Nhiều loài chim hàng năm thường 
di trú  đến những nơi rất xa, cùng rất nhiều loài lại thực hiện những chuyến  bay ngắn hơn và bất thường.
Cứ   khoảng vào mùa xuân, nhìn lên bầu trời cao, chúng ta dể dàng nhìn thấy   những đàn chin trú đông bay về phương nam tránh đông. Chúng bay thành   từng đàn, tạo nên một hình ãnh quen thuộc của tự nhiên trên bầu trời và   đặc biệt chính cách thức chúng bay hay chính xác hơn là cách chúng hổ   trợ nhau trong lúc bay, tưởng chừng là những điều bình thường nhưng đó   lại là một bài học quý cho chúng ta đấy bạn ạ.
 
Khi   bay, chim di trú thường bay hình chữa V, có nhiều người nói rằng loài   chim di trú đã được thiên nhiên ban cho một năng khiếu nghệ thuật sắp   xếp hoặc là một năng khiếu tổ chức bầy đàn vâng vâng. thế còn một câu   chuyện khác nữa về loài chim di trú
 
Có  bao giờ bạn tự hỏi vì sao lại bay theo đàn hình chữ V ? đơn giản vì khi  bay bằng cách ấy, lực vổ cánh của mỗi con chim sẽ tạo ra một lực đẩy  cho con chim bay trước nó .
*  Khi sống trong một tập thể, đạt được thành quả dể dàng hơn và ít tốn  công sức hơn.
Mỗi  khi con chim đầu đàn cảm thấy đuối sức nó  sẽ bay lùi về phía hai bên.  Và một con chim khác sẽ tự động bay lên thay  thế vị trí dẫn đầu .
* chúng ta không nên mãi dựa dẫm vào sự tiên phong của người khác mà phải thay phiên nhau đảm nhận vị trí khó khăn ấy .
Trong suốt chuyến bay đàm chim kêu to để động viên con chim đầu đàn luôn giữ tốc độ bay của nó
*Trong bất kỳ việc gì, những lời động viên luôn tạo nên được sức mạnh.
Và   khi một con chim vì quá mệt hay bị thương mà rơi xuống vài con chim   khác sẽ cùng rơi khỏi đàn và bay xuống đất để bảo vệ bạn mình .Khi nào   con chim kia khỏe lại , chúng sẽ cùng tiếp tục lên đường.
* Trong tình bạn đều đáng quý là phải cùng sát cánh bên nhau trong những lúc khó khăn nhất.
Nhiều chim quý di trú về Vườn chim Bạc Liêu
(Dân  Việt) - Khoảng 10 ngày trở lại đây, loài chim bồ nông di trú về  Vườn  chim Bạc Liêu khá nhiều. Bồ nông là loài chim quý có tên trong Sách  đỏ  Việt Nam ở cấp độ hiếm.    
  
  | 
Nhiều loài chim quý hiếm về vườn chim Bạc Liêu. Ảnh: Thanh Niên  | 
Ông   Trần Trung Chánh - Giám đốc Ban quản lý Vườn chim Bạc Liêu cho biết,   năm ngoái cũng vậy, vào thời điểm này (tháng 11 dương lịch) là lúc vườn   chim đón nhiều cá thể bồ nông bay lượn từng đàn trông rất đẹp mắt.  Chúng  trú ngụ ở đây khoảng vài tháng rồi di chuyển đi nơi khác.
Bồ   nông là loài chim quý có tên trong Sách đỏ Việt Nam ở cấp độ hiếm,  đồng  thời còn có tên trong Sách đỏ thế giới ở cấp độ bị đe dọa nguy  cấp. Sự  trở lại của chim bồ nông chứng tỏ môi trường sinh thái ở Vườn  chim Bạc  Liêu được duy trì rất tốt, là "đất lành" cho các loài chim trú  ngụ..

Những giấc ngủ ngắn giúp chim di trú lại sức
 
      
   | 
 | Chim hét Swainson. | 
Vào  mùa di trú, các vị khách du lịch đường dài này ăn  vào ban ngày và bay  vào đêm để tránh những loài thú ăn thịt và tận dụng  khí trời êm ả ban  đêm. Giống như ở những người mất ngủ trên những chuyến  đường dài, giải  pháp của chim hét là từ bỏ thời gian rỗi và dùng nó cho  những giấc ngủ  ngắn. 
Các nhà khoa học hy vọng những khám phá của  họ sẽ được  áp dụng cho những người thường bị mất ngủ - các quân nhân,  phi công,  lái xe tải, các doanh nhân hay phải đi xa, những người làm  việc ca đêm,  những người thường phải bay qua các múi giờ hoặc làm việc  trong thời  gian kéo dài. Theo ước tính, có khoảng 25-35 triệu người dân  Mỹ chịu  chứng khó ngủ và 35 triệu người khác mắc chứng mất ngủ.
Ngủ với một bên bán cầu não. 
Bingman,  Moore và Thomas Fuchs - sinh viên tốt nghiệp  trường Bowling Green là  những người nghiên cứu loài chim hét Swainson  (Catharus ustulatus). Đó  là loài chim di trú có bộ lông màu nâu lục  thường kiếm ăn ở các khu  rừng tùng bách Alaska, miền nam Canada, bang  bắc California, Michigan,  New England và Newfoundland (Mỹ).
Vào mùa thu,  loài chim hét bay đi rất xa, đến Peru và  Ecuador - nơi chúng trú đông -  một quãng đường dài tối thiểu 4.800 km,  phải bay không nghỉ suốt 16  tiếng qua vịnh Mexico. Loài chim này là  những đối tượng thí nghiệm đặc  biệt thuận lợi. Một điều ngẫu nhiên là  các chú chim hét có những hành  vi di trú ngay cả khi chúng chưa bao giờ  rời khỏi phòng thí nghiệm.  Trong chiếc lồng tròn "chúng nhảy nhót hướng  về phía Nam nếu là vào mùa  thu và về phía Bắc nếu là vào mùa xuân",  Bingman nói.
Vào  những mùa không đi di trú, loài chim này hoạt động  vào ban ngày và ngủ  vào đêm. Nhưng khi mùa thu đến và ngày trở nên ngắn  hơn, những chú  chim này bắt đầu ăn nhiều hơn - tăng cân trước khi di  trú - và có những  biểu hiện của "tình trạng không ngủ được về đêm". Vào  thời kỳ đó chúng  nhảy nhót suốt đêm. Theo Bingman, thực tế loài chim này  không ngủ theo  mùa. "Chúng là hiện thân của chứng mất ngủ tự nhiên".
Những giấc ngủ ngắn trong khi đang bay?
Các  động vật khác đã tiến hóa hình thức ngủ cho phù  hợp với lối sống của  chúng. Cá heo và loài chó biển lông được gọi là  loài động vật ngủ bằng  một bán cầu não: Chúng tiếp tục bơi và thở trong  khi một nửa não bộ của  chúng ngủ và nửa còn lại vẫn hoạt động.
Giả  thuyết ban đầu cho rằng, loài chim hét Swainson  cũng dùng phương pháp  ngủ một bán cầu não, một hình thức ngủ đã được  quan sát thấy ở nhiều  loài chim: một mắt nhắm còn mắt kia vẫn mở. Giả  thuyết này cho rằng  chim bay được với những quãng đường lớn là nhờ vào  việc ngủ luân phiên  từng bên não bộ của chúng. Nhưng sau khi thực hiện  một số thí nghiệm sơ  bộ, Bingman cho rằng cách ngủ này không phải là  phương thức chính mà  chim hét dùng để xử lý việc mất ngủ. Thay vì thế,  chúng thay đổi thói  quen hằng ngày vào mùa di trú: chúng ít hoạt động  hơn và ngủ lơ mơ.  "Chúng có thể để cho mắt xếch lên và xù lông ra - một  dấu hiệu của việc  ngủ lơ mơ". Cách thức ngủ này rất hiếm gặp vào mùa  không di trú.  "Chúng tôi cho rằng những giấc ngủ ngắn này rất quan trọng  trong việc  chiến đấu với tình trạng mất ngủ. Có thể chúng có những giấc  ngủ cực  ngắn trong khi bay".
Để có thời gian dành cho  những giấc ngủ dạng này, chim  hét phải từ bỏ những việc mà Bingman mô  tả là hoạt động khám phá hoặc  chơi đùa nhảy nhót.
Khoa học và Đời sống (theo Discovery)
Nếu   một khu rừng tươi tốt và an toàn với những dòng suối uốn lượn được coi   là điểm dừng chân xa xỉ dành cho chim di trú, thì thực tế, theo kết  quả  nghiên cứu của trường đại học Purdue, những con chim này lại rất dễ  hài  lòng với điểm dừng chân tương đương một khách sạn giá rẻ bên  đường. 
John Dunning, giáo sư chuyên ngành rừng và tài  nguyên thiên nhiên, đã  phát hiện ra rằng những con chim di trú chỉ cần  một vườn cây nhỏ giữa  vùng canh tác nhân tạo để nghỉ lại qua đêm, miễn  sao nơi đó có đủ thức  ăn và sự an toàn cho chúng. Dunning nói kết quả  này cho thấy các nỗ lực  bảo tồn nên được triển khai ở cả những vùng  rừng nho nhỏ để bảo vệ các  đàn chim di trú đang ngày càng giảm đi về số  lượng.
“Hiện có nhiều chiến lược bảo vệ rừng cho chim di trú, nhưng đó là những chiến lược tập trung vào các trảng rừng rộng,” Dunning nói. 
“Chúng   tôi mới phát hiện ra rằng, ngay cả những vườn cây nhỏ đôi khi cũng  chứa  đầy chim di trú. Điều này khiến chúng tôi tin rằng cần phải bảo vệ  tất  cả các khoảng rừng, dù lớn hay nhỏ.” Giáo  sư Dunning cùng nghiên cứu sinh Diane Packett đã  quan sát các khu vườn  nằm ở những vị trí khác nhau tính từ sông Wabash  bang Indiana – cách  sông nửa km, cách sông 1-5 km, và cách sông 20 km.  Các khu vườn đều có  diện tích dưới 20 mẫu Anh (tức 8 hecta) và có cây  trồng ở ít nhất ba  mặt. Dunning và Packett tiến hành quan sát vào cả mùa  xuân và mùa thu,  và đã công bố kết quả trên The Auk số mới nhất, một  tạp chí chuyên  ngành của Hiệp hội Điểu cầm học Hoa Kỳ.
 

 

Có 76 loài chim di trú khác nhau được tìm thấy trong các khu vườn này; số loài cũng như số lượng chim không chênh lệch đáng kể bất kể khoảng cách từ con sông Wabash đến các khu vườn là khác nhau.
Packett nói rằng những  con chim di trú di  chuyển qua hàng ngàn dặm giữa miền Trung và Nam  nước Mỹ và Canada hai  lần mỗi năm đôi khi chỉ cần một nơi đơn giản để  nghỉ chân dọc đường.  Do rừng ngày càng bị tàn phá để phục vụ  cho sự phát triển, sản xuất  nông nghiệp cùng nhiều mục đích khác của  con người, những con chim giờ  đây dễ dàng hài lòng với bất kì khoảng  rừng hoặc vườn cây nào chúng tìm  thấy khi mỏi mệt hay gặp thời tiết  xấu.
“Chúng không bay một mạch suốt hành trình. Chúng phải di chuyển tới cả hàng ngàn dặm,” Packett lí giải. “Chúng cần nơi an toàn để dừng lại, nghỉ ngơi và ăn uống. Nếu không, rất có thể chúng không thể sống sót qua chặng bay dài.”
Những  nỗ lực khác nhằm ngăn chặn sự suy giảm số lượng  chim di trú tập trung  vào các hiểm họa đối với nơi trú đông ở Trung và  Nam Mỹ và các nơi sinh  sản của chim. Nhưng 
những khu vực đô thị  và các cánh đồng  trống không phù hợp dành cho chim di trú do chúng rất  dễ gặp nguy hiểm  từ các loài ăn thịt khi ở môi trường mở. Đó chính là lí do vì sao những vườn cây hay vạt rừng nhỏ lại quan trọng đối với chim di trú đến vậy.      
 
  | Một đàn ngỗng đang tìm nơi dừng chân. (Ảnh: iStockphoto/Sarah Holmstrom)  | 
 
Dunning  nói rằng các kết quả nghiên cứu công bố vào  thời điểm này là rất ý  nghĩa do những khu rừng nhỏ đang bị đe dọa bởi  việc sản xuất ethanol.  Ông nói các nhà sản xuất bị cám dỗ trước lợi  nhuận sẽ chặt phá nhiều  khu rừng và vườn cây để phục vụ cho sản xuất  ethanol.
“Mối  quan tâm lớn hiện này là nguyên liệu sinh  học. Nếu việc sử dụng gỗ  mang lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất  ethanol, thì rất có thể những  rừng cây sẽ biến mất,” Dunning nói. “Nếu con người nghĩ rằng chẳng có gì giá trị trong những rừng cây kia, họ sẽ chặt phá cây và trồng ngô thay vào đó.”
Dunning  nói ông muốn gắn các thiết bị phát tín hiệu  radio vào chim di trú  trong các vườn cây để theo dõi xem chúng ở lại đó  bao lâu và chúng sẽ  dừng lại ở những điểm nào khác trên hành trình di  trú.
Nghiên cứu được tài trợ bởi Hiệp hội Amos W. Butler Audubon và Viện hàn lâm khoa học bang Indiana..G2V Star (Theo ScienceDaily)
Làm  thế nào mà các loài chim  di trú biết được đâu là hướng Bắc? Một nghiên  cứu mới xác định rằng  trong thực tế chúng đã “nhìn” được từ trường của  Trái Đất để định hướng  toàn cầu trong khi bay...  Từ  bấy lâu nay, qua các thử nghiệm  hành vi, các nhà khoa học đã biết rằng  chim di trú sử dụng một loại la  bàn từ trường nội tại (tức trong cơ  thể) để định hướng bay. Nhưng việc  la bàn đó vận hành cụ thể như thế  nào thì vẫn còn là một ẩn số.
Giờ  đây, nhà khoa học Dominik Heyers,  thuộc Trường Đại học Oldenburg, Đức,  và các cộng sự đã có những bằng  chứng để khẳng định rằng những phân tử  trong mắt chim di trú có sự liên  kết với một khu vực trong não có chức  năng định hướng.
Cụ  thể là nhóm nghiên cứu đã xác lập  được mối liên hệ chức năng trực tiếp  giữa các tế bào trong võng mạc và  một vùng ở não trước có tên là  Cluster N. Theo đó, tín hiệu từ những tế  bào thần kinh trong mắt nhạy  cảm với hướng từ trường đã được nối với một  khu vực ở não trước chịu  trách nhiệm về thị giác.
Nhóm  nghiên cứu đã tiêm một chất đánh  dấu (tracer) vào Cluster N, trong khi  một chất đánh dấu khác được tiêm  vào võng mạc. Chất đánh dấu này có  khả năng di chuyển dọc theo các sợi  thần kinh.
Sau  khi chim định hướng xong, nhóm  nghiên cứu nhận thấy cả hai chất đánh  dấu này đều di chuyển đến cùng một  chỗ – đó là một khu vực chịu trách  nhiệm về thị giác nằm trong vùng đồi  (thalamus) của não.
   |  
 |   Chim di trú Garden Warbler đã được sử dụng trong nghiên cứu này. (Ảnh: Nature)  |  
 
Vùng  đồi là nơi mà mọi tín hiệu từ các giác quan – như  thị giác, thính  giác, xúc giác và vị giác – đều phải đi qua trước khi  được kết nối với  những tế bào thần kinh ở các khu trung tâm khác của  não. Có nghĩa những  tín hiệu đó phải đi qua một bộ phận lọc thông tin  rồi mới đến được khu  vực não phân tích (não tư duy). Qua  thử nghiệm này, nhóm nghiên cứu  xác định Cluster N và võng mạc có sự  liên hệ chặt chẽ với nhau để giúp  chim có khả năng định hướng theo từ  trường. Nói cách khác, não đã xử lý  những thông tin về hướng từ trường  được chuyển đến từ mắt chim.
Điều đó có nghĩa là chim di trú cảm nhận từ trường như là một mô hình thị giác, tức “nhìn thấy” từ trường.
Bà  Heyers giải thích rằng trong võng  mạc chim di trú có các protein  cryptochrome chứa các phân tử cần thiết  cho việc cảm ứng từ trường.  Chính các protein này đã kích thích các tế  bào cảm thụ hình ảnh, tùy  theo hướng của từ trường.
Theo  nhóm nghiên cứu, các protein  cryptochrome này đóng vai trò như một la  bàn giúp chim di trú có khả  năng định hướng trong khi bay.
Chim  di trú được sử dụng trong nghiên  cứu này là Garden Warbler – loài chim  được ước tính có khoảng 10 triệu  con trên toàn thế giới, thường sinh  sản ở Bắc Âu và trú đông ở châu Phi.
Quang Thịnh (Theo Nature, Science Mode, Reuters)
 
NHỮNG CÁNH CHIM THIÊN DI QUA LÒNG PHỐ NHỎ
Đó   là một thành phố nhỏ nằm ở miền biên cương giáp giới Nam Bắc. Phố là   một trạm dừng chân cho những cánh chim thiên di. Mỗi độ cuối Thu, khi   cái lạnh phương bắc chưa kịp ùa về, phố vươn mình đón bầy chim di trú.
Mỗi   năm một lần, đàn chim thiên di về ngang phố nhỏ. Phố vốn lặng lẽ, bỗng   bừng lên sức sống như trong mùa vũ hội. Những cánh chim di trú ào đến  từ  phương bắc mang theo cái sức sống rừng rực vần vũ trên đầu phố. Phố  rộn  ràng những thanh âm kỳ bí. Phố ngợp chìm trong vũ khúc điệu đàn của   loài chim di trú. 
Đón   những cánh thiên di, người dân phố chờ đợi vũ khúc thăng hoa của loài   chim lạ. Cuối mùa, hàng triệu triệu cánh chim hợp đàn tạo nên những vũ   khúc ngoạn mục. Từ giữa lùm cây, đàn chim nhỏ cùng nhau lao vút thẳng   lên nền trời. Như cùng nhau hẹn ước, cả đàn lượn lờ rồi tụ lại tại một   điểm giữa lưng chừng không trung. Khối xám những cánh chim cứ tụ lại nhỏ   dần nhỏ dần, rồi đột ngột tản ra xa, như một làn khói xám mỏng mảnh  tan  mất giữa trời. Người ta ngây ngất trước vũ khúc đầy ngẫu hứng của  loài  chim di trú. Không ít người muốn ước muốn kéo dài vũ hội cho mùa  di trú.  Không ít người mơ một mùa lễ hội vĩnh viễn bên những cánh chim  trời…
Thế   nhưng khi những cánh chim hợp đàn trong vũ khúc thăng hoa, người ta   biết đàn chim sắp rời phố nhỏ. Một chút gì đó như là tiếc nuối, một chút   gì đó như là buâng khuâng. Người dân phố yêu quý những cánh chim xa  lạ,  bởi chính sự hồn nhiên yêu đời của chúng. Lạ làm sao, chúng luôn có  thể  ca hát, luôn có thể múa lượn ngay chính trên mảnh đất lạ lẫm.  Chính sự  hồn nhiên trong những vũ khúc tưng bừng của bầy chim thiên di  đã làm cho  những nơi chúng đi qua bỗng ngợp bừng sức sống. 
Cái   lạnh từ phương bắc ùa về, những cánh chim lại lên đường, tiếp tục cuộc   hành trình tìm về vùng trời nắng ấm. Phố chỉ là một trong vô vàn những   trạm dừng chân tạm bợ. Phố làm đâu ôm xuể cái sự sống hồn nhiên bay  bổng  như thế. Chút hơi ấm giữa lòng phố làm sao giam hãm được những  cánh  chim trời phiêu bạt.
Đàn di trú kéo nhau đi, bỏ lại phố trong cái trầm mặc cố hữu. phố buồn lặng lẽ. 
Xuân   về. Đàn thiên di lại lội ngược chuyến hành trình tìm về phương Bắc.  Khí  trời ấm áp, những cánh thiên di chẳng buồn dừng chân trên con phố  nhỏ.  Trông bóng những cánh thiên di ngút ngàn xa, người dân phố lại  ngẩn ngơ  tiếc nuối. Có người trách đàn chim vô tình. Có người chép  miệng, phủi  tay. Có người lặng lẽ gặm nhấm niềm day dứt của của luyến  tiếc khôn  nguôi.
Trong   số những người ngơ ngẩn trông theo bóng chim dần xa, có ai nhận ra  rằng  đàn chim trở về đâu còn là những cánh thiên di mùa cũ? Một mùa di  trú  giữa trời Nam đủ là một khoảng thời gian dài để đổi thay cả một thế  hệ. Trong số đàn chim di trú quay về, có còn cánh chim năm cũ nào  chăng? 
Hồn  những cánh thiên di đã đậu lại ở trởi Nam.  Ấy thế mà những thế hệ sau  vẫn mơ về Phương Bắc như hoài vọng về cố xứ.  Như một thúc đẩy bí ẩn của  định mệnh, chúng lên đường tìm về nguồn cội.  Có lẽ vì vậy mà chúng  được gọi là những cánh thiên di chăng? Ơn gọi của  chúng là lên đường.  Cuộc đời của chúng ở phía trước…
Bay   đi hỡi những cánh thiên di. Bay đi theo những đổi thay thăng trầm của   đất trời. Bay đi để tìm về vùng trời nắng ấm. Bay đi để cuộc sống thêm   tươi trẻ rộn ràng. Một lúc nào đó, cánh chim có thể dừng lại giữa lòng   một phố lạ nào đó. Hãy cho phố chút thanh âm ngọt ngào. Hãy cho đời  chút  hương vị nồng thắm. Rồi lại bay đi. Cuộc sống này còn biết bao  điều  tươi đẹp phía trước. Bay đi, bay đi… Tác giả: Lưu Minh Gian
Chim thiên di tại MỹĐàn sếu bay dưới trăng, ngỗng tuyết bay rợp trời là những cảnh tượng về chim thiên di tại Mỹ. 
   | 
 | Mặt trăng hiện ra phía trên đàn sếu khi chúng bay qua bang Nebraska. Ảnh | 
   | 
 | Hai con sếu châu Mỹ bay gần thành phố Socorro, bang New Mexico. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Nhóm sếu đứng giữa đồng cỏ trong khu bảo tồn Bosque del Apache, bang New Mexico. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Ngỗng tuyết bay phía trên thành phố Gordonville, bang Pennsylvania trong hành trình di cư của chúng. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Những con sếu kiếm ăn trên một lạch trong khu bảo tồn Bosque del Apache, bang New Mexico. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Một con sếu châu Mỹ nhảy gần một đàn sếu khác trong một lạch thuộc bang Nebraska trong quá trình di cư. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Ba con sếu bay trên bầu trời bang Arizona. Ảnh: AP. | 
   | 
 | Hàng nghìn con sếu, ngỗng tuyết và các loài chim di cư khác đứng trong khu bảo tồn Bosque del Apache thuộc bang New Mexico. h: AP. | 
                                                                                                                                                                                                                          Hằng   năm, những con chim hải âu Manx thường có cuộc hành trình dài đến   20.000 km. Những chiếc thẻ điện tử được gắn lên người chúng để theo dõi   hành trình di trú cho thấy cứ sau 2 tuần bay thì chúng có một đợt nghỉ   ngơi để tìm thức ăn, tái nạp năng lượng rồi tiếp tục lên đường.12  con chim được gắn thẻ điện tử đã cung cấp nhiều dữ  liệu quý giá trong  chặng đường bay của chúng. Cuộc nghiên cứu này cũng  cho thấy chim biển  bay vượt đại dương khác với cách mà những loài chim  sống trong đất  liền, chúng không bay cùng một hành trình mà mỗi năm mỗi  khác. 
 
Những  con hải âu Manx được gắn thẻ có trọng lượng cơ thể khá nhỏ, chỉ  400g.  Chúng không dự trữ nhiều năng lượng nên việc bay và nghỉ xen kẽ  cùng  với cấu trúc khí động học của cơ thể chúng là rất phù hợp. 
 
7  trong số 12 thẻ điện tử có dính nước muối khi chúng trở về sau 7 tháng   thiên di cho thấy loài hải âu này từng vờn trên ngọn sóng để nghỉ mệt,   thậm chí lặn xuống biển để kiếm mồi. 
                                                                                                                                           Cũng   như nhiều khách du lịch học các từ địa phương, những chú chim di trú  có  vẻ như học và hiểu được lời gọi phổ biến của những loài chim không  liên  quan mà chúng gặp phải trong chuyến hành trình của mình. 
 
Những  chú chim định cư lâu dài tại một địa điểm trong suốt cả năm không  gặp  nhiều khó khăn khi xác định các loài săn mồi như diều hâu, chồn và  rắn. 
 
Tuy  nhiên, chim di trú thường xuyên phải đối diện với nguy cơ gặp phải  thú  săn mồi trong quá trình di chuyển mà chúng không nhận diện được mối   nguy hiểm đó ngay lập tức. 
 
Theo tác giả của công trình nghiên cứu Joe Nocera, ĐH Queen, “Khi   lần đầu tiên tôi đến một cánh rừng già ở Belize tôi bị sự đa dạng của   các loài rắn làm cho kinh ngạc. Tôi nhận ra tôi không thể dành cả ngày   tránh từng con rắn mà tôi thấy. Tôi phải học từ người dân ở đây loài  nào  là nguy hiểm.” 
 
“Điều đó khiến tôi tự hỏi làm cách nào chim  di trú, tức cũng mù mờ như  tôi, đối phó với việc này. Tôi ngờ rằng  chúng cũng phải học từ loài bản  địa.” 
Một số nhà sinh thái trước đây cho rằng những loài di chuyển xa học hỏi từ các loài địa phương để nhận được thông tin về các loài săn mồi lạ, nhưng chứng cứ cho giả thuyết này vẫn mơ hồ. 
 
Để  khám phá khả năng trên, các nhà nghiên cứu tại ĐH Queen, Ontario,   Canada, bật những tiếng gọi cảnh báo thú săn mồi của cả loài bản địa và   loài ngoại cư cho các loài chim đi qua Belize trong những chuyến di cư   dài cũng như cho chim bản địa rồi theo dõi phản ứng của chúng. 
 
Công trình xuất hiện trên ấn bản tháng 7 của tờ Behavioral Ecology and Sociobiology.    
               |           
             |               Các  nhà khoa học  đang nghiên cứu khả năng của chim di trú học và hiểu được  những tiếng  gọi phổ biến của các loài chim không liên quan, như loài  chim chích  Kentucky quan sát được trong ảnh, sống ở Bắc Mỹ và trú đông ở  Trung Mỹ. (Ảnh: Joe Nocera/ Đại học Queen) 
Được  xuất bản vào tháng 7 năm 2008, phát hiện của công trình  nghiên cứu cho  thấy chim di trú có thể tách thông tin chi tiết từ những  tiếng gọi  chống thú săn mồi do các loài khác phát ra mà chúng gặp phải  trong quá  trình di chuyển.  |           
   
Thổ ngữ 
 
Belize  đầy những thú săn mồi từ trăn nhiệt đới đến mèo rừng và diều hâu.  Nó  nằm trong tuyến di cư chính của 83 loài chim bay từ Bắc Mỹ xuống  miền  nam trú đông. Trong khi một số loài chim kết thúc chuyến đi của  mình  tại Belize, một số khác lại tiếp tục di chuyển xuống Nam Phi. 
 
Nocera  và các cộng sự thu được những tiếng gọi chống kẻ thù do đám đông  chim  tanager xanh xám và chim chickadee mỏ đen rồi bật cho các loài chim   trong vùng nghe. 
 
Các nhà khoa học hy vọng chim bản địa sẽ phản  ứng lại tiếng gọi của chim  tanager, vì tanager có ở khắp nơi thuộc  Belize. Nhưng họ không chắc  chắn liệu chim di trú có hiểu thổ ngữ của  chim địa phương hay không. 
 
Nhóm phát hiện ra rằng khi  chim bản địa và chim di trú nghe  tiếng kêu của tanager, chúng phản ứng  bằng thái độ lo lắng, bồn chồn  thông qua việc liên tục phát ra tiếng  kêu và thay đổi vị trí. 
Đáng chú ý là họ phát hiện chim  di trú cũng phản ứng với tiếng kêu chống  kẻ thù của chim chickadee,  thậm chí khi chim chickadee không được thấy ở  bất kỳ nơi nào gần  Belize. Chim bản địa không phản ứng với tiếng kêu  của chickadee chút  nào. 
 
“Việc chim di trú phản ứng lại tiếng gọi của một loài mà  chúng không  thể nghe trong vòng 2.000 km tính từ nơi là một ngạc nhiên  lớn.” 
Hồi ức 
 
Lauren Benedict, nhà điểu học tại ĐH California, Berkeley, người không tham gia vào công trình này, phát biểu “Thật đáng ngạc nhiên rằng thậm chí ở cách xa cả một châu lục loài chim vẫn nhớ và phản ứng lại tín hiệu nguy hiểm. Điều này chứng minh khả năng ấn tượng của loài chim là nhận ra và ghi nhớ các tín hiệu âm thanh.” 
 
Laszlo Garamszegi, nhà sinh thái học tại ĐH Antwerp, Bỉ, cũng không tham gia vào công trình, “Những   phát hiện này có phần tương tự với những gì chúng tôi phát hiện về sự   bắt chước âm thanh. Chúng tôi phát hiện rằng chim di trú khoảng cách  dài  học được nhiều âm thanh hơn chim bản địa.”Tuệ Minh (Theo National Geographic)Mẫu   máu của loài dơi lớn nhất ở châu Âu cho thấy dường như nó đã săn thịt   những con chim đang bay đêm. Nếu đúng như vậy, chúng là loài duy nhất   được biết làm điều này đến nay.  Gần  5 tỷ con chim bay di trú qua vùng  biển Địa Trung Hải mỗi năm, chủ yếu  vào ban đêm. Mặc dù hơn 90% trong số  chúng chỉ nặng trung bình chưa đầy  20 gram, song tổng khối lượng của  chúng có thể lên đến hơn 100.000 tấn  - nguồn thực phẩm đáng mơ ước cho  các loài ăn thịt. Song,  không có động vật nào được biết  tới nay lại đi săn chim khi chúng đang  bay trong đêm. Chim ưng săn mồi  dọc theo bờ Địa Trung Hải chỉ vào ban  ngày, trong khi cú và một số loài  dơi nhiệt đới khác ăn những động vật  có xương sống trên mặt đất hoặc  trên các bề mặt khác vào ban đêm. Năm  2001, nhà sinh học Carlos Ibáñez  tại Trạm sinh vật Doñana ở Seville,  Tây Ban Nha và cộng sự phát hiện ra  bằng chứng rằng loài dơi khổng lồ  cực hiếm Nyctalus lasiopterus  dường như ăn thịt chim, dựa vào  lượng lông chim khổng lồ trong 14.000  mẫu phân của chúng. Lượng lông  chim này đạt đỉnh vào mùa xuân và mùa thu  - cũng là mùa mà chim di trú.    
Loài dơi khổng lồ Nyctalus lasiopterus (Ảnh: msu.ru)Mới  đây, chuyên gia về dơi Ana  Popa-Lisseanu và cộng sự đã cung cấp thêm  bằng chứng mạnh mẽ về thói  quen ăn thịt này. Đó là hàm lượng đồng vị  carbon và nitơ cao trong máu  dơi - phản ánh thực đơn của chúng.  Họ  tìm thấy trong máu dơi chế độ ăn  thịt chim vào mùa xuân, thu và chế độ  ăn côn trùng trong mùa hè. Mùa  đông, chúng ngủ vùi trong hang. Theo Livescience, Vnexpress Bộ   nông nghiệp Đài Loan cho biết đã tìm thấy thêm một dòng virus độc hại   khác H7N3 trong phân của chim di trú. Lãnh thổ này đang cho xét nghiệm   để tìm xem virus này có lan sang những trang trại gia cầm hay chưa.  Chủng  virus H5N1 giết hại hơn 60 người quanh châu Á,  H7N3 cũng có thể tấn  công người, theo quan chức Hội đồng nông nghiệp  Huang Kwo-ching. Ông  này cho biết Đài Loan đang quan ngại nhất hai dòng  virus H5 và H7 nên  đang cho xét nghiệm trong chu vi 3km quanh Tainan,  nơi họ đã tìm thấy  virus H7N3 trên phân chim trong đầm lầy. Tuy nhiên,  đến nay vẫn chưa  tìm thấy gia cầm hay chim di trú nào chết do virus này.   Đây là lần thứ hai Đài Loan ghi nhận virus H7N3. Lần đầu là ở ngoại vi Đài Bắc hồi tháng 4 năm nay.  Virus  H7N3 có thể gây bệnh cho người được phát hiện  lần đầu tiên trong gà  tây ở Anh năm 1963 và sau đó trở lại ở Canada  tháng 4 và 5 - 2004, theo  Tổ chức y tế thế giới (WHO). WHO cho biết H5 và H7 là hai dòng virus cúm gia cầm độc hại có thể tác động lên người.  Hôm nay, Indonesia chính thức tuyên bố đã có bảy người chết vì cúm gia cầm trên tổng số 11 người bị nhiễmbệnh.   Ghé thăm xứ sở loài chim Thiên Đường     
 Có  một loài được coi là  “Diva” của thế giới chim muông, những con chim  này có bộ lông dài thướt  tha, sặc sỡ… Truyền rằng, chim Thiên Đường  (Birds Of Paradise) là một  con chim thần, sống ở trên Thiên Đường, ăn  mật hoa, uống giọt sương. Khi  múa sẽ vang lên tiếng nhạc mê hồn. Người  ta gọi nó với nhiều tên khác  như: chim Cực Lạc, chim Mặt trời, chim  Phượng…  
Phần  lớn chim Thiên  Đường được tìm thấy tại khu rừng rậm nhiệt đới tại đảo  Papua New Guinea  (Ghi-nê), một số loài thì sinh sống trên đảo Moluccas  của Nam Duong và  phía đông Uc. Chim Thiên Đường có khoảng 40 loài, các  con đực được biết  đến nhiều hơn bởi có bộ lông dài, sặc sỡ, kéo dài từ  mỏ, cánh hoặc đầu.   
Chim  Thiên Đường  đầu có màu vàng chanh, khoác bộ lông vũ tuyệt đẹp, nhất là  chiếc đuôi  dài xòe rộng, càng rực rỡ. Chân của chim rất ngắn, khi bay,  chân giấu  trong bộ lông nên người ta không nhìn thấy. Chim Thiên Đường  màu lam khi  gọi bạn tình, vẫn thường ngửa đầu, cong lưng, dựng bộ lông  màu vàng kim  ở cạnh sườn, hoặc treo ngược trên cành cây, rũ toàn bộ bộ  lông gấm hoa  diễm lệ của mình ra để hấp dẫn bạn gái. Các loài chim  dòng họ nhà Thiên  Đường là một trong những loại chim biết hót cổ xưa  nhất.  
 Chim  Thiên Đường là  biểu tuong của Papua New Guinea, cả quốc kỳ và quốc  huy, hàng không và  các vật kỷ niệm đều thấy hình ảnh của chim Thiên  Đường.   
 
   Có  42 loài chim Thiên  Đường trên thế giới, trong đó, có tới 37 loài chỉ  có ở New Guinea – hòn  đảo lớn thứ 2 trên thế giới sau Greenland với  diện tích 786.000 km2.  Không phải chỉ mình New Guinea, mà loài chim này  còn xuất hiện ở cả hòn  đảo nhỏ nằm cách biệt ở vùng biển Caribê có tên  Little Tobago, nằm cách  phía đông đảo Tobago 3 km và chỉ rộng 2,6 km2,  với điểm cao nhất là 155 m  so với mực nước biển. Điều đặc biệt là hòn  đảo này nằm cách xa so với  môi trường sống tự nhiên của loài chim Thiên  Đường.   
Nhưng  vào năm 1909, một  người Anh có tên William Ingram – chủ một trang trại  dừa ở Trinidad, đã  có ý tưởng biến nơi đây thành “ngôi nhà” mới cho  loài chim Thiên Đường.  Tháng 9 năm đó, ông đã đem đến hòn đảo này 24  con chim trống và 24 con  chim mái. Sau đó, 2 con chim mái khác được đưa  tới ngôi nhà này. Đây là  một ý tưởng khá hay bởi lẽ vào thời điểm đó,  những con chim Thiên Đường  sống trong môi trường tự nhiên ở New Guinea  đang phải đối mặt với nguy  cơ săn bắn vì bộ lông tuyệt đẹp và rực rỡ  của nó. Ngày 28/5/1928, người  thừa tự của ông William Ingram đã tặng cả  hòn đảo và khu vực sống của  loài chim Thiên Đường cho chính phủ  Trinidad & Tobago.  
 Kể từ năm 1929, hòn đảo nhỏ này trở thành nơi bảo tồn tự nhiên và được bảo vệ. Những chuyến viêng thăm  hòn  đảo với mục đích nghiên cứu khoa học và du lịch có giấy phép mới  được  thực hiện và phải đi theo hướng dẫn. Hòn đảo nhỏ này bao phủ bởi  vô số  loài thực vật khác nhau. Rất nhiều loài cây bụi và một số loại  cây co  trai là thức ăn của loài chim này.  
Chuối,  đu đủ, và một số loại  cây quả khác được trồng để đảm bảo nguồn thức ăn  dồi dào cho chim Thiên  Đường. Hòn đảo nhỏ này cũng là Thiên Đường cho  rất nhiều loài chim khác,  chẳng hạn như loài chim biển nhiệt đới mỏ đỏ,  chim Ruồi, chim Mòng  Biển, chim Hoàng Anh đuôi vàng, chim Hét, chim  Hồng  Tước, chim Bồ Câu,… Những loài vật như nhện, mối, bọ cạp, giun  đất,  rết, dơi, ốc sên, rắn và thằn lằn cũng xuất hiện ở đây.  
Hòn đảo này là nơi duy nhất có loài chim Thiên Đường ngoài môi trường sống tự nhiên của nó.  
  
 Thiên đường đuôi đen Terpsiphone atrocaudata  
 Thiên đường đuôi đen Terpsiphone paradisi  
  |                                   
                                                                                         | 
 Publié par DAT NGUYEN   à 21:22 
 
ReplyDeletevé máy bay eva
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
phòng vé máy bay korean air
book vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich
vé máy bay đi canada