Bái, và Thái  Nguyên,  thấp dần về phía đồng bằng. Người ta quen gọi phần này là "vùng  trung  du". Độ cao của phần này chừng 100-150 m.
Vùng Đông Bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng, v.v...
Vùng biển Đông Bắc có nhiều đảo lớn nhỏ, chiếm gần 2/3 số lượng đảo biển của Việt Nam (kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Nhà thờ đá Sa Pa
Lịch sử
Cơ sở lục địa của miền Đông Bắc được hình thành từ liên đại Nguyên sinh cách đây gần 600 triệu năm. Biển tiến và thoái liên tục cho đến chu kỳ tạo núi Indochina   thì miền Đông Bắc thoát hẳn khỏi chế độ biển và bắt đầu chế độ lục  địa.  Vận động tạo núi Himalaya sau đó lan tới đây làm cho toàn miền  được  nâng lên và cũng đồng thời tạo ra những đứt gãy. Đất bị phơi trần  và  chịu tác động của nắng, mưa và gió nên không ngừng bị phân hủy trong  khi  các đỉnh núi bị san mòn bớt.
Khí hậu
Do  địa hình cao, ở phía Bắc, lại có nhiều dãy núi hình cánh cung mở  ra ở  phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, nên vào mùa Đông, vùng này có gió  Bắc  thổi mạnh, nên rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng,  Lạng  Sơn có thẻ có lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa tuyết thậm chí tuyết. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió. Nhà thơ Tố Hữu trong bài "Phá đường" từng nhắc đến cái rét ở đây: "Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế".
Phạm vi hành chính
  Các tiểu vùng miền Bắc
Về phạm vi hành chính, vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và Quảng Ninh. Đôi khi Lào Cai, Yên Bái vốn thuộc Vùng Tây Bắc cũng được xếp vào vùng này.
Sắc tộc và văn hóa
Nơi  đây nổi tiếng với những điệu múa khèn đặc trưng của dân tộc Mèo.  Nhiều  nhạc sĩ đã lấy cảm xúc từ vùng đất này để sáng tác nên nhiều bài  hát  rất hay như "Hà Giang quê hương tôi" và còn rất nhiều bài hát khác.
Kinh tế
Quân sự
Vùng Đông Bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng Đông Bắc do Quân khu 1 bảo vệ.
Quân  đoàn 2, còn gọi là Binh đoàn Hương Giang, được thành lập ngày 17  tháng  5 năm 1974 tại Thừa Thiên-Huế.Trụ sở : Thị trấn Vôi, huyện Lạng  Giang,  tỉnh Bắc Giang
Vùng Đông  Bắc có vai trò xung yếu trong an ninh quốc phòng. Trong  lịch sử Việt  Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm lược đã thâm nhập  vào vùng  này trước tiên. Nơi đây có các con đường được các nhà sử học  Việt Nam  gọi là con đường xâm lược,   đó là đường bộ qua Lạng Sơn, đường bộ ven biển ở Quảng Ninh, và đường   biển trên vịnh Bắc Bộ rồi cũng đổ bộ vào Quảng Ninh. Đã có nhiều trận   đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với giặc ngoại xâm ngay khi chúng   thâm nhập vào vùng này trong đó nổi tiếng là các trận tại ải Chi Lăng,   trận Như Nguyệt, các trận Bạch Đằng, v.v... Thời kỳ kháng chiến chống   Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến   dịch biên giới thu đông (1949), v.v... Cuối thập niên 1970 và trong thập   niên 1980, quân Trung Quốc đã tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc tuyến biên giới ở vùng Đông Bắc.
Mẫu Sơn
Đến   với Ba Bể, du khách có dịp du ngoạn trên hồ bằng thuyền độc mộc để cảm   nhận và khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên với Động Puông, Ao Tiên, Thác   đầu Đẳng, Bản Pác Ngòi, tìm hiểu cuộc sống, văn hoá cũng như tập quán   của các bản làng dân tộc sống trên triền núi bên hồ.
Ngày 04: Cao Bằng - Lạng Sơn - Hà Nội (Ăn sáng,trưa)
11h00:   Đến Lạng Sơn quý khách dùng cơm trưa tại nhà hàng. Chiều mua sắm tại   chợ Đông Kinh. 15h00: Xe đưa quý khách về Hà Nội, dừng chân tại Thị Trấn   mẹt nghỉ nghơi, mua các sản vật địa phương.
19:00 Về đến Hà Nội. Chia tay quý khách. Kết thúc chương trình.
Nơi  chúng tôi dừng chân đầu tiên là  Đèo Pắc Xum – Hà Giang, từ đây nhìn  lên đỉnh đèo cổng Trời Quản Bạ trên  độ cao 1.130 mét chỉ là điểm khuyết  nhỏ giữa những vệt ánh nắng mặt  trời lung linh  |  
Phiên chợ Đồng Văn họp vào sáng chủ nhật bên lồng chợ, những dãy phố cổ trải qua hàng trăm năm tuổi  |  
Khèn một loại kèn hơi của người H’mông, sản phẩm độc đáo ở chợ phiên Đông Văn.  |  
Bên hàng thổ cẩm, vải vóc  |  
Dưới đỉnh núi Rồng – Lũng Cú, điểm cực bắc và được ví là nóc nhà Việt Nam  |  
Đường  đèo Mã Pì Lèng bên vực sâu  thăm thẳm khiến khách du khách không ít lần  phải thót tim, hồi hộp song  nổi sợ hải sẽ nhanh chóng tan biến khi  được ngắm nhìn toàn cảnh núi non,  mây trời, sông nước nơi đây vốn từ  lâu được tôn vinh là “Cảnh quan núi  non đẹp nhất Việt Nam”  |  
Hẻm  vực Tu Sản trong khu vực đèo Mã  Pí Lèng sâu 700 mét với dòng sông Nho  Quế chảy qua được ví là “Đệ nhất  hùng quan” bởi cảnh quan hoành tráng  nhất Công viên Địa chất Cao nguyên  đá Đồng Văn  |  
Đó  là buổi sáng lập đông ở Hà  Giang, sương mù giăng kín khắp dãi núi  trùng điệp ven bờ sông Gâm. Chúng  tôi rời bến trên chiếc tàu cao tốc  bắt đầu cuộc giang trình như lãng du  vào cõi mộng  |  
Những  đảo đá vôi trầm mặc, cột đá  sừng sững giữa mây trời, sông nước, những  con thuyền 2 mái lặng lẻ không  biết đi đâu về đâu tất cả đã tạo lên  biết bao cảm xúc lạ lùng. Đây cũng  là một trong những phong cảnh đẹp  nhất trên thủy lộ Bắc Mê – Na Hang  |  
Con  sông Năng chảy qua nhiều đám  cây khô nửa chìm nửa nổi trên mặt nước  như minh chứng một thời nơi đây  từng là đại ngàn. Cảnh vật, sự thanh  vắng, cô tịch khiến chúng tôi mang  cảm giác như đang đi thám hiểm và  khai hóa vùng đất hoang dã nào đó.  |  
Thác  Đầu Đẳng – Vườn Quốc gia Ba Bể  ngọn thác cao 53m, dài gần 2km, đổ nước  sông Năng xuống hẻm núi theo  dạng thắt cổ chai. Thác được kiến tạo  cách đây 11.000 năm sau một trận  động đất lớn.  |  
Trên hồ Ba bể  |  
Động  Puôn – Vườn Quốc gia Ba Bể với  chiều dài 300 mét, trần động có nơi cao  50 mét với nhiều chòm nhũ đá kỳ  lạ. Đó là kết quả của sông Năng xâm  thực lòng núi đá vôi Lũng Nham suốt  hàng triệu năm.  |  
Động Hua Mạ - Ba Bể, theo tiếng Tày là Đầu Ngựa, một hang động đẹp, tráng lệ còn đậm chất hoang sơ.  |  
Đường lên Đồng Văn uốn lượn, điệp trùng với đá và đá
Thắng cố - món ăn truyền thống của người dân tộc tại chợ phiên Đồng Văn
Một ngôi nhà cổ tại Đồng Văn, được xây bằng tường trình - là đất nện theo khuôn - giúp cho đông ấm, hè mát
Có  được tour “đi  núi, về sông” ấy là nhờ từ đầu 2008, khi cửa đập thủy  điện Na Hang  (Tuyên Quang) đóng lại, mực nước khu vực lòng hồ dâng lên  giúp thông  suốt tuyến đường nối huyện Bắc Mê (Hà Giang) với Na Hang  theo sông Gâm  và nối với hồ Ba Bể qua sông Năng. 
 Vì  thế tuyến đường  thủy Hà Giang - Tuyên Quang - Bắc Kạn được kéo lại  gần. Một công ty lữ  hành phía Nam đã phát hiện ra hành trình này, sau  nhiều lần thử nghiệm,  quyết định đưa vào khai thác tour từ cuối năm  2010.
Dòng Nho Quế uốn lượn quanh các vách núi dựng đứng của đèo Mã Pí Lèng
Bắt đầu hành trình vượt sông Gâm, sông Năng vào hồ Ba Bể
Núi đã vôi trên sông Gâm, cảnh đẹp không khác vịnh Hạ Long 
Những gốc cây còn sót lại của khu rừng nguyên sinh bị dòng sông vùi lấp
Nếu  sông Lô lững lờ  lượn dọc con đường lên với Đồng Văn, sông Nho Quế như  dải lụa vắt ngang  những dãy núi dựng đứng trên đỉnh Mã Pí Lèng, thì  sông Gâm, sông  Năng... hoang sơ, bình yên đến kỳ lạ. Đó là nhờ dòng  sông ấy nằm lọt  giữa khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bu. 
Một ngôi chùa trầm mặc giữa lòng sông
Hoàng hôn trên hồ Ba Bể
Du khách vào hồ Ba Bể
Tàu  chở khách cứ thế lướt nhẹ giữa hai bờ là núi đã  vôi ẩn hiện. Lấp ló  đâu đó vài chiếc thuyền buông lưới. Một vài gốc cây  khô trơ trọi đột  ngột hiện trên mặt nước như tiếc nuối cái thuở còn là  nguyên sinh, nay  đã bị sông vùi lấp. Một đàn trâu thơ thẩn gặp cỏ ven  sông... Trong  khung cảnh thơ mộng ấy, muộn phiền của cuộc sống thường  nhật tan biến. 

No comments:
Post a Comment