Ăn chay (còn được gọi là ăn lạt) không phải là vấn đề mới mẻ gì đối với người VN mình. Ngược lại, các dân tộc Tây phương, từ vài chục năm nay đã xem việc không ăn thịt, không ăn cá là một phương pháp dưỡng sinh mới để duy trì một sức khỏe tốt. Trong bài viết nầy vấn đề ăn chay được trình bày qua cái nhìn của khoa học dinh dưỡng. Các lý do khác, như tôn giáo, tín ngưỡng, bảo vệ súc vật bảo vệ môi sinh và sinh thái đều nằm ngoài khả năng hiểu biết của người viết.  
  ĂN CHAY CŨNG CÓ LẮM KIỂU
 Nếu uống sữa và ăn những sản phẩm được làm từ sữa thì gọi là lacto vegetarian...
 Không uống sữa nhưng lại ăn hột gà, đó là ovo vegetarian...
 Còn vừa dùng cả sữa lẫn hột gà thì người ta gọi là ovo lacto vegetarian...
 Những ai ăn chay trường một cách khắc khe thuần túy thì tiếng Anh gọi là những vegan còn tiếng Pháp là végétarien strict hay végétalien.
 Kiểu ăn chay nửa vời hay ăn uyễn (semi vegetarian) thì không ăn thịt đỏ (thịt heo, bò, dê, cừu) nhưng lại dùng thịt trắng (thịt gà, gà Tây), cá, trứng gà và sữa...
 Dễ  nhất là ăn chay kiểu tài tử, nghĩa là bỏ bớt thịt cá, ăn nhiều rau đậu,  tàu hũ và lúc nào cảm thấy cần, lúc nào thèm, lúc nào nhớ thì ăn cũng  như nếu cuối tuần phải tiệc tùng, party liên miên, đám cưới đám  giỗ lu bù, ăn nhiều thịt nhiều dầu mỡ quá, thì bù lại thứ hai hoặc thứ  ba nên ăn chay để giúp cơ thể nghỉ xả hơi đôi chút trong 1-2 ngày...Đây  là lối ăn đổi món, giúp cơ thể nghỉ ngơi, bớt dầu bớt mỡ. Ăn thịt hoài  cũng ngán, lâu lâu đổi bữa, ăn chay lạ miệng cũng thấy ngon! 
 ĂN CHAY CÓ ÍCH LỢI GÌ?   
 Một  chế độ ăn chay được chuẩn bị kỹ lưỡng dựa trên cơ sở dinh dưỡng quân  bình sẽ giúp cho chúng ta có một sức khỏe tốt. Các nhà khoa học đều cho  biết là nhờ không ăn thịt, không ăn cá nên số lượng chất béo bão hòa (saturated fat),  là loại chất  béo xấu tiêu thụ cũng giảm bớt đi...Chất béo bão hòa có  khuynh hướng kích thích  gan sản xuất thêm cholesterol và làm tăng hàm  lượng của chất nầy trong  máu lên cao. Hậu quả là làm xơ cứng động mạch,  làm nghẽn mạch vành của  tim, gây đau thắt ngực, tăng nguy cơ đột quỵ  tim, tăng áp huyết động mạch và có thể dẫn đến tai biến  mạch máu não!
  Thực phẩm chay thường dùng đều có nguồn gốc thực vật nên chứa nhiều chất xơ nhưng chứa rất ít chất béo bão hòa.
   Tuy nhiên có 2 loại dầu thực vật cần nên để ý vì chúng có chứa một tỷ  lệ chất béo bão hòa thật cao, đó là dầu dừa (kể cả nước cốt dừa) và dầu  cọ(palm oil).
 Ngoài  việc ngừa được các bệnh về tim mạch và giúp giảm phần nào áp  huyết  động mạch, người ăn chay ít mắc phải những bệnh mãn tính, cũng như  ít  bị hiện tượng kết tụ sỏi sạn trong thận và trong túi mật. 
 Việc  ăn chay còn có thể làm giảm nguy cơ xuất hiện của một số bệnh ung  thư,như cancer ruột già, cancer vú và cancer tiền liệt tuyến (prostate).  Năm 2002, tập chí Metabolism có đăng bài khảo cứu của G.s David Jenkins  về vấn đề ăn chay. Thí nghiệm đã được thực hiện tại đại học Toronto và  bệnh viện St Michael’s ở Canada. Kết quả cho biết, việc ăn chay có thể  làm giảm hàm lượng cholesterol xấu (LDL) trong máu xuống 29%. Hạt hạnh  nhân (almond) là một loại thức ăn rất tốt để kéo cholesterol xuống một cách thật đáng kể.
 Thực  phẩm chay chứa nhiều chất xơ,ít chất béo, ít calories nên giúp  người  ăn chay ít hay bị táo bón và ít bị bị béo phì hơn những người ăn  mặn...
   Đối với bệnh tiểu đường loại II, là loại bệnh rất phổ biến và thường  xảy ra ở những người trên 40-50 tuổi, chế độ ăn chay có thể rất có ích  cho họ để ổn định phần nào đường lượng máu!
   Đại học North Calorina Hoa Kỳ cho biết một chế độ dinh dưỡng gồm nhiều  rau đậu  và trái cây tươi, cộng thêm việc năng vận động và tập thể dục  thường  xuyên là những nhân tố cần thiết để làm giảm nguy cơ xuất hiện  bệnh  chứng loãng xương (osteoporosis) ở phụ nữ.
  Ngoài những sự ích lợi vừa kể thì rau quả, ngũ cốc cũng như các loại hạt còn chứa nhiều vitamins và các chất chống oxyt hóa (antioxydants) như vitamin E, vitamin C và chất bêta caroten.  Các chất nầy thanh lọc bớt chất bẩn trong tế bào và giúp chúng hoạt  động một cách hữu hiệu hơn. Các nhà khoa học đều nghĩ rằng các chất antioxydants đã dự phần quan trọng trong việc làm giảm nguy cơ xuất hiện của một vài loại bệnh ung thư!
   Gần đây, tập chí y học British Medical Journal có đăng kết quả khảo cứu  về mối liên hệ giữa việc ăn chay và sự thông minh của 8.000 người tình  nguyện tại University of Southampton trong vòng 20 năm. Họ đo chỉ số  thông minh IQ của các em nhỏ lúc 10 tuổi, sau đó là đo lại IQ lúc được  30 tuổi. Tờ báo nầy nói rằng những người theo chế độ ăn chay từ nhiều  năm và đồng thời cũng có uống hoặc dùng sản phẩm làm từ sữa thì đến lúc  30 tuổi họ có chỉ số thông minh IQ là 105, tức là cao hơn gần 5 điểm so  với IQ của những người ăn mặn!
 ĂN CHAY PHẢI CHO ĐÚNG CÁCH
 Nguyên  tắc chính là phải có sự quân bình giữa các chất dinh dưỡng. Để tránh  tình trạng thiếu chất bổ, người ăn chay phải biết cách phối hợp nhiều  loại thức ăn lại với nhau. Tùy theo lối ăn chay của mỗi người mà có cần  nên uống thêm sữa hoặc các loại supplements như Calcium, vitamin D,  vitamin B12 hoặc chất sắt (Fe) hay không. Nên quan tâm đặc biệt đến các chất dinh dưỡng sau đây:  
 Có tất cả 20 amino acids, phần lớn đều do cơ thể sản xuất ra. Phần còn lại, gồm 9 amino acids cơ thể không tạo được mà phải nhờ thực phẩm đem vào từ bên ngoài. Người ta gọi 9 amino acids nầy là những amino acids thiết yếu (essential amino acids). Chúng rất cần thiết trong việc tổng hợp Protein.
 Thịt được gọi là protein trọn vẹn (complete protein) vì có chứa hầu như đầy đủ các amino acids thiết yếu.
 Ngoài thịt ra, trứng (lòng trắng) và sữa đều là nguồn Protein rất tốt...Thực phẩm gốc thực vật vì thường thiếu một hay nhiều amino acids thiết yếu nên được xem là protein không trọn vẹn (incomplete protein) kém chất lượng hơn Protein gốc động vật. Tùy theo loại thực phẩm mà thành phần và số lượng amino acids thiết yếu chứa đựng sẽ khác nhau.
 Ngũ cốc, đậu (đậu trắng, đậu đỏ, đậu xanh, đậu nành, đậu lentils, đậu Lima, đậu peas, v.v…) và các loại hạt, như hạt dẻ (nut), hạt hạnh nhân (almond) đều có chứa chất đạm Protein.
 Trong chế độ ăn chay, việc kết hợp nhiều loại thức ăn lại với nhau là điều rất cần thiết và mới mong có đủ số amino acids thiết yếu để có thể tổng hợp được Protein trọn vẹn!
 KẼM (Zn):  Giúp vào việc tăng trưởng và tái tạo tế bào...Kẽm cũng rất có ích trong  tiến trình làm lành các vết thương. Thịt là nguồn cung cấp kẽm tốt  nhất, kế đến là sữa bò và lòng đỏ hột gà. Các thực phẩm có nguồn gốc  thực vật sau đây đều có chứa chất kẽm:    rau đậu, các hạt thô (tức là  chưa kinh qua quá trình chà xát làm cho trắng cho nhuyễn), mọng lúa mì,  bắp cải, carotte, củ cải đỏ, hạt hạnh nhân, v.v… Kẽm từ nguồn thực phẩm  gốc động vật dễ được hấp thụ hơn kẽm từ nguồn gốc thực vật. Người ăn  chay cần phải ăn nhiều rau quả mới mong thỏa mãn đủ nhu cầu về chất kẽm!  
 SẮT (Fe):  Rất cần thiết cho hồng huyết cầu để chuyển vận oxy đến các mô...Muốn  thỏa  mãn đủ nhu cầu về chất sắt, người ăn chay cần ăn thật nhiều rau  cải có lá xanh đậm, nhiều đậu, mọng lúa mì (wheat germ), các loại bánh mì làm từ hạt thô (wholemeal bread),  hạt dẻ, hạt hạnh nhân, v.v… Để giúp chất sắt được hấp thụ một cách dễ  dàng, cần nên ăn thêm các loại thức ăn có chứa nhiều vitamin C như cam,  quít, bưởi. Tránh uống chung với nước trà và café vì 2 chất nầy ngăn trở  việc hấp thụ của chất sắt...Ở thực phẩm gốc động vật thí dụ như thịt bò  và gan đều có chứa rất nhiều chất sắt. Chất sắt ở nguồn gốc động vật  được cơ thể hấp thụ dễ dàng hơn chất sắt nguồn gốc thực vật! 
 VITAMIN B 12(cyanocobalamin): cần trong việc tạo lập hồng huyết cầu, có ích cho tủy xương, giúp tế bào phân cắt và tăng trưởng cũng như bảo vệ bao myelin của dây thần kinh...Cobalamin còn dự vào việc tổng hợp của vài loại amino acids, của acids béo và của ADN. Vitamin B12 hoạt động phối hợp với chất folic acid hay folate  (Vitamin B9) trong các biến dưỡng vừa kể. Vậy Vitamin B12 từ đâu mà có?  B12 được tổng hợp bởi một vài loại vi sinh vật sống trong bộ máy tiêu  hóa của thú vật. Ở các loài thú nhai lại  (ruminant) như trâu, bò, dê, cừu, hươu, nai, vi sinh vật trong dạ cỏ (rumen) tức là bao tử thứ nhất có nhiệm vụ chuyển hóa chất cellulose  từ rơm rạ và cỏ ra thành các chất dinh dưỡng, đồng thời cũng tổng hợp  ra vitamin B12. Một khi hấp thụ vào máu, B12 được phân phối đi khắp nơi.  Ở loài bò, gan là cơ quan chứa nhiều B12 nhất, kế đến là thận. Ở người,  phần kết tràng (colon) của ruột già là nơi vi khuẩn tổng hợp B12, nhưng vitamin nầy không được hấp thụ tại đây mà lại bị thải ra ngoài theo phân...
 Các nhà khoa học đều xác nhận rằng hầu như tất cả các thức ăn nguồngốcthực vật đềukhông có chứa vitamin B12, ngoại trừ một vài loại thực phẩm, như đậu nành ủ lên men Miso (giống như tương) của Nhật Bản và Tempeh của Nam Dương, tảo vi sinh Spurilina,Chlorella và rong biển Nori,Wakame, v.v…Các loại thực phẩm vừa kể đều có chứa phần lớn những chất tương tự như vitamin B12, nhưng lại không có hoạt tính (inactive), khoa học gọi chúng là B12 analogues, cơ thể không thể sử dụng được. Chỉ một số rất ít B12 còn lại mới là B12 thật sự hữu dụng mà thôi!
  Ngoài ra, các loại men dinh dưỡng như men bia (brewer’s yeast)cũng có chứa B12. Men bia dưới dạng viên hoặc bột được dùng để uống hoặc pha vào nước trái cây nhằm mục đích bồi bổ sức khỏe. Spurilina  và men bia được thấy bán trong các tiệm thuốc tây và trong các tiệm bán  thực phẩm thiên nhiên...Nói tóm lại, nguồn cung cấp B12 tốt nhất của  chúng ta vẫn là từ các sản phẩm gốc động vật. B12 có nhiều nhất trong  gan bò (100gr gan chứa 60mcg B12), kế đến là trong thận, thịt bò (100gr  có 0.6mcg B12), thịt gà (0.3mcg), thịt heo (0.6mcg), trong cá (4-5mcg),  hột gà (0.5mcg), tôm cua sò và trong sữa, fromage (0.25-0.5mcg)...
 Khi chúng ta dùng những thực phẩm có chứa Vitamin B12, chất hydrochloricacid trong dịch vị tiêu hóa sẽ giúp phóng thích B12 ra ngoài. Đồng thời một chất khác được gọi là yếu tố nội tại (intrinsic factor) tiết ra từ niêm mạc bao tử sẽ kết hợp với vitamin B12. Lúc đi qua phần hồi tràng (ileum) của ruột non, B12 sẽ được các thụ thể chuyên biệt (specific receptors) tại đây hấp thụ vào máu. Ruột già không hấp thụ được B12. 
 Trong  cơ thể, phần lớn B12 được dự trữ trong gan. Nhu cầu hằng ngày của chúng  ta về B12 rất ư là thấp, khoảng 2.5 - 3mcg (micrograms). Nhu cầu nầy  phải cao hơn đối với phụ nữ trong thời gian mang thai hoặc đang cho con  bú.
 Vì thực vật không có B12 nên các người ăn trường chay thuần túy (vegan) cần phải uống thêm các supplements có chứa B12, hoặc dùng những loại sản phẩm hay thức ăn đã được tăng cường (fortified) thêm B12.
 Nhờ  gan có khối dự trữ dồi dào cho nên trong điều kiện ăn uống thiếu B12,  thì cũng phải từ 3 năm trở lên mới thấy các triệu chứng của việc thiếu  vitamin B12 xuất hiện ra. Thường thì bệnh nhân sẽ cảm thấy bần thần mệt  mỏi, kèm theo các dấu hiệu của hiện tượng thiếu máu, dễ bị lạnh, lâu  ngày sẽ có các triệu chứng thần kinh, thay đổi tâm tính, trí nhớ kém,  trầm cảm, tê tay tê chân, mất thăng bằng lúc đi đứng, v.v…
 Bệnh thiếu máu do thiếu B12 được gọi là bệnh thiếu máu ác tính (pernicious anemia)  rất nguy hiểm. Đôi khi ăn uống đầy đủ B12 nhưng vẫn bị thiếu máu như  thường, trường hợp nầy xảy ra khi B12 không được hấp thụ ở ruột non vì  thiếu sự trợ giúp của hydrochloric acid hoặc thiếu chất nội tại của bao  tử. Ngoài ra, rượu, thuốc lá, vài loại thuốc ngừa thai và các thuốc làm  giảm độ chua (antacid) của bao tử cũng có thể làm giảm phần nào  sự hấp thụ của B12. Hiện nay Vitamin B12 là đề tài tranh luận chính yếu  giữa phe ăn chay và phe ăn mặn!.
 VITAMIN D:  Giúp cơ thể hấp thụ Calcium từ thực phẩm...Tia cực tím của ánh sáng mặt  trời cũng là nguồn cung cấp vitamin D cho chúng ta bằng cách chuyển hóa  chất 7-dehydrocholesterolở dưới da ra thành vitamin D. Tại các  quốc gia Tây phương một số thức ăn thức uống có thể được nhà sản xuất  cho tăng cường thêm vitamin D chẳng hạn  như sữa bò, sữa đậu nành,  margarine hoặc các loại thực phẩm cho trẻ em.
 Vitamin D có nhiều trong lòng đỏ hột gà, trong dầu cá, trong cá biển có nhiều mỡ như cá salmon,mackerel, cá mòi sardin,  trong tôm tép, trong gan, v.v…Vitamin D rất cần cho các cháu bé, cho  phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú cũng như cho các bác lớn tuổi.
 CALCIUM: Rất cần cho xương và răng...Sữa bò là nguồn cấp calcium tốt nhất.
  Không ít nước trái cây, sữa đậu nành và sữa bò bán ở thị trường đã được tăng cường thêm Calcium và vitamin D.
 Các thực phẩm có nhiều Calcium là: bông cải xanh broccoli, cải pok choi, bông cải trắng (cauliflower), cải bắp (cabbage), đu đủ, carrot, hạt hoa hướng dương (sunflower), hạt dẻ Brazil (Brazil nuts), hạt hạnh nhân, sung khô, mọng lúa mì, cacao, rong biển (seaweed), tàu hũ (có calcium sulfate), mật đường (molass), các loại đậu, hạt mè còn nguyên vỏ...
 Nên biết rằng trà, rượu, café và các loại thực phẩm có chứa chất oxalate (thí dụ rau mồng tơi) cũng có thể chứa chất phytate (có trong cám và cereal thô) đều có thể làm giảm việc hấp thụ Calcium! 
 ĂN CHAY KHÔNG THỂ THIẾU ĐẬU NÀNH
 Đậu nành là thực phẩm nồng cốt trong một chế độ ăn chay. Từ đậu nành người ta làm ra vô số món ăn chay, như các loại tàu hũ (tofu), tàu hũ ki (driedbean curd), tương miso, các loại tương ngọt, tương mặn, chao, nước tương và xì dầu.
   Đậu nành chứa một tỷ lệ chất đạm cao nhất (trên 30%) trong nhóm đậu và  cũng cao hơn các loại ngũ cốc (8%-15% đạm). Đậu nành chứa ít chất béo  bão hòa, là loại chất béo xấu. Ngược lại tỷ lệ chất béo không bão hòa  (chất béo tốt) của nó lại rất cao, đặc biệt là loại không bão hòa đa thể   (polyunsaturated). Chất nầy có thể giúp làm giảm cholesterol trong máu. Đậu nành có chứa alpha linolenic còn được gọi là oméga-3. Các nhà dinh dưỡng đều nói rằng omega 3 rất tốt để ngừa các bệnh về tim mạch, để làm giảm áp huyết và để củng cố hệ miễn dịch! Oméga-3 có nhiều trong các loại cá biển vùng nước lạnh như cá salmon và cá mackerel, v.v…
 Đậu  nành không có cholesterol, vì chất nầy chỉ thấy hiện diện trong các  thực phẩm gốc động vật mà thôi. Đậu nành cũng không có chứa đường  lactose (lactose free), vì vậy sữa đậu nành rất thích hợp cho những người nào bị bất dung nạp với lactose (lactose intolerance) mỗi khi uống sữa bò. 
 Đậu  nành có chứa hầu hết các amino acids thiết yếu, có nhiều chất khoáng,  chất xơ và vitamins (nhưng không có B12). Nhờ những tính chất nầy nên  người ta thường dùng tàu hũ để thay thế thịt trong chế độ ăn  chay...100gr đậu nành rang cho 36.5gr protein, đậu nành nấu chín cho  16.6gr, miso 11.8gr, tàu hũ cứng 15.8gr, sữa đậu nành 2.8gr.
   Đối với người VN mình, tàu hũ có thể được chế biến ra thành rất nhiều  món ăn cũng ngon lắm. Nào là kho, chiên, xào, hấp hoặc nấu canh. Còn món  tàu hũ trắng và mềm nữa, chế nước đường thắng với tí gừng, dùng để ăn  chơi cũng hấp dẫn dữ lắm. Đây là chưa kể đến tài nấu nướng của các bà  chị khéo tay, có thể biến tàu hũ và mì căn ra thành vô số «món mặn» ăn  cũng bắt cơm dữ lắm. Dân Tây Mỹ thì họ xem  tofu như một loại thức ăn lành (healthy food), tốt cho sức khỏe, tuy biết vậy nhưng tofu cũng chưa phải là một món ăn hấp dẫn đối với họ.
 Theo  người gõ thì Tofu bán ở các  siêu thị Tây ăn không mấy ngon và cũng  không mấy thích hợp với «gu» của người mình. Tàu hũ mua ở chợ Á Đông ăn  vẫn thích hơn. Nói đến tàu hũ thì cũng phải kể luôn món sữa đậu nành (soymilk).  Đây là một loại thức uống rất bổ dưỡng. Tại các chợ Tây cũng như chợ  Tàu đều có bán rất nhiều loại sữa đậu nành. Phần lớn sữa nầy đều được  cho tăng cường thêm vitamins A, D, B12, riboflavin (B2), kẽm Zn,  phosphorus và calcium, v.v… Cũng có nhiều loại sữa được pha thêm nước  trái cây, vanilla hoặc lá dứa. Theo nhận xét riêng của người viết, thì  các loại sữa đậu nành bán ngoài chợ đều quá ngọt, vì vậy không mấy thích hợp cho những ai phải kiêng cữ đường...
 Tốt  nhất chúng ta nên xuống phố Tàu mua một cái máy, cuối tuần chiụ khó  nhín chút ít thì giờ xay làm 4-5 lít sữa đậu nành theo gu của mình, để  dành uống trong tuần, vừa bổ, vừa hạp vệ sinh mà cũng lại rẻ nữa duy chỉ  hơi mất công một chút thôi...Ngoài các chất dinh dưỡng và chất đạm ra,  đậu nành còn chứa những chất isoflavones thuộc nhóm phytoestrogens. Đây là những hormones thiên nhiên tương tợ như oestradiol là  hormone sinh dục của phụ nữ.
  Ăn tàu hũ và uống sữa đậu nành thường xuyên rất tốt cho các bà trong thời kỳ mãn kinh  (menopause). Chất phytoestrogens sẽ bù đắp lại phần nào sự suy giảm oestradiol trong thời gian nầy, đồng thời nó làm nhẹ đi các triệu chứng bất lợi như các cơn bốc hỏa  (flushing),  hồi hộp khó chịu, niêm mạc âm hộ bị khô, tâm tính thay đổi bất thường  hay xì nẹt quạu quọ bất tử, đổ mồ hôi ban đêm, và ngăn ngừa chứng loãng  xương! Có tài liệu còn nói ăn đậu nành có thể giúp giảm nguy cơ xuất  hiện cancer vú. Đậu nành cũng có chứa chất sterol có khả năng kéo  cholesterol xấu LDL trong máu xuống và giúp ngừa được các bệnh về tim  mạch. Các nhà khoa học Âu Mỹ đoán rằng có thể nhờ thường ăn tàu hũ và  đậu nành nên phụ nữ Á châu ít bị cancer vú hơn so với các bà đầm Mỹ châu  và Âu châu?
   Kỹ nghệ đậu nành bùng phát quá mạnh và quá nhanh từ vài chục năm nay.  Những lợi ích của đậu nành đối với sức khỏe đã được hầu như tất cả các  nhà dinh dưỡng trên khắp thế giới đều nhìn nhận và ca ngợi hết lời. Có  lẽ vì lý do nầy nên kỹ nghệ đậu nành cũng có thể bị nhiều người ganh  ghét vì họ bị cạnh tranh. Đặc biệt gần dây Internet có đăng bài Tragedy and Hype của hai tác giả Sally Fallon và Mary G Inig viết trong báo Nexus Úc châu. Trong bài báo nầy, đậu nành bị kết án là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh tật.
 Không biết họ viết chuyện nầy với dụng ý gì? Bài  báo đã cảnh giác người tiêu thụ đừng nên dùng đậu nành vì chất  Isoflavone của đậu nành thuộc nhóm hormone nữ nên có thể gây hại cho  tuyến giáp trạng (glande thyroide), giảm số lượng tinh trùng gây nên tình trạng vô sinh ở nam giới. Isoflavone còn ngăn trở tác dụng của hormone testosterone khiến các cháu trai trở thành pêđê hết «Soy is making kids gays». 
 Sữa đậu nành Soy Formula dùng cho trẻ em Hoa Kỳ được ví như những viên thuốc ngừa thai đối với các cháu bé (birth control pills for babies) vì có chứa hormone nhóm estrogen,  đậu nành làm teo não, gây bệnh Alzheimer’s, và làm tăng nguy cơ cancer  vú ở phụ nữ nữa. Ghê quá! Nguồn tinh quái ác nầy rất khó kiểm chứng và  cũng không có kèm theo một dẫn chứng khoa học nào đáng tin cậy cả!! Cũng  không có một nhà khoa học quốc tế hay một tạp chí khoa học đứng đắn nào  đề cập và hậu thuẩn đến vấn đề trên. Tuy vậy, mặc dầu là tin dỏm từ đầu  tới cuối nhưng nó cũng đã gây hoang mang trong dư luận không ít!
 Có  người cũng đặt nghi vấn và tự hỏi có phải chăng đây là một đòn phản  công ngầm của kỹ nghệ sữa American Dairy Association hay không? 
 MISO, TƯƠNG, CHAO, NƯỚC TƯƠNG, XÌ  DẦU
 Các  loại nước chấm dùng để ăn chay thường được làm từ đậu nành...Miso,  tương, chao, nước tương, xì dầu là những món rất phổ thông đối với người  VN. Tương miso, gốc Nhật Bản, cũng thấy có bán tại các chợ Á đông.
 Có nhiều loại miso, như miso làm từ gạo (rice miso), từ đậu nành ủ cho lên men (soymiso) hoặc từ lúa mạch barley.  Miso có thứ thì lỏng sền sệt, có thứ đặt hơn. Miso có nhiều màu như  trắng, vàng và nâu đỏ. Miso trắng là loại ngọt, các thứ khác là loại  miso mặn. Soymiso có chứa vitamin B12, nhưng tỷ lệ có được cũng tùy thuộc cách biến chế…
 Theo phương thức cổ truyền, đậu nành được ủ cho lên men trong những thùng cây tuyết tùng (cedar)  trong vòng cả 1-2 năm nên thường cho một tỷ lệ B12 rất cao...Miso sản  xuất theo lối công nghiệp, thời gian ủ rất ngắn nên được gọi là quick miso.  Lẽ dĩ nhiên miso công nghiệp phẩm chất và tỷ lệ B12 không thể sánh bằng  loại miso sản xuất theo lối cổ truyền được! Miso thường được dùng để  nêm vào soupe gồm có tàu hũ, rong biển và nấm shiitake, v.v… theo kiểu Nhật Bản. 
 Nói  về tương thì Trung Hoa dẫn đầu về món nầy. Có rất nhiều loại tương được  chế biến từ đậu nành. Tại Bắc Mỹ, không ai mà không biết hiệu tương  ngọt Hoisin sauce bán ở các chợ Á đông. Người mình cũng không kém họ.
   Chúng ta cũng có rất nhiều loại tương quốc hồn quốc túy, chẳng hạn như  tương bần và tương Cự Đà. Bên cạnh tương, thì cũng phải nói đến chao,  cũng từ đậu nành mà ra. Ngày nay, tương, chao, nước tương và xì dầu đã  trở thành những món chấm rất thông dụng cho cả ăn chay cũng như cho cả  ăn mặn nữa.
   Ngày xưa, lúc quê hương còn khó khăn, tương chao là những món chấm rất  phổ thông và rất bình dân trong những bữa cơm hằng ngày của nhiều gia  đình. 
 Thời  đó, vào những ngày mùng một và  ngày rầm mỗi tháng, người viết thỉnh  thoảng thấy ở chợ Vườn Chuối, Saigon có bán một loại chao đặc biệt gọi  là chao chùa. Chao nầy có màu trắng, hơi sền sệt, và có mùi thum thủm  không khác gì mùi hột gà ung hay blue cheese, nhưng ăn vào thì  lại rất bùi và rất béo. Mua vài trái dưa leo và một bó rau lang về luộc  chấm với chao cũng xong được một bữa cơm…
 Nước tương (soy sauce) được sản xuất qua phương pháp thủy phân (hydrolysis)  đạm đậu nành. Năm 1999, cơ quan Joint Food Safety and Standards Group  của Anh Quốc đã cảnh giác mọi người về sự hiện diện của một chất độc  trong các loại nước tương (soy sauce) và dầu hào (oyster sauce) nhập cảng từ Á châu. Đó là chất 3-monochloropropane-1-2 (3-MCPD). Đây là một nhiễm hóa chất trong nhóm Chloropropanolols thấy trong các loại đạm thực vật được thủy phân bằng acid (acid hydrolysed vegetal protein).  Chất 3-MCPD có thể gây cancer nếu ăn thật  nhiều và ăn thường xuyên.  Tại Canada, Cơ quan kiểm tra thực phẩm (CFIA) vẫn thường xuyên theo dõi  và kiểm tra nồng độ chất 3-MCPD của tất cả mặt hàng loại nầy nhập cảng  từ Á châu.
 NẾP SỐNG CỦA NGƯỜI ĂN CHAY CÓ ẢNH  HƯỞNG GÌ?
 Nhìn  chung thì người ăn chay thường có sức khỏe khả quan hơn người ăn mặn.  Tại sao vậy? Các nhà khoa học nghĩ rằng các người ăn chay đa số là những  người có ý thức rất cao về dinh dưỡng và sức khỏe. 
 Họ  thường có một nếp sống ngăn nắp, điều độ, ít rượu chè, hút sách, nghiện  ngập. Họ cũng thường là những người năng vận động, tập thể dục đều đặn  và thường xuyên. 
   Chính nhờ những điều kiện nầy cộng với việc ăn chay đã giúp cho họ có  được một sức khỏe tốt. Tuy nhiên cũng có một số nhà khoa học khác nói  rằng các người ăn chay ít bị bệnh hoạn không phải là tại nhờ họ không ăn  thịt, nhưng chính là nhờ họ ăn rất nhiều rau đậu và trái cây tươi. 
 Các loại thực phẩm nầy rất tốt vì có chứa nhiều chất chống oxyt hóa và các hoạt chất (bioactive) có khả năng làm giảm nguy cơxuất hiện của một vài loại ung thư. 
 GIỚI HẠN CỦA VIỆC ĂN CHAY 
 Ăn chay không có gì nguy hiểm cho sức khỏe nếu ăn đúng cách, biết phối hợpnhiều loại thức ăn với nhau.  Vấn đề nầy thay đổi tùy theo tuổi tác, tùy theo nếp sinh hoạt cũng như  tùy theo kiểu ăn chay của mỗi người. Các cháu bé nhỏ tuổi, các chị đang  mang thai, các lực sĩ cũng như những ai có tình trạng sức khỏe và nhu  cầu đặc biệt thì không nên ăn chay. Các ông thường hay nói, ăn chay  thường xuyên dám làm mình yếu đi bị “hết xí quách” bất tử, bài vở học  lâu thuộc làm cô giáo buồn lòng hết sức.
 Ăn  chay mà vẫn dùng trứng và bơ sữa fromage thì không có gì trở ngại cả.  Ăn chay có thể là một vấn đề sức khỏe đối với người ăn chay trường theo  kiểu khắt khe thuần túy, nghĩa là không đụng tới bất kỳ món gì xuất phát  từ loài vật. Ăn kiểu nầy, “vụ đó” dám tịch ngòi luôn nghe không các bạn  già “liền ông”
 .Nhu  cầu về Calcium và B12 khó được thỏa mãn đầy đủ được, ngoại trừ họ cần  phải uống thêm các supplements có chứa 2 chất nói trên...
 Nói  tóm lại, nên ăn các loại hạt và ngũ cốc thô vì chúng còn giữ nhiều chất  dinh dưỡng và vitamins. Tuy vậy, hạt thô lại chứa khá nhiều chất phytic acid có thể làm giảm đi phần nào sự hấp thụ calcium. Một vấn đề nan giải khác là liệu thực phẩm sử dụng có chứa đầy đủ số amino acids thiết yếu hay không?
 Phần lớn thức ăn gốc thực vật lại không có đầy đủ các amino acids, hoặc có nhưng ở mức quá thấp. Sự thiếu của một hay của nhiều amino acids thiết yếu sẽ ngăn trở phần nào việc hấp thụ của những amino acids khác một cách trọn vẹn và ảnh hưởng không ít đến việc tổng hợp chất đạm.
 Đây là lý do tại sao có rất nhiều người ăn chay bị rơi vào tình trạng thiếu protein.
 Một  chế độ ăn chay đầy đủ và quân bình cần phải có sự đa dạng về các chất  như các loại ngũ cốc thô, các loại đậu, các loại hạt có dầu (đậu phọng,  mè, hạt hoa hướng dương, hạt lanh (linseed), các loại hạt dẻ (nuts), sữa và các sản phẩm làm từ sữa, trứng gà, rau cải, trái cây tươi và khô, các loại men dinh dưỡng, mọng lúa mì, v.v…
 Nhân  tiện tác giả cũng xin nêu ra đây với sự dè dặt là có tin đồn một số nhà  sản xuất thức ăn chay đóng hộp ở Đài Bắc và ở một số nơi khác, nhằm mục  đích kinh doanh ham lời đã cố tình cho trộn thêm nước thịt hoặc thịt  vào các mặt hàng chay giả mặn.
   Hèn gì ăn rất ngon không khác gì đồ mặn cũng dễ hiểu mà thôi...Các lon  đồ chai bán ở chợ thường có chứa cả khối dầu và chất béo, và điểm nầy là  sự thật 100%. Cẩn thận với các lon chay giả mặn bán ở các chợ Á Đông  tại hải ngoại như thịt gà chay, thịt vịt chay, lẩu dê chay, cá chay…
 Một  nhận xét khác của người viết là cơm chay ở chùa ngày chúa nhật, đặc  biệt là mấy món xào và kho thường có quá nhiều dầu và chất béo. Mỡ dầu  và chất béo không có tha một ai hết dù ăn ở ngoài chợ hay ăn ở trong  chùa!
 TRẬN CHIẾN GIỮA PHE ĂN CHAY VÀ ĂN MẶN
  Các biến cố dồn dập, như bệnh bò điên, bệnh dịch cúm gà, thịt nhiễm vi khuẩn E.coli, salmonella, thịt chứa kháng sinh, hormone, hóa chất lạ, thịt bị chiếu xạ (irradiated), cá tôm nhiễm chất độc dioxin, BPC…đã làm mọi người e dè lo ngại mỗi khi ăn uống. Riêng tại Canada, thống kê cho biết có lối 4% dân số đã chọn giải pháp ăn chay.
  Trên thế giới cũng có rất nhiều danh nhân và tài tử nổi tiếng đã theo chế độ ăn chay. Ăn chay đã trở thành một cái mode. 
 Giới  kỹ nghệ thực phẩm cũng phải thích nghi theo thị hiếu mới của dân chúng.  Phần lớn các siêu thị đều có gian hàng bán đồ chay. Sản phẩm chay  thường có mang 2 chữ Vege hoặc Veggie...Nào  là veggiedogs  (hot dogs làm bằng tofu), veggie burger, veggie lasagna,  veggie  chicken, Pizza végétarien…Mc Donald’s đã cho ra lò món Mc Vege, nhưng   cũng chưa mấy phổ biến cho lắm...Nhà hàng Subway có Sous marin   végétarien...Cty Tartex chi nhánh của cty Nestlé tung ra thị trường loại  pâte Raviolis chay. Tất cả đều được làm từ nguyên liệu đậu nành...
 Chợ  Á Đông cũng có bán nhiều loại đồ hộp để ăn chay. Tại một vài thành phố  lớn ở Canada, cũng có thấy xuất hiện vài tiệm cơm chay của người VN. Nhà  hàng chuyên bán đồ ăn chay của Canada thì có rất nhiều.
   Đối với người VN chúng ta, ngon nhất vẫn là bữa cơm chay thịnh soạn do  bà xã nấu ở nhà gồm có canh chua chay, bì cuốn chay, đồ kho, mắm chưng  chay hoặc mắm ruột chay, ăn với cơm nóng vừa mới chín tới. Ôi! thật là  ngon hết biết...
 Mấy  năm trước đây, tờ Thời báo ở Canada có đăng bài phóng sự về phong trào  ăn chay tại Saigon. Mấy món chay được kê ra đều rất cầu kỳ và thật hấp  dẫn với những cái tên rất lạ tai, tưởng chừng đâu như toàn là món mặn.
 Có  một sự thật cần phải nói ra đây là hiện giờ trận giặc giữa phe ăn chay  và phe ăn mặn đang diễn ra một cách âm thầm  nhưng rất quyết liệt. Hai  phía thường hay chê bai, chỉ trích và đả kích  lẫn nhau. Bên nào cũng  cho mình là đúng, là chân lý mà thôi! Để bảo vệ quyền  lợi của mình,  giới kỹ nghệ thực phẩm không ngớt tổ chức những cuộc vận động  hành  lang, và tung ra vô số quảng cáo đề cao sự bổ dưỡng vô song của thịt.  Phe ăn chay cũng không thua gì, họ phản công lại và đe dọa  mọi người về  hiểm họa bệnh tật và cancer do thịt có thể gây ra…Họ còn tố cáo phe  ăn  mặn đã phóng đại các ảnh hưởng tiêu cực, như ăn chay sẽ bị mất sức  khỏe, ăn chay sẽ bị thiếu vitamin B12, dễ bị thiếu  máu, dễ bị hết xí  quách, v.v….
   Họ diện dẫn, là nếu ăn chay mà bị bệnh hoạn, thiếu máu thì hằng triệu  dân ở phía  Bắc Ấn Độ, vì hoàn cảnh hay vì tín ngưỡng là những người đã  theo chế độ ăn rau  quả ngũ cốc từ cả hằng ngàn năm nay rồi mà có ai bị  thiếu máu đâu, họ vẫn còn sống phây phây ra đó? Các nhà khoa học  thì  lại nghĩ khác, và đưa ra giả thuyết như vấn đề vệ sinh yếu kém, phóng uế  bừa bãi ngoài đồng (trong phân có vitamin B12), sử dụng phân  người  trong việc trồng tỉa, sâu bọ côn trùng thải phân trên rau cải,  nước nôi  thiếu thốn nên rửa rau quả không sạch sẽ, và nhờ vậy mà vitamin B12 bám  phía ngoài rau quả nầy không bị trôi mất đi. Tất cả những điều vừa kể  đã giúp người Ấn độ thỏa mãn đủ nhu cầu về B12.
   Một số những người nầy, sau đó may mắn được cho đi định cư ở Anh quốc.  Tại nơi đây họ vẫn tiếp duy trì chế độ ăn chay trường, nhưng chỉ sau 3-4  năm thì không ít người trong nhóm đã mắc phải tình trạng thiếu máu ác  tính. Tại sao vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là tại Anh  quốc  cuộc sống quá vệ sinh, không có ai phóng uế ngoài đồng cỏ, sâu bọ côn  trùng  hầu như đã bị các loại thuốc trừ sâu diệt hết, vả lại nước nôi  dồi dào nên họ đã rửa trôi đi hết vitamin B12 trên rau cải.
   Họ bị thiếu B12 vì ăn chay kiểu khắc khe mà không uống thêm supplement  B12, hoặc không dùng những loại thực phẩm đã được tăng cường thêm  vitamins...
 Còn  một sự kiện khác cũng khó giải thích được và  thường được thiên hạ nói  đến, đó là việc các nhà sư Trung Hoa và Nhật Bản ăn chay trường quanh  năm suốt tháng mà họ vẫn luôn luôn khỏe mạnh, thế là sao? 
 Có  lẽ là nhờ Thiền, nhờ Zen, nhờ tập Tàichi, nhờ hít thở, nhờ tập Khí công  hay nhờ họ đã áp dụng một môn phép dưỡng  sinh nào đó chăng? Người ta  tự hỏi phải chăng tuy là ăn chay tịnh  nhưng trong  thức ăn thức uống  của các sư đều có chứa đầy đủ các dưỡng chất cần thiết  rồi hay có một  yếu tố nào đó mà khoa học chưa hề biết đến?
  Các nhà bác học cần phải nghiên cứu thêm và cũng cần nên đồng nhất hơn nữa các phương cách đo lường và thí nghiệm. 
 KẾT LUẬN
   Để chấm dứt, tác giả xin mượn ý kiến của một nhà bác học lừng danh  thế  giới đã nói về vấn đề ăn chay như sau: “Không gì ích lợi cho sức khỏe  con người, và cũng đồng  thời làm tăng cơ may sinh tồn trên quả địa cầu  bằng việc tiến hóa đến  một chế độ ăn chay”  (Nothing will benefit human health and increase chances for survival of life on Earth as much as evolution to a vegetarian diet.Albert Einstein)./. 
Nguyễn Thượng Chánh,  DVMDẦU    MỠ VÀ BỆNH    TIM MẠCH
Mỡ     cao, cholesterol cao là mối e ngại của rất nhiều người trong chúng     ta, nhất là đối với các bạn cao tuổi. Có rất nhiều nguyên    nhân dẫn  đến tình trạng nầy, nhưng chánh yếu vẫn là do vấn    đề ăn uống và cách  sống của mỗi người mà thôi. Một chế    độ ẩm thực quá nhiều mỡ dầu, cộng  thêm một nếp sống ù    lì  sẽ đưa đến tình trạng béo phì, và từ đó    sẽ có thể dẫn đến các bệnh về tim mạch và bệnh tiểu đường    type II .
    Có    bao nhiêu loại chất béo?
    Chất    béo bão hòa    (saturated fat):  đông đặc ở nhiệt độ bình thường trong    nhà.Thấy nhiều trong thịt,mỡ,  tôm, cá, đồ lòng, lòng đỏ    hột gà, sữa và phó sản của sữa như fromage,  crème,bơ    vv….Thực vật, trái cây, hạt có dầu đều chứa rất ít chất     béo bão hòa, ngoại trừ dầu dừa, nước cốt dừa và    dầu cọ (palm oil) là những sản phẩm có    chứa một tỉ lệ chất béo bão hòa cao nhất trong nhóm    thực vật. Chất béo bão hoà là chất béo    xấu, có hại cho sức khỏe và có thể gây nên bệnh    chứng nghẽn mạch máu.
   Chất    béo không bão hòa (Unsaturated    fat): không đông đặc ở nhiệt độ bình    thường. Có nhiều trong dầu thực vật. Đây là chất béo    tốt vì có khuynh hướng làm giảm cholesterol trong máu. Người    ta phân chia chất béo không bão hòa ra làm 2 nhóm:
   ·                              Không bão hòa đơn thể    (monounsaturated), có nhiều trong dầu olive, dầu canola,và    dặc biệt trong mỡ vịt nữa …
   ·                              Không bão hòa đa thể (polyunsaturated),    tiêu biểu là linolenic acid (hay omega 6) và alpha-linoleic    acid (hay omega 3). Đây là những acid béo thiết yếu vì cơ    thể không tự tổng hợp được mà phải nhờ thực phẩm mang vào.    Chất béo không bão hòa  đa thể ít ổn định,    dễ bị oxy hóa, và dễ bị hôi (rancid) hơn chất béo không    bão hòa đơn thể. Chất béo không bão hòa đa thể được thấy    nhiều nhất trong dầu hạt lin (linseed, flaxseed oil),    kế đến là dầu hoa hướng dương (tournesol, sunflower    oil), dầu đậu nành, dầu bắp (corn oil) vv…
   Hai    chất Omega 3 và Omega 6  thường được    các nhà dinh dưỡng ca tụng hết lời vì chúng có khả năng     giúp cơ thể tổng hợp chất prostaglandin rất cần    thiết để giữ cho máu lưu thông được dễ dàng, ngừa các    bệnh tim mạch.
    Oméga    3 có thể giúp giảm cholesterol, ngăn ngừa được các chứng    viêm khớp,  một  số bệnh ngoài da, bệnh dị    ứng, hen suyễn, trầm cảm, và người ta cũng  nghĩ rằng nó có    thể ngừa được một vài loại ung thư (vú, ruột và bao  tử)?
   Ngoài    ra,Omega 3 cũng có thể làm giảm chất béo xấu Triglycerides    xuống.
    Một    số cá vùng nước lạnh như Mackerel, Hareng, Tuna, Salmon…đều có    chứa Omega 3.
   Tóm    lại, chất béo không bão hòa đa thể có khả năng làm giảm lượng    total cholesterol gồm cả loại xấu lẫn loại tốt trong máu    xuống.
   Chất    béo không bão hòa đơn thể chỉ làm giảm cholesterol xấu xuống    mà thôi.
   Cholesterol     là gì?
    Đây    là một loại chất béo chỉ thấy trong thức ăn gốc động    vật mà thôi. Trong     máu, 80% cholesterol do gan sản xuất, phần còn lại do thực phẩm     mang vào. Ở người có sức khỏe tốt, gan tự điều tiết việc    tổng hợp  cholesterol để giữ hàm lượng chất nầy trong máu ở    mức độ bình thường.  Nhưng một lượng chất béo bão hòa quá    cao  sẽ kích thích gan sản  xuất    thêm nhiều cholesterol. Dầu dừa, nước cốt dừa và dầu    cọ (cũng là một loại dầu nhiệt đới) đều có tỉ lệ chất    béo bão hòa thật cao, hãy cẩn thận.
   Cholesterol    rất cần trong việc tổng hợp hormons (estrogen, androgen,    progesterone, cortisone…), tạo lập màng tế bào thần kinh, và    sản xuất muối mật để tiêu hóa.
   Trong    máu ¾ cholesterol được một loại  lipoprotein    có tỉ trọng thấp chuyên chở (low density lipoprotein). Người    ta gọi chúng là cholesterol  xấu  hay    LDL. Phần cholesterol còn lại do một loại lipoprotein có    tỉ trọng cao (high density lipoprotein) chuyên chở nên được    xem như cholesterol tốt hay HDL.
   Một    tỉ lệ cholesterol xấu quá cao có khuynh hướng tích tụ thành    những mảnh mỡ đóng trong thành mạch máu, nhất là mạch vành (coronary    artery) nuôi tim.Theo thời gian , mạch sẽ trở nên xơ cứng     (atherosclerosis),  khẩu kính mạch trở nên nhỏ hẹp    hoặc bị tắt nghẽn, lưu thông máu bị  cản trở, gián đoạn gây    nên triệu chứng đau thắt ngực (angine de poitrine, angor),    nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde, myocardial infarction, heart    attack) hoặc tai biến mạch máu não ( AVC, Stroke ) nếu    xảy ra trong đầu.
   Nhiệm    vụ của cholesterol tốt là chuyên chở cholesterol xấu dư    thừa từ mạch máu trở về gan. Các nhà chuyên môn khuyến cáo    chúng ta nên giữ hàm lượng:
   -             Total cholesterol trong máu dưới mức 200mg/dL hay dưới    5.2mmol/L
   -             HDL  (cholesterol tốt) phải trên 35mg/dL hay trên    0.9mmol/L
   -             LDL (cholesterol xấu) phải thấp hơn 3.4mmol/L
   -             Tỉ lệ Total cholesterol /  HDL phải bằng    hoặc thấp hơn  5 / 1  mới tốt.
   -             Triglycerides phải thấp hơn 2.3 mmol / L hay dưới 200mg/dL
   Chúng    ta cần giới hạn số cholesterol ăn vào trong ngày ở mức độ    thấp hơn 300 mg.
   Cholesterol    có nhiều trong thịt,mỡ, sữa nguyên chất (loại 3.25% chất béo),     crème,bơ,  fromage, lòng đỏ hột gà,    đồ lòng như gan, thận, óc, đồ biển vv…
    Triglyceride    là gì? 
   Đây     cũng là một loại chất béo khác, một phần do thức ăn đem vào,    và  một phần khác do cơ thể tổng hợp trong tiến trình chuyển    hóa năng  lượng.  Trong máu, Triglyceride được    một loại protein có tỉ trọng thật thấp chuyển vận, gọi là very    low density lipoprotein hay VLDL.
    Nhiệm     vụ của Triglyceride là giúp tế bào tạo năng lượng, phần dư    thừa  sẽ được tích trử dưới dạng mỡ. Cũng như chất béo bão    hòa, Triglyceride là chất béo xấu.
    Hàm    lượng triglyceride cao có thể làm tăng nguy cơ nghẽn mạch.
    Bánh    kẹo ngọt và rượu đều đóng một vai trò quan trọng    trong việc làm tăng chất Triglyceride trong máu lên.
   Tập    thể dục thường xuyên sẽ làm giảm  Triglyceride    và đồng thời cũng làm hạ cholesterol xấu (LDL) xuống và làm tăng    cholesterol tốt  (HDL) lên. 
    Trans    fat là gì? 
      Kỹ    nghệ làm bánh kẹo và margarine thường áp dụng phương pháp    hydro hóa  (hydrogenation)  bằng cách cho thêm    hydrogen vào dầu thực vật để chuyển chúng từ thể  lỏng sang    thể bán lỏng hay thể rắn chắc.Quá trình sản xuất nầy     sẽ làm nẩy sinh ra một loại acid béo rất xấu, đó    là Trans fat. Mục đích của hydrogenation  là để giúp    sản phẩm được khô ráo, tươi tốt, không bời rời, dễ hấp     dẫn người tiêu thụ và đồng thời cũng có thời gian tồn    trử (shelf life) lâu dài. Khi các bạn nhìn trên nhãn hiệu     có đề shortening hoặc made from hydrogenated    hay partially hydrogenated vegetable oil thì chắc chắn là có    cả khối Trans fat trong đó rồi.
   Cũng    như chất béo bão hòa, Trans fat làm tăng cholesterol xấu,    giảm cholesterol tốt và có khuynh hướng gây bệnh nghẽn mạch.
    Muốn    tính số lượng Trans fat trong sản phẩm,thì hãy xem nhãn    hiệu étiquette. 
   Trans    fat  =   Total fat     -   (saturated + polyunsaturated +    monounsaturated fat) 
   Theo    quy định mới về nhãn hiệu dinh dưỡng (Nutrition facts)    của Hoa kỳ và Canada, kể từ năm 2006 nhà sản xuất bắt buộc    phải cho ghi rõ  số Trans fat trên nhãn hiệu    của tất cả những sản phẩm bán ra. Được miễn áp dụng điều    lệ nầy nếu món hàng có tổng số chất béo (total fat)    thấp hơn 0.5 gr cho mỗi phần chuẩn hay xuất ăn (per serving,    par portion).
   Nói    chung, tất cả sản phẩm sản xuất theo lối công nghiệp, bán    ở các tiệm hoặc nhà hàng  đều có chứa Trans    fat: bánh ngọt, cookies, chocolat, patisserie, bánh    biscuit, mì gói, bánh mì croissant, chip, bánh  donut,    muffins, bánh trung thu , bánh pâté chaud bánh cracker    , peanut butter, khoai Tây chiên French fries,các loại margarine    cứng, được làm từ hydrogenated vegetable oil và thậm chí    những thỏi cớm ngọt (bars tendres, chewy granola bars) mà    quảng cáo nói là rất bổ dưỡng cũng có chứa Trans fat    trong đó.
    Một    số lượng nhỏ Trans fat cũng có thể thấy hiện diện    một cách tự nhiên trong một ít  thức ăn gốc động    vật như bơ, các sản phẩm làm từ sữa,  fromage,    thịt bò và thịt cừu . 
   Các    loại dầu mỡ 
   SHORTENING:    là dầu thực vật (đôi khi có pha thêm dầu động vật) được    chuyển thành mỡ đặc qua phương pháp hydrogenation.Thường    được dùng trong kỹ nghệ bánh kẹo. Rất xấu vì chứa quá    nhiều trans fat, cần phải tránh. 
   LARD/    SAINDOUX  (mỡ heo): mỡ đặc  rất    xấu  vì chứa rất nhiều chất béo bão hòa. Cũng như    Shortening, Saindoux  được chứa trong lon hoặc đóng thành thỏi 454    gr và bán nơi gian hàng  bột làm bánh trong các siêu thị. Cần nên    tránh.
   DẦU    DỪA (Coprah oil, coconut oil), và    DẦU CỌ (palm oil):    nhờ giá rẻ nên thường được sử dụng rộng rãi trong kỹ    nghệ thực phẩm,bánh kẹo, chocolat, càrem, margarine vv… Dầu    dừa, nước cốt dừa và dầu cọ đều chứa thật nhiều chất    béo bão hoà rất xấu. Cần nên tránh.
   Gần     dây trên Internet có tung tin dầu dừa trị bá bệnh- Đây là tin    tức  do Dr Joseph Mercola chủ mưu để bán sản phẩm của ông ta có    tên là  Tropical Traditions Virgin Coconut oil chớ không phài là nguồn    tin  chánh thức từ các dại học hay từ các tạp chí uy tín như    American  Journal of Clinical Nutrition, Lancet, Jama…Joseph Mercola là    một nhà  đầu tư ngoại hạng về thuốc thiên nhiên. Ông ta có    một website chuyên  nói về vấn dề sức khoè với 50 000 trang, và    có cả triệu lần truy  cập. Health Informations Electronic Newsletters    của trang web trên có  hơn 850 000 người subscribers. Optimal Wellness    Center của Mercola  chuyên bán thuốc thiên nhiên trị đủ thứ    bệnh.
   FDA    đã cảnh cáo ông ta nhiều lần rồi về tội quảng cáo ẩu    tả.
         DẦU    OLIVE : Nổi tiếng khắp thế giới. Được xem là rất tốt vì     chứa nhiều chất béo không bão hòa đơn thể. Có rất nhiều    loại dầu  olive, phẩm chất và giá cả cũng khác nhau. Hàng dõm cũng    nhiều. Đứng  đầu là dầu olive loại Extra virgin, first cold    pressed. Dùng trộn salade thì không có gì bằng. Giá hơi đắt. 
   DẦU    CANOLA: đây là tên thương mại của dầu Colza. Chứa nhiều    chất béo không bão hòa đơn thể, tuy không thể sánh nổi với    dầu olive được, nhưng được xem là  dầu    tốt. 
   DẦU    PHỌNG (peanut oil): chứa khá nhiều chất béo không bão hòa    đa thể và đơn thể. Dầu    tốt  để chiên xào, làm sauce mayonnaise,    trộn salade. Trong kỹ nghệ, dầu phọng thường được sử dụng    để làm margarine. 
   DẦU    BẮP (corn oil): chứa nhiều chất béo không bão hòa đa    thể.  Dầu tốt để chiên xào hoặc trộn    salade. 
   DẦU    ĐẬU NÀNH (soybean oil): chứa khá nhiều chất béo không    bão hòa đa thể và đơn thể. Dầu tốt. Kỹ nghệ thường    dùng dầu đậu nành để làm margarine và làm shortening. 
   DẦU    HOA HƯỚNG DƯƠNG (sunflower, tournesol): Dầu tốt, chứa    nhiều acid béo không bão hòa. Thích hợp để nấu nướng và    trộn salade. 
   DẦU    MÈ  (sesame oil): Mùi thơm. Dùng để chiên xào,    tuy nhiên mùi trở nên gắt ở nhiệt độ quá cao. Chứa nhiều    acid béo không bão hòa đa thể. Dầu tốt. 
   Các    chất béo không bão hòa (unsaturates) tuy được tiếng là    dầu tốt, nhưng cần nên nhớ đó cũng chỉ là mỡ dầu mà thôi,    không nên lạm dụng, ăn chừng mực vừa phải thì tốt hơn    . 
    BƠ    HAY MARGARINE? 
   Bơ     và  margarine đều là chất béo và có cùng một số calories    y nhau. Bơ được  làm từ sữa, margarine được sản xuất từ các    loại dầu thực vật,chẳng  hạn như dầu đậu nành hoặc dầu    đậu phọng.
   Bơ    và margarine loại bình thường đều có chứa trên 30% chất béo.
   Một    muỗng súp (15 ml)
    Bơ    : Total fat  :10.8 gr, Saturates: 7.2 gr,Trans fat:0.3gr,    Cholesterol:31.5 gr.
    Margarine    cứng: Total fat: 11gr, Saturates: 2.1gr, Trans fat:2.8gr, Cholesterol: 0    gr.
   Nhìn    chung, margarine chứa nhiều acid béo không bão hòa (unsaturates)    và chứa ít chất béo bão hòa (Saturates) hơn bơ.
   Xin    nói rõ thêm là có 2 loại margarine: loại cứng và loại mềm.
    Loại    margarine cứng đóng thành thỏi 454 gr, được làm từ     Hydrogenated hoặc partially Hydrogenated     vegetable oil, nên chứa nhiều Trans fat rất    xấu cần phải tránh.
    Để    giới hạn số lượng  chất béo ăn vào chúng ta nên    chọn loại margarine mềm, nhẹ (soft,light margarine), làm    từ các loại đầu thực vật Non Hydrogenated. Năm     1997, một nhóm khoa học gia Finland đã tung ra thị trường một     loại margarine đặc biệt chống cholesterol. Họ cho tăng cường thêm    một  loại sterol có tên là sitostanol vào margarine. Sitostanol    có  khuynh hướng ngăn chặn việc hấp thụ của cholesterol    xấu LDL tại  ruột, nhờ vậy có thể làm giảm từ 10-15% LDL    trong máu. Tên thương mại  của loại margarine nầy là Benecol,và    rất phổ biến bên Âu châu.
    Sữa 
   Sữa     nguyên chất 3.25% chất béo , 250 ml loại sữa nầy có 33mg     cholesterol và 8.6 g chất béo, trong đó có trên 5 g là chất béo bão     hoà. Muốn giảm béo thì cần nên sử dụng sữa 1% hoặc sữa    gạn kem (skim milk).  Sữa 1-2% có thể được dùng để thay    thế nước cốt dừa lúc nấu chè hoặc  nấu càri. 250ml sữa 2%    chất béo có 19 mg cholesterol và 3 g chất béo  bão hòa.
    Sữa     đặc có đường    ( Sweetened condensed milk)
   Chứa    rất nhiều đường  và rất nhiều chất béo.
    Ví     dụ: sữa Kim Cương, sữa Ông Thọ. (100gr sữa : Total fat 8.7 gr,     saturates 5.4 gr, monounsaturates 2.4 gr, polyunsaturates 0.33 gr, sugar  54.4    gr).
    Loại    sữa nầy Tây Mỹ dùng để làm bánh, nhưng đặc biệt người mình    thường sử dụng để pha café.
   Thịt    cá, đồ biển và chất béo. 
   Đối    với những người có sức khỏe tốt thì vấn đề chất béo không    nhất thiết phải đặt ra. 
    Nhưng    điểm quan trọng cho tất cả mọi người là nên sử dụng dầu    mỡ ở mức độ vừa phải thì vẫn tốt hơn  cho    sức khỏe .
    Dầu    mỡ có thể giết ta một cách âm thầm (silent killer) mà không    cần báo trước. Người ốm hay người mập, thì nguy cơ bị    nghẽn tim hoặc bị tai biến mạch máu não cũng giống nhau .
    Nói     chung thì cá tôm chứa ít chất béo bão hòa hơn thịt. Một trăm     gram: thịt đỏ (bò, heo, cừu) có 90-100 mg cholesterol, thịt gà 80    mg,  thịt vịt có chứa khá nhiều acid béo không bão hòa đơn    thể (chất béo  tốt), và mỡ bão hòa ở thịt vịt tuy ít hơn bơ    nhưng lại nhiều hơn dầu  olive.Thịt vịt cũng chúa khá nhiều    cholesterol 114 mg.
    Mức    độ mỡ nhiều hay ít còn tùy theo coupe,  loại thịt nào, có    lóc bỏ da, bỏ mỡ ra không,và cũng tùy theo cách  nấu nướng, có    thêm dầu thêm mỡ không, chiên, xào, nướng hay luộc?
   Tại    Canada luật ấn định, thịt xay (ground meat, viande hachée)    loại Regular  (chứa tối đa 30% mỡ    ) nhiều mỡ bão hòa nhất, loại Mi maigre ( medium    lean, maximum 23 % fat) , Maigre (Lean, max 17 % fat),    và tốt nhất là loại Extra maigre (extra lean).
    Sợ    mỡ thì nên mua loại thịt extra lean. 
    Đồ    lòng, phá lấu thì là vua chất béo và cholesterol.  100gr     gan bò có 355mg cholesterol, gan heo 372 mg cholesterol, tim 274 mg     cholesterol, thận hay trái cật bò 804mg cholesterol và óc bò chứa    2000mg cholesterol. Đừng quên thịt nguội charcuterie    (saucisse, jambon, lạp xưỡng) chứa rất nhiều mỡ, cholesterol,    muối  và hóa chất. Lòng đỏ hột gà loại Large    274mg cholesterol. 
   Tôm    cua chứa nhiều cholesterol hơn cá. Tôm : 166mg cholesterol, 6 con sò     46 mg cholesterol, Ở các loài thủy sản, chất béo thường có    dưới dạng acid béo Omega 3. Cá mackerel 99mg cholesterol,     cá pink salmon 65 mg cholesterol, cá cod 81 mg    cholesterol, khô mực 250 mg cholesterol. .. 
    Mỡ    vịt có tốt không? 
   Thịt    vịt chứa rất nhiều mỡ, đặc biệt là phần dưới da. Có    người nói rằng mỡ vịt nhờ có chứa khá nhiều chất    béo không bão hòa đơn thể (monounsaturates) nên cũng    rất tốt không thua gì dầu olive?
   Để    phòng bệnh tim mạch, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên cẩn    thận và nên chuộng các loại dầu không bão hòa đa thể polyunsaturates    và không bão hòa đơn thể có nhiều trong các loại dầu thực    vật, trong các hạt dẻ nut và trong cá.
    Le    gras de canard, bon ou mauvais? Extenso 
      Xét    về phương diện acid béo (acid gras),  thịt vịt nằm giữa bơ    và dầu olive. Thịt vịt chứa ít chất béo bão hòa  (chất béo    xấu) hơn bơ, nhưng lại ít chất béo không bảo hòa đơn thể     (chất béo tốt)hơn dầu olive. 
                
  |          
  Khác    hơn thịt gà là thịt trắng, thịt vịt dược xếp vào nhóm    thịt  đỏ (vì có tỷ lệ myoglobine cao) chung với thịt heo, trâu,    bò, và dê  cừu. 
   Dù     cho thịt vịt có chứa nhiều chất béo tốt (giống như dầu    olive) di  nữa nhưng nó vẫn là một loại thịt chứa quá nhiều    mỡ, quá béo cho nên  cần phải cẩn thận, ăn vừa phải, và    chỉ nên thỉnh thoảng mới ăn mà  thôi. 
       Những    chất có thể thay thế mỡ . 
                  Ý thức được những    bất lợi do dầu  mỡ gây ra  cho     sức khỏe nên giới kỹ nghệ thực phẩm đã cho tung ra thị trường    một  số sản phẩm có thể được dùng để thay thế mỡ. Các    chất nầy duy trì  tính trơn bóng và óng ả của sản phẩm. Người    tiêu thụ khi ăn vào vẫn  có cảm giác ngon béo như thật.Đó là    các chất Gomme de Guar, Gomme arabique, các chất     trích từ rong biển (như chất Carrhagénine ), các    chất tinh bột (starch) ), các loại đường Polydextrose,    hoặc các loại Protein trích lấy từ trứng gà.
    Những    chất vừa kể thường được sử dụng trong các loại thức ăn    nhẹ (light, diet) nhược năng  (hypocaloric).    Có thể thấy chất nầy trong các sauce sền sệt chua chua ngọt    ngọt dùng để trộn salade, trong sauce mayonnaise, trong các tartinade    (để trét lên bánh mì), và trong yogurt vv… Năm    1996,Hoa Kỳ đã tung ra thị trường chất Olestra để thay    thế chất béo trong kỹ nghệ thực phẩm. Olestra ổn định    ở nhiệt độ cao và được dùng rộng rãi để trộn trong các gói    chips bán khắp nơi. Tuy nhiên , tiêu chãy và tình trạng    trỉnh hậu môn thường xuyên là những trở ngại chính yếu    của Olestra. Chất nầy không được phép sử dụng tại    Canada . 
    Dầu    mỡ và các chất độc    . 
   Dầu    mỡ dễ bị oxy hóa, dễ hư và dễ bị hôi (rancid). Kỹ    nghệ đã sử dụng phương pháp ép nóng  để  trích    lấy dầu và sau đó là giai đoạn khử mùi. Trong quá trình sản     xuất, một số vitamin E sẽ bị mất đi. Nên biết là vitamin E là    chất  chống oxy hóa (antioxidant) rất hữu hiệu.  Để    tránh sự bất lợi nầy, nhà sản xuất cho trộn thêm những    chất chống oxy hóa như BHA (butylated hydroxyanisole)     hoặc BHT (butylated hydroxytoluene). Có dư luận cho rằng    hai chất vừa kể có thể gây ung thư? 
    Có    nên hoàn toàn loại bỏ chất béo hay không? 
   Không    nên . Muốn duy trì một sức khỏe tốt, cần phải có một số    chất béo trong dinh dưỡng .
    Ngày    nay, chất béo, mỡ dầu bị người ta kết tội đủ thứ, nào là    nguyên nhân của các bệnh tim mạch và một số bệnh cancer nữa.
    Bởi    lẽ nầy,chúng ta cần phải thận trọng hơn, hạn chế, tiết    giảm việc dùng thực phẩm quá béo, hoặc nhiều dầu nhiều mỡ,    nhưng chúng ta không thể hoàn toàn loại bỏ chúng được. 
    Nên    ăn bao nhiêu chất béo trong ngày? 
   +    The American Heart Association đưa ra khuyến cáo sau đây: 
   Tổng     số chất béo (tốt lẫn xấu) ăn vào trong một ngày không nên vượt     quá giới hạn 30% của nhu cầu năng lượng 2000 calories/ngày.    Biết rằng  1g chất béo tạo ra 9 calories. 
         - 1/2 số chất béo    phải là chất béo không bão hòa đơn thể monounsaturated fat    (có nhiều trong dầu  olive).
         - 1/4    là chất béo không bão hòa đa thể polyunsaturated fat (như oméga    3 và oméga 6).
         - 1/4    còn lại là chất béo bão hòa saturated fat.
    Có    cách nào để giảm chất béo hay không  ? 
   *    Chọn những loại sản phẩm ít chất béo bão hòa, trên nhãn    hiệu có chữ Light ,
   Léger,    Low fat , Faible en gras. Nên    dùng Margarine loại Soft, Light,
   Non    hydrogenated.
   *    Tránh những sản phẩm có chứa dầu dừa, nước cốt dừa và các    loại dầu cọ,
          hoặc    có chữ Shortening , Hydrogenated, Partially hydrogenated .
   *     Nên sử dụng các loại thức ăn hay dầu thực vật có    nhiều chất béo không bão hòa
   *    Nên dùng thịt nạc là tốt nhất. Thịt xay nhớ chọn loại Extra    maigre(Extra lean). 
                  * Thịt mua về,lóc bỏ    da, bỏ mỡ, nhất là thịt gà.
                   *     Hạn chế ăn đồ chiên, xào có quá nhiều dầu ,    nhiều nước cốt dừa (đồ mặn
                       cũng    như đồ chay)
                    *    Nấu canh, nấu cháo, kho thịt, chờ nguội vớt bỏ bớt mỡ.
                   *     Bớt đi ăn tiệm, ăn nhà hàng, cẩn thận với fast food,    junk food (tạp phẩm), chỉ
                       thỉnh    thoảng mới ăn mà thôi .
        *    Uống sữa gạn kem hoặc sữa 1 % .
        *Tránh    bớt ăn đồ lòng, phá lấu, thịt nguội.
        *     Bớt thịt bò, thịt heo, có thể thay thế bằng thịt gà    (bỏ da), và cá .
        *     Bớt xài dầu mỡ lúc nấu ăn, dùng loại chảo không dính T    Fal để chiên .
        * Ăn    nhiều rau, đậu, tàu hủ, trái cây. Một số rau quả tươi, đậu    nành có chứa chất Phytosterol. Chất nầy có khả năng ngăn    chận việc hấp thụ cholesterol tại ruột nhờ đó làm giảm    cholesterol trong máu.
    Đọc    kỹ nhãn hiệu trước khi mua 
   Tại    Canada và Hoa Kỳ nhãn hiệu dinh duỡng (nutrition facts,valeur    nutritive)  in trên sản phẩm phải tuân hành theo những quy định    pháp lý chặt chẽ  và rõ rệt về mặt kiểm soát thực phẩm. Chính    phủ Hoa Kỳ và Canada  (FDA và Santé Canada ) ấn định năm 2006 là    thời hạn chót để bắt buộc  giới kỹ nghệ thực phẩm phải    áp dụng nhãn hiệu dinh duỡng mới trên tất  cả sản phẩm bán    ra. Những từ in trên sản phẩm (gọi là allegations,claims)     đều phải tuân theo một số điều kiện ấn định bởi bộ    luật kiểm soát  thực phẩm. Sau đây là một vài thí dụ áp    dụng tại Canada : 
   -             Faible    teneur en cholesterol, low in cholesterol (ít    cholesterol): Không chứa hơn 20mg cholesterol cho mỗi phần chuẩn (par    portion, per serving). Không được có hơn 2 gr chất béo bão hòa    cho mỗi phần chuẩn và cũng không được chứa  nhiều    hơn 15 % calorie tạo ra bởi tất cả các loại chất béo.
   -             No    cholesterol, cholesterol free (Không     cholesterol): Không chứa hơn 3mg cholesterol cho 100 gr sản phẩm.  Không    có hơn 2 gr acid béo bão hòa và cũng không có hơn 15 % calorie  do các    chất béo tạo ra. Tuy nhiên,có một số sản phẩm gốc thực    vật  (thí dụ dầu bắp), tự nó không bao giờ có cholesterol cả    nhưng nhà sản  xuất vẫn cố ý cho in thêm câu cholesterol free,    no cholesterol, cholesterol O ,với mục đích chính là quảng cáo    và khuyến mãi mà thôi.
   -              Ngoài  ra, một số hàng nhập cảng từ Á Châu    cũng có cho in nhãn hiệu dinh  dưỡng đàng hoàng, nhưng những số    liệu ghi theo có thật sự đúng như  vậy hay không là một    chuyện khác.
   -             Faible    teneur en matières grasses, Leger en matières grasses, Low fat    (Ít  chất béo): Không được chứa hơn    3gr chất béo trong một phần chuẩn.  Không được có hơn 15 gr    chất béo nói chung cho 100 gr sản phẩm.
   -             Free    of  trans fat : ít hơn    0.2g trans fat cho mỗi phần chuẩn (per serving)
   -             Sans    gras, No fat , fat free  (Không    có chất béo): Không được có hơn 0.1 gr chất béo cho 100 gr sản    phẩm .
   -             Faible    teneur en acides gras saturés, low in saturated fat     (ít chất béo bão hòa): không chứa hơn 2 gr chất béo cho mỗi    phần  chuẩn và cũng không được có hơn 15 % calorie do chất béo    tạo ra.
   -             Léger,    Light (nhẹ)    giảm  25 % calories, hoặc chất béo hơn sản phẩm    bình thường cùng một loại.
   -             Source    of energy: phải có ít nhất là 100    Calories (hay 420kJ) cho một phần chuẩn. 
    Đánh    mỡ dẫu từ nhiều mặt 
   Béo    thì ngon, nhưng ăn nhiều và ăn thường xuyên quá cũng có thể không    tốt cho sức khỏe.
   Còn     nhớ lúc xưa ở quê nhà, mỗi lần đi ăn phở, mình thường hay    xin  thêm một ít nước béo cho nó ngon. Các món như chuối chưng,    chè đậu,  chè ba màu, bột chiên, cari, chả giò,  kiễm,    và đồ kho để ăn chay (mua ngoài chợ và cả ăn ở trong    chùa) đều có chứa hoặc nhiều nước cốt dừa hoặc nhiều    mỡ dầu  lắm.  Ba ngày Tết, hầu như mỗi nhà VN    đều phải có một nồi thịt kho nước  dừa , mà phải là loại    thịt đùi nửa nạc nửa mỡ mới đúng điệu.
   Chỉ     riêng một vài dẫn chứng vừa kể cũng đủ thấy là mỡ dầu là    một  thành phần quan trọng không thể thiếu được trong tập quán    ăn uống của  chúng ta.
   Ngày     nay, hiện tượng béo phì, bệnh tim mạch, cao máu, tiểu đường    và  một vài loại cancer là những tai họa thật sự trong xã hội    Bắc Mỹ và  cũng của Việt Nam nữa. Người ta thường gọi đó    là bệnh của nhà giàu,  nhưng riêng người viết thì không nghĩ    như vậy. Dù nghèo hay giàu, dù ở  VN hay ở bên Tây, bên Mỹ, bên    Tàu, dù ăn chay hay ăn mặn, dù ốm hay  mập, nếu xài quá nhiều    dầu mỡ thì nguy cơ bệnh tật vẫn giống y như  nhau hết.
   Tuy    vậy, chất béo cũng rất cần thiết cho trẻ em đang lớn, nhất    là lúc các cháu  được 1-2 tuổi. Chúng cần    thật nhiều chất béo  để tăng trưởng và để    phát triển tốt.
    Chất    béo của thực phẩm chưa phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng    nồng độ cholesterol trong máu. Hàm lượng chất béo (cholesterol    và triglyceride) trong máu cũng còn  có thể tăng    lên bởi nhiều nguyên nhân khác nữa như: di truyền, tuổi tác    cao, thời gian mãn kinh ở phụ nữ monopause, thiếu vận động    hay thể thao, bệnh tiểu đường, bệnh nhược giáp trạng (hypothyroidism),    bệnh gan (obstructive liver disease), bệnh suy thận mãn tính (chronic    renal failure), một số thuốc như steroid anabolisant,    progesterone,một số thuốc ngừa thai,các corticoides , thuốc    trị áp huyết cao nhóm Thiazide diuretics, các thuốc    trị cao máu thuộc nhóm chẹn bêta(bêta bloquant)như    Atenolol,Acebutolol vv… cũng có thể làm tăng cholesterol trong máu.
    Ngoài    ra cần phải nhớ là thuốc lá, rượu và café đều    là những thứ làm  gia tăng nguy cơ xuất hiện    các bệnh chứng về tim mạch.
    Hiện     nay trên thị trường có rất nhiều dược phẩm rất công hiệu    để làm  giảm cholesterol, và triglyceride trong máu, chẳng hạn như    Atorvastatin(Lipitor), Lovastatin(Mevacor),Pravastatin (Pravachol),    Simvastatin(Zocor), Gemfibrozil(Lopid), Probucol,Clofibrate , Fenofibrate     vv..Tuy vậy ,  phản  ứng phụ của chúng    cũng nhiều và có thể gây ảnh hưởng xấu đến chức  năng    hoạt động của gan (làm tăng các enzyms của gan). Chúng ta cần     phải tuyệt đối tuân theo lời chỉ dẫn của bác sĩ.
    Đứng    về mặt  thuốc thiên nhiên ,quảng cáo cũng     không phải ít về những sản phẩm có thể giúp hạ    cholesterol, giảm mập vv… Đó là các viên dầu cá có chứa một    hỗn hợp gồm có Omega 3,6,9 + vitamin E , niacin , tisane,     trà xanh, trà đắng, trà đinh, thuốc lá cây, nấm linh chi, nấm hương,     tam thất, mộc nhỉ, mè đen và biết bao nhiêu thứ khác nữa được    bày  bán trong các tiệm thuốc Bắc hoặc được giới Đông y    phổ biến . Các  sản phẩm vừa nêu  có thể giúp    làm giảm một phần nào chất béo trong cơ thể , tuy vậy    phía Tây y vẫn thường xuyên cảnh giác mọi người cần     nên thận trọng để tránh cảnh tiền mất tật mang.
    Một    vài loại thực phẩm, chẳng hạn như các chất xơ tan trong nước    (soluble fibre ) thấy nhiều  trong cám lúa    yến mạch (oat bran, son d’avoine ), lúa mạch     (barley), Psyllium , hạt hạnh nhân  (almond),    quả hạch Walnut, củ hành Tây, tỏi ăn sống,    trái blueberries, sữa đậu nành cũng có thể giúp làm    giảm phần nào cholesterol xấu trong máu. 
   +    Tiết chế ăn uống: ăn vừa phải các chất đường, mỡ và    muối. 
   +     Nên dùng nhiều rau quả tươi, năng vận động, tập thể dục đều    đặn  và thường xuyên, giảm mập, bỏ thuốc lá, bớt rượu và    bớt cà phê. 
   +    Nên quẳng gánh lo đi và vui sống với mọi người. 
   +     Riêng với người có tuổi, mỗi năm nên đi khám bác sĩ và xin    được  thử máu, thử tim một lần. Căn cứ vào kết quả xét    nghiệm, bệnh sử và  một số yếu tố khác như tuổi tác, cân    nặng, có hút thuốc, nam hay nữ,  có bị tiểu đường hay không…    Bác sĩ sẽ thiết lập cho bạn một bản ước  đoán % mối nguy cơ    bạn có thể bị nghẽn mạch vành tim (risque de coronapathie)    thuộc vào loại  nào (thấp - trung bình - cao) trong    vòng 10 năm sắp tới. 
   Biết    để đề phòng, để thay đổi cách sống và cũng để uống    thuốc! 
   Và    đây cũng lời khuyên của một nhà chuyên khoa về tim mạch Việt    Nam, BS Michel Nguyễn của Đại học Sherbrooke:
   Để     phòng ngừa bệnh tim mạch chúng ta cần phải thay đổi nếp    sống:  dinh dưõng trong lành, tập thể dục thường xuyên, bỏ    thuốc lá, và đồng  thời nên uống thuốc để tác động thẳng    lên những yếu tố nguy cơ…
   En    modifiant votre mode de vie    (alimentation saine s’inspirant du Guide alimentaire canadien, exercice    physique régulier et arrêt du tabagisme) et en suivant, en parallèle,    un traitement médicamenteux  qui agit sur les facteurs de risque, vous    diminuez sans aucun doute  l’inflammation, la progression de la maladie et    conséquemment les  risques d’avoir d’autres crises d’angine ou un    infarctus. Il n’est jamais trop tard pour changer ses mauvaises habitudes.
   De     nos jours, avec tout l’arsenal thérapeutique médical, l’angioplastie     coronarienne et le pontage, il est rare qu’il ne soit pas possible  de contrôler    la maladie ou les symptômes pour que la personne  atteinte puisse mener une    vie normale. À condition qu’elle sache se modérer..
    Troubles    Cardiaques.(passeportSanté).2005
    Dr Michel    Nguyen, cardiologue.Chaire    Lucie et André Chagnon pour l'enseignement d'une approche intégrée en prévention,    Université de Sherbrooke, Canada
   ĂN            NGỌT VÀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNGThèm      ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể để củng cố năng      lượng.
     Carbohydrate      hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar),      tinh bột (amidon, starch) và chất xơ (fibre). Đa số      glucide từ thức ăn bị phân cắt ra thành glucose đề tạo ra năng      lượng.
     Những      chất nầy rất cần thiết cho chúng ta để sống.
     Mật      ngọt chết ruồi. Lời đường mật làm con tim si dại.
     Nhưng      hảo ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm lắm đó!
     Người      bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được không?
     Theo      l’Association Canadienne du Diabète,      thì  họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng      phải ăn một cách điều độ chừng  mực và vừa phải mà thôi.      Cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn  trái cây, rau cải,      hoặc bằng các sản phẩm của sữa.
     Trong      một ngày, bệnh nhân  không được ăn quá giới      hạn tối đa 10%  calories từ các thức ăn ngọt. Thí dụ,      một người có nhu cầu năng  lượng là 2.000 calories/ngày, thì      10% tương đương với 200 calories. 
     Biết      rằng 1gr đường cho 4 calories...
     Một      lon coca loại regular có chứa 12 muỗng cà phê đường (48g đường)      tương đương với 192 calories!
     ...“IT       HAS BEEN SAID THAT there is approx. 1 teaspoon of sugar per ounce  of soda.      So a 12 oz. can of Coke contains about 12 teaspoons of  sugar. One teaspoon      of sugar is about 16 calories. So a can of Coke  has about 192 calories. If      you drink a six-pac of Coke, you get  about 1,152 calories!”
...“Another way is to look at the label, which says that a 12 oz can of Coke has 140 calories. That means that the can has the equivalent of 9 teaspoons or 3 tablespoons of sugar. That's still a lot!”
Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi.
Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.
     
...“Another way is to look at the label, which says that a 12 oz can of Coke has 140 calories. That means that the can has the equivalent of 9 teaspoons or 3 tablespoons of sugar. That's still a lot!”
Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi.
Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.
Các      nhà khoa học Âu Mỹ đều nói rằng, không có mối liên hệ      trực tiếp cho thấy đường là nguyên nhân gây ra bệnh      diabetes type II... Nhưng về mặt sinh lý học, rất có thể đường      gây ra bệnh tiểu đường một cách gián tiếp, chẳng      hạn như trong trường hợp chúng ta thường tiêu thụ      những thức ăn thức uống có chỉ số đường huyết (glycemic      index) cao, khiến tụy tạng phải thường xuyên tiết insulin      nên bị mệt mỏi, và trở nên yếu đi. Đây là tình trạng đề      kháng insulin (insulin resistance).
     Insulin      resistance (IR) is the condition in      which normal amounts of insulin      are inadequate to produce a normal insulin      response from fat,      muscle      and liver      cells.      Insulin resistance in fat      cells reduces the effects of insulin and      results in elevated hydrolysis      of stored triglycerides       in the absence of measures which either increase insulin  sensitivity or      which provide additional insulin. Increased  mobilization of stored lipids in      these cells elevates free fatty      acids in the blood      plasma. Insulin resistance in muscle cells      reduces glucose      uptake (and so local storage of glucose as glycogen),       whereas insulin resistance in liver cells results in impaired  glycogen      synthesis and a failure to suppress glucose production.  Elevated blood fatty      acid levels (associated with insulin  resistance and diabetes mellitus Type      2), reduced muscle glucose  uptake, and increased liver glucose production      all contribute to  elevated blood glucose levels. High plasma levels of      insulin and  glucose due to insulin resistance are believed to be the origin      of metabolic      syndrome and type      2 diabetes, including its complications.
     Gs       Jim Mann thuộc Đại Học Otago (New Zealand) cũng nhận định       rằng, đường gây béo phì và tình trạng nầy sẽ dẫn tới      bệnh tiểu  đường. Mập bụng (abdominal obesity) là một      mối nguy cơ (risk factor) làm xuất hiện bệnh tiểu đường      type II.
     Trong       thực tế, rất khó tách rời ảnh hưởng của đường trong      bệnh  diabetes. Thêm đường vào thức ăn thức uống chỉ làm tăng      calories ăn  vào chớ chẳng làm gia tăng giá trị dinh dưỡng      của sản phẩm.
     Các       khảo cứu về bệnh tiểu đường những năm gần đây nghi      ngờ các  loại nước ngọt có gaz như Coca, Soda, Pepsi, Seven Up,      v.v...đã dự  phần quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh      diabetes.
     Vậy      thì Fructose có tốt hơn không?
     Fructose,      là đường trích từ trái cây.
     Fructose       ảnh hưởng ít hơn các loại đường khác trong việc làm gia tăng       đường huyết, vì vậy từ trước tới giờ các bệnh nhân      diabetes thường  được khuyên nên sử dụng đường fructose để      tạo vị ngọt, nhưng ngày  nay thì fructose mất dần sự sáng chói      của nó.
     Được       biết rằng, ảnh hưởng của fructose không mấy quan trọng trong       việc kiểm soát đường huyết, vì nó không kích thích sự      tiết insulin, và tai hại hơn nữa là nó làm tăng hàm lượng      loại chất béo xấu triglyceride lên.
     A       sweetener known as high-fructose corn syrup has been widely used  in sodas      and processed foods since the 1980s, and some researchers  have blamed this      trend at least in part for the concurrent rise in  obesity and diabetes.
     Other       studies have linked diets heavy in high-fructose corn syrup to  elevated      risks of high triglycerides (a type of blood fat), fat  buildup in the liver,      and insulin resistance, note Dr. Gerald  Shulman and colleagues at Yale      University School of Medicine.
     SOURCE:      Cell Metabolism, March 4,      2009
     Sự       gia tăng triglyceride trong máu là một yếu tố làm tăng nguy cơ       bệnh tim mạch. Thí nghiệm trên thú vật cho thấy fructose còn làm       tăng sự kháng insulin, đồng thời cũng ảnh hưởng đến hiện      tượng dung  nạp glucose (impaired glucose tolerance) và hiện tượng      cao máu.
     Thí       nghiệm lâm sàng sơ khởi thực hiện ở người, còn cho biết       fructose làm tăng cân do tác dụng xấu trên hàm lượng của hai       hormones liên hệ tới sự no (satiety) và sự đói (appetite)...
     Đó      là hormones leptine và ghréline.
     Chỉ      số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?
     GI       do Gs David Jenkin, Canada nêu ra đầu tiên vào năm 1981. Ý niệm       nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (đường      cát) và  đường phức tạp (cơm, bánh mì, spaghetti, khoai tây...)      đã lỗi thời.
     Chỉ      số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một      chất bột đường (glucide, carbohydrate) ra thành glucose      để được hấp thụ vào máu.
     Một      thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh.
     Các      nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy      tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và yếu tố insulin      like growth factor one IGF-1.
     Theo      thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin      mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có      thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
     ...“There's      good evidence from the studies that have been done that high GI diets are      linked to cancer  as well. This is because constant spikes in blood      glucose that  cause the body to release more insulin also increase a related       substance called 'insulin like growth factor one' (IGF-1)”.
..."Both these hormones increase cell growth and decrease cell death, and have been shown to increase the risk of developing cancer”.
"Other research shows that a high GI diet tends to reduce 'good' HDL cholesterol levels and raise triglycerides levels; bad news for cardiovascular diseases. And people with low HDL cholesterol and high triglyceride levels are more prone to gall stones. Up until now, people have considered fats and salt, not carbohydrates, to be the major contributor to heart disease”. http://www.sciencealert.com.au/news/20081103-17021-2.html
     
..."Both these hormones increase cell growth and decrease cell death, and have been shown to increase the risk of developing cancer”.
"Other research shows that a high GI diet tends to reduce 'good' HDL cholesterol levels and raise triglycerides levels; bad news for cardiovascular diseases. And people with low HDL cholesterol and high triglyceride levels are more prone to gall stones. Up until now, people have considered fats and salt, not carbohydrates, to be the major contributor to heart disease”. http://www.sciencealert.com.au/news/20081103-17021-2.html
Vì      vậy, các nhà dinh dưỡng      khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp      để ngăn ngừa bệnh béo phì, bệnh tim mạch và tiểu      đường type II.
     Trong      thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức      ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày.
     Nhìn      chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh      mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những      thực phẩm chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.
     Đối      với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ      tăng chậm hơn là nếu dùng các loại đường đơn giản quá      tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.
     Tuy      vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức      tạp như gạo trắng, white bread, bắp, khoai tây lại có GI      cao hơn một số đường đơn giản.
     GI      cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như:
     -      kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal      càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI càng cao;
     -      cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati, và gạo      Doongara CleverRice chứa nhiều đường amylose nên có      GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn      hằng ngày);
     -      cách biến chế nấu nướng, như khoai tây nấu chín trong nồi có      GI thấp hơn khoai tây đút lò; bột khoai tây (purée, flocon de      pomme de terre, potato flake) có GI cao hơn GI khoai tây nguyên      củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín;
     Trong      lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận động viên      quan tâm đến.
     Trước      hôm ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và      GI trung bình, như pasta, spaghetti, chuối, yogurt để dự      trữ năng lượng…
     Ngày      tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các      thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamins.
     Ngay      sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để      bù đắp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao.
     Đây      là một nguyên tắc thường được các người tham dự các      cuộc chạy marathon áp dụng.
     Chỉ      số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm
     +      Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100
     +      GI thấp: Thức ăn có GI thấp hơn 55
     Đậu      nành      - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu      trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo      pomme (39), biscuit khô (55), bột lúa mạch oat (50), bún      (35), gạo Basmati có nhiều amylose (50), carotte tươi      (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lức -      đậu petit pois - khoai lang - bánh mì multigrain      - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà      tím - ớt xanh - hành tỏi - nấm rơm (10), bưởi      (22), cam (43), trái poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche      tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).
     +      GI trung bình: Thức ăn có GI trung bình 56 - 69
     Cà      rem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé      entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64),      đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).
      +      GI cao: Thức ăn có GI cao trên 70
     Carotte      chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài chứa      ít amylose (72), gạo tấm broken rice (86), nếp      glutinous rice (98), các loại cereal – cornflakes      (80), mật ong (90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer      (110), khoai tây chiên fries hay khoai đút lò (95), khoai      tây nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn      chip (72), bánh biscuit khô cracker (78), bánh mì      baguette (95).
     Cách      phòng ngừa tình trạng tiền tiều đường / tiểu đường type      II
     Trước      nhất là phải chuộng một nếp sống lành mạnh.
     *-Bỏ      thuốc, giảm cân, làm cho ốm bớt nếu trường hợp bệnh nhân      đang mập phì sẵn.
     *-Hạn      chế việc sử dụng dầu mỡ, kiêng cữ đồ ngọt, bớt chất      bột đường, tránh thức ăn làm từ bột quá tinh chế (refined).
     *-Tránh       bớt việc tiêu thụ quá thường xuyên các loại thịt nguội      biến  chế như thịt bacon, hot dog, lạp xưỡng, saucisse, v.v...
     Khoa       học cho biết các chất bảo quản được tìm thấy trong thịt      nguội  như nitrate và nitrite, ngoài nguy cơ gây ra cancer ruột, chúng       cũng còn có thể làm tổn hại tụy tạng là bộ phận tiết ra      insulin.
     *-Nên      dùng nhiều trái cây, ngũ cốc, đậu, hạt, rau cải chứa      nhiều chất xơ...
     *-      Ăn chay cho đúng cách cũng có thể giúp hạ đường      huyết một phần nào.
     *-      Không ăn những loại trái cây quá ngọt như chuối quá chín      chẳng hạn.
     *-Chọn      những loại thực phẩm có chỉ số đường huyết GI thấp.
     *-Tránh      ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như      cơm trắng hạt dài, cơm tấm, xôi nếp, khoai      tây đút lò, bánh mì baguette...
     *Nên      bớt ăn cơm thì tốt nhất!!
     Thay      thế gạo trắng hạt dài bằng những loại gạo có nhiều      amylose và GI thấp, như gạo Ấn độ Moolgiri, Basmati,      Maharani  hoặc gạo Doongara Clever Rice của      Úc châu chẳng hạn..
     Đã       có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long      grain),  loại mà chúng ta thường ăn hằng ngày là một trong      nhiều nguyên  nhân làm tăng đường huyết rất nhanh...
          *-Có      thể thay thế cơm bằng bún, miến, đậu xanh, bắp cải, bông      cải xanh Broccoli, bông cải trắng cauliflower, rau      cải luộc, v.v... là những thức ăn có GI thấp.
     *-Phải      năng vận động, thường xuyên tập thể dục mỗi ngày ít      nhất 30 phút, và tập cho ra mồ hôi mới hiệu quả.
     *-Bỏ      thuốc lá là một việc cần phải làm.
     *-Nói      tóm lại, là bạn phải có một nếp sống thật sự lành      mạnh vậy!
     Kết      luận
     Cho      đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu      đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể      được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết      ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi.
     Mục      tiêu của việc trị liệu bệnh tiểu đường là giúp ổn định      đường huyết glycemie và ngăn      ngừa các biến chứng. Trong tất cả mọi trường hợp,      sự theo dõi của bác sĩ điều trị là điều rất cần thiết.
     Diabetes       has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability  to absorb      glucose (sugar). Once these changes happen, the body  never fully regains its      ability to process glucose.
However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)
     However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)
Một      chế độ dinh dưỡng quá cao nhiệt năng (higher calorie diet),      nói theo kiểu người mình là bơ sữa hơi nhiều, đớp hít hơi      kỹ, lối sống quá nhàn rỗi, tà tà, ít chịu vận động (more      sedentary lifestyle) sẽ đưa đến tình trạng béo phì (obesity).
     Đây      là yếu tố nguy cơ (risk factor) dẫn đến bệnh tiểu đường      của phần đông người Việt Nam tại hải ngoại.
     Hy      vọng trong 10 năm nữa khi kỹ thuật trị liệu tiểu đường      bằng tế bào gốc (stem cell) được hoàn chỉnh hơn, lúc      đó chúng ta mới biết là bệnh tiểu đường có thể trị      dứt được hay không!.
     Thôi       bây giờ bạn cứ quẳng gánh lo đi và vui sống, chớ bận tâm      làm  chi với bệnh tiểu đường, nhớ kiêng cử trong ăn uống,      cũng như đừng  quên đo đường huyết mỗi ngày và uống đều      đặn thuốc Metformin nhé!
Nguyễn Thượng Chánh,  DVMBỆNH    LÚ LẪN ALZHEIMERNgày     xưa ở Việt Nam người viết cũng đã    từng gặp rất nhiều bác lớn tuổi     bị lú lẫn đi chơi trong xóm nhưng không    biết đường về nhà. Có khi  thì    con cái đã dọn cơm ăn rồi, nhưng    lại trách móc là tụi nó chưa     dọn...Thuở đó, mình nghĩ rằng    hễ già cả rồi thì ai cũng có    thể  bị lú lẫn hết. Có người    bị nặng, có người bị nhẹ. Chỉ    đơn giản  vậy thôi!
   Cho    đến sau ngày định cư tại Canada năm    1980, mình mới được nghe đến cái    tên Alzheimer lần đầu tiên.
   Đây    là một căn bệnh của người già    nên ít ai quan tâm đến như bệnh tim    mạch, ung thư hay tiểu đường. 
   Người    Việt Nam mình dù cho sống ở đâu    đi nữa cũng vẫn có thể vướng    bệnh Alzheimer như  mọi dân tộc    khác...
   Alzheimer,    căn bệnh của thế kỷ
   Alzheimer    là bệnh thoái hóa (neurodegenerative),    không phục hồi của hệ thần kinh.    Bệnh nhân dần dần bị mất trí    nhớ, thay đổi tâm tánh và sa sút    trí tuệ (dementia, démence).
   Bệnh     do Bác Sĩ Alois Alzheimer (Đức Quốc) tìm    ra vào năm 1906 sau khi  giải phẫu khám    nghiệm một người đàn bà chết vì    chứng sa sút trí  tuệ.
   Quan    sát não bộ cho thấy có sự hiện    diện của rất nhiều mảng thoái hóa    amyloides (neuritic plaques, plaques amyloides) bên ngoài    tế bào thần kinh chết và những xoắn    sợi thần kinh (neurofibrillary tangles, écheveaux    neurofibrillaires) do protein Tau  tạo ra nằm trong    tế bào. Các mảng amyloides và các    xoắn sợi thần  kinh làm tổn hại hệ    thần kinh và ngăn trở sự dẫn truyền    mệnh lệnh. 
   Bệnh    dần dần dẫn đến sự sa sút trí    tuệ ở người già.
   Đây     là một hội chứng phức tạp bao gồm    nhiều bệnh lý khác nhau như sự  mất    trí nhớ, mất khả năng phán xét, lý    luận, thay đổi nhân cách,  tâm tánh,    cử chỉ, hành động.
   Cả     nhiều thế kỷ qua, người ta vẫn thường    tuởng rằng hiện tượng trên  là    một giai đoạn bình thường trong tiến    trình lão hóa.
   Ngày     nay, khoa học cho biết sự sa sút trí tuệ    là hậu quả của nhiều  bệnh lý khác    nhau như: đứng đầu là Alzheimer, tai    biến mạch máu  não stroke, bệnh    Parkinson, bệnh Hungtinton, bệnh Creutzfeldt  –Jacob (còn    gọi là bệnh bò điên), cancer não,    chấn thương sọ não,  lạm dụng rượu,    và một vài loại thuốc Tây, v.v... 
   Thống     kê cho biết, tại Canada hiện có 300.000 người    bị Alzheimer. Cứ 20  người tuổi trên 65 thì    có một người bị Alzheimer. Theo ước    đoán,  vì tầng lớp người già    không ngớt gia tăng thêm lên mãi, cho nên    số  bệnh nhân Alzheimer có thể lên đến    3-4 triệu người vào năm 2031.
   Hoa     Kỳ hiện có 5,3 triệu bệnh nhân Alzheimer,    trong số nầy gồm có 5,1  triệu người    trên 65 tuổi, và 200 000 người bệnh dưới    65 tuổi. 
   Alzheimer     không những chỉ tàn phá bệnh nhân    mà thôi, nhưng nó cũng ảnh  hưởng    nặng nề luôn đến sinh hoạt gia đình    và cuộc sống của người  thân    nữa. 
   Đó    cũng là một gánh nặng về y tế phí.
   Tại    sao có bệnh Alzheimer? 
   Cho    tới ngày nay, các nhà khoa học cũng chưa    tìm ra được nguyên nhân thật    sự của căn bệnh quái ác nầy.    Họ nghi ngờ bệnh có thể là do một    loại virus  có biến chuyển    chậm (lentivirus), do độc tố từ chất    nhôm aluminium, ô nhiễm môi sinh (pesticides,    nông dược), do hiện tượng tự    miễn autoimmune, hoặc do di truyền (maladie    d’Alzheimer familiale autosomique dominante)  nếu đã    từng có xảy ra cho những người thân    trong gia đình, hay  trong dòng họ qua nhiều    thế hệ rồi, hoặc nếu cha mẹ mang gène    Alzheimer thì con cái có thể có nguy cơ    bị Alzheimer sau nầy. 
   Nhưng    hình như các nhà chuyên môn thiên    về phía giả thuyết «protéine    bất thường» nhiều hơn hết,    trong đó protéine beta amyloide không hoà    tan đóng một vai trò then chốt trong sự làm    phát sinh ra bệnh Alzheimer... Protéine    nầy hiện diện một cách bình thường    trong các tế bào thần kinh và cả trong    tế bào của các cơ quan khác nữa. 
   Ở    người khỏe mạnh bình thường, beta    amyloide sẽ tự phân hủy và bị    loại đi nên không thể tạo ra các    mảng amyloide được. Còn đối    với bệnh nhân Alzheimer, protéine beta amyloide    không thể tự phân hủy mà còn    kết hợp lại với nhau thành những mảng    amyloides trong mô não.
   Người    ta cũng nhận thấy có sự tan biến    tế bào thần kinh trong những vùng    thuộc về trí nhớ, và các vùng tâm    thần xung yếu khác của não bộ. Ngoài    ra còn có sự tuột giảm nồng độ    của acetylcholine là chất dẫn truyền    thần kinh (neurotransmitters). 
   Những    giai đoạn của bệnh Alzheimer 
   Đôi    khi một số nhà chuyên môn sử dụng    một thang thăm dò gồm có bảy bậc    được gọi là thang suy thoái toàn    diện (échelle de détérioration globale ou    échelle de Reisberg). 
   Bệnh    Alzheimer có diễn biến chậm và tuần    tự thông qua ba giai đoạn.  Sự     phân chia nầy rất cần thiết để giúp    bác sĩ có một mô hình tổng  quát    của người bệnh, hầu có thể phát    họa kế hoạch chữa trị thích  nghi.
   1*Giai    đoạn tiên khởi: 
   Kéo    dài từ 2 đến 4 năm. Thỉnh    thoảng hay quên việc nầy việc nọ.
   Đôi     khi bệnh nhân than phiền khó tiếp thu    được những thông tin từ bên  ngoài,    hoặc cảm thấy  khó khăn để thi hành    theo lời chỉ dẫn.  Người bệnh cũng    gặp nhiều trở ngại trong cách diễn đạt    tư tưởng  của họ, không thể tìm    ra đúng chữ để sử dụng. 
   Khó     phân biệt giai đoạn nầy với hiện tượng    lão hóa thông thường của  mọi người.    Bình thường thì người già cũng    hay quên những chi tiết  nào đó hay    những chuyện lặt vặt trong sinh hoạt hằng    ngày. 
   Người     bị bệnh Alzheimer cũng có thể quên    một cái gì đó, một chi tiết  nào    đó, quên cả việc lớn và lẫn    việc nhỏ nhoi không quan trọng.
   Thay     đổi nhẹ về nhân cách, thí dụ    như tâm tánh bất thường, lo âu,     trầm cảm, có khi giận dữ, mất đi    sự hồn nhiên thường nhật, bớt tánh     khôi hài, từ từ sống khép kín    hoặc rút ra khỏi các sinh hoạt quen     thuộc.
   Sự    mất trí nhớ càng ngày càng tăng    thêm theo thời gian và theo sư tiến triển    của bệnh.
   2*Giai     đoạn trung gian: 
   Kéo    dài từ 2 đến 10 năm. Suy thoái về các    khả năng trí tuệ và thể xác.
   Mất    trí nhớ, quên cả quá khứ của mình,    quên bạn bè là những ai, hoặc quên    luôn cả cha mẹ.
   Không    thể định hướng trong không gian và    trong thời gian. 
   Một     số bệnh nhân trở nên không yên,    đi tới đi lui, hoặc đi lang  thang, lai vãng    từ chỗ nầy đến chỗ nọ mà không    có mục đích rõ rệt.  Mất sự    tập trung tư tưởng. Giai đoạn nầy gây    nhiều khó khăn cho  những người có    nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân. 
   Tâm     thần không ổn định. Giấc ngủ bị    xáo trộn. Ngôn ngữ khó khăn. Khó     khăn trong việc tìm chữ thích hợp để    nói, hay dùng những từ không  chính xác.
   Trở     nên thù địch, chửi thề, chụp    giữ, đánh cắn, đập phá, hung    bạo  với mọi người xung quanh, bạn bè    và cả với người thân trong gia đình.
   Thường    có tâm trạng hay bực tức, la hét,    hoảng loạn và sau đó thì rơi vào    trạng thái trầm cảm.
   Không    thể sống một mình được. Cần    phải có người săn sóc một cách    thường trực. 
   3*Giai    đoạn cuối cùng: 
   Thường    rất ngắn ngủi, chỉ kéo dài từ 1    đến 3 năm mà thôi. Thường    hay ngủ suốt ngày. Bất động.    Không còn nhớ gì hết. Không còn    hiểu gì hết. Không còn biết phương    hướng. Không nhận biết người nhà.
   Bệnh    nhân ăn uống không được, hay sặc,    khó nuốt, nên bị mất cân,    gầy ốm rất nhanh.
   Mặt    vô cảm không biểu hiện một cảm xúc    nào hết. Quên cả bản thân. Không    quan tâm đến môi trường xung quanh.
   Trao    đổi liên lạc với người khác không    bằng lời nói mà qua ánh mắt,    bằng sự khóc la hoặc rên rỉ.
   Mất    trí nhớ, mất khả năng trao đổi    ý tưởng với người khác. Không    nói được. Ỉa trây đái    dầm (incontinence).
   Không    tự rửa ráy, tự mình bận đồ    hoặc tự mình săn sóc được. 
   Nằm    liệt giường và cuối cùng thì    chết đi vì bị viêm phổi, viêm    thận hoặc vì một chứng bệnh nào khác.
    Có    thể lầm lẫn với hiện tượng lão    hóa bình thường 
   Alzheimer    có biến chuyển rất chậm vì vậy    bệnh nhân cứ tưởng rằng tại họ    già nên phải mất trí nhớ.
   Đôi    khi những dấu hiệu bên trên là    những báo hiệu bước đầu của    bệnh Alzheimer.
   Có    10 dấu hiệu tiên phong: Hãy coi chừng đó!
      1/    Mất trí nhớ ngắn (Memory loss that affects day to    day function):  nghĩa là không nhớ    những việc gì mới xảy ra gần đây.    Tuy nhiên,  sự kiện nầy có thể xảy    ra cho bất kỳ ai. Đôi khi tự nhiên mình     quên phức đi một cái tên, một    số điện thoại, v.v... Người bị     Alzheimer cũng quên như thế nhưng họ không    bao giờ nhớ trở lại được  hết và    họ cứ hỏi đi hỏi lại hoài hoài    về một vấn đề mặc dù họ đã     được trả lời rồi. 
   2/    Khó khăn trong đời sống hằng ngày (Difficulty    performing familiar tasks):  như không thể    tự nấu cơm, tự chuẩn bị một bữa    ăn bình thường. Đôi  khi làm xong nhưng    quên lững không dọn ra, hay họ quên là    họ đã  có chuẩn bị bữa ăn    rồi. 
   3/    Khó khăn trong ngôn ngữ (Problems with language):     hay quên những chữ rất thường, hoặc    sử dụng những từ không thích  hợp    khiến cho không ai hiểu nổi. Không có    thể gọi đúng tên đồ vật. 
   4/    Mất định hướng trong thời gian và    trong không gian (Disorientation of time and place):     họ có thể bị lạc lối trên con    đường trong xóm mà họ ở từ xưa     nay. Họ không hiểu tại sao họ đang ở    chỗ đó, và cũng không biết lối     nào để trở về nhà. 
   5/    Không biết cách phán xét, hoặc phán    xét quá thô thiển (Poor or decrease judgment):     một người còn khỏe mạnh đôi lúc    có thể bị lãng trí như quên không     giữ cháu bé trong giây lát. Người    bị Alzheimer thì quên tuốt luôn  sự    hiện diện của đứa nhỏ mà mình    có trách nhiệm trông coi. 
   6/    Gặp khó khăn trước những khái    niệm trừu tượng (Problems with abstract thinking):     ai cũng có thể gặp khó khăn trong    việc theo dõi kiểm soát sổ  trương    mục tiết kiệm của mình. Người    bị Alzheimer thì không  còn  hiểu ý    nghĩa các số ghi trong cuốn sổ của    họ và cũng không biết họ  cần    phải làm gì. 
   7/    Lạc mất đồ đạc (Displacing things):     họ có thể cất giữ đồ vật trong    những nơi không thích hợp, chẳng  hạn    như đem cất cái bàn ủi trong ngăn    đá của tủ lạnh, hoặc đem cất  cái    đồng hồ trong keo đường, v.v... 
   8/    Biến đổi tâm tánh và thái độ    (Changes in mood and behavior):  ai cũng có thể    thay đổi tâm tánh hết, nhưng người    mắc bệnh  Alzheimer thì có cảm xúc không    ổn định, tâm tánh của họ biến    đổi  rất mau, thí dụ như đi từ    điềm tĩnh vui cười trước đó    sang thái độ  thù nghịch hoặc giận    dữ khóc lóc chỉ trong vòng đôi ba    phút mà  thôi. 
   9/    Thay đổi nhân cách (Change in personality):     người bệnh Alzheimer có thể trở nên    cau có khó chịu, đa nghi, e  dè và lo    âu. Có thái độ thù địch    với mọi người kể cả người thân     trong gia đình họ. 
   10/    Mất hết sự ham muốn và sáng kiến (Loss    of initiative):  họ tách rời ra khỏi    cuộc sống, không muốn tham gia vào bất    cứ một  sinh hoạt nào hết. Sống thu    hẹp lại, không quan tâm đến người     khác, việc khác, v.v...
   Có    thuốc trị không?    
   Cho    đến nay cũng chưa có một loại    thuốc nào có thể chữa được hay    chặn đứng lại được sự tiến    triển của bệnh Alzheimer.
   Chỉ     có thuốc giúp làm giảm bớt được    phần nào các triệu chứng của  bệnh,    và giúp cho đời sống của bệnh nhân    được phần nào dễ chịu hơn  đôi    chút mà thôi. 
   +Thuốc    nhóm cholinesterase inhibitor: 
            *-Donepezil    (Aricept)
            *-Galantamine    (Remynil, Rozadine)
            *-Rivastigmine    (Exelon)
            *-Tacrine    (Cognex) 
    +Thuốc    nhóm Receptor antagonist N-méthyl-D-aspartate (NMDA):
   Tác    dụng trên chất dẫn truyền glutamate. Một    sự thặng dư glutamate có hại cho tế bào    thần kinh.
            *-Mémantine    (Ebixa, Namenda, Axura) 
   Có    cách nào phòng ngừa không? 
   Hiện    nay chưa có một món thuốc nào khả    dĩ có thể ngừa được bệnh    Alzheimer.
   Một    nếp sống lành mạnh có thể giúp    làm giảm nguy cơ xuất hiện bệnh    Alzheimer. Chẳng hạn như :
   -             Phải luôn luôn vận động, linh    hoạt, làm vườn, đi bộ, tập    thể dục, thể thao thường xuyên và    đều đặn.
   -             Dinh dưỡng trong lành: rau cải trái    cây tươi các loại, đa dạng, sậm    màu để có đủ vitamines và các    chất chống oxy hóa antioxidants. Ăn nhiều    cá để có chất oméga 3...
   -             Kích thích não, bắt trí não    làm việc thường xuyên: đọc sách    báo, viết văn, viết báo, chơi đánh    cờ, ô chữ, xếp chữ, v.v...
   -             Tránh tình trạng căng thẳng tinh    thần (stress).
   -             Kiểm soát huyết áp động    mạch, cholesterol, và đường huyết     ở giới hạn bình thường.
   -             Tránh gây chấn thương sọ não.
   -             Giữ mối giao tiếp xã hội cho luôn    luôn tốt đẹp.
   -             Nhảy đầm, khiêu vũ dưỡng sanh. Có    thí nghiệm cho thấy nhịp điệu Tango    có thể giúp bệnh nhân Parkinson và    Alzheimer cải thiện sự phối hợp giữa các    động tác một cách khá rõ    rệt.
   “The     Argentinian doctor Roberto Peidro, pioneer researcher of the  therapeutic    benefits and applications of tango put emphasis on the  fact that the rhythms    of Tango require a lot of coordination, it is  precisely for this reason that    enormous benefits are produced in  patients with Parkinson’s disease...
   ...For     people with Alzheimer’s disease Tango Therapy is very helpful as it  requires    coordination and memory to learn the steps” 
   -             Có  rất nhiều thí nghiệm đã    sử dụng thực phẩm bổ sung và thuốc    thiên  nhiên như vitamines E, B, acide folique, Selenium,    Ginkgo biloba  (bạch quả), v.v...
   Kết    quả không rõ rệt, không chắc chắn cũng    như còn thiếu thí nghiệm lâm sàng.
   -             Nên     nhớ là không có thuốc nào có    thể chữa được bệnh Alzheimer hết     kể cả thuốc thiên nhiên, thuốc Đông    y, thuốc Bắc, v.v...   
   -              Và vấn đề lang băm hãy còn    rất nhiều.
   Kết    luận
   Bệnh     Alzheimer là bệnh lú lẫn của người    già, và theo nhận xét thì các     cụ bà thường hay mắc phải bệnh hơn    các cụ ông. Có lẽ tại nhờ các     bà sống dai và có tuổi thọ cao hơn    các ông. 
   Sống    càng già thì nguy cơ vướng bệnh    Alzheimer càng cao.
   Có    người nói, cứ mỗi chặng 5 năm sau    tuổi 65 thì tỷ lệ người có nguy cơ    bị Alzheimer tăng gấp hai?
   Và    đến tuổi 85 thì 20% trong các cụ có    thể bị Alzheimer. 
   Alzheimer     là cơn ác mộng của nhiều gia đình    khi họ phải chứng kiến trong  đau đớn,    xót xa tuyệt vọng, tình trạng sa sút    của ông bà hay của  cha mẹ mà phải    đành bó tay không thể làm gì    được hết. 
   Y    học có giới hạn của nó. 
   Theo    các nhà chuyên môn, để phòng    ngừa Alzheimer cũng như để trì hoãn    sự phát triển của nó thì chúng    ta cần phải bắt trí não làm    việc một cách thường xuyên. 
   Còn    lỡ chẳng may vướng phải bệnh Alzheimer    rồi thì đành chấp nhận số    phận thế thôi. 
   Trời    kêu ai nấy dạ     mà, cho dù người đó là Tổng    Thống R. Reagan hay bà cựu Thủ Tướng  Anh    Quốc Margaret Thatcher đi chăng nữa, thì cũng...đành    chịu vậy  thôi!.
   ...“Former    President Ronald Regan also had dementia in the form of Alzheimer's    disease.  Regan was the 40th President of    the United States. He died of  pneumonia, a complication of Alzheimer's    disease, in June 2004 aged  93. It is probable that Margaret Thatcher's    dementia has a vascular cause. She has had a few small strokes in the    past”...
   Alzheimer    là nỗi ám ảnh, và là cơn ác    mộng của tất cả mọi người. Nó    cướp đi linh hồn, căn tính (identity)     và nhân cách, nhưng trớ trêu thay nó    chừa sự sống lại trong một  thân xác...tàn    tạ bệ rạc theo thời gian. Phải chi nó tước    luôn cả  cái ý thức (conscience) thì    tốt hơn cho người bệnh biết mấy,  vì    thỉnh thoảng những tia ý thức vẫn còn    lóe lên chớp tắt như cái  bóng    đèn trong đẩu họ làm họ nhận    biết được sự thật quá phủ phàng     khiến họ có lẽ chắc phải thầm nghĩ    “Trời ơi! Alzheimer đã cướp đi  trí    nhớ, đầu óc và cả sự sống    của tôi rồi”, nhưng liền sau đó thì     tất cả lại rơi vào hư vô, tĩnh    lặng, không còn biết gì nữa, và     chờ đến một lúc nào đó thì    tia ý thức đó lại chớp phực ra và    lại  đem người bệnh vào sự đau    khổ tột cùng triền miên, và cứ như     thế...cho đến khi chết./. 
   Nguyễn Thượng Chánh,  DVMTìm Hiểu Về Omega-3 và Omega-6
Từ lâu các nhà khoa học nhận thấy người Nhật bản cũng như các dân tộc thiểu số Inuits và Esquimaux ở về phía Bắc Canada có tỉ lệ bệnh tim mạch rất thấp so với các dân tộc khác. Phải chăng nhờ tập quán ăn cá đã giúp họ tránh khỏi được một phần nào bệnh lý nói trên? Từ nhận xét nầy, người ta mới tìm ra được chất Omega-3 trong mỡ cá. Rất nhiều công trình khảo cứu khoa học đã nói lên sự lợi ích của Omega-3 đối với sức khỏe chúng ta.
Omega-3 là gì? Đây là những chất acid béo thiết yếu (essential fatty acids) nằm trong nhóm chất béo không bão hòa đa thể. Thiết yếu vì cơ thể không thể tự tổng hợp được mà cần phải nhờ thực phẩm mang vào. Có 3 loại Omega-3:
1- Alpha linolenic acid (ALA): có nhiều nhất trong hạt lanh (linseed, flaxseed, graines de lin), trong đậu nành, trong hạt dẻ (walnuts), trong các loại dầu ăn làm từ các thực vật vừa kể và trong dầu Canola (colza). Riêng hai loại dầu đậu nành (soybean oil) và dầu hạt dẻ, ngoài chất béo Omega-3 ra, chúng cũng còn có chứa một tỉ lệ khá cao chất béo Omega-6 nữa .
2- Eicosapentaenoic acid (EPA): Một phần nhỏ, lối 15 % được cơ thể tổng hợp từ chất acid béo ALA, phần lớn còn lại được tìm thấy trong cá tôm sò, mà đặc biệt là trong mỡ cá sống ở vùng nước lạnh như: salmon, mackerel, herring, trout, sardine, halibut vv… Bệnh tiểu đường, tình trạng stress cũng như sự lạm dụng rượu và thuốc lá đều gây trở ngại trong việc chuyển hóa ALA ra EPA.
3- Docosahexaenoic acid (DHA): Được thấy nhiều trong các loài thủy sản và trong sữa mẹ.
Cơ chế nhờ đó mà Omega-3 có ảnh hưởng tới bệnh tim mạch là do tính kháng viêm, làm giảm áp huyết, làm giảm nồng độ triglycerides, kích thích nitric oxide xuất xứ từ nội mạc, giảm sự kết tụ tiểu cầu và giảm những eicosanoids gây viêm. Ngoài ra còn có bằng chứng rằng Omega-3 fatty acids ngừa được chứng tim đập sai nhịp và làm cho cơ tim được quân bình (Trịnh Cường & Giang Nguyễn Trịnh). Tóm lại Omega-3 có ích trong việc làm hạ cholesterol và triglyceride trong máu, ngừa hiện tượng máu bị đóng cục (antithrombotic), ngừa nghẽn mạch vành và giúp điều hòa nhịp tim (antiarrythmic), nhờ đó tránh được nguy cơ chết bất đắc kỳ tử.
Cá nuôi chứa ít chất acid béo EPA và DHA hơn cá được đánh bắt ngoài biển. Có người còn nói Omega-3 cũng có khả năng làm tăng sức miễn dịch, làm giãn nở mạch, ngừa bệnh viêm khớp tự miễn rheumatoid arthritis, ngừa hiện tượng trầm cảm và luôn cả bệnh lú lẫn Alhzeimer nữa.
Omega-6 là gì?
Đây là một loại acid béo nằm trong nhóm chất béo không bão hòa đa thể. Trong nhóm nầy, quan trọng nhất là:
-Linoleic acid (LA): là một acid béo thiết yếu hiện diện trong hầu hết các loại dầu thực vật mà chúng ta thường dùng hằng ngày.
-Gamma linolenic acid (GLA): một phần được cơ thể tổng hợp từ chất LA, một phần khác hiện diện trong một số dầu thực vật như primrose oil, borage oil và trong sữa mẹ.Trong cơ thể, GLA chuyển thành chất prostaglandins. Chất nầy có tính chống viêm sưng, rất hữu hiệu để làm giảm thiểu triệu chứng bệnh viêm khớp tự miễn.
-Dihomo-gamma linolenic acid (DGLA): là một chuyển hóa chất của GLA… DGLA chuyển thành eicosanoids serie1 giúp bảo vệ tim mạch, kích thích miễn dịch, và đồng thời có tính chống viêm sưng (antiinflammatory) .
-Arachidonic acid (AA): là một chuyển hóa chất của DGLA…AA chuyển ra thành eicosanoids serie 2 giúp vào việc làm lành các vết thương, cũng như dự phần vào cơ chế của phản ứng dị ứng. Tuy vậy, một sự thặng dư chất AA rất có hại cho sức khỏe như nó có thể kéo theo bệnh viêm khớp, bệnh ngoài da và một số bệnh tự miễn (autoimmune) khác. Eicosanoids serie 2 và eicosanoids serie 4 biến thể từ Arachidonic acid (AA) có thể gây viêm sưng, làm co các mạch máu, kích thích sự kết tụ tiểu cầu và là những hóa chất độc tùy theo nơi nào trong cơ thể mà eicosanoids được tăng hoạt.
Omega 6 hiện diện trong các loại dầu thực vật như: dầu bắp (corn oil), dầu hạt bông vải (cottonseed oil), dầu hạt nho (grapeseed oil, huile de pepins de raisin), primrose oil (huile d’onagre), safflower oil (huile de carthame), borage oil (huile de bourrache), hemp oil (huile de chanvre), dầu mè (sesame oil), dầu đậu nành (soybean oil), dầu hoa hướng dương (sunflower oil, huile de tournesol), trong trứng gà, trong mỡ và trong beurre.
Cũng như Omega-3, Omega-6 rất có ích trong việc ngăn ngừa các bệnh tim mạch bằng cách làm giảm cholesterol và triglyceride trong máu xuống.
Tuy vậy, ăn quá nhiều Omega-6 cũng không tốt cho sức khỏe, như nó có thể làm gia tăng sự giữ nước trong cơ thể, kéo theo việc tăng áp suất máu, và tăng nguy cơ hiện tượng máu bị đóng cục trong mạch.
Bởi lý do vừa kể, tỉ lệ giữa Omega-6 và Omega-3 tiêu thụ rất ư là quan trọng. Một tỉ lệ Omega-6 quá cao và Omega-3 quá thấp sẽ có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe. Trong biến dưỡng, hai chất Omega-6 và Omega-3 đều sử dụng chung một số enzymes, vitamins (B3, B6, C, E) và các chất khoáng magnesium và zinc. Nếu Omega -6 quá nhiều, nó sẽ chiếm lấy hết các enzymes và vitamins cần thiết khiến Omega-3 không thể hoạt động một cách hoàn hảo được, nhất là trong việc bảo vệ tim mạch, và còn có thể gây nên cơn đau nhức viêm sưng chẳng hạn như viêm khớp và suyễn.
Ngoài Omega-3 và Omega 6 ra cũng còn có Omega-9 nữa. Chất sau nầy được gọi là oleic acid. Đây là loại chất béo không bão hòa đơn thể. Các nhà khoa học cho biết rằng chất béo Omega-9 cũng rất tốt để phòng ngừa các bệnh về tim mạch và có lẽ cả cancer vú ở phụ nữ nữa. Dầu olive có chứa một tỉ lệ rất cao chất acid béo Omega-9. Khác với omega -3 và omega-6, omega-9 không phải là một chất acid béo thiết yếu.
Cần phải có sự quân bình giữa omega-6 và omega-3
Omega-3 rất ít ổn định, dễ bị hủy bởi ánh sáng, và nhiệt độ cao (như lúc chiên deep fried trong chảo nóng chẳng hạn). Dưới tác dụng của oxy, Omega-3 dễ bị hôi (rancid).
Bởi những lý do nầy, cho nên kỹ nghệ thực phẩm thường chọn những loại dầu nào dễ ổn định hơn để pha trộn trong thực phẩm sản xuất theo lối công nghiệp.
Các loại dầu nầy thường chứa rất ít chất Omega-3, nhưng ngược lại nó lại rất giàu về omega-6. Tại các quốc gia Tây phương, và Bắc Mỹ, thức ăn công nghiệp bán trong các chợ thường có chứa từ 10 đến 30 Omega-6 cho 1 Omega-3. Tỉ lệ quá chênh lệch giữa Omega-6 / Omega-3 rất có hại cho sức khỏe. Tỉ lệ lý tưởng phải ở mức từ 1 tới 4 Omega-6 cho 1 Omega-3.
Nhìn chung, trong các bữa ăn hằng ngày, dân Bắc Mỹ ít chiụ dùng cá nên thiếu Omega-3, nhưng ngược lại quá thừa Omega-6 vì họ thường sử dụng fast foods và các sản phẩm biến chế công nghiệp chứa rất nhiều dầu thực vật đầy ấp Omega-6..
Nhu cầu của chúng ta
Theo Hoa Kỳ và Canada, một người có nhu cầu 2000 Calories (kcal) / ngày, thì cần phải có một số Omega-3 như sau: ALA phải cung cấp 0.5% nguồn năng lượng, tương đương với 1,1g Omega-3 ở đàn bà và 1,6g ở đàn ông và phải có tối thiểu 500mg chất EPA+DHA. Họ cũng thiên về Omega-3 từ nguồn thủy sản nhiều hơn là Omega-3 từ nguồn gốc thực vật.
Để có được 1,3g Omega-3, thì cần:
Omega-3 nguồn gốc thực vật (ALA)
- 2 muỗng café hạt lanh xay
- ½ muỗng café (2ml) dầu hạt lanh
- 1 ¼ tách noix de Grenoble
- 13 gr hạt Graines de chanvre (hemp)
- 1 muỗng canh dầu canola (colza)
- 22 ml dầu đậu nành
Omega-3 nguồn gốc thủy sản (EPA+ DHA)
- 70 g cá salmon Atlantic (cá nuôi)
- 90 g cá pink salmon (trong lon)
- 90 g cá sardine
- 70 g cá herring (hareng)
- 120 g cá white tuna (thon) loại trong lon
Còn đối với nhu cầu về Omega-6 (LA): đàn ông cần phải có 16g/ngày và đàn bà 12g/ngày.
Năm 1999, một số nhà chuyên môn trên thế giới đã họp lại và đưa ra nhận xét cho rằng số liệu về nhu cầu Omega-3 mà Hoa Kỳ và Canada đưa ra vẫn còn quá thấp, trong khi số liệu về Omega-6 thì lại quá cao, không hữu hiệu để có thể làm giảm thiểu các bệnh lý nghẽn mạch vành được.
Theo họ, nhu cầu về Omega-3 cần phải là 2,22g/ngày, và EPA+DHA: 0,65g/ngày. Đối với Omega-6, phải là 4,44g/ngày, tối đa 6,67g/ngày. Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) thì khuyến cáo nhu cầu về Omega-3 như sau: ALA từ 0,8g đến 1,1g/ngày và EPA+DHA từ 0,3g đến 0,5g/ngày.
Có nên ăn cá hay không?
Omega-3 EPA và DHA trong cá và trong dầu cá là những acid béo rất tốt cho tim.
The American Heart Association khuyến cáo chúng ta nên dùng cá 2-3 lần một tuần, đồng thời cũng nên ăn những loại thực vật giàu chất béo Omega-3 ALA như hạt lanh, hạt dẻ, và dầu canola.
Mấy năm trước đây có khảo cứu cho biết chúng nên cẩn thận với loại cá rô Phi (Tilapia) nuôi vì chúng có thể chứa rất nhiều chất Omega 6 nhưng rất ít chất omega 3.
Tránh đừng nên ăn những lát cá có áo bột sẵn bán ngoài chợ vì nó thường chứa nhiều chất béo Trans rất xấu. Sự ích lợi của việc ăn cá để ngừa bệnh tim mạch vẫn trội hơn việc cữ dùng cá vì sợ cá bị nhiễm thủy ngân và dioxin.
Tuy nói vậy, nhưng đối với phụ nữ đang mang thai, hoặc đang cho con bú cũng cần nên cẩn thận. Các chất nầy ảnh hưởng không tốt cho bào thai. Đối với đồng hương đang sinh sống tại các quốc gia Tây phương, thì nên hạn chế việc dùng các loại cá như cá mập (shark), cá tuna, cá lưỡi kiếm (swordfish), và cá trout là những loại cá có chứa nhiều thủy ngân nhất.
Sau đây là một vài thí dụ về Omega-3 ở một số loài thủy sản (100g): Cá salmon 1.8 g, sardine 1.4, herring 1.2, mackerel 1.0, trout 1.0, swordfish 0.7, tuna 0.7, haddock 0.2, cod 0.2, tôm tép 0.3, sò 0.5-0.7g (USDA Nutrient database for standard reference).
Cá chứa ít chất béo bão hòa hơn thịt, cho nên ăn cá vẫn tốt hơn ăn thịt. Ăn cá vẫn là giải pháp tốt hơn là uống những viên dầu cá. Mỡ cá ngoài chất Omega-3 ra, nó cũng còn có chứa những chất dinh dưỡng khác nữa, chẳng hạn như chất Selenium mà dầu cá không có. Trường hợp ai không thích ăn cá thì họ nên uống thêm các viên supplement dầu cá .
Dầu cá thì sao?
Dầu cá là nguồn cung cấp trực tiếp 2 loại Omega-3 EPA và DHA. Dầu cá bán ở trên thị trường thường có pha thêm vitamin E, là chất chống oxy hóa để giúp cho dầu khỏi trở nên hôi.Vitamin E có khuynh hướng làm loãng máu và có thể gây xuất huyết nếu lạm dụng dầu cá.
Tại Canada hiện nay có vài chục hiệu dầu cá được bày bán trên thị trường. Các viên dầu cá nầy thường chứa vào khoảng 1000mg dầu, nhưng không có nghĩa là nó có đủ 1000mg Omega-3 đâu. Tùy theo loại dầu cá mà nồng độ Omega-3 có thể thay đổi từ 100mg đến 700mg chất Omega-3 EPA+DHA.
Cũng có sản phẩm vừa chứa dầu cá mà đồng thời cũng có chứa các loại dầu khác, như dầu bourrache (borage oil), dầu onagre (primrose oil), dầu carthame (safflower oil) vv…
Được biết nhu cầu trung bình hằng ngày của chúng ta ở vào khoảng 500 mg EPA+DHA. Dầu cá khác với dầu gan cá. Dầu gan cá được sử dụng để cung cấp vitamin A và vitamin D.
Muốn có đủ nhu cầu Omega-3 cần thiết chúng ta cần phải uống một số lượng lớn dầu gan cá, vì vậy có thể có nguy cơ bị ngộ độc do thặng dư vitamin A và vitamin D. Những ai có vấn đề máu huyết, hoặc đang sử dụng thuốc kháng đông (warfarin, heparin) thì cần phải thận trọng khi dùng dầu cá. Dùng quá nhiều dầu cá có thể bị nôn mửa và đi tiêu lỏng.
Vì tính chất gây loãng máu của dầu cá, cho nên nếu uống trên 3g Omega-3 trong một ngày có thể bị chảy máu cam. Hiện nay, tại Bắc Mỹ, dầu cá vẫn còn được xếp trong nhóm thực phẩm bổ sung (dietary supplement), vì vậy luật lệ kiểm soát chất lượng các loại dầu cá vẫn còn lỏng lẻo chớ chưa được chặt chẽ như phía bên dược phẩm.
Các liều lượng Omega ghi trên nhãn hiệu đôi khi cũng không chắc gì đúng với chất lượng của sản phẩm chứa đựng trong chai.
Cơ hội bằng vàng của kỹ nghệ ăn uống
Tại Canada, Công ty sữa Natrel cho trộn dầu hạt lanh vào sữa để tăng cường thêm Omega-3. Cty Neilson Dairy Oh thì sản xuất ra một loại sữa giàu chất Omega-3 DHA bằng cách cho trộn thêm chất DHA của cá vào thức ăn hỗn hợp dùng nuôi bò sữa. Cty Kraft tung ra thị trường loại sauce mayonnaise có tăng cường chất Omega-3 bằng cách cho trộn thêm dầu đậu nành trong sauce, nhưng cách nầy cũng có cái bất lợi là đồng thời nó cũng làm tăng chất Omega-6 lên. Trên thị trường, rất nhiều sản phẩm có tăng cường thêm Omega-3. Chẳng hạn fromage có Omega-3 làm từ sữa vắt từ những con bò được cho ăn khẩu phần có chứa hạt lanh và chất DHA của cá. Tương tợ như sữa bò có Omega-3, người ta cũng sản xuất ra một loại thịt heo dặc biệt có nhiều Omega-3 bằng cách nuôi heo với khẩu phần có chứa nhiều hạt lanh (linseed). Hiệu fromage Black Diamond có chứa 0.1g Omega-3 cho mỗi 30g, trong số nầy 20mg là DHA. Ngoài ra trứng gà đặc biệt có chứa Oméga -3 được sản xuất từ gà mái được nuôi dưỡng bằng một loại thức ăn hỗn hộp có chứa 20% hạt lanh (linseed).
Tại Hoa Kỳ Cty Tropicana tung ra loại nước cam có tăng cường thêm Omega-3. Cty Kellog cũng cho thêm Omega-3 trong sản phẩm Kashi cereal. Unilever nối gót theo với mặt hàng I Can’t Believe It’s Not Butter được tăng cường thêm chất Omega-3. Hoa kỳ cũng đang nghiên cứu dùng heo chuyển thể (transgenic) để sản xuất ra những loại thịt heo có chứa 1 tỉ lệ khá cao chất Omega-3.
Chưa hết, thức ăn chó cũng được các nhà kinh doanh khai thác triệt để bằng cách cho tăng cường thêm Omega-3 với mục đích là để giúp cho não chó con phát triển tốt?
Đúng là sướng như chó Tây chó Mỹ.
Kết luận
Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại các quốc gia công nghiệp.
Chất acid béo Omega-3 đã xuất hiện thật đúng lúc, và đã được nhiều người xem như một vị cứu tinh đối với họ. Đúng vậy, rất nhiều nhà khoa học đã nhìn nhận tính chất tốt đẹp của Omega-3 trong việc phòng ngừa phần nào các bệnh về tim mạch.
Kỹ nghệ thực phẩm và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đã không bỏ lỡ cơ hội khai thác các mặt hàng có chứa chất Omega-3 để mong hốt bạc một cách nhanh chóng.
Quảng cáo của họ rất hấp dẫn và rất tinh vi để mê hoặc người tiêu thụ.
Dù sao đi nữa, chúng ta nên nhớ rằng Omega-3 cũng chỉ là một chất béo mà thôi, hiệu quả của nó cũng còn phải tùy thuộc vào một số yếu tố khác nữa mà quan trọng hơn hết là tỉ lệ giữa Omega-6 và Omega-3 tiêu thụ. Nguồn Omega-3 từ thực vật, tốt nhất vẫn là dầu lanh, hạt lanh, kế đó là nguồn Omega-3 động vật mà điển hình là hai chất EPA và DHA từ cá.
Cái phức tạp là một loại dầu thực vật nào đó nếu có chứa Omega-3 thì đồng thời cũng thường có chứa Omega-6 với tỉ lệ khác nhau.
Cách dễ nhất để có chất Omega-3 là dùng hạt lanh. Loại thức ăn nầy chứa một tỉ lệ Omega-3 rất cao. Tại Canada, hạt lanh có thể mua được dễ dàng tại các siêu thị hoặc trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên. Giá lối 3$ /kg.
Hạt lanh hình dáng hơi dẹp, to hơn hạt mè một tí, và có vỏ màu nâu cứng và láng bóng. Để được dễ hấp thụ, hạt lanh khi mua về, nên để y nguyên, không được rang, dùng máy xay café, xay vừa đủ dùng trong một tuần. Đựng hạt lanh đã xay trong keo sậm màu, đậy kín gió và đem cất trong tủ lạnh. Mỗi ngày múc 2 muỗng canh hạt lanh trộn vào salade mà ăn.
Nói chung, để ngừa các bệnh tim mạch không gì tốt hơn ngoài việc phải giảm thiểu dầu mỡ, ăn ít thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu), tránh các loại chất béo xấu như chất béo bão hòa và chất béo Trans, và nên thế vào bằng các loại chất béo tốt, như chất béo không bão hòa đơn thể (monounsaturated) có nhiều trong dầu olive, và chất béo không bão hòa đa thể (polyunsaturated) hiện diện trong hầu hết các loại dầu thực vật như dầu canola, dầu đậu nành …
Nên dùng cá 2-3 lần trong tuần, ăn nhiều rau đậu, hạt dẻ và trái cây tươi.
Ngoài ra cần phải bớt rượu, bỏ thuốc, và nhớ nên vận động, tập thể dục đều đặn và thường xuyên.
The American Heart Association có đưa ra khuyến cáo sau đây : Tổng số chất béo (tốt lẫn xấu) ăn vào trong một ngày không được vượt quá giới hạn 30% của nhu cầu năng lượng (2000 Calories). Một nửa số chất béo trên phải là chất béo không bão hoà đơn thể, ¼ là chất béo không bão hòa đa thể (Omega-3 và Omega-6) và ¼ còn lại là chất béo bão hòa (saturated).
Vấn đề Omega-3 và Omega-6 rất phức tạp
Cho tới ngày nay, những cuộc tìm tòi về Omega-3 fatty acids chỉ cho thấy những kết quả trái ngược nhau, phần lớn là vì những cách nghiên cứu không được rõ rệt (nhận xét thay vì can thiệp). (Trịnh Cường, Giang Nguyễn Trịnh).
Tạp chí nổi tiếng về y khoa JAMA của Hoa kỳ đã đưa ra nhận xét là quả thật Omega-3 có ích lợi phần nào đối với các bệnh về tim mạch, nhưng còn đối với các bệnh cancer người ta chưa có thể rút ra một kết luận nào chắc chắn cả. Omega-3 vẫn còn trong vòng nghiên cứu và tranh luận giữa các giới khoa học với nhau…
Tuy vấn đề Omega-3 còn rất nhiều điểm mơ hồ chưa được sáng tỏ lắm nhưng các nhà tư bản Hoa Kỳ với sự hậu thuẩn của cơ quan FDA và cơ quan The American Heart Association đã nhạy bén chụp lấy thời cơ khai thác triệt để món hàng quá béo bở nầy./.
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Montreal, Sept 26, 2011
|           BÁN          THÂN NUÔI MIỆNG                    |      
Sáng     nay trên một nhật báo Montreal có đăng    tin: Cần tìm đàn ông tuổi  từ 18    đến 55, hút thuốc hay không hút    thuốc, để tham gia vào một  cuộc khảo    cứu về dược phẩm tại Montréal... Thù    lao có thể lên đến  3.850$... Xin liên    lạc về Anapharm, leader thế giới về khảo cứu và    thí nghiệm dược phẩm, điện    thoại: 1-866-262 7427.       
Đây,     chẳng qua là quảng cáo tìm người    để thí nghiệm thuốc hay nói  trắng    ra là làm...vật thí nghiệm mà người    ta thường gọi là làm cobaye.    
Một    kỹ nghệ đang lên      
Nghiên    cứu và thí nghiệm dược phẩm là    một ngành kỹ nghệ đang lên vùng    vụt.        
Tại     Bắc Mỹ, Montreal là nơi tập trung rất    nhiều nhà bào chế quốc tế  cùng    những kỹ nghệ phụ thuộc về lãnh    vực thuốc men mà đôi khi được     gom vào danh từ rất kêu, đó là    khoa học của sự sống hay science    de la vie.       
Ai     cũng biết một dược phẩm mới cần    phải được thử nghiệm chặt chẽ     về sự hiệu nghiệm, và tính an toàn    trước khi được cơ quan Santé  Canada cho    phép tung ra thị trường.       
Thủ    tục nầy được gọi là làm homologation.       
Montreal    có nhiều công ty chuyên đảm trách    việc thử thuốc, trong số nầy đáng    kể nhất là:       
*-Anapharm      
 Chi    nhánh của BCF International Hoa Kỳ.      
Anapharm,     une filiale canadienne de Pharmanet, est une entreprise de renommée     mondiale spécialisée dans la recherche clinique sur les médicaments.     Avec ses cinq places d’affaires au Canada, son siège social dans le     Parc technologique à Québec et plus de 1000 employés    mobilisés,  Anapharm offre des services de haute qualité de Phase    I, de  bioéquivalence, de pharmacologie clinique, de réglementation    et de  nombreux services bioanalytiques. Nos employés sont le fondement    du  succès d’Anapharm. Partenaire de notre réussite, notre    équipe de  professionnels est talentueuse et passionnée.    L’environnement de  travail est dynamique, stimulant et des plus chaleureux.    Chacun a la  possibilité de se réaliser au quotidien, dans son développement    ou  d’évoluer vers des défis personnels et professionnels. Nos    actions  sont guidées par nos valeurs soit l’intégrité,    le respect, la qualité  et le travail d'équipe.      
*-MDS    Pharma Services      
Tại tỉnh bang Quebec…    MDS chuyên về thí nghiệm lâm sàng dược    phẩm.       
Công ty nầy bành    trướng rất mạnh, từ 10-12% trong một năm,    với số giường thí nghiệm khoảng 800    cái.       
Mỗi năm, MDS sử    dụng 8.000 cobayes để thí nghiệm.      
Lợi tức thu được    năm 2004 được ước đoán là    350 triệu dollars.       
MDS còn chuyên về    việc thử các loại thuốc nhái hay copies (generic)    tức là không phải thuốc chính gốc (brand    name drug, original).       
Tại  Canada, chính    phủ cho phép kỹ nghệ dược phẩm    được quyền thử thuốc  generic trước    ngày brevet của thuốc original hết hạn.       
Hơn phân nửa    thuốc generic của Hoa Kỳ được thử    tại MDS.       
Một số thuốc    của Úc châu và Á châu cũng    được thử tại đây.      
“MDS    Pharma Services – The world's premier provider of innovative drug discovery    and development solutions.
We offer a full spectrum of world-class discovery, preclinical and clinical resources and expertise, strategically located around the world, to meet the needs of the global pharmaceutical and biotech industries. Our broad range of services is designed to increase the speed, precision and productivity of your drug discovery and development activities”.
We offer a full spectrum of world-class discovery, preclinical and clinical resources and expertise, strategically located around the world, to meet the needs of the global pharmaceutical and biotech industries. Our broad range of services is designed to increase the speed, precision and productivity of your drug discovery and development activities”.
Thí    nghiệm lâm sàng    (clinical    trial, essais cliniques)      
Thông thường, cobaye    được tuyển chọn để được    sử dụng cho một giai đoạn thử nghiệm    nhất định nào đó.       
Thử nghiệm lâm sàng    được thực hiện trên con người.        
Có tất cả có    4 giai đoạn trong việc thử nghiệm:       
-Phase    I: Giai     đoạn nầy tiếp nối theo sau giai đoạn    thử nghiệm trên thú vật.  Trong giai doạn    I, các nhà khoa học thẩm xét mức độ    an toàn và  dung nạp (tolérance)    của người bình thường đối    với món thuốc thí nghiệm. Các    phản ứng phụ sẽ được quan sát tường    tận.       
Giai  đoạn I cần    khoảng từ 20 đến 80 người thí    nghiệm mà thôi. Đôi khi  giai đoạn I    được đề nghị đem áp dụng    cho những bịnh nhân đang  trong thời kỳ    bế tắc trị liệu không còn cách    chữa trị nào khác hết  (impasses thérapeutiques). Dĩ nhiên, trong trường    hợp nầy là bệnh nhân không được    nhận tiền thù lao.      
Tóm    lại, giai đoạn I là giai đoạn nghiên    cứu các biến dưỡng của thuốc trong cơ    thể như pharmacovigilance,    pharmacokinetics, pharmacodynamics.      
Đây    là giai đoạn nguy hiểm nhất trong số 4    giai đoạn thử nghiệm lâm sàng.       
-Phase    II: Đánh     giá sự hiệu nghiệm của thuốc đã    đạt đến đâu rồi. Ấn định    liều  lượng tối hảo của món    thuốc, đồng thời ghi nhận các phản    ứng phụ  nếu có.      
Cần    số lượng cobayes từ vài chục người    cho tới 300 người.       
-Phase    III: Giai     đoạn so sánh độ hiệu nghiệm của    thuốc bằng cách so sánh kết quả     với những nhóm thử nghiệm khác nhau,    chẳng hạn như so sánh với nhóm  xài    thuốc vờ (placebo), và    nhóm sử dụng liều lượng trị    liệu tham khảo (traitement    de référence).      
Cần    từ 300 - 3000 người thí nghiệm.       
-Phase    IV: Theo     dõi kết quả trị liệu trong một thời    gian lâu dài, mục đích để  phát    hiện ra các phản ứng phụ hiếm thấy    hoặc xuất hiện chậm trễ  theo thời gian.      
Đây là giai đoạn    post marketing surveillance trial.       
       Quá    hấp dẫn      
        Điều kiện    tuyển chọn thật dễ dàng, không đòi    hỏi một trình  độ văn hóa hay    học vấn nào cả. Thù lao cũng khá.    Thông thường cũng  từ vài ba trăm    đô tới ba bốn ngàn đô.        
Tùy  theo các test xét    nghiệm, cobayes phải đến trung tâm thường    xuyên  hoặc bị giữ lại tại phòng thí    nghiệm mỗi đợt 36 tiếng đồng hồ,    để  cho các chuyên viên kiểm soát các    phản ứng của thuốc, cân đo và     lấy máu, v.v…       
Bởi  những lý do    kiếm tiền không mấy khó khăn nầy,    cho nên có rất  nhiều người, đặc    biệt là giới trẻ, sinh viên, những người    thất  nghiệp và những người…ham    tiền thường tình nguyện nhào vô làm     cobayses để kiếm chút cháo.       
Phóng  viên Eric Yvan    Lemay của nhật báo Journal de Montreal cho biết,     Montreal được gán cho một cái tên không    mấy đẹp đẽ chút nào hết,     đó là thủ đô thế giới về    người làm vật thí nghiệm. Anh ta còn    cho  biết tiền thù lao làm cobaye không    nhất thiết là theo mức độ nguy  hiểm    của thí nghiệm, nhưng nói chung rất bèo,    trên lương tối thiểu  8,33$/giờ đôi    chút. Ứng viên càng ở lại lâu    trong phòng thí  nghiệm thì càng có    nhiều tiền.       
       Đừng    tưởng bở       
Trước khi được    tuyển dụng, ứng viên phải ký tên vào    một tờ hợp đồng chấp nhận các    điều khoảng trong đó.        
Trong  văn kiện nầy,    người ta kê ra tên của giai đoạn thí    nghiệm, nghi  thức thực hành, thuốc sử    dụng và số liều lượng, v.v…       
Tờ  hợp đồng    chứa đựng rất nhiều danh từ quá chuyên    môn mà một người  trung bình không    thể nào hiểu nổi. Thôi thì họ ký    đại cho xong  việc.        
Trong  trí các ứng    viên, họ nghĩ là các công ty ANAPHARM và    MDS đều là  những công ty quốc tế,    họ rất chuyên môn, lo gì. Anapharm đòi    hỏi  ứng viên phải thật kín miệng,  không    được tiết lộ những gì xảy ra    trong khuôn khổ thí nghiệm tại trung tâm.       
Mẩu    tờ contrat của công ty Parexel. Consent Form- Protocol    number:TGN 1412HV      
       Có    nguy hiểm không?       
Các     công ty thí nghiệm thì cam đoan là không    có gì nguy hiểm cho sức  khỏe hết, vì    công việc của họ được tổ    chức một cách rất khoa học  và chuyên    môn. Họ đặt nặng sự an toàn và    tiện nghi của cobaye lên  trên hết.       
Tuy    nói vậy, nhưng trong thực tế thỉnh    thoảng cũng đã từng xảy ra vài tai    nạn.       
Tại     London Anh Quốc, tháng 3/2006, công ty Parexel của    Hoa Kỳ có cho  thực hiện một cuộc thí    nghiệm lâm sàng....Phase I, thuốc TGN    1412 tại Northwick Park Hospital.       
Đây    là một loại thuốc dùng trị cancer máu    leucémie, viêm    khớp, polyarthrite rhumatoide,    và bệnh sclérose en    plaque.  Chẳng may, khi vừa chích xong vài phút    thì có 6 cobayes đều ngã lăn  ra bất    tỉnh, xém bỏ mạng. Phản ứng cực    mạnh nầy được gọi là défaillance    multiviscérale.        
Tại    Montreal, tháng 12/2005, Anapharm làm cuộc thử    nghiệm một loại thuốc làm giảm sức    miễn dịch immunosuppressant,    đã làm nhiễm vi khuẩn lao cho 6 cobayes. Ngoài    ra, cũng còn có 11 nhân viên Anapharm bị    vạ lây nữa.       
Montreal    được gán cho hỗn danh là thủ đô    của người làm cobayes rẻ tiền.       
Hai     vụ trên đây là những xì can đan    đã bị báo chí khui ra cho công  chúng    biết, nhưng còn bao nhiêu tai nạn khác mà    kỹ nghệ dược phẩm  im tiếng?       
Công     pháp quốc tế của Liên Hiệp Quốc    cực lực cấm đoán việc sử dụng     con người làm vật thí nghiệm nhưng    một số quốc gia Âu Châu và Mỹ Châu     vẫn coi thường luật lệ quốc tế.       
Còn     biết bao nhiêu cuộc thí nghiệm thuốc trá    hình dưới danh nghĩa  chương trình    viện trợ nhân đạo đã và đang    xảy ra tại các quốc gia  nghèo khó Phi    Châu, Á Châu và Nam Mỹ.        
Mấy     năm trước đây, Nigeria tố cáo tài    phiệt sản xuất dược phẩm Pfizer  của    Hoa Kỳ vào năm 1996 đã sử dụng    trẻ em Nigeria làm vật thí  nghiệm một dược    phẩm chưa hoàn chỉnh, đó là    thuốc Trovafloxacin.         
Trong     số 200 em đã được sử dụng    thuốc trên thông qua chương trình     viện trợ nhân đạo để trị    bệnh viêm màng não và bệnh sởi,    thì cuối  cùng chẳng may có 11 em phải    bỏ mạng còn những em nào sống sót    thì  bị tê liệt, điếc, mù lòa,    tổn thương não, xáo trộn phát    âm,  v.v...      
Nigeria    đòi Cty Pfizer phải đền bù 8,5 tỉ    dollars.      
“Trovafloxacin    (sold as Trovan by Pfizer)    is a broad spectrum antibiotic    that inhibits the uncoiling of supercoiled    DNA    in various bacteria    by blocking the activity of DNA    gyrase and topoisomerase    IV [1].    It was withdrawn from the market due to the risk of hepatotoxicity.    It had better gram-positive    bacterial coverage and less gram-negative    coverage than the previous fluoroquinolones      
In    1996,    during a meningitis    epidemic    in Kano,    Nigeria,     the then-untested drug was administered to approximately 100  infected    children. A panel of medical experts later implicated Pfizer    in the incident, concluding the drug had been administered as part of an    illegal clinical    trial without authorization from the Nigerian    government or consent    from the children's parents.[1]    The case came to light in December 2000 as the result of an investigation by The    Washington Post,  and sparked significant public outcry. The    Nigerian federal  government has subsequently sued the drug giant for $8.5bn    and Pfizer  will face criminal and civil charges brought by the state and     federal governments of Nigeria”.       
Kết    luận       
Có    lẽ, chúng ta không bao giờ biết được    những gì thật sự đã xảy ra bên    trong các cuộc thí nghiệm thuốc.        
Đây    là một kỹ nghệ quá to lớn, rất    thế lực và cũng quá...bí mật.        
Riêng     tại Montreal, người ta ước lượng    số người tham gia, tự nguyện làm  vật    thí nghiệm mỗi năm cũng phải lên    đến hằng chục ngàn người.         
Ai    cũng nhìn nhận là vấn đề thuốc    men là một nhu cầu tối cần thiết trong    đời sống của mọi người.        
Muốn     biết thuốc có an toàn, và có    hiệu nghiệm hay không thì không gì     tốt hơn là thuốc cần phải được    trực tiếp thử nghiệm trên người. Và     đây là mấu chốt của vấn đề!       
Có     người hầu như sống với nghề thử    thuốc từ năm nầy qua năm nọ. Họ     hiểu rõ việc họ làm và rất    ý thức về mọi sự nguy hiểm có    thể xảy  ra cho bản thân. Và cũng    hiểu rõ vì tiền mà họ liều mình    bán thân  nuôi miệng.       
Chỉ    mong sao cho mọi việc đều được    thuận buồm xuôi gió cho mọi người mà    thôi./.Nguyễn Thượng Chánh,  DVM
ReplyDeleteeva airlines
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
đặt vé máy bay korean air
vé máy bay đi mỹ rẻ
Vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch
ve may bay di canada