Mỗi tỉnh có “nửa” người quản lý ATVSTP
(TNOL)-Những mối lo thực phẩm mất an toàn vệ sinh ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng người tiêu dùng một lần nữa được các nhà khoa học, nhà quản lý cảnh báo mạnh mẽ tại hội thảo lấy ý kiến đónggóp cho dự thảo Luật An toàn thực phẩm, diễn ra tại Hà Nội hôm qua 7.9.Trao  đổi với PV Thanh Niên bên lề hội thảo, PGS-TS Nguyễn Đăng Vang, Phó chủ  nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho biết  hiện tại mới chỉ kiểm soát được 11% lượng thức ăn đường phố. Trong khi  đó, chất lượng rau và các sản phẩm động vật cũng đang là vấn đề đáng báo  động khi còn tới 7% lượng rau có hóa chất vượt ngưỡng cho phép và 38%  thịt, thủy sản, sản phẩm động vật khác chưa đạt yêu cầu. “Tình trạng ướp  cá bằng u-rê, cho hàn the vào bánh cuốn, bỏ các chất bảo quản độc hại  khác vào thực phẩm, làm rượu giả... ngày càng diễn biến phức tạp, khiến  người tiêu dùng lo lắng, phân vân khi lựa chọn thực phẩm cho bữa ăn hằng  ngày”, ông Vang nói.
10 năm, gần 6 vạn người bị ngộ độc
Ông  Nguyễn Phú Cường, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ (Bộ Công thương),  nêu thực trạng việc quản lý nhập khẩu qua đường tiểu ngạch vẫn chưa  chặt chẽ, tình trạng thực phẩm giả, thực phẩm nhập khẩu không qua kiểm  tra, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, phụ gia thực phẩm ngoài danh  mục cho phép vẫn đang lưu hành trên thị trường. Đặc biệt, gia súc, gia  cầm, trứng gia cầm chưa qua kiểm dịch, không được kiểm soát thú y bày  bán tự do tại các chợ trung tâm của các tỉnh, thành phố.
PGS-TS  Ngô Tiến Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Công nghiệp thực phẩm, đưa ra  những con số báo động: “Trong 10 năm qua, ở nước ta đã xảy ra 2.138 vụ  ngộ độc thực phẩm, làm 57.144 người bị ngộ độc, trong đó có 566 ca tử  vong”. Tiếp lời, GS-TSKH Lê Doãn Diên, Chủ tịch Hội Khoa học công nghệ  lương thực, thực phẩm VN, cho biết thêm: “Theo Tổ chức Y tế thế giới, ở  VN hằng năm có hơn 3 triệu trường hợp nhiễm độc, gây thiệt hại hơn 200  triệu USD”.
Bình luận về những con  số trên, ông Nguyễn Đăng Vang cho rằng những cái chết vì ngộ độc thực  phẩm chỉ là bề nổi, có thể nhìn thấy ngay nhưng nguy cơ chất độc hại  tích tụ dần dần, làm giảm tuổi thọ của con người, gây ra các bệnh hiểm  nghèo như ung thư mới là điều đáng lo ngại hơn cả.
Chồng chéo, nhiều lỗ hổng
Nguyên  nhân của thực trạng trên, theo ông Nguyễn Đăng Vang, một phần vì nền  nông nghiệp nước ta còn nhỏ lẻ, mỗi hộ trong tổng số trên 9,6 triệu hộ  nông dân đều có vài luống rau, đàn gà, mấy con lợn... và ý thức của  người dân về sản xuất an toàn chưa cao nên khó kiểm soát hết được. “Lực  lượng thanh tra về lĩnh vực này còn mỏng, Bộ NN-PTNT có 3 người, Bộ Y tế  9 người, mỗi tỉnh trung bình chỉ có nửa người làm thanh tra và nửa  người làm công tác quản lý. Thêm vào đó, tính trung bình, chi phí cho  công tác an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) mới chỉ được hơn 700  đồng/người dân. Vì thế, mặc dù chúng ta đã ban hành quá nhiều văn bản về  quản lý ATVSTP (337 văn bản do cơ quan trung ương và 900 văn bản do địa  phương ban hành), các chế tài cũng đủ sức răn đe như phạt tù, phạt tới  500 triệu đồng... nhưng nhiều năm qua các cơ quan chức năng cho biết mới  chỉ có 145 người bị phạt tù (từ 3 tháng đến 20 năm) và trong 5 năm qua  có 1,3 triệu lần phạt hành chính, tính trung bình chỉ có 854.000 đồng  cho mỗi lần phạt”, ông Vang nói.
Theo  ông Đỗ Gia Phan, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng VN, một nhược  điểm của quản lý nhà nước hiện nay về ATVSTP là tuy đã có phân chia  trách nhiệm quản lý từng lĩnh vực trong cả chuỗi thực phẩm cho các Bộ  NN-PTNT, Bộ Công thương, Y tế nhưng còn nhiều khe hở và sự chồng chéo,  dẫn đến có việc không ai làm, nhưng lại có việc nhiều bộ cùng làm mà  không có bộ nào chịu trách nhiệm chính, chẳng hạn như kiểm soát vận  chuyển, bảo quản khi hàng hóa lưu thông trên đường... Sau khi thống kê,  rà soát, Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã phát  hiện có tới 48 văn bản do các cơ quan ở Trung ương ban hành chồng chéo  lẫn nhau, gây khó khăn cho công tác quản lý trên thực tế.
Xuất  phát từ quan điểm “đúng người, đúng việc; mỗi việc chỉ một bộ phận phụ  trách", TS Nguyễn Tử Cương, Giám đốc Trung tâm Chuyển giao công nghệ và  dịch vụ thủy sản VN, đề xuất mô hình tổ chức và phân công trách nhiệm  quản lý chất lượng và ATVSTP giữa các bộ ở VN. Theo đó, Bộ NN-PTNT chịu  trách nhiệm toàn bộ về sản xuất thực phẩm từ ao nuôi, chuồng trại đến lô  hàng cuối cùng. Bộ Công thương chịu trách nhiệm toàn bộ trong sản xuất  rượu, bia, nước giải khát, bột, tinh bột, mì ăn liền, phụ gia thực phẩm,  chất hỗ trợ chế biến; các lô hàng nhập khẩu để tái xuất hoặc quá cảnh  và nhập khẩu để chế biến. Bộ Y tế đảm trách việc quản lý, giám sát các  kho lưu trữ và phân phối thực phẩm tiêu thụ nội địa, chợ thực phẩm, nhà  hàng ăn đường phố, bếp ăn khách sạn, bếp ăn tập thể, các cơ sở sản xuất  thực phẩm chức năng, thực phẩm cho phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh, người ăn  kiêng.(Theo TNOL)
Phơi nhân bánh trung thu trên vỉa hè
TT  - Hơn một tháng nữa là đến Tết Trung thu, nhiều cơ sở sản xuất bánh  nướng, bánh dẻo gia truyền ở các làng ven đô Hà Nội đang nhộn nhịp chuẩn  bị nguyên vật liệu cho mùa bánh mới.
3 tấn mỡ lợn thối làm nhân bánh Trung Thu
Con  đường từ hồ Tây chạy vào cổng làng Xuân Đỉnh khá đẹp và thẳng. Cả dải  vỉa hè rộng rãi vào mùa bánh được trưng dụng làm sân phơi. Bí xanh tươi  thái miếng để làm nhân bánh nướng, bánh dẻo được phơi sát đường đi. Bụi  bẩn, rác rưởi cứ theo những cơn gió mà phủ lên những sân bí đang phơi.
Một  người dân ở thôn Đông (xã Xuân Đỉnh), nơi có nhiều lò bánh nhất khu vực  này, cho biết đây mới là đầu mùa nên các hộ làm bánh còn có vỉa hè mà  phơi, “chứ mấy bữa nữa vào chính vụ, đến sân bóng đá cũng chả đủ chỗ mà  phơi...”.
Trong một  cơ sở sản xuất bánh trung thu đầu thôn Đông, bà chủ lò bánh niềm nở giới  thiệu: “Bánh trung thu của tôi ngon nhất làng này, có thương hiệu hẳn  hoi. Mỗi năm tôi làm cả vạn bánh nên phải đảm bảo chất lượng mới bán  được hàng”. Nghe giới thiệu cũng thấy bùi tai, nhưng khi nhìn ra khu chế  biến của lò bánh này mới chột dạ.
Một  công nhân làm thuê cho lò bánh tay vừa cắt bí bằng máy dập vừa nói  chuyện với khách. Chiếc thúng đựng bí đầy ắp, rơi vãi ra xung quanh ngõ  đi. “Nhìn thế này thì hơi bẩn, nhưng bọn em rửa nhiều lần lắm, đảm bảo  đến khi thành nhân bánh là ngon lành” - anh hào hứng khoe. Còn bà chủ lò  bánh cho hay vào vụ, bí nhiều, sấy không kịp nên phải phơi. “Tuy phơi ở  vỉa hè như thế nhưng về rửa nước là sạch, chẳng lo bẩn đâu” - bà trấn  an.
Theo chánh thanh  tra Sở Y tế Hà Nội Nguyễn Việt Cường, từ đầu tháng 8 Sở Y tế Hà Nội đã  chỉ đạo trung tâm y tế dự phòng của 29 quận, huyện, thị xã kiểm tra  thường xuyên tất cả cơ sở sản xuất bánh trung thu trên địa bàn. Nội dung  kiểm tra tập trung vào giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn  thực phẩm, giấy công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, giấy khám sức  khỏe và giấy tờ chứng minh nguồn gốc nguyên liệu làm bánh, những điều  kiện bảo quản bánh sau khi ra thành phẩm.
Khuya ngày 9/9, tổ kiểm tra tuyến CATP Hà Nội, phối hợp với Đội 2.1 Phòng Cảnh sát môi trường Hà Nội, Đội CSĐT tội phạm về TTQLKT&CV CA Q.Đống Đa, Đội QLTT số 4 - Chi Cục QLTT Hà Nội, làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực đường Pháp Vân, phát hiện xe ô tô hiệu ISUZU, BKS 30K-9137 đi hướng về phía trung tâm Hà Nội, chở hàng hoá quá tải trọng quy định, có biểu hiện nghi vấn đã ra hiệu lệnh dừng xe kiểm tra. 
| Những bao tải mỡ lợn thối đen, li ti dòi bọ trắng. (Ảnh: P.Thái | 
Tại  khoang này, cơ quan công an phát hiện gần 100 bao tải dứa, trọng lượng  mỗi bao khoảng 50kg đang bốc mùi hôi thối, tanh nồng rất khó chịu. Kiểm  tra ban đầu cho thấy bên trong những bao tải này là mỡ động vật bị mốc  đen, đang trong quá trình phân huỷ. Trọng lượng số mỡ động vật  khoảng 3 tấn. Lái xe kiêm chủ hàng- anh Nguyễn Khả Quỳnh (SN 1976, HKTT tại huyện Đông Anh, Hà Nội)  không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc số thực phẩm trên.  Anh này cho biết: vừa thu mua số thực phẩm là mỡ động vật này ở một số  nhà dân tại huyện Thường Tín, đang trên đường vận chuyển về địa bàn huyện Đông Anh tiêu thụ thì bị phát hiện. 
| Cả một xe tải chở 3 tấn mỡ thối. (Ảnh: P.Thái) | 
Theo chỉ huy Đội 2.1 Phòng Cảnh  sát môi trường thì không loại trừ khả năng số mỡ trên được thu mu để  chế biến nhân các loại bánh trung thu tại các cơ sở thủ công, nhỏ lẻ. 
 Đích  đến của số mỡ thối trên đang được lực lượng chức năng tiếp tục làm rõ.  Song đáng nói hiện nay việc xử lý hành vi vận chuyển các loại sản phẩm  động vật không có giấy kiểm dịch, sản phẩm không đảm bảo chất lượng hiện  ở mức không đủ răn đe. 
Áp  dụng theo Nghị định 40/2009/NĐ-CP, quyết định xử phạt vi phạm hành  chính trong lĩnh vực thú y, ban hành ngày 24/4/2009 vừa qua, hành vi vận  chuyển thực phẩm không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc, không có giấy  kiểm dịch vệ sinh an toàn thực phẩm bị xử phạt 2 triệu đồng. 
Hành vi vận chuyển mỡ lợn “bốc mùi”, mốc đen như của lái xe Nguyễn Khả Quỳnh  cũng chỉ bị phạt thêm lỗi: Kinh doanh sản phẩm động vật trên cạn bị ôi  thiu, biến đổi màu sắc, mùi vị - mức phạt tối đa 3 triệu đồng. Mức phạt  như thế liệu có đủ để chặn các chuyến xe chở mỡ thối tiếp tục lao qua  lao lại giữa các địa bàn của Thủ đô? 
| Lô hàng mỡ lợn thối bị phát hiện rạng sáng ngày 10/9. | 
Người  và tang vật được đưa về trụ sở công an làm rõ. Bên trong các bao tải là  những miếng mỡ động vật bị mốc đen, có miếng đang bị phân huỷ. Lẫn  trong đống mỡ thối là xương động vật cũng gần phân hủy, có cả những con  bọ đang bò. 
Anh  Quỳnh khai nhận, thu mua số mỡ động vật này ở huyện Thường Tín, đang  trên đường vận chuyển về Đông Anh tiêu thụ thì bị phát hiện.
Theo một cán bộ cảnh sát môi trường, không loại trừ số mỡ trên được thu mua để chế biến nhân các loại bánh trung thu gia công. 
Không  phải đến khi Chính phủ và kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc  hội báo cáo, người ta mới biết đến sự “bất ổn” của tình hình mất VSATTP ở  Việt Nam, nhưng khi được đưa ra tại  kỳ họp Quốc hội lần này mới thấy  hết được sự phức tạp và nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. 
Kết  quả các báo cáo cho thấy, trong số 1.110 mẫu thực phẩm thì có 65% số  mẫu (chủ yếu là giò chả và rau quả muối) có sử dụng hàn the; 19,4% số  mẫu sử dụng phẩm màu ngoài danh mục cho phép; 7,8% số mẫu có sử dụng  chất ngọt tổng hợp vượt quá giới hạn quy định hoặc sử dụng chất tạo ngọt  không được phép (cyclamat, aspartame, saccarin). Cũng theo kết quả điều  tra VSATTP trên rau, quả tại 4 tỉnh và thành phố (Hà Nội, Tiền Giang,  Vĩnh Phúc, TP.HCM) trong quý 3-4/2008 của Dự án Xây dựng và kiểm soát  chất lượng nông sản thực phẩm (Bộ NN&PTNT): trong 154 mẫu rau cải,  rau muống có 20 mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) vượt quá  giới hạn cho phép (MRLs), chiếm 13% tổng số mẫu; trong 60 mẫu nho, cam,  táo có 3 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt quá giới hạn cho phép và không  phát hiện dư lượng thuốc BVTV cấm sử dụng edosulfan trong rau, quả.Kết  quả thanh tra 6.891 cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm trong cả  nước cho thấy, số cơ sở đạt yêu cầu giảm từ 61,8% (2004-2006) xuống  51,8% (2007-2008). 
Nhiều  cơ sở sản xuất rượu, bia, nước giải khát, nước uống đóng chai quy mô  nhỏ, thủ công chưa thực hiện đầy đủ các quy định về chất lượng VSATTP.  Sản xuất rượu thủ công vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn (250-300 triệu lít/năm)và  vẫn tiêu thụ trên thị trường 
Trong  năm 2008, cả nước đã xảy ra 205 vụ ngộ độc thực phẩm lớn nhỏ làm 7.828  người mắc. Tỷ lệ mắc ngộ độc thực phẩm trung bình là 9,1/100.000 dân, tỷ  lệ tử vong là 0,07/100.000 dân/năm. Đặc biệt, theo tổng hợp thì hiện đang có nhiều các bệnh truyền qua thực phẩm, chủ yếu là tả, lỵ trực trùng, lỵ amip, tiêu chảy, thương hàn, cúm gia cầm...
Đây  là phát biểu của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường  của Quốc hội Nguyễn Đăng Vang, khi đề cập đến sự rườm rà, phức tạp  trong công tác quản lý đối với vấn đề VSATTP hiện nay ở nước ta. Cũng  nói về điều này, nhiều đại biểu tỏ ra bức xúc về thực trạng VSATTP đã ở  mức báo động, nhưng các cơ quan vẫn “việc ai nấy làm”. 
Tuy  được quan tâm khá nhiều nhưng nhiều lĩnh vực hoạt động liên quan đến  VSATTP ở Việt Nam vẫn dường như vẫn bị bỏ ngỏ. Đơn cử như, việc cấp giấy  chứng nhận đủ điều kiện VSATTP cho cơ sở chế biến, kinh doanh thực  phẩm, năm 2008, tỷ lệ này chỉ đạt 11,2%, riêng với cơ sở dịch vụ ăn uống  tỷ lệ này chỉ đạt 6,1%; trong hàng chục ngàn sản phẩm thực phẩm mới chỉ  có 25.224sản phẩm được cấp giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm.  
Trên cả nước đang sản xuất 11,5 triệu tấn rau các loại, có 43 tỉnh, thành phố đã quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn (RAT). Tuy nhiên, diện tích đất đủ điều kiện trồng RAT mới chỉ đạt khoảng 60 nghìn ha (bằng 8,5%) tổng diện tích rau cả nước (705 nghìn ha). Trong  đó có 92 cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất RAT với  diện tích 2.476ha. Diện tích sản xuất quả an toàn đạt 15.648ha trên tổng  số 74.942ha. 
Và  mặc dù trên thị trường có rất nhiều loại thực phẩm, tuy nhiên, tiêu  chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (QCKT) để quản lý chất lượng VSATTP còn  thiếu và lạc hậu. Tính đến tháng 2/2009 mới có 406 tiêu chuẩn Việt Nam  (TCVN) liên quan đến VSATTP được ban hành. Việc chuyển đổi phương thức  quản lý chất lượng VSATTP theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn  kỹ thuật còn chậm. Trong năm 2008 không có QCKT quốc gia nào về VSATTP  được thẩm định để ban hành. Năm 2008 số lượng  gia súc, gia cầm giết mổ được kiểm soát đạt 58,1%. Hiện nay, cả nước  chỉ có 617 cơ sở giết mổ  được kiểm soát, 16.512 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ  không đảm bảo điều kiện VSATTP. Đại biểu Hoàng Thị Bình (Cao  Bằng) còn đưa ra một thực tế khác là “Tại cửa khẩu Lào Cai được biết 1  ngày có 500-600 lượt người đưa rau, củ, quả tươi từ Trung Quốc sang Việt  Nam, nếu nhân với giá trị hàng 2 triệu đồng/người/ngày sẽ có lượng hàng  hóa vào Việt Nam khoảng 1-1,2 tỷ đồng không được kiểm soát. Chưa kể rất  nhiều hàng hóa qua các lối mòn biên giới”. Thậm chí, ngay trong các báo  cáo về tình hình quản lý, quá trình tổng hợp, đánh giá về VSATTP được  các Bộ, ngành công bố mới đây cũng con những điểm chưa thống nhất về  chức năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm và cả  số liệu.
Trước  những bất cập trong công tác quản lý và hậu quả mà người dân  hàng ngày  vẫn phải đối mặt, đại biểu Dương Kim Anh (Trà Vinh) bức xúc khi đặt câu  hỏi: “Trách nhiệm quản lý Nhà nước về vệ sinh, an toàn thực phẩm thuộc  về ai?”.
Trần tình về sự bất cập và cả những hạn chế, hiện nay, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu giãi bày: "Thực sự các thành viên Chính phủ rất có tự trọng, rất day dứt, đau khổ khi công việc chưa tốt”. Đồng thời, ông Triệu cũng thừa nhận thực tế "ngành nọ chỉ huy ngành kia rất khó"  và kiến nghị Quốc hội ban hành nghị quyết riêng về vấn đề vệ sinh, an  toàn thực phẩm, giao cơ chế rõ ràng giữa các cơ quan liên ngành quản lý.
Trên  thực tế, tính đến năm 2008 ước cả nước có 15.435 người tham gia vào  công tác quản lý chất lượng VSATTP; ở cấp tỉnh trung bình là 31,3  người/tỉnh; ở cấp huyện trung bình là 3 người/huyện; ở cấp xã trung bình  là 1,05 người/xã. Bên cạnh đó, Báo cáo của Chính phủ cũng cho biết, kinh phí được cấp cho công tác quản lý chất lượng VSATTP giai đoạn từ 2004-2008 là 329 tỷ đồng, tính bình quân đầu người của cả nước chỉ đạt 780 đồng/người/năm. Ở  địa phương, nguồn ngân sách Trung ương cấp cho công tác này còn  thấp  (trung bình giai đoạn 2007-2008 là 762,1 triệu/tỉnh/năm), chỉ có một số  ít tỉnh có đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương cho hoạt động này. Mặc  dù vậy, mức đầu tư này chỉ bằng 1/19 mức đầu tư của Thái Lan và bằng  1/136 so với đầu tư cho cho công tác VSATTP của một cơ quan quản lý thực  phẩm và thuốc (FDA) của Mỹ. 
Hiện nay, mỗi tỉnh ở nước ta trung bình chỉ có 0,5 cán bộ được biên chế làm công tác thanh tra VSATTP. Trong khi đó, ở Nhật Bản có khoảng 13.000 thanh tra viên VSATTP từ trung ương đến địa phương; ở Thái Lan, riêng thủ  đô Băng Cốc có 5.000 thanh tra viên VSATTP; ở Trung Quốc có trên 50.000  thanh tra viên VSATTP; ở Mỹ, riêng Tổ chức FDA có khoảng 3.000 thanh  tra viên VSATTP.
Bên  cạnh đó, hệ thống tiêu chuẩn thực phẩm làm căn cứ để thực hiện các văn  bản quản lý thiếu nhiều và nhiều tiêu chuẩn đã rất lạc hậu nhưng chưa  được sửa đổi. Ngay số văn bản đã ban hành, tuy nhiều nhưng cũng bộc lộ  một số bất cập, thống kê sơ bộ đã phát hiện có 48 văn bản có sự chồng  chéo, mâu thuẫn, một số nội dung quy định không còn phù hợp, cần sửa  đổi, bổ sung. Thực tế đòi hỏi có tới vài ngàn tiêu chuẩn về thực phẩm,  song đến đến hết 2006, mới ban hành được có 861 tiêu chuẩn sản phẩm  trong đó 673 tiêu chuẩn liên quan thực phẩm. Báo cáo của Bộ Khoa học và  Công nghệ tháng 12/2007 cho thấy, số tiêu chuẩn đã lạc hậu là 42,5%, số  tiêu chuẩn còn phù hợp 57,5%. Tiêu chuẩn cho hàng truyền thống địa  phương còn thiếu rất nhiều nên không có căn cứ để xử lý vi phạm như: các  loại mắm, nem chua, tương... Việc chuyển đổi và ban hành các quy chuẩn  kỹ thuật quốc gia về VSATTP hầu như chưa được thực hiện.
Cùng  với nhân lực hạn chế về số lượng và chất lượng, chưa tập trung thống  nhất, đến nay trên cả nước vẫn chưa có cơ sở nào trong nước chuyên đào  tạo về kiểm nghiệm ATTP. Ngoài ra, để dẫn đến tình trạng quản lý “rối  như tơ vò” và hậu quả mà người dân trong nước đang phải gánh chịu, Ủy  ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ ra 9 nguyên nhân chủ quan và 3 nguyên nhân  khách quan lớn khác. Đại biểu Nguyễn Đăng Vang đề xuất: đã đến lúc cần  phải có một “nhạc trưởng” về vấn đề này. Cũng từ diễn đàn của Quốc hội,  nhiều đại biểu kiến nghị, trong thời gian tới Chính phủ cần phải đặc  biệt quan tâm, có những biện pháp quyết liệt và đầu tư lớn hơn đến  VSATTP, bởi điều này không chỉ liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng  ngày của hàng triệu người dân mà còn gây hậu quả lâu dài đến chất lượng  sống của cộng đồng và ảnh hưởng đến sự phát triển của giống nòi sau  này./.
HACCP  là tên viết tắt của các chữ “Hazard Analysis Critical Control Point”.  Có nghĩa là “phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn”.
• Trong những năm gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đã ngày càng trở nên nghiêm trọng và được chính phủ ở nhiều quốc gia quan tâm thực hiện. Hầu hết các tổ chức, các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm đã nhận biết rõ ràng hơn về tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khoẻ con người. HACCP là một công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có thể kiểm soát được vấn đề này.
• Nói cách khác, HACCP là một hệ thống kiểm soát các mối nguy hiểm và rủi ro cho an toàn thực phẩm trong suốt quá trình chế biến.
• Trải qua hơn 30 năm ra đời và được cải tiến theo từng giai đoạn, Hệ thống HACCP đã chứng minh được khả năng kiểm soát và giảm thiểu được những rủi ro cho an toàn thực phẩm trong tất cả các công đoạn chế biến, kể từ lúc bắt đầu là nguyên vật liệu cho đến những bước cuối cùng như đóng gói, lưu kho, bảo quản và phân phối sản phẩm. HACCP đã thực sự trở thành một hệ thống an toàn thực phẩm hoàn chỉnh cho các phương pháp kiểm tra truyền thống vì HACCP chú trọng đến kiểm soát quá trình chứ không chỉ đơn thuần là kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Tại sao phải xây dựng hệ thống HACCP ?
• HACCP là một hệ thống tỏ ra rất hiệu quả với các mục đích ngăn ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ những mối nguy hiểm cho an toàn thực phẩm xuống đến mức chấp nhận được.
• Hệ thống HACCP được xây dựng nhằm bảo vệ sản phẩm khỏi bị nhiễm bẩn từ các tác nhân sinh học, hoá học và vật lý học, qua đó chứng minh được tính an toàn và đáng tin cậy của sản phẩm.
• Hệ thống HACCP có thể ví như một hệ thống bảo vệ trung thành cho sức khoẻ con người mỗi khi sử dụng thục phẩm được sản xuất trên những quy trình công nghệ do HACCP kiểm soát.
• Trong những năm gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đã ngày càng trở nên nghiêm trọng và được chính phủ ở nhiều quốc gia quan tâm thực hiện. Hầu hết các tổ chức, các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm đã nhận biết rõ ràng hơn về tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khoẻ con người. HACCP là một công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có thể kiểm soát được vấn đề này.
• Nói cách khác, HACCP là một hệ thống kiểm soát các mối nguy hiểm và rủi ro cho an toàn thực phẩm trong suốt quá trình chế biến.
• Trải qua hơn 30 năm ra đời và được cải tiến theo từng giai đoạn, Hệ thống HACCP đã chứng minh được khả năng kiểm soát và giảm thiểu được những rủi ro cho an toàn thực phẩm trong tất cả các công đoạn chế biến, kể từ lúc bắt đầu là nguyên vật liệu cho đến những bước cuối cùng như đóng gói, lưu kho, bảo quản và phân phối sản phẩm. HACCP đã thực sự trở thành một hệ thống an toàn thực phẩm hoàn chỉnh cho các phương pháp kiểm tra truyền thống vì HACCP chú trọng đến kiểm soát quá trình chứ không chỉ đơn thuần là kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Tại sao phải xây dựng hệ thống HACCP ?
• HACCP là một hệ thống tỏ ra rất hiệu quả với các mục đích ngăn ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ những mối nguy hiểm cho an toàn thực phẩm xuống đến mức chấp nhận được.
• Hệ thống HACCP được xây dựng nhằm bảo vệ sản phẩm khỏi bị nhiễm bẩn từ các tác nhân sinh học, hoá học và vật lý học, qua đó chứng minh được tính an toàn và đáng tin cậy của sản phẩm.
• Hệ thống HACCP có thể ví như một hệ thống bảo vệ trung thành cho sức khoẻ con người mỗi khi sử dụng thục phẩm được sản xuất trên những quy trình công nghệ do HACCP kiểm soát.
7 nguyên tắc:
- Nguyên tắc1: Tiến hành phân tích các mối hiểm nguy
Xác định các mối nguy tiềm ẩn ở mọi giai đoạn ảnh hướng tới an toàn thực phẩm từ sơ chế, chế biến, phân phối cho tới khâu tiêu thụ cuối cùng. Đánh giá khả năng xuất hiện các mối nguy và xác định các biện pháp kiểm soát chúng.
- Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát tới hạn (CCP: Critical Control Points)
Xác định các điểm kiểm soát tới hạn tại từng công đoạn của chuỗi cung ứng thực phẩm cần được kiểm soát để loại bỏ các mối nguy hoặc hạn chế khả năng xuất hiện của chúng.
- Nguyên tắc 3: Xác định các ngưỡng tới hạn
Xác định các ngưỡng tới hạn không được vượt quá nhằm đảm bảo khống chế có hiệu quả các điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập hệ thống giám sát các điểm kiểm soát tới hạn
Xây dựng hệ thống các chương trình thử nghiệm hoặc quan sát nhằm giám sát tình trạng của các điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Xác định các hoạt động khắc phục cần phải tiến hành khi hệ thống giám sát cho thấy tại một điểm kiểm soát tới hạn nào đó không được thực hiện đầy đủ
- Nguyên tắc 6: Xác lập các thủ tục kiểm tra để khẳng định hệ thống HACCP đang hoạt động có hiệu quả.
- Nguyên tắc 7: Thiết lập hệ thống tài liệu liên quan đến mọi thủ tục, hoạt động của chương trình HACCP phù hợp với các nguyên tắc trên và các bước áp dụng chúng.
Xác định các mối nguy tiềm ẩn ở mọi giai đoạn ảnh hướng tới an toàn thực phẩm từ sơ chế, chế biến, phân phối cho tới khâu tiêu thụ cuối cùng. Đánh giá khả năng xuất hiện các mối nguy và xác định các biện pháp kiểm soát chúng.
- Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát tới hạn (CCP: Critical Control Points)
Xác định các điểm kiểm soát tới hạn tại từng công đoạn của chuỗi cung ứng thực phẩm cần được kiểm soát để loại bỏ các mối nguy hoặc hạn chế khả năng xuất hiện của chúng.
- Nguyên tắc 3: Xác định các ngưỡng tới hạn
Xác định các ngưỡng tới hạn không được vượt quá nhằm đảm bảo khống chế có hiệu quả các điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập hệ thống giám sát các điểm kiểm soát tới hạn
Xây dựng hệ thống các chương trình thử nghiệm hoặc quan sát nhằm giám sát tình trạng của các điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Xác định các hoạt động khắc phục cần phải tiến hành khi hệ thống giám sát cho thấy tại một điểm kiểm soát tới hạn nào đó không được thực hiện đầy đủ
- Nguyên tắc 6: Xác lập các thủ tục kiểm tra để khẳng định hệ thống HACCP đang hoạt động có hiệu quả.
- Nguyên tắc 7: Thiết lập hệ thống tài liệu liên quan đến mọi thủ tục, hoạt động của chương trình HACCP phù hợp với các nguyên tắc trên và các bước áp dụng chúng.
-  Tiêu chuẩn quốc tế ISO 22000 do Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ban hành  nhằm xây dựng hệ thống kiểm soát vệ sinh an toàn trong quá trình sản  xuất, chế biến thực phẩm có phạm vi áp dụng mang tính quốc tế, phù hợp  với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu.
- Điểm  khác biệt giữa ISO 22000:2005 và HACCP là ISO 22000:2005 qui định thêm  các yêu cầu về Hệ thống quản lý với cấu trúc và nội dung tương tự ISO  9001:2000
-  Tiêu chuẩn ISO 22000:2005 đưa ra bốn yến tố chính đối với một hệ thống  quản lý an toàn thực phẩm. Các yếu tố này đảm bảo an toàn thực phẩm  trong suốt chuỗi cung ứng thực phẩm từ khâu đầu tiên đến khi tiêu thụ  sản phẩm. Bốn yếu tố chính của tiêu chuẩn này là:
o Trao đổi thông tin:  Các thông tin rất cần thiết nhằm đảm bảo các mối nguy được xác định và  kiểm soát một cách đầy đủ ở mỗi giai đoạn trong suốt chuỗi cung ứng thực  phẩm. Trao đổi thông tin với khách hang và các nhà cung ứng về các mối  nguy đã được xác định và các biện pháp kiểm soát hướng đến đáp ứng công  khai các yêu cầu của khách hàng.
o Quản lý hệ thống:  Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm hiệu quả nhất được thiết lập, vận  hành và cập nhật trên cơ sở cấu trúc của hệ thống quản lý và hợp nhất  với các hoạt động quản lý chung của tổ chức. Điều này đem lại lợi ích  tối đa cho tổ chức và các bên hữu quan. Tiêu chuẩn này được liên kết với  tiêu chuẩn ISO 9001 nhằm tăng độ tương thích của hai tiêu chuẩn. Tuy  nhiên, tiêu chuẩn này vẫn có thể áp dụng một cách độc lập với các hệ  thống quản lý khác khi điều hành quản lý tại một cơ sở sản xuất thực  phẩm.
o Các chương trình tiên quyết (PRPs: Prerequisite programmes): Các  chương trình tiên quyết – PRPs là các điều kiện cơ bản và hoạt động cần  thiết để duy trì một môi trường vệ sinh xuyên suốt chuỗi cung ứng thực  phẩm. Các điều kiện và hoạt động này cần phù hợp với yêu cầu sản xuất,  sử dụng và cung cấp sự an toàn đối với sản phẩm cuối cùng cũng như người  tiêu dùng. PRPs là một trong những chuẩn mực “cần và đủ” để các cơ sở  đủ điều kiện tham gia sản xuất thực phẩm.
o Các nguyên tắc của HACCP: 7 nguyên tắc của HACCP
-  Tiêu chuẩn này được các chuyên gia trong ngành công nghiệp thực phẩm  xây dựng trong phạm vi của ISO, cùng với đại diện của các tổ chức quốc  tế chuyên ngành thực phẩm và sự hợp tác chặt chẽ với Uỷ ban tiêu chuẩn  hoá thực phẩm Codex, cơ quan đồng thành lập bởi Tổ chức nông lương của  Liên Hiệp Quốc (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) để xây dựng các tiêu  chuẩn về thực phẩm.
-  Lợi ích chủ yếu mà ISO 22000 mang lại cho các tổ chức khi áp dụng hệ  thống HACCP (Phân tích mối nguy và thiết lập điểm kiểm soát tới hạn) do  tổ chức Codex đề ra sẽ là dễ dàng hơn trong việc áp dụng một cách thống  nhất về vệ sinh thực phẩm mà không có sự khác biệt đối với các quốc gia  và các sản phẩm thực phẩm có liên quan.
-  ISO 22000 được thiết kế để phù hợp với tất cả các tổ chức hoạt động  trong lĩnh vực thực phẩm và có thể áp dụng hệ thống an toàn thực phẩm  này. Phạm vi của hệ thống an toàn thực phẩm bao gồm những nhà sản xuất  thức ăn chăn nuôi, những nhà sản xuất thực phẩm sơ chế, các hãng vận  chuyển và bảo quản thực phẩm, và các nhà thầu phụ bán lẻ về thực phẩm và  các cửa hàng dịch vụ ăn uống, cùng các tổ chức liên quan như những nhà  tổ chức trang thiết bị, vật liệu đóng gói, tác nhân làm sạch, các thành  phần và các chất phụ gia…
-  Tiêu chuẩn này trở nên thiết yếu bởi sự gia tăng đáng kể tỷ lệ bệnh tật  do ngộ độc thực phẩm, điều này không chỉ xảy ra ở các nước đang phát  triển mà xảy ra ngay cả ở những nước phát triển. Thêm vào đó, mối nguy  hại cho sức khoẻ và bệnh tật do ngộ độc thực phẩm mang lại có thể làm  cho việc chi tiêu tăng lên đáng kể do phải trả phí chữa bệnh, nghỉ việc,  thanh toán bảo hiểm, bồi thường theo luật…
-  ISO 22000 theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng được các yêu cầu quản lý an  toàn trong dây chuyền cung cấp thực phẩm một cách có hệ thống và đề ra  giải pháp thống nhất cho việc thực hành tốt hệ thống này trên phạm vi  toàn cầu. Thêm vào đó, hệ thống an toàn thực phẩm phù hợp theo tiêu  chuẩn ISO 22000 có thể được chứng nhận – điều này đáp ứng nhu cầu ngày  càng tăng của các nhà cung cấp trong lĩnh vực thực phẩm. Mặc dù tiêu  chuẩn này có thể được áp dụng mà không cần có sự chứng nhận phù hợp, đơn  giản chỉ vì lợi ích của nó mang lại.
-  ISO 22000 kết hợp chặt chẽ các nguyên tắc của HACCP và bao quát các  tiêu chuẩn then chốt được xây dựng bởi rất nhiều các nghiệp đoàn bán lẻ  thực phẩm toàn cầu cùng với sự tham gia của những chuyên gia trong ngành  thực phẩm.
Cấp tỉnh chưa có cán bộ kiểm tra vệ sinh thực phẩm 
Báo  cáo của chính phủ Việt Nam đưa ra hồi tháng Năm vừa qua cho biết hiện  nay mỗi tỉnh, thành Việt Nam chưa có đến 1 cán bộ phụ trách công tác  kiểm tra vệ sinh thực phẩm.
Tính  trung bình, con số này là 0, 5 ở tỉnh- thành, và còn thấp hơn khi xuống  đến cấp huyện.  Không những lượng cán bộ cho công tác kiểm tra vệ sinh  thực phẩm thiếu trầm trọng, mà kinh phí cho công tác quản lý vệ sinh an  toàn thực phẩm ở Việt Nam đến nay cũng còn rất thấp.
Ngân  sách cho công tác kiểm tra giai đọan 5 năm, 2004 – 2009 của Việt Nam  chỉ được 329 tỷ đồng.  Nếu chia bình quân thì mỗi đầu người là 780  đồng/năm, tức chỉ bằng 1/19 của Thái Lan, và 1/136 của Hoa Kỳ.  
Công  bố được đưa ra trong bối cảnh dịch tả, mà một trong các nguyên nhân là  thực phẩm thiếu vệ sinh, vừa mới xuất hiện thêm ở hai tỉnh miền Bắc là  Thái Bình và Quảng Ninh, sau khi có mặt từ nhiều tuần trước đó ở Hải  Phòng, Nam Định, Thanh Hoá, và Hải Dương.
Coi thường vệ sinh và sức khỏe của khách hàng  
Tình  trạng thực phẩm thiếu vệ sinh, kém an toàn ở Việt Nam đã xảy ra từ  nhiều năm nay.  Không ít cơ sở chế biến thực phẩm, tiệm ăn uống còn xem  nhẹ vấn đề vệ sinh và sức khỏe của khách hàng.
Bánh,  mứt, kẹo, ô mai… có khi được làm trong những gian phòng ẩm thấp nhớp  nháp hay phơi trên mặt đất đầy bụi bậm nhặng ruồi.  Nhiều lọai thực phẩm  khác chứa những hoá chất nguy hiểm như hàn the, formol, phẩm màu tổng  hợp, phân u rê, chất tẩy trắng, chất bảo quản thực phẩm, chất tạo bọt xà  phòng, chất tạo màu Sudan, chất diệt cỏ, trừ sâu rầy….
Có  những lọai rau, trái thì được bón tưới hay giữ cho tươi nhiều tháng  trời bởi những hoá chất có hại.  Hồi tháng Tư báo chí lên tiếng rằng chỉ  có chưa đầy 10% rau quả sản xuất ở Hà Nội là an toàn, mà nhiều cư dân  Hà Thành cho là nhận xét này khá chính xác:
"Mức  độ an toàn đối với rau quả ở Hà Nội có lẽ là đúng đấy, theo đánh giá  của báo chí.  Rau quả bày bán chứa đủ các thứ hoá chất mà người gieo  trồng bón để cây tăng trưởng nhanh.  Rau quả ở miền quê người ta trồng  trong vườn thì mới "sạch" thôi."
Nói  về tác hại của hoá chất trong thực phẩm, giới chuyên gia cho hay những  hoá chất như thủy ngân, thạch tín nguy cơ làm rối lọan chức năng của hệ  thống tim mạch, hệ thống sinh sản, não, thận.
Tiến  sĩ hoá học Mai Thanh Truyết ở Mỹ, khi được hỏi về độc tính của một số  hoá chất dùng để bảo quản thực phẩm, cho hay chất sodium benzoate,  thường đựơc dùng trong các lọai nước chấm như xì dầu, tương, chao có  nguy cơ ảnh hửơng đến hệ thần kinh đối với trẻ em và thai nhi trong bụng  mẹ.
Thuốc  tẩy trắng chloride sodium được dùng cho bánh tráng,  bánh hỏi, bún,  miến, v.v..  thì có thể gây khó thở, nghẹt thở hoặc ung thư.  
Vi  phạm về an toàn họăc vệ sinh thực phẩm đã thường xuyên dẫn đến nhiều vụ  ngộ độc tại Việt Nam.  Những vụ ngộ độc này chiếm đến 25% tổng số những  vụ trúng thực, vì những người dù quan tâm và hoài nghi cũng không có  cách nào để biết được mức an toàn và vệ sinh của mặt hàng. "Cái  khó bó cái khôn", một lý do khác mà người tiêu dùng phải chấp nhận là  vì vấn đề giá cả, trừ một thiểu số có đủ tiền để thay bằng thực phẩm  nhập cảng.
Dân chúng không có sự lựa chọn nào khác trước sự bất lực của cơ quan chức trách.
Đó  là vì ngoài sự kiện thiếu cán bộ và kinh phí, ngành kiểm soát vệ sinh  an toàn thực phẩm trước đến nay còn có vấn đề về họat động, nói cụ thể  là quản lý của ngành còn yếu kém, và mức xử phạt không đủ sức răn đe,  theo như lời của Cục phó Cục VSATTP Hoàng Thủy Tiến:
"Việt  Nam có nhiều phân cấp kiểm tra phối hợp liên ngành.  Các cấp này làm  việc thường xuyên, và có xử phạt, nhưng không thể làm hết được.  Bất cập  là do mức chế tài chưa đủ mạnh.  Nay mức chế tài đang được nghiên cứu  để thay đổi, để có thể xử phạt mạnh hơn, chứ còn thanh tra thì chỉ xử  phạt hành chính thôi."
Gây thiệt hại  nặng nề cho về kinh tế Thực  phẩm thiếu vệ sinh, không an toàn tiếp tục được lưu hành trên thị  trường nội địa lẫn nước ngoài, đe dọa sức khỏe của người tiêu thụ đồng  thời còn gây thiệt hại về kinh tế.
Có  những thị trường như Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản trong vài ba năm nay  từng từ chối nhiều sản phẩm do Việt Nam sản xuất, dù là các thức khô,  đóng hộp, trái cây tươi hay cá, tôm đông lạnh.  Không ai biết số thất  thu là bao nhiêu tuy nhiên rõ ràng là nhiều nhà nuôi trồng, sản xuất và  kinh doanh phải bị mất phần nào lợi nhuận vì hàng xuất cảng bị gửi trả  lại.  
An toàn thực phẩm là điều khả thi nếu chính quyền thực lòng quan tâm đến sức khỏe của người dân và không muốn mất lợi nhuận. Việc  kiểm soát môi trường sản xuất thực phẩm sẽ thành công nếu công tác  thanh tra - xử phạt và công tác giáo dục đạo đức giới sản xuất - kinh  doanh đuợc đẩy mạnh.
Sự yếu kém trong quản lý của ngành thanh tra thực phẩm cũng sẽ đựơc khắc phục với sự quyết tâm của giới lãnh đạo.  
Phát biểu tại trước  Quốc hội vào ngày 9 tháng Sáu, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu cam  kết sẽ kiểm điểm những yếu kém về quản lý trong ngành kiểm tra an toàn  thực phẩm.  Người đứng đầu Bộ Y tế có đề nghị Quốc hội ban hành các quy  định riêng về vệ sinh và an toàn thực phẩm, để tránh tình trạng ở Việt  Nam lâu nay, mà theo ông thì "ngành nọ chỉ huy ngành kia", gây khó khăn  cho việc điều hành công tác, phục vụ dân chúng.  
Những người quan tâm đang tán thành đề nghị này, và trông chờ sự cải tổ ấy trong ngành vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam.(Radio Free Asia)
Các  vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được xử lý nghiêm, có nơi  không xử phạt mà chủ yếu nhắc nhở như Trà Vinh, số cơ sở bị nhắc nhở  chiếm hơn 92%. Tại Vĩnh Long con số này là gần 86%.
Thông  tin được ông Nguyễn Công Khẩn, Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm  (Bộ Y tế) cho biết trong hội nghị giao ban trực tuyến về công tác kiểm  nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm với 63 tỉnh, sáng 27/8.
Theo  ông Khẩn, việc xử phạt vi phạm về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm  còn chưa nghiêm, thậm chí có nơi cấp huyện, xã không xử phạt mà chủ yếu  nhắc nhở. Chẳng hạn, tại Kiên Giang, số cơ sở vi phạm ở tuyến huyện xử  phạt chỉ chiếm 0,34%. Có tỉnh phát hiện nước uống đóng chai nhiễm trực  khuẩn mủ xanh lại không đình chỉ sản xuất mà giao doanh nghiệp tự khắc  phục vì cho rằng... không nguy hại.
"Đây  là một lỗi hết sức phổ biến trong thanh tra về chất lượng thực phẩm.  Các vi phạm chủ yếu do cơ quan y tế xử lý, trong khi đó ủy ban nhân dân  cấp huyện cũng có quyền xử phạt nhưng không ai làm", ông Khẩn cho biết.
Giải  thích lý do vì sao không xử lý nghiệm, đại điện Sở Y tế Trà Vinh cho  rằng họ không dám xử phạt theo đúng quy định vì sợ ảnh hưởng đến công  tác kêu gọi đầu tư tại địa phương.
Về  khung xử phạt, đại biểu của nhiều tỉnh cũng cho rằng chưa hợp lý, cần  sửa đổi. Đại diện Sở Y tế Quảng Ninh lấy dẫn chứng, với cùng một vi  phạm, tất cả các sơ sở dù lớn hay nhỏ đều xử phạt chung một mức, chẳng  hạn một triệu đồng. Với nhà hàng lớn thì con số này không thấm vào đâu,  họ sẵn sàng vi phạm để nộp phạt, còn với những quán cơm vỉa hè thì đây  là một số tiền lớn.
Đại  điện y tế Hải Dương cũng cho biết, có một thực tế là khi kiểm tra các  doanh nghiệp có trường hợp ngộ độc thực phẩm, dù có mẫu lưu thực phẩm  nhưng họ vẫn phi tang. Lý do là vì nếu không có mẫu lưu chỉ bị phạt  600.000 đồng còn nếu có và tìm được nguyên nhân gây ngộ độc thì phạt  10-15 triệu đồng.
Về  vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn cho biết, trong thời  gian sắp tới Bộ sẽ trình Chính phủ một nghị định riêng về xử phạt trong  lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, sẽ quy định rõ những mức phạt cụ  thể.
Cũng tại hội  nghị, Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm Nguyễn Công Khẩn cho  biết, ngoài vấn đề về chế tài xử phạt, trong quá trình thanh tra nhiều  địa phương còn gặp những lỗi như: không công bố kịp thời mẫu không đạt,  chỉ kiểm tra hồ sơ, mà không kiểm tra thực tế, không nắm vững phạm vi  thanh tra, kiểm tra vì thế bỏ qua nhiều hành vi vi phạm hay không thanh  tra những cơ sở do Trung ương cấp giấy chứng nhận, mặc dù nằm trên địa  bàn tỉnh...
Bên  cạnh đó, năng lực kiểm nghiệm của các Trung tâm y tế dự phòng các tỉnh,  thành phố còn yếu. Theo khảo sát của Cục An toàn vệ sinh thực phẩm năm  2009 ở 63 tỉnh, thành thì chỉ có một tỉnh có khả năng kiểm nghiệm dư  lượng thuốc kháng sinh, 3 tỉnh có khả năng kiểm nghiệm dư lượng thuốc  bảo vệ thực vật... Tỷ lệ đơn vị thực hiện được các chỉ tiêu về thành  phần dinh dưỡng của thực phẩm chỉ khoảng 30%.
Như  phòng kiểm nghiệm của Trung tâm y tế dự phòng Hà Tĩnh, hiện chỉ xét  nghiệm được một số chỉ tiêu lý hóa đơn giản còn những xét nghiệm về các  chất độc hại, phụ gia thực phẩm, kim loại nặng, hóa chất bảo quản… thì  không vì chưa được đầu tư trang thiết bị. Có những tỉnh được đầu tư thì  cán bộ lại chưa được đào tạo.
Vì  thế trong thời gian tới, Thứ trưởng Huấn yêu cầu các tỉnh đầu tư trang  thiết bị, nâng cao chất lượng kiểm nghiệm thực phẩm đặc biệt là 12 tỉnh  được chỉ định làm đơn vị kiểm nghiệm thực phẩm nhập khẩu.
Ngày  11/9, Công an Hà Nội kiểm tra trụ sở công ty chế biến lâm sản xuất khẩu  Thăng Long (trụ sở tại xã Cổ Dương) phát hiện khoảng 50 tấn mỡ động vật  không có nguồn gốc xuất xứ. 
Trong  đó, khoảng 27 tấn mỡ động vật thành phẩm đựng trong bao tải dứa được  vừa được chuyển đến. Chủ xe Trần Hiếu Khang (45 tuổi, trú tại Tiên Lãng,  Tiên Phước, Quảng Nam) khai nhận chở thuê từ huyện Hòa Vang, Đà Nẵng ra  Hà Nội cho Nguyễn Thị Xoa, chủ công ty trên. 
Công nghệ chế biến 'mỡ bẩn'
Trong  căn chòi xập xệ, ẩm thấp, đống mỡ trâu, bò, heo bầy nhầy được đổ luôn  xuống nền đất. Theo chủ lò, các bao mỡ động vật sau khi chế biến sẽ phân  phối cho các bếp ăn tập thể, khu công nghiệp, quán bình dân...
Tại  thôn Khương Mỹ, xã Hoà Phong và thôn Lệ Sơn, xã Hoà Tiến (huyện Hoà  Vang, Đà Nẵng), các chủ lò tổ chức thu mua mỡ động vật từ các cơ sở giết  mổ gia súc trong thành phố và các tỉnh lân cận về để chế biến. "Công  nghệ" hết sức thô sơ và tiềm ẩn sự ô nhiễm nghiêm trọng.
Anh  Nguyễn Phi Dũng, thôn Khương Mỹ, xã Hoà Phong, chủ lò chế biến cho  biết, nối theo nghiệp cha, anh hành nghề này được vài năm. Cơ sở sản  xuất là chòi xập xệ, ẩm thấp. Đống mỡ trâu, bò, heo bầy nhầy được đổ  luôn xuống nền đất. Xung quanh lò bếp, tro trấu bùn đen xì.
Quy  trình chế biến đơn giản, chỉ băm vụn các loại mỡ hỗn độn khi mua về,  cho vào chảo lửa, đun sôi, rán ra nước rồi lọc cặn, đông cứng, đóng gói,  chất thành đống ngoài vườn. Tại các bao tải này, nhiều tảng mỡ rêu mốc  xanh.
| Mỡ trâu, bò, lợn được thu mua vứt xuống nền đất bẩn chờ "chế biến". Ảnh: Trà Bang. | 
Để  có 100 kg mỡ vón cục, phải mất tới 250 kg mỡ tươi. Giá bán trung bình  700.000 đồng mỗi tạ và bán ngay tại gia đình. Theo chủ lò Đặng Công  Trận, các bao mỡ động vật này sẽ bán ra các tỉnh phía Bắc, từ đấy phân  phối cho các bếp nấu ăn tập thể, công trình xây dựng, khu công nghiệp,  nhà hàng, quán ăn...
Hầu  hết cơ sở chế biến mỡ động vật quy mô lớn (vài trăm kg mỗi ngày) tồn  tại hơn 10 năm nay tại địa phương, song không hề có giấy phép. 
Cơ  quan thú y lẫn cơ quan y tế dự phòng Đà Nẵng đều "không biết" có sự tồn  tại của các cơ sở hoạt động trái phép, mất an toàn vệ sinh này. Cho đến  khi công an Hà Nội, TP HCM phát hiện bắt và thiêu hủy hàng chục tấn mỡ  động vận thối (vận chuyển từ miền Trung), cơ quan chức năng mới "giật  mình" vì sự tồn tại những trung tâm sản xuất mỡ bẩn lớn tại địa phương  mình.
Theo ông Trần  Văn Hóa, Phó chủ tịch UBND xã Hoà Phong, chỉ có lò ông Trí có đăng ký  kinh doanh từ 15 năm nay, tự khai thuế với mức đóng 700.000 đồng mỗi  tháng. Tuy nhiên hộ này cũng đã báo cơ quan thuế là ngưng hoạt động từ  đầu năm.
Trạm trưởng  thú y huyện Hoà Vang, Hồ Đăng Ninh cho biết, các sản phẩm động vật muốn  kinh doanh, chế biến phải có giấy phép, kiểm dịch. Muốn vận chuyển phải  có giấy chứng nhận kiểm dịch. Song Đà Nẵng chưa cấp giấy chứng nhận  kiểm dịch cho cơ sở chế biến mỡ động vật nào. 
| Xung quanh lò bếp, tro trấu bùn đen xì. | 
| Cho mỡ vào nồi chế biến. | 
| Những tảng mỡ rêu mốc xanh được chất vào các bao tải để đem tiêu thụ tại các tỉnh phía Bắc. Theo chủ lò, mỡ này sẽ được đưa vào các bếp ăn tập thể, nhà hàng... | 
| Bao tải chất thành đống chờ đi tiêu thụ. | 
| Nhiều hộ bày bán công khai. | 
ReplyDeletehãng eva
vé máy bay đi california
korean air vietnam office
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
Vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch
ve may bay di canada