Vỏ hành tây giúp ngừa tiểu đường
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học thuộc ĐH Madrid (Tây Ban Nha) và ĐH Cranfield (Anh) vừa tiến hành các thí nghiệm về công dụng của hành tây đối với sức khỏe.
Nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học thuộc ĐH Madrid (Tây Ban Nha) và ĐH Cranfield (Anh) vừa tiến hành các thí nghiệm về công dụng của hành tây đối với sức khỏe.
Theo   đó, vỏ nâu và những lớp bên ngoài của hành tây có chứa nhiều chất xơ  và  các hợp chất như quercetin và flavonoids, trong khi phần lõi bên  trong  cũng chứa nhiều hợp chất sunphur và fructan - tất cả đều có công  dụng  tốt cho sức khỏe và ngừa bệnh tật. 
“Việc  tiêu thụ nhiều chất xơ trong hành tây có thể giúp giảm nguy cơ  bị tiểu  đường tuýp 2, bệnh tim mạch, bệnh dạ dày và béo phì”, nhà khoa  học  Vanesa Benitez thuộc khoa Hóa học nông nghiệp của ĐH Madrid, cho  biết.  Ngoài ra lớp vỏ ngoài của hành tây chứa nhiều hợp chất phenol nên  còn  có tính năng chống ôxy hóa cao, giúp ngừa ung thư. Kết quả nghiên  cứu  này vừa được đăng chi tiết trên chuyên san Plant Foods for Human   Nutrition. (Theo Times of India)
Ăn táo giúp ngừa đột quỵ
Cụ   thể nhóm tính toán được rằng hễ bạn ăn mỗi 25g táo hay lê mỗi ngày thì   nguy cơ đột quỵ giảm 9%, và nếu trung bình một quả táo hay lê nặng từ   100-125g thì nguy cơ này có thể giảm từ 36% đến gần 50%. 
Theo  lý giải của nhóm, sở dĩ như thế vì những loại trái cây có ruột  trắng  và mọng nước như táo hay lê thường chứa nhiều chất quercetin vốn  làm  giảm tình trạng sưng viêm và xơ vữa động mạch, từ đó giúp ngừa nguy  cơ  đột quỵ. “Rõ ràng để ngăn ngừa đột quỵ, hãy ăn thật nhiều trái cây  ruột  trắng”, Linda Oude Griep - tác giả chính của nghiên cứu, đưa ra lời   khuyên trong báo cáo đăng trên tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Mỹ. (Theo Daily Mail)
Chữa cao huyết áp từ dưa hấuVề  khía cạnh y học cổ truyền, dưa hấu có vị ngọt, tính mát, có tác  dụng  giải khát, giảm say nắng, lợi tiểu tiện, giã rượu, chữa viêm hầu  họng,  lở miệng, trị nhiệt độc, các chứng phế nhiệt, vị nhiệt, cảm nắng,  sốt  cao, tiểu tiện đỏ, viêm thận phù thũng, và cả chứng huyết áp cao như   anh chị hỏi. Các nhà chuyên môn ghi nhận, chất đường, muối, a-xít hữu   cơ có trong dưa hấu có tác dụng chữa trị viêm thận và làm hạ huyết áp,   vì lượng đường thích hợp làm lợi tiểu, lượng muối kali làm tiêu viêm ở   thận, tăng cường dinh dưỡng cho bệnh nhân viêm thận... Vỏ dưa hấu vị   ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, giáng hỏa, trừ phiền,   lợi tiểu tiện. Hạt dưa hấu thì có vị ngọt tính mát, tác dụng tăng sinh   lực, chữa đau lưng, hạ huyết áp, trị giun sáng, làm mát phổi, tan đàm,   nhuận tràng, lợi tiêu hóa. Ngoài ra rễ và lá dưa hấu chữa được bệnh  tiêu  chảy và kiết lỵ nữa ở mùa hè. Với  người cao huyết áp, có thể dùng vỏ dưa hấu 30g, kết hợp với vỏ bí  đao  40g, và vị thuốc ngưu tất 15g đem nấu lấy nước dùng. Với người có  bệnh  đái tháo đường, có thể dùng vỏ dưa hấu 60g, kết hợp cùng vị thuốc  kỷ tử  60g, và ô mai 10g đem nấu lấy nước uống. Những ai hay bị đái dắt,  có  thể dùng 100g dưa hấu (thịt dưa hấu), và 30g rau diếp cá đem ép lấy   nước uống. Bị kiết lỵ ra máu, có thể dùng nước ép dưa hấu hòa với đường   đỏ, ngày uống 3 lần, mỗi lần một ly. Bị cảm nóng, thì dùng nước ép dưa   hấu một ly lớn, dùng vài lần/ngày.
Lương y Như TáHuyết áp thất thường
Hỏi: Thưa   bác sĩ, mẹ em năm nay 42 tuổi, lúc về đêm (tầm 2-3 giờ sáng) khi nằm   người khó chịu, cảm giác quay cuồng, thấy buồn nôn, khi ngồi dậy thì nôn   thốc nôn tháo, lúc ngồi dậy đo huyết áp thì huyết áp bình thường,  nhưng  khi nằm thì huyết áp tụt nhanh. Mong các bác sĩ chẩn đoán bệnh  giúp mẹ  em với. Em xin chân thành cảm ơn! 
- Trả lời:   Chào bạn, những dấu hiệu trên rất có thể là biểu hiện của hội chứng  rối  loạn thần kinh thực vật hay các dấu chứng của hội chứng tiền mãn  kinh  sớm ở những phụ nữ trên 40 tuổi. Việc lên xuống bất thường của  huyết áp  có thể do sự giãn nở hay co thắt của hệ thống động mạch ngoại  vi. Muốn  xác định rõ bệnh bạn cần đưa mẹ vào viện để thầy thuốc theo  dõi và chứng  kiến cũng như ghi nhận các triệu chứng khi xảy ra tình  trạng trên. Từ  đó mới có cơ sở chẩn đoán chính xác và có hướng điều trị  hết bệnh. 
Yoga giúp giảm đau lưng
 Cụ   thể các chuyên gia GHRI tiến hành thử nghiệm các bài tập yoga trên 228   tình nguyện viên bị chứng đau lưng mạn tính nhẹ trong 12 tuần, mỗi bài   tập mất khoảng 75 phút. Sau khi kết thúc thử nghiệm, các chuyên gia  nhận  thấy những tình nguyện viên tích cực tham gia tập yoga thay vì tập   những dạng thức khác đều giảm đáng kể các triệu chứng đau lưng, thậm  chí  6 tháng sau đó cũng không cần dùng đến thuốc giảm đau. 
"Kết  quả thu được cho thấy yoga là một lựa chọn an toàn và thích hợp  cho  những ai đang tìm đến các hoạt động thể dục nhằm làm dịu những cơn  đau  lưng khó chịu" , Karen J. Sherman - trưởng nhóm nghiên cứu nhận xét.   (Theo Times of India)
Tác dụng của hạt bí đỏ
 Hạt  bí đỏ (bí ngô) có thể dùng làm phương thuốc chữa bệnh. Bạn có  thể áp  dụng một trong những cách làm như sau: Để trị bệnh giun đũa, bạn  lấy  hạt bí đỏ đem phơi khô, rồi sắc (nấu) lấy nước uống; hoặc rang chín  hạt  để ăn. Với trẻ em, thông thường mỗi lần dùng 30 - 60g, uống vào buổi   sáng khi bụng đang đói, dùng liên tục từ 5 đến 7 ngày. Hoặc có thể áp   dụng cách khác là: lấy hạt bí đỏ (bỏ vỏ lấy nhân) từ 30 - 60g, nghiền   nhỏ, cho vào nước sôi, mật hoặc đường làm thành dạng hồ để dùng. 
Còn  để trị bệnh giun kim, bạn dùng nhân hạt bí đỏ (còn tươi) độ 60g,   nghiền nhỏ, cho vào nước để uống lúc bụng đang đói, có thể cho đường   hoặc mật ong vào uống. Trẻ em dùng một nửa lượng nói trên. Để chữa viêm   họng do thay đổi thời tiết, bạn có thể lấy hạt bí đỏ (sau khi tách từ   quả bí ra để vậy đem phơi khô, không được rửa qua nước). Sau đó đem nấu   nước, cho vào một ít đường phèn để uống, uống từ 6 - 9g/ngày. Để chữa   chứng ho gà, bạn dùng hạt bí đỏ nghiền thành bột, cho vào nước cùng một   ít đường cát để uống, uống vài lần/ngày.
Lương y Quốc TrungBị vẩy nến ở mặt 
Hỏi: Em   21 tuổi, cao 1,67 m, nặng 49 ký. Em thường thức khuya học bài, thường   thì 22 giờ mới đi ngủ, ăn uống hơi thất thường vì đi học cả ngày lẫn   đêm, và hơi bị căng thẳng. Liệu có phải những điều đó làm da mặt của em   bị vảy nến hoài không? Em xem trên mạng thấy người ta nói bệnh của em  do  một số yếu tố như tâm lý, ăn uống, stress... tác động nên không thể   khỏi hết được.  Mong mục Chẩn bệnh từ xa giúp em. Hiện bây giờ  em rất buồn vì da  mặt của mình bị như thế - ở sống mũi và 2 bên má có  vảy nến, hơi ngứa và  đỏ. Bệnh đã lâu rồi, em nhớ lúc trước da mặt em có  vài đốm trắng, rồi  em tự thoa thuốc. Chẳng những nó không có hiệu quả  mà còn làm da mặt  căng ra rất khó chịu. Em đi khám, bác sĩ nói em bị dị  ứng thuốc và cho  đơn thuốc uống kèm với thuốc thoa. Sau 2 tuần da mặt  em trở lại bình  thường, nhưng lâu lâu ở sống mũi và hai bên má vẫn xuất  hiện vảy nến,  cách vài ngày vảy nến bong ra, rồi sau 2-3 ngày lại xuất  hiện. Em đã đắp  nha đam, bơ, chuối, nghệ ở hai bên cánh mũi và hai bên  má, lên mặt, mà  vảy nến vẫn không hết hẳn. Nó hết 1-2 ngày rồi lại  xuất hiện nữa. Xin  cho em lời khuyên! 
 - Trả lời:  Chào bạn, những biểu hiện mà bạn mô tả  qua thư (đỏ, tróc vẩy, ngứa  trên mặt) có thể gặp trong một số bệnh da  như chàm, viêm da tiết bã,  vảy nến, tai biến da do thoa corticoid… Bạn  cần thăm khám trực tiếp để  có hướng điều trị thích hợp.
Da chúng ta chịu tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài cơ thể, nổi bật là nội tiết và thần kinh. Khi bị stress, một số bệnh da có thể có diễn biến xấu thêm. Vì vậy, bạn nên tìm cách giải tỏa áp lực về tình trạng lo âu, căng thẳng của mình thông qua các sinh hoạt, giải trí lành mạnh và nghỉ ngơi hợp lý. Bạn sắp xếp thời gian đi khám bệnh sớm nhé. Không phải là bệnh không hết như bạn nghĩ đâu!
Thân!
Da chúng ta chịu tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài cơ thể, nổi bật là nội tiết và thần kinh. Khi bị stress, một số bệnh da có thể có diễn biến xấu thêm. Vì vậy, bạn nên tìm cách giải tỏa áp lực về tình trạng lo âu, căng thẳng của mình thông qua các sinh hoạt, giải trí lành mạnh và nghỉ ngơi hợp lý. Bạn sắp xếp thời gian đi khám bệnh sớm nhé. Không phải là bệnh không hết như bạn nghĩ đâu!
Thân!
Bác sĩ Võ Thị Bạch Sương
Mí mắt màu vàng và nguy cơ đau tim
             |         |      
| Ảnh: Daily Mail | 
Mí   mắt có màu vàng có thể là dấu hiệu cho thấy nguy cơ bị đau tim, đột  quỵ  cùng nhiều chứng bệnh khác gia tăng. Đó là phát hiện của các nhà  khoa  học thuộc ĐH Copenhagen (Đan Mạch) sau khi nghiên cứu gần 13.000  người  bị chứng xanthelasmata (tức u vàng hay ban vàng quanh mi mắt) từ  năm  1976 đến 2009.
Cụ  thể  nhóm khoa học gia nhận thấy những bệnh nhân bị xanthelasmata dễ bị  đau  tim và bị đột quỵ hơn trong vòng 10 năm tham gia nghiên cứu. Sở dĩ  như  thế vì họ dễ bị tích tụ cholesterol xấu trong cơ thể, từ đó dễ dẫn  đến  những cơn đau tim hay đột quỵ. 
Nguy cơ này đặc  biệt rõ ở nam từ 70-79 tuổi. Cũng từ phát hiện này,  nhóm nghiên cứu  khuyến cáo những người mắc chứng xanthelasmata nên thay  đổi lối sống và  điều trị để giảm bớt lượng cholesterol xấu trong cơ thể.  (Theo Daily Mail)
Trẻ chậm lớn vì tiêu hóa
| Ảnh: shutterstock | 
Đi   ngoài phân xanh, phân mỡ, phân sống… là những dấu hiệu của sự rối loạn   tiêu hóa, tùy theo mức độ nhưng đều ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng   trưởng của trẻ.
Đã lên 5 tuổi nhưng bé Sóc vẫn bị chứng táo bón theo đuổi suốt từ lúc sơ sinh tới giờ mặc cho mẹ đã rất nỗ lực. Mẹ đưa Sóc đến bác sĩ dinh dưỡng từ lúc vài tháng tuổi, chăm chỉ làm các món ăn dễ tiêu như sinh tố trái cây; các thực đơn nhiều rau nhưng bé vẫn bị táo bón. Mỗi lần đi cầu bé nhăn nhó khổ sở. Nếu tuần nào mẹ bận mà không chăm sóc bữa ăn chu đáo là thời gian bé Sóc táo bón tỷ lệ thuận theo, thường phải dùng các dụng cụ, dung dịch để thụt tháo. Quá lo lắng, mẹ đưa Sóc đến một bác sĩ chuyên về tiêu hóa có thâm niên. Sau khi làm các xét nghiệm cần thiết, bác sĩ kết luận bé bị táo bón do phình đại tràng bẩm sinh, không thể can thiệp bằng chế độ dinh dưỡng đơn thuần.
Lý giải về hiện tượng trên, bác sĩ Nguyễn Thị Minh Tâm, khoa Nhi Bệnh viện quốc tế Hạnh Phúc cho biết, đây là bệnh lý bẩm sinh, phải phẫu thuật mới điều trị triệt để, bởi nếu để lâu dài sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
|               Trị táo bón tại nhà Nhắc  đến rối loạn tiêu hóa không thể không nhắc đến chứng  táo bón, đây  không hẳn là bệnh lý nhưng cũng gây ảnh hưởng đến sự tăng  trưởng của  trẻ. BS CK1 Hoàng Lê Phúc - Trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện  Nhi đồng 1  nhấn mạnh, táo bón mạn có thể làm trẻ nứt hậu môn, són phân,  chán ăn và  chậm phát triển. Việc điều trị tại nhà có thể khắc phục chứng táo bón, nhưng cần duy trì điều độ. Trái với việc điều trị chứng TNDDTQ, trẻ bị táo bón cần pha loãng sữa hoặc pha thêm 1 muỗng nước quả. Xoa bụng cho trẻ theo khung đại tràng từ phải qua trái ngày 3-4 lần vào khoảng cách giữa 2 bữa ăn để kích thích làm tăng nhu động ruột. Cho trẻ ăn cả múi các loại cam, quýt, bưởi, đu đủ, chuối tiêu, thanh long… kết hợp uống nhiều nước. Trẻ cũng có thể ảnh hưởng từ bú mẹ nếu mẹ bị táo bón, nên cần điều trị cho mẹ trước.  |          
Điều quan trọng là phụ huynh phải nhận biết được dấu hiệu lâm sàng ở trẻ như táo bón kéo dài, bụng trướng, gầy sút, kém ăn, suy dinh dưỡng; thậm chí có trẻ còn không tự đại tiện được mà phải thụt tháo thường xuyên. Lúc này nên đưa trẻ đến các bệnh viện nhi có chuyên khoa tiêu hóa, nếu được chỉ định phẫu thuật, trẻ sẽ được chuyển qua khoa ngoại.
Phân sống, phân xanh, phân mỡ
Bố mẹ có thể nhận biết bé bị rối loạn tiêu hóa qua cách quan sát phân của bé: đi ngoài phân sống (trong phân còn lẫn những mảnh rau, sợi thịt), hoặc phân xanh, phân mỡ (phân có ánh mỡ). Đặc biệt khi đi ngoài phân sống bé sẽ đại tiện nhiều lần trong ngày. Trẻ thiếu men tiêu hóa thường do dùng nhiều thuốc kháng sinh - bác sĩ Minh Tâm nhấn mạnh, muốn chẩn đoán chính xác, bác sĩ phải thử phân của bé mới biết được.
Trước mắt, để tránh bé đi phân sống do rối loạn tiêu hóa, ở nhà phụ huynh nên xay nhuyễn thịt và rau trước khi cho trẻ ăn để giúp hệ tiêu hóa trẻ dễ hấp thu. Kết hợp cho trẻ uống các loại men vi sinh hoặc dùng sữa chua mỗi ngày.
Trường hợp bé đại tiện phân xanh, phân mỡ thì nguy hiểm hơn. Trẻ thường bị bệnh này trong khoảng sơ sinh đến 2 tuổi, với biểu hiện phân nhiều thường có màu xám sẫm và láng mỡ, đôi khi lỏng hoặc táo bón. Bệnh đại tiện phân mỡ (Coeliac) là loại bệnh do ruột non teo các vi nhung mao dẫn tới không dung nạp được gluten (có trong lúa mì, phô-mai nhưng không có trong gạo, ngô). Nếu loại bỏ gluten trong thức ăn thì chức năng của ruột non trở lại bình thường. Bệnh làm cho hệ tiêu hóa của bé kém hấp thu các chất dinh dưỡng; nước; điện giải; muối; sinh tố; các yếu tố vi lượng … Về lâu dài nếu không điều trị có thể gây ung thư ruột non hoặc u lympho.
|               Trào ngược dạ dày thực quản Là  hiện tượng thường xảy ra ở trẻ nhũ nhi, trào ngược dạ  dày thực quản  (TNDDTQ) xảy ra khi trẻ ăn quá no, nuốt nhiều hơi hoặc  không khí trong  khi bú, dẫn tới dịch tiết dạ dày trào ngược lên thực  quản. Thông  thường, sau khi bú xong, các bà mẹ sẽ bế bé lên, vỗ nhẹ vào  lưng cho  đến khi bé ợ để tống không khí ra ngoài thì hết nôn; nhưng cũng  có  trường hợp sau khi ợ xong bé vẫn nôn hoặc nôn trong khi bú. Cho nên,   tuy TNDDTQ là hiện tượng sinh lý bình thường nhưng các bác sĩ vẫn lo   ngại tình trạng nôn có thể gây sặc hoặc tắc đường thở gây nguy hiểm cho   trẻ. Do đó, khi thấy trẻ nôn nhiều và tím tái, cần để trẻ nằm nghiêng   cho sữa trào ra, vuốt nhẹ lưng và xoa lòng bàn chân, sau đó nhanh chóng   đưa trẻ tới bệnh viện. Một vài khuyến cáo để các bà mẹ có thể phòng TNDDTQ cho trẻ tại nhà. Chọn thức ăn đặc (bằng cách pha thêm tinh bột vào sữa hoặc nấu cháo đặc) - tuy nhiên cần chú ý có thể gây táo bón hoặc giảm khả năng hấp thu can-xi trong sữa. Chia nhỏ các bữa ăn của trẻ; tránh những thực phẩm gây nôn như sốt cà chua, các loại nước ép bưởi, cam, quýt; thức ăn nhiều chất béo hoặc hành tỏi. Sau khi trẻ ăn hoặc bú xong nên bế trẻ thẳng trong 15 - 30 phút; đặt trẻ nằm với gối cao; cho trẻ mặc quần áo rộng thoáng, tránh cho trẻ ngủ ngay sau khi ăn mà phải đợi vài giờ sau.  |          
Du Miên
Tê tay chân khi ngủ
             Muốn chẩn đoán chính xác, bệnh nhân cần phải đi đo mật độ xương; kiểm tra huyết áp tứ chi… Nếu bị giảm mật độ xương, bệnh nhân cần được tư vấn điều chỉnh về chế độ ăn uống, vận động (đi bộ hay đi bơi…). Những trường hợp như chị không nên mặc quần áo quá chật khi ngủ.
PGS.TS Nguyễn Hoài Nam
Hội chứng ống cổ tay 
             Thân!
Bác sĩ Tăng Hà Nam Anh
Thực phẩm bổ sung chất sắt 
 |               Ảnh: shutterstock  |          
Thiếu hụt sắt lâu dài làm giảm khả năng hoạt động thể lực, đặc biệt là các hoạt động đòi hỏi sức bền (chạy điền kinh, bơi lội, bóng đá, đua xe đạp...). Tuy nhiên, khi bổ sung đủ sắt thì khả năng này sẽ được hồi phục.
|   |          
Chất sắt có nhiều trong các loại thịt cá đỏ như thịt bò, thịt heo, cá ngừ... (thịt trắng như thịt gia cầm thì ít hơn). Chất sắt còn có nhiều ở gan, huyết, lòng đỏ trứng hoặc rau xanh như rau dền, bồ ngót, rau muống... và các loại đậu hạt. Sắt từ thức ăn có nguồn gốc động vật sẽ dễ hấp thu hơn nguồn gốc thực vật. Trong bữa ăn nên có rau xanh hoặc ngay sau bữa ăn chính nên dùng thêm trái cây tươi giàu vitamin C như cam, chanh, bưởi, táo, sơ-ri, đu đủ, chuối... giúp hấp thu tốt chất sắt từ bữa ăn. Ngược lại, chất tanin trong trà sẽ hạn chế việc hấp thụ sắt. Do vậy, không nên uống nước trà đặc quá gần bữa ăn mà nên uống cách khoảng 2 giờ sau khi ăn.
Các đối tượng có nguy cơ thiếu máu cao như phụ nữ có thai, cần bổ sung thêm chất sắt mỗi ngày một liều với 60 mg sắt nguyên tố và 400 mcg axit folic ngay từ khi biết có thai cho đến sau sinh một tháng. Phụ nữ tuổi từ 15-49 tuổi nên bổ sung chất sắt với liều khoảng 60 mg mỗi tuần một lần và uống 16 tuần mỗi năm.
BS CK1 Đào Thị Yến Thủy
(Trung tâm dinh dưỡng TP.HCM)
Đau Thắt Lưng Ðau      lưng là bệnh thường thấy ở mọi người sống tại bất cứ quốc gia      nào.       (Trung tâm dinh dưỡng TP.HCM)
          Theo  kết quả thăm dò của National Health and      Nuitrition Examination  Survey thì từ 75 tới 85% dân chúng đều bị      đau nhức hành ở thắt lưng  ít nhất một vài lần trong cuộc đời.       Bệnh là lý do thứ nhì để đi  khám bác sĩ; có nhiều ở lớp tuổi từ      45 tới 64, nhiều hơn ở nam  giới. Bên Hoa Kỳ, mỗi năm có trên 65      triệu người bị đau lưng và là  nguyên nhân thông thường khiến ta      phải giới hạn một số sinh hoạt  trong ngày. 
          May  mắn là nhờ sự tiến bộ của y khoa học, hiện      nay đã có nhiều phương  pháp nội công ngoại kích để điều trị      chứng đau lưng này.
Với  nhiều nhà chuyên môn y tế thì Đau Lưng hầu      như là một căn bệnh của  đời sống gây ra nhiều khi do thói quen ỷ      y bất cẩn của con người.  Vì họ đứng, họ đi, họ nâng nhấc hoặc      lôi kéo một vật nặng nào đó  không đúng cách, đưa tới tổn thương      cho các thành phần cấu tạo của  lưng. Mà khi đã bị một lần thì      cũng có nguy cơ tái phát. 
          Các  nhà chuyên môn cũng ước lượng là 80% các      trường hợp Đau Lưng có  thể phòng ngừa được nếu ta để ý một chút      trong sinh hoạt hàng ngày  hoặc nếu ta có vài kiến thức căn bản      về cái cột sống.
          Cấu trúc cột sống
          Cột  sống với 33 đốt xương là cái đà dọc chính      giữa để treo đỡ các bộ  phận ở phần trên của cơ thể. Thay vì là      một uốn lưng hơi cầu vồng  như ở động vật bốn chân, cột sống con      người lại có bốn nhịp cong  trước sau như một cái lò so hình chữ      S dựng đứng. Bẩy đốt sống cổ  cong về trước; 12 đốt sống ngực về      phía sau; 5 đốt sống lưng cong  đằng trước và 9 đốt cuối dính      liền với nhau lại cong ra sau. Ðây là  một sự sắp xếp rất tài      tình của tạo hóa để cột sống chịu được sức  nặng của cơ thể mà      không siêu vẹo, ngả nghiêng.
          Có  khoảng 400 cơ thịt, dây chằng và gân để giữ      cột sống đứng thẳng.  Dây chằng là những dải tế bào sợi rất dai      neo các đốt xương với  nhau. Gân nối bắp thịt với xương. Khi các      dây neo này quá căng,  chúng sẽ rách, suy yếu, đốt sống lệch      không đứng vững, thịt gân  sưng và đưa tới thương tổn đau nhức.     
          Giữa  cột là ống chứa tủy và là nơi xuất phát của      các dây thần kinh vận  động, cảm giác dẫn truyền thông tin giữa      não và các bộ phận trong  cơ thể. 
          Nằm  giữa hai đốt xương là một cấu trúc dẹp ( đĩa      đệm) với chất  collagen rất bền chắc dùng làm chất đệm chống cọ      sát khi đốt xương  cử động. Phần ngoài đĩa khá cứng nhưng ruột      mềm, nên đĩa có thể  phình lòi ra hoặc bị chấn thương, ép vào rễ      thần kinh và gây ra đau  đớn vô cùng. Đốt ở phía cuối cột là nơi      gây ra nhiều đau hơn cả.
          Nguyên nhân
          Mặc  dù đau lưng có thể do gẫy cột sống, rối loạn      của đĩa đệm, u bướu  nhưng các nguyên nhân thường xẩy ra nhất vẫn      là tổn thương dây  chằng sprain do bất chợt bị căng quá mức. Có      nhiều nguy cơ đưa tới  chứng Đau Lưng: 
          a-  Chị Vân bụng mang dạ chửa vượt ngực. Tử cung      lớn lên cộng với thai  nhi nặng từ 11 tới 13 kí lô, kéo các bắp      thịt, khớp xương và xương  chậu về phía trước. Bà bầu thường than      phiền đau lưng, hai tay đỡ  mạng mỡ, dáng đi hơi lạch bạch, ngả      nghiêng, bung ưỡn ra trước;
          b-Bà  Chánh Thi vừa vào tuổi mãn kinh, kích thích      tố nữ giảm, đưa đến  thoái hóa xương. Xương sống yếu không chịu      đựng được sức nặng của  cơ thể, gây đau lưng nhức khớp;
          c-Các  bạn thanh thiếu niên ngồi dùi mài kinh sử,      nhân viên ôm máy vi  tính hoặc quý bà quý cô mải miết may vá suốt      ngày suốt buổi trong   tư thế không ngay thẳng  làm cho cột sống      trẹo nghiêng, dây chằng  căng thẳng, khi đứng lên là ôm lưng kêu      đau.
          đ-Lão niên ít vận động, cơ thịt yếu khiến lưng      cũng đau như giần;.
          e-Anh  Ðô, tay bốc vác bến tầu, ỷ mình trai tráng      luôn luôn trổ tài đứng  mà nâng, mang bao gạo, thùng đồ nặng với      sức mạnh của lưng. Thì một  ngày đẹp trời không hẹn trước khớp      xương trật trẹo, gân thịt căng.  Thế là thắt lưng đau như xé,      phải nghỉ việc cả mấy tuần lễ;
          g-Bà  con ta có những cơn xúc động mạnh như quá      nóng giận, quá vui, quá  lo âu cũng làm cơ thịt căng co, gây ra      đau lưng;
          h-Các  bệnh u bướu, viêm khớp, gẫy teo cột sống,      lao cột sống, bệnh tim,  thận, nhiếp tuyến, tụy tạng là nguyên      nhân thường trực của đau  lưng;
          i-Mập  phì với sức nặng trên dưới một tạ là gánh      nặng cho xương sống, lâu  ngày xương thịt mệt mỏi, suy yếu và đau      lưng. Mập phì cũng đưa tới  sớm thoái hóa cột sống, đĩa đệm.
          k-Nằm ngủ trong vị thế bất thường, giường nệm quá      mềm xương cong xuống cũng là nguy cơ gây đau lưng.
           Ấy là còn phải kể đau lưng khi phụ nữ mình thấy      kinh mỗi tháng, 
          Thường  thường, những đau nhức lưng như vậy chỉ      kéo dài ít bữa rồi hết,  ngoại trừ khi ta ở vị thế mà cơ thịt,      khớp xương bị liên tục căng  thẳng. Bệnh có thể trở thành kinh      niên với đau nhức suốt đời, lan  xuống cả hạ chi, bàn chân ngón      chân tê, kim chích. Ðôi khi có các  dấu hiệu biến chứng thần kinh      như rối loạn đại tiểu tiện, giao hợp  sinh lý...       
          Phòng ngừa.
          Phòng  ngừa có mục đích tránh các căng giãn  không      cần thiết cho bắp  thịt, gân, dây chằng, tránh tổn thương cho đĩa      đệm, sợi thần kinh  và cũng để tăng cường sức mạnh cho các phần      mềm neo giằng hỗ trợ  cột sống.
          a-  Khi mang vật nặng từ mặt đất, không nên khom      lưng xuống để nhấc  vật đó lên. Ta nên bước tới càng gần vật càng      tốt, ngồi xuống, hai  tay ôm vật đó vào lòng rồi từ từ đứng lên      qua sức mạnh của hai đầu  gối.  Khi đặt vật xuống, gấp đầu gối,      ngồi xuống rồi đặt vật vào vị  trí. Làm như vậy là để tránh được      sự tổn thương cho các thành phần  cấu tạo của thắt lưng.
          Khi vật nặng nằm ở trên bàn, ta có thể ôm vào      bụng hay quay lưng ôm đồ vật vào lưng để mang đi.
          Khi vật ở cao, không nên cố sức với lên cao mà      đứng trên một ghế vừa tầm tay lấy đồ.
          Tránh nâng vật nặng quá sức của mình và vật cồng      kềnh.
          b- Giới hạn đi giầy quá cao. Ði giầy gót quá cao,      con người nghiêng về phía trước, cột sống xiêu vẹo, yếu.
          c-Giữ  dáng điệu ngay ngắn khi đi cũng như khi      ngồi làm việc, ăn uống. Ði  thì người vươn cao, mắt nhìn thẳng      phía trước, bước đi dài gọn,  hai bàn chân chạm đất, hai tay vung      vẩy tới lui nhịp nhàng. Ngồi  với lưng thẳng, ngực ưỡn, bụng hơi      thót vào.
          d-Khi  đứng, bụng thót phẳng, hướng xương chậu về      phía sau sẽ giúp phần  dưới của cột sống vững hơn. Nếu cần đứng      lâu thì đặt một chân lên  vật cao khoảng hai tấc để ngả xương      chậu về phía sau rồi lâu lâu ít  phút đổi sang chân kia. Tránh      đứng quá dài thời gian ở một vị trí.
          e-Ngồi  liên tục đều gây nhiều khó chịu cho lưng.      Vì thế đôi khi ta nên  đứng dậy, đi qua đi lại, làm công việc lặt      vặt khác, vươn vai, duỗi  chân cho thư giãn xương lưng, đầu gối,      gót chân. Tránh nệm ghế quá  mềm. Khi ngồi, đầu gối đừng cao hơn      hông và hướng hông về phía sau  của ghế để tránh tư thế không      ngay thẳng. Nên lót lưng với một cái  gối nhỏ và để tay trên      miếng tựa.
          Khi  đứng lên từ vị trí ngồi, di chuyển bàn tọa về      mép ghế. Ðứng lên  với cẳng chân duỗi thẳng , tránh khom lưng và      ưỡn ngực về phía  trước.  
          g-Khi lái xe, đẩy ghế gần tay lái và dựa lưng với      một gối tròn nhỏ.
          g-Nên  ngủ trên nệm cứng; nằm nghiêng , đầu gối co      thước thợ hoặc khi nằm  ngửa thì lót gối dưới khuỷu chân. Gối cao      vừa phải để đầu và mình  ngang bằng;
          h-Nếu  làm vườn, nhổ có cần cúi liên tục, nên lâu      lâu đứng thẳng, vươn  vai, đi loanh quanh một lúc vừa để tránh      quá căng cho gân cốt, cơ  thịt vừa kiếm miếng nước uống.      
          k- Khi coi truyền hình hoặc đọc sách lâu nên nằm      thẳng để tránh căng cho xương sống.
          l-Quần áo không nên quá bó sát vào người để máu      lưu thông dễ dàng và co bắp thoải mái..
          m-Tập  thể dục với các cử động làm thư giãn tất cả      khớp xương và bắp  thịt, gân, dây chằng và tăng cường sức mạnh      cho các phần mềm này.
          n-Không hút thuốc lá vì nicotine làm giảm máu lưu      thông tới lưng khiến cơ khớp yếu.
          o-Dinh  dưỡng cân bằng đa dạng vừa phải để tránh      mập phì. Giảm cân nếu quá  mập, vì mập phì làm mô mềm ở lưng căng      giãn. Hai phần ba người bị  đau lưng kinh niên đều ở tình trạng      quá cân.
          Định bệnh
          Trước  khi điều trị thì  bác sĩ cần xác định bệnh      bằng tìm hiểu tại sao,  trong hoàn cảnh nào mà có chuyện đau      lưng; khám kỹ toàn bộ cơ thể  để tìm ra chấn thương, nếu có; chụp      X quang xương lưng, CAT scans,  MRI  để xem tổn thương ở phần nào      của cột sống. Bác sĩ gia đình có  thể làm công việc này. Đôi khi      cần đến các bác sĩ chuyên khoa như  về Xương, Thần Kinh để được      khám nghiệm thêm.
          Theo  nhiều nhà chuyên môn, 85% nguyên nhân của      Đau Thắt Lưng đều không  được biết rõ. Cho nên y giới đặt ra một      cái tên như “ Căng bắp  thịt” muscle strain hoặc Ðĩa Ðệm Bị Hở      (herniated disk) cho có, chứ  chẳng lẽ lại nói không có bệnh gì.
          Điều trị.
          Với  một số bệnh nhân gặp may mắn thì nằm nghỉ vài      ngày, đắp hơi nóng  lạnh, thoa bóp với dầu nóng và uống vài viên      acetaminophen  (Tylenol) là có thể giải quyết được cơn đau..     
          a-Nằm  nghỉ có mục đích là để bắp thịt và dây      chằng bớt căng thẳng. Nhưng  cũng có nhiều bác sĩ lại khuyên cứ      tiếp tục sinh hoạt như thường  lệ. Theo họ, khoảng vài ngày thì      được chứ nằm nghỉ lâu, xương thịt  sẽ yếu và đưa tới đau nhức      hơn. 
          Nằm  ngửa trên mặt bằng cứng với tấm nệm mỏng để      cột sống khỏi lún  xuống theo nệm mềm; gối đầu mềm và thấp; hai      chân hơi co với một  cái gối dưới đầu gối.
          b-Sau  khi bị chấn thương, chườm  nước đá 15 phút      nhiều lần trong ngày để  làm giảm đau và sưng. Hơi lạnh làm mạch      máu co hẹp, giảm lưu lượng  chất lỏng tiết ra mô bào chung quanh      nơi tổn thương, giảm sưng,  giảm bắp thịt, gân co cứng.
            Chứa nước đá trong túi nhựa, lót một tấm khăn      vải mỏng để tránh  cóng lạnh da. Thị trường có bán cục chất lỏng      để đông lạnh rất tiện  dụng.
          c-Sau  đó khoảng 48 giờ nếu còn đau thì chườm      nóng. Sức nóng làm mạch máu  giãn mở, đưa máu tới mô bào nhiều,      tăng dinh dưỡng và oxy cũng như  loại bỏ chất cặn bả cần phế      thải. Hơi nóng cũng khiến cơ khớp thư  giãn, giảm đau và cử động      được dễ dàng. 
          Hơi  nóng có thể là nước nóng để trong bình thủy      tinh hoặc bình nhựa,  túi cao su, khăn lông ngâm nước nóng, dầu      nóng hoặc từ đèn hồng  ngoại, tia laser với công suất thấp. Không      bao giờ đặt nguồn nóng  trực tiếp trên da mà nên bọc với một cái      khăn lông để tránh phỏng.  Hơi nóng cũng được dùng trước khi trị      lưng đau với vật lý trị liệu  hoặc tập thư giãn phần mềm của      lưng.
          d-Các  thuốc chống viêm sưng và chống đau không có      steroid (NSAID) như  Ibuprofen, Napoxen, thuốc thư giãn bắp thịt      có thể dùng trong vài  ngày.  Một số dược phẩm mới loại áp chế      COX-2 như Celebrex đều rất  công hiệu nhưng tác dụng phụ đương là      vấn đề gây ra tranh luận.  Thuốc thư giãn bắp thịt như      Cyclobenzapine ( Flexeril),  Methocarbamol ( Robaxin) cũng được      dùng khi đau nhiều. Các thuốc có  chất á phiện đều tốt cho các      trường hợp đau nặng nhưng nên tránh  dùng quá lâu, kẻo có thể      thành quen ghiền. 
          Nếu  cơn đau kéo dài cả tuần thì nên đi bác sĩ để      được khám coi có tổn  thương nặng hơn nhất là ở dây thần kinh,      cột sống.
          Chẳng  hạn khi bị nóng sốt ngay khi đau, là có thể      bị viêm tủy sống; mất  cân là một trong nhiều dấu hiệu của u      bướu; tê dưới bẹn, hậu môn  hoặc không kiểm soát đại tiểu tiện      được là phải nghĩ tới dây thần  kinh bị kẹt.
          Sau khi cơn đau giảm, nên tập để tăng sức mạnh      cho bắp thịt ở bụng. 
          Nằm  ngửa, thẳng người, dưới lưng có một miếng vật      liệu xốp. Nằm thẳng  khi nào lưng đè miếng sốp xuống sàn là tốt      vì khi đó cơ thịt ở bụng  đều căng thẳng. 
          Chỉ  một số ít bệnh nhân với thương tích dây thần      kinh mới cần đến giải  phẫu, nhất là khi các phương thức trị liệu      thông thường không có  hiệu quả.
          e-Giải phẫu cột sống
          Ðau  lưng do bong gân, căng dây chằng đôi khi quá      đau khiến nhiều người  nghĩ tới giải phẫu. Nhưng đa số các trường      hợp như vậy đều có thể  giải quyết thòa đáng bằng thuốc men, vật      lý trị liệu. 
          Theo  các nhà chuyên môn, chỉ có dưới 5% đau thắt      lưng cần đến phẫu  thuật. Chẳng hạn như khi thần kinh cột sống bị      đè ép, cấu trúc đốt  sống biến dạng, có dấu hiệu rối loạn thần      kinh như mất chức năng  kiểm soát đại tiểu tiện, tê dại suy yếu      phần dưới cơ thể. 
          Nếu  phải giải phẫu, nên hỏi rõ mục đích mổ để làm      gì; sau khi mổ bệnh  lành được bao nhiêu phần trăm; rủi ro mổ xẻ      ra sao ...Ðừng bao giờ  ngần ngại hỏi thêm ý kiến bác sĩ chuyên      môn thứ hai, thứ ba trước  khi ký giấy đồng ý.
          Ngoài  ra có thể dùng các phương thức như Vật lý      trị liệu, Chỉnh Cột  Sống, châm cứu, thoa bóp, yoga, Thủy  trị      liệu với  tắm nước khoáng  nóng Spas, bơi lội, thoa uống mật gấu,      đắp lá xương sông giã  nhỏ...
          Kết luận
Liệt  vận động là tình trạng giảm hoặc  mất vận động của cơ do mất sự điều  khiển của thần kinh chi phối. Tình  trạng này kéo dài sẽ dẫn tới cứng  khớp, teo cơ, rối loạn dinh dưỡng, suy  giảm sự lưu thông huyết dịch  vùng chi liệt. Liệu pháp xoa bóp sẽ giúp  tăng tuần hoàn tại chỗ, hồi  phục các dây thần kinh và hạn chế các biểu  hiện trên.e="text-indent: 36pt; color: rgb(0, 0, 0);">          Công  luận thường nói Ðông và Tây nhìn thế giới      dưới nhãn quan khác  nhau. Nhưng ở chuyện đau thắt lưng thì đôi      bên dường như có ý kiến  gần nhau.                Ðông  Y cho rằng “Thông thì bất Thống; Thống vị      bất Thông”, khí huyết  lưu thông thì không đau; đau vì khí huyết      trì trệ. Cho nên “ngồi  lâu tổn thương thịt; đứng lâu tổn thương      xương; đi lâu tổn thương  gân”.
          Tây  Y cũng cùng ý nghĩ: không vận động là một      trong nhiều rủi ro đưa  tới đau nhức xương khớp và “Use it or      loose it”, không dùng thì  mất. Nhưng dùng mà không đúng cách lại      là rủi ro ôm lưng mà than  đau đau. 
           Cho               nên  lẽ “Tri-Hành Hiệp -Nhất” phải sánh vai đi đôi      với nhau. Chứ biết  vậy mà không làm vậy thì e rằng chẳng sớm thì      chầy, đau lưng nhức  xương  sẽ đột ngột tới thăm.
          Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức,Texas-Hoa Kỳ.
Vi Trùng mới        gây Tiêu Chảy        Du Lịch        Bacteroids Fragil(Tiêu Chảy Khi Du Lịch. Bài này do Nicholas J. Beeching và Bs Clinton White phổ biến trong báo Current Opinion in Infectious Diseases, 23: 481, 2010).
       Các tác giả         cho biết        bệnh        tiêu chảy        khi du lịch         tại        những        nước        Nam Á Châu, Nam Mỹ        Châu hay  miền        gần        Sahara Phi Châu. Theo các tác giả        thì  những        di thể        như        nucleotide trong lactoferrin,  Osteoprotegerin và IL-10        có thể        liên hệ        tơí         nguy cơ        tiêu chảy        và vi trùng đường        ruột        khi  du lịch.        Vi trùng mơí        Bacteroides fragilis gây nguy cơ         tiêu chảy        du lịch.        B. Fragilis là vi trùng âm tính,  kỵ        khí, sống        trong ruột,        gây nhiễm        trùng làm  mủ.        Vi trùng này thấy        nhiều       ở        những         nước        đang mở        mang. 
       Ngoài ra, chúng ta        đã từng         biết        vi trùng E. Coli gây tiêu chảy.        Vi trùng E.  Coli vơí        độc        tố        khó tiêu hủy        vì nhiệt         gây nguy cơ        tiêu chảy        nhiều        hơn        vi trùng E.  Coli vơí        độc        tố        dễ        tiêu hủy        vì nhiệt.       
Tê đầu ngón tay là do bệnh gì?"Vì  công  việc, tôi hay lái xe máy. Gần đây, 10 đầu ngón tay bị tê, có phải  do  tôi cầm tay lái nhiều nên máu không  lưu thông?" Ngọc Thủy, 23  tuổi, Quế  Sơn, Quảng Nam. Trả lời:
Tình trạng của bạn là một chứng bệnh rất thường gặp, được gọi là hội chứng ống cổ tay. Các đầu ngón tay bị tê do dây thần kinh giữa bị chèn ép khi đi qua vùng cổ tay. Bệnh này thường gặp ở nữ, tuổi trung niên, nhưng cũng có thể xảy ra ở người trẻ, lao động hoặc công việc phải sử dụng cổ tay quá mức như đánh máy tính, nội trợ, chèo thuyền, chạy xe...
Lúc đầu, triệu chứng tê chỉ xảy ra khi làm việc, về sau có cả khi ngủ dậy lúc sáng sớm và có thể kéo dài liên tục trong ngày. Hội chứng ống cổ tay nếu phát hiện sớm và điều trị tích cực thì có thể khỏi hẳn.
Cách điều trị là giảm bớt những công việc phải sử dụng cổ tay, mang nẹp vào buổi tối, dùng thuốc kháng viêm. Trường hợp nặng hơn có thể phải chích corticoid vào ống cổ tay hoặc phẫu thuật. Bạn cần khám bác sĩ chuyên khoa và đo điện cơ để xác định chắc chắn trước khi điều trị.
Tình trạng của bạn là một chứng bệnh rất thường gặp, được gọi là hội chứng ống cổ tay. Các đầu ngón tay bị tê do dây thần kinh giữa bị chèn ép khi đi qua vùng cổ tay. Bệnh này thường gặp ở nữ, tuổi trung niên, nhưng cũng có thể xảy ra ở người trẻ, lao động hoặc công việc phải sử dụng cổ tay quá mức như đánh máy tính, nội trợ, chèo thuyền, chạy xe...
Lúc đầu, triệu chứng tê chỉ xảy ra khi làm việc, về sau có cả khi ngủ dậy lúc sáng sớm và có thể kéo dài liên tục trong ngày. Hội chứng ống cổ tay nếu phát hiện sớm và điều trị tích cực thì có thể khỏi hẳn.
Cách điều trị là giảm bớt những công việc phải sử dụng cổ tay, mang nẹp vào buổi tối, dùng thuốc kháng viêm. Trường hợp nặng hơn có thể phải chích corticoid vào ống cổ tay hoặc phẫu thuật. Bạn cần khám bác sĩ chuyên khoa và đo điện cơ để xác định chắc chắn trước khi điều trị.
|   Dây số 2 - dây thị giác - bắt nguồn từ các tế bào ở võng mạc, tập trung lại thành dây thần kinh thị giác, chui qua 2 lỗ thị giác vào sọ, điểm tận cùng là trung tâm thị giác ở vỏ não. Dây thần kinh thị giác dẫn truyền cảm giác về ánh sáng và các đồ vật về não. Nếu dây này bị teo sẽ khiến người bệnh nhìn các vật như nhìn vào một ống nứa. Ngoài ra, nếu khối u đè vào dây thị giác sẽ sinh bệnh bán manh, chỉ nhìn thấy một bên mắt. Dây số 3 -  dây vận nhãn chung - đi từ  cuống đại não (trung não), chạy ra phía  trước, vào ổ mắt, vận động một  số cơ mắt đưa nhãn cầu lên xuống và vào  trong. Dây số 3 bị tổn thương sẽ  gây mắt lác ra ngoài. Nguyên nhân  thường do viêm màng não, chảy máu ở  cuống não, chấn thương nền sọ hay  viêm tắc tĩnh mạch xoang hang. Dây số 4 - dây cảm động - bắt nguồn từ trung não, chạy vào ổ mắt, chi phối cơ chéo to, vận động đưa mắt ra ngoài, xuống dưới. Khi tổn thương dây số 4, mắt sẽ không đưa xuống thấp được. Nguyên nhân tổn thương cũng giống như dây số 3. Dây số 5 - dây tam thoa - xuất phát từ cầu não và được chia thành 3 nhánh gồm nhánh mắt, nhánh hàm trên và nhánh hàm dưới. Nhánh mắt, nhánh hàm trên nhận cảm giác vùng mắt, hốc mũi, da mí trên, trán, da đầu, phần trên hầu, các tuyến hạnh nhân. Nhánh hàm dưới nhận cảm giác 2/3 trước lưỡi và răng hàm dưới, tuyến nước bọt. Các sợi vận động chi phối cơ cắn, cơ nhai. Tổn thương dây số 5 thường gây mất cảm giác các phần dây phân nhánh, làm bệnh nhân nhức đầu hoặc không cắn chặt, làm hàm dưới kém vận động. Nguyên nhân là do tổn thương nền sọ, viêm đa dây thần kinh, bệnh Zona thần kinh. Dây số 6 - dây vận  nhãn ngoài - đi từ rãnh  hành - cầu ra trước, vào ổ mắt, phân nhánh vào  cơ thẳng ngoài, đưa nhãn  cầu liếc ra ngoài. Tổn thương dây số 6 khiến  mắt bệnh nhân bị lác vào  trong. Nguyên nhân tổn thương giống dây số 3. Dây số 7  - dây thần kinh mặt - vận động  các cơ ở mặt. Xuất phát từ rãnh hành  cầu, qua xương đá, lỗ ức - chũm,  bám vào các cơ ở mặt, nhận cảm giác  một số tuyến nước bọt, nước mắt. Khi  bị liệt dây thần kinh mặt, các  triệu chứng thường gặp là lệch mặt về  bên lành, nhân trung kéo về bên  không liệt. Mắt bên liệt nhắm không kín  nếu liệt dây thần kinh ngoại  biên. Có người liệt rõ, có người liệt kín  đáo (chỉ nhìn rõ khi cười, há  miệng, huýt sáo), ăn và uống nước hay bị  rơi vãi, đôi khi nói khó.  Nguyên nhân là do bị chảy máu não, nhũn não  (tai biến mạch máu não), u  não thường kèm liệt nửa thân. Liệt dây số 7  ngoại biên do viêm màng  não, bệnh ở tai giữa, xương đá, do can thiệp sản  khoa bằng focxep, do  viêm đa dây thần kinh, Zona và liệt do lạnh. Dây số 8  - dây thần kinh thính giác - gồm  hai nhóm sợi. Phần ốc tai phụ trách  nghe và phần tiền đình phụ trách giữ  thăng bằng và tư thế. Hai nhóm hợp  lại thành dây số 8 chui vào hộp sọ  và tận cùng ở vỏ não. Tổn thương  dây số 8 có thể ảnh hưởng đến sức nghe  và hội chứng tiền đình là chóng  mặt, ù tai. Nguyên nhân có thể do u chèn  ép, chấn thương sọ, tăng huyết  áp, do một số bệnh xơ động mạch ở tiền  đình, ốc tai, do viêm màng não,  viêm thận mạn, nhiễm độc, trong đó có  thể do dùng một số thuốc như  Streptomycin. Dây số 9 - dây thần kinh  thiệt hầu - xuất  phát từ rãnh bên hành não, đi vào khoang hầu. Nó vận  động các cơ vùng  hầu, cảm giác 1/3 sau lưỡi. Dây số 9 không bao giờ bị  liệt riêng. Dây số 10 - dây thần kinh  phế vị - là dây  thực vật phó giao cảm lớn nhất của cơ thể, chi phối vận  động, cảm giác  hầu hết các phủ tạng ở ngực và ổ bụng (tim, phổi, tiêu  hóa, tiết niệu,  sinh dục). Thoát qua hộp sọ, cặp dây số 10 xuống cổ,  ngực và bụng. Đến  ngực, chúng tách ra 2 nhánh quặt ngược lên vận động  dây thanh âm. Khi bị  tổn thương dây số 10, bệnh nhân hay bị sặc thức ăn  lỏng, nghẹn thức ăn  đặc, liệt dây quặt ngược sẽ nói giọng khàn. Nguyên  nhân tổn thương: có  thể do các phẫu thuật vùng cổ, ngực, do khối u  trung thất. Dây 11 - dây gai sống -  xuất phát từ rãnh  bên sau của hành não, chui qua hộp sọ, đi xuống phân  nhánh, vận động cơ  ức đòn chũm, cơ thang và cơ thanh quản. Tổn thương ở  hành tủy thường  liệt cả 3 cặp dây 9, 10, 11. Dây số 12  - dây hạ thiệt (dưới lưỡi) -  xuất phát từ rãnh trước hành não, chui  qua nền sọ vào vùng hàm hầu, chi  phối vận động các cơ ở lưỡi. Liệt dây  12 khiến lưỡi sẽ đẩy sang bên lành  khi thè lưỡi. Nguyên nhân do viêm  màng não hay vỡ xương nền sọ. Tiến sĩ Đào Kỳ Hưng, Sức Khỏe & Đời Sống  | 
Việc  xoa bóp nên được tiến hành bởi  những kỹ thuật viên được đào tạo cơ  bản. Tuy nhiên, người nhà bệnh nhân  cũng nên biết một số phương pháp  đơn giản để áp dụng hỗ trợ cho quá  trình điều trị (làm 1-2 lần/ngày).  Các động tác xoa bóp thường dùng bao  gồm:
- Xoa xát:  Dùng phần gốc gan  bàn tay và mô ngón tay út (hoặc mô ngón tay cái) vận  động trượt trên da  theo chiều thẳng, chiều ngang (xát), hoặc chiều  xoay tròn (xoa). Trước  khi xoa xát, nên bôi bột tan (talc) để làm trơn,  tránh gây tổn thương  da.
- Day:  Dùng phần gốc gan bàn  tay và mô ngón tay út (hoặc mô ngón tay cái) ấn  nhẹ lên da, từ từ di  động theo đường tròn. Lực ấn phải đồng đều tại các  thời điểm. Khi day,  da người bệnh và tay người day luôn luôn dính sát  nhau.
- Lăn: Các ngón tay  hơi khum  lại. Vận động khớp cổ tay nhẹ nhàng sao cho phần mu bàn tay,  mô ngón út,  các khớp bàn và ngón tay lăn nhẹ nhàng trên da của bệnh  nhân với một  lực ép nhất định.
- Bóp:  Dùng ngón tay cái và  các ngón còn lại chụm như gọng kìm để bóp và hơi  kéo thịt lên. Sức bóp  mạnh hay nhẹ tùy từng vùng cơ dày hay mỏng (hình  4).
- Bấm huyệt: Dùng đầu  ngón  tay cái bấm vào huyệt với mức tăng dần, cho tới khi bệnh nhân cảm  thấy  tức nặng thì giữ yên trong khoảng 1 phút. Khi bấm, đốt 1 và đốt 2  ngón  cái vuông góc với nhau.
Sau đây là các bước xoa bóp cho người liệt vận động:
1. Chi trên
-  Bệnh nhân nằm nghiêng sang bên tay  lành hoặc ngồi thẳng trên ghế.  Người xoa bóp đứng đằng sau, xoa vùng vai  cho nóng lên, day vùng vai 3  lần, lăn vùng vai 3 lần, sau đó bóp vùng  vai phía trước, phía sau 3  lần.
- Dùng tay trái nâng cánh tay  liệt của  người bệnh, tay phải xát dọc mặt trong, ngoài, trước, sau  cánh tay (từ  dưới lên trên) 3 lần. Day từ cổ tay tới bả vai mặt trước  và sau 5 lần.  Lăn dọc từ cổ tay tới bả vai trước sau 3 lần. Bóp từ trên  xuống dưới  trước sau 3 lần. Sau đó dùng ngón tay cái day mặt gan tay  và mặt mu bàn  tay liệt, miết dọc kẽ ngón tay.
-  Bấm các huyệt kiên tỉnh (điểm giữa  bờ trên vai), kiên ngung (ở ngay  dưới mỏm cùng vai), khúc trì (điểm tận  cùng ngoài nếp gấp khuỷu), hợp  cốc (nằm ở kẽ giữa xương đốt bàn ngón cái  và ngón trỏ).
-  Một tay giữ cố định vai người bệnh,  tay kia nắm vào phần cánh tay bệnh  nhân, vận động khớp vai bệnh nhân nhẹ  nhàng theo các chiều của khớp.  Sau đó, dùng một tay cố định cánh tay  bệnh nhân, tay kia nắm cẳng tay  bệnh nhân để vận động khớp khuỷu. Tiếp  theo là cố định cẳng tay bệnh  nhân để vận động khớp cổ tay và các khớp  bàn ngón với cách tương tự.  Nên làm nhẹ nhàng, tránh vận động quá tầm,  gây tổn thương dây chằng  quanh khớp.
2. Chi dưới
-  Bệnh nhân nằm ngửa, tay trái người  xoa bóp nắm chắc cổ chân, tay phải  thao tác theo các bước: xát dọc mặt  trước, sau, trong, ngoài từ cổ chân  tới đùi, mỗi mặt 3 lần; day mặt  trong, trước, ngoài theo chiều từ dưới  lên, mỗi mặt 3 lần; lăn mặt  trong, trước, ngoài theo chiều từ dưới  lên, mỗi mặt 3 lần; bóp dọc từ  dưới lên cả 4 mặt, mỗi mặt 3 lần.
-  Bấm các huyệt lương khâu (từ góc  trên bên ngoài của xương bánh chè đo  thẳng lên 3 cm), túc tam lý (từ góc  dưới bên ngoài của xương bánh chè  đo thẳng xuống 4,5 cm), dương lăng  tuyền (từ đầu dưới xương bánh chè đo  xuống 3 cm rồi đo ngang ra ngoài  1,5 cm).
-  Một tay giữ cẳng chân bệnh nhân, tay  kia nắm đầu gối bệnh nhân, nhẹ  nhàng nâng chân cho cẳng chân gập vào  đùi, đùi gập vào bụng, làm khoảng  5-10 lần. Sau đó, một tay giữ gót bệnh  nhân, tay kia nắm ngón chân  bệnh nhân, quay cổ chân 2-3 lần, đẩy ngược  bàn chân về phía cẳng chân  2-3 cái.
ThS Phạm Đức Dương, Sức Khỏe & Đời Sống
Chứng đau nửa đầu và cách điều trị
Phần  lớn nạn nhân của chứng đau nửa đầu là phụ nữ.Đây là một dạng đau đầu  rất đặc biệt,  chiếm khoảng 10% dân số (tỷ lệ mắc ở nữ cao gấp 3 lần  nam). Tuy chưa  biết rõ nguyên nhân gây đau nửa đầu nhưng các nhà khoa  học đã xác định  được bệnh có yếu tố gia đình. Các vấn đề tâm thần kinh  (căng thẳng, trầm  cảm, lo âu...), rượu và một số chất trong thực phẩm  có thể làm bệnh  xuất hiện hoặc nặng thêm.
Bệnh  đau nửa đầu thường xuất hiện ở  lứa tuổi thanh niên với từng cơn kéo  dài 2-4 giờ (cũng có thể 1-2 ngày).  Cơn đau chỉ khu trú ở một nửa đầu,  đau giật giật theo nhịp mạch đập,  mức độ từ vừa phải đến dữ dội, có thể  nối tiếp từ cơn này đến cơn khác.  Bệnh nhân có thể buồn nôn, nôn, sợ  tiếng động và ánh sáng. Một số trường  hợp (khoảng 10%) có vài triệu  chứng báo trước cơn đau như dị cảm, rối  loạn thị giác, rối loạn tiêu  hóa...
Tần suất xuất hiện cơn đau  nửa đầu có  thể là 1-2 lần/tháng, nhưng cũng có thể cao hơn: 4-5  lần/tháng. Nguyên  nhân dẫn đến cơn đau chính là sự co rồi giãn mạch máu  não (do tăng chất  trung gian hóa học serotonin hoặc sự tích tụ ion  canxi trong tế bào thần  kinh).
Trong chứng đau nửa đầu, bệnh nhân được dùng thuốc với 2 mục đích: điều trị và dự phòng các cơn đau.
1. Điều trị cơn đau đầu:  Đối  với các thể nhẹ, cơn đau xảy ra thưa, nhanh chấm dứt, cường độ đau  nhẹ  hoặc vừa phải, bác sĩ sẽ chỉ định các thuốc giảm đau thông thường  không  steroid (aspirin, aidometacin, diclofenac...). Người có bệnh dạ  dày được  dùng paracetamol.
Với những thể nặng, cơn đau dày, có thể dùng thuốc sau:
-  Naproxen: Là thuốc chống viêm giảm  đau không steroid có tác dụng ức  chế quá trình tổng hợp các  prostaglandin, giúp hạ nhiệt, giảm cơn đau  nửa đầu. Uống trong hoặc ngay  sau bữa ăn. Không dùng cho người bị loét  dạ dày, hen, phụ nữ có thai  hoặc cho con bú, trẻ em dưới 15 tuổi.
-  Gynergen: Làm mất cơn đau nửa đầu do  làm co các nhánh ở động mạch cảnh  ngoài, trị nhức đầu do vận mạch.  Không dùng quá 7 ngày, nếu quá cần  thì phải nghỉ mấy ngày mới được dùng  tiếp. Thuốc có chống chỉ định với  phụ nữ có thai, người bị bệnh tim, suy  gan thận nặng, xơ cứng động  mạch, suy tuần hoàn ngoại vi.
2. Dự phòng cơn đau: Áp dụng cho những người có cơn đau dày, thể nặng. Chọn một trong các thuốc có tác dụng trực tiếp đến những yếu tố tạo cơn đau:
-  Dihydroergotamin: Có tác dụng duy  trì thế cân bằng vận mạch ở não,  kháng serotonin. Nó làm ổn định tính  tăng phản ứng ở các mạch máu, nhất  là ở hệ thống động mạch cảnh ngoài.  Không dùng cho phụ nữ có thai hoặc  đang cho con bú, người suy gan, thận  nặng.
- Pizotifen: Phụ nữ có thai, nam giới phì đại tuyến tiền liệt, người bệnh tăng nhãn áp (glaucome) không được dùng.
-  Flunarizin: Ngăn chặn sự tích tụ ion  canxi trong tế bào thần kinh,  phòng đau nửa đầu. Chỉ dùng thuốc này khi  đã được bác sĩ chuyên khoa  thần kinh thăm khám, có chẩn đoán xác định  và kê đơn.
Ngoài việc dùng thuốc, người bệnh đau nửa đầu cần có chế độ ăn uống thích hợp:   kiêng rượu và thuốc lá (tránh hít phải khói thuốc), hạn chế bia, cà   phê. Ngoài ra, bệnh nhân cần tránh những cơn căng thẳng về thần kinh;   đảm bảo ngủ đủ (tối thiểu 7 giờ mỗi ngày), tập luyện thân thể đều đặn để   giảm huyết áp và tăng cường tuần hoàn máu.
BS Vũ Hướng Văn, Sức Khỏe & Đời Sống
Bệnh tay chân miệng:
 “Cả   nước đã có 114 người tử vong vì bệnh tay chân miệng với gần 62.000 ca   mắc trên khắp 61 tỉnh, thành phố. Viện Pasteur Nha Trang vừa công bố  kết  quả xét nghiệm phát hiện chín người lành mang virút gây bệnh tay  chân  miệng, chiếm tỷ lệ hơn 20% số mẫu xét nghiệm.
Điều này cho thấy, người lành cũng có thể lây bệnh cho người khác. Một số địa phương đã đến mức để công bố dịch”.
 
Điều này cho thấy, người lành cũng có thể lây bệnh cho người khác. Một số địa phương đã đến mức để công bố dịch”.
Trẻ mắc bệnh tay chân miệng nhập viện quá đông khiến khoa nhi, bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi quá tải.
Tiến   sĩ Viên Quang Mai, phó viện trưởng viện Pasteur Nha Trang, đơn vị được   giao nhiệm vụ phòng chống dịch bệnh cho 11 tỉnh miền Trung đã nói như   trên sau chuyến kiểm tra tình hình dịch bệnh tại Quảng Nam, Quảng Ngãi   và Đà Nẵng.
TS Mai cho biết, từ   tháng 1.2011, tại miền Trung đã rải rác xuất hiện những ca tay chân   miệng và tăng mạnh từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7. Sang tháng 8, bệnh   giảm khoảng 30% nhưng từ cuối tháng 9 đến nay tăng mạnh trở lại, có tuần   lên đến 730 ca. Chủng virút EV71 nguy hiểm (tỷ lệ gây tử vong cao)  tỉnh  nào cũng có, riêng Bình Định, số ca có EV71 chiếm đến 60% số mẫu  xét  nghiệm.
Tiến sĩ có thể cho biết những khó khăn mà các tỉnh miền Trung gặp phải khi phòng chống bệnh tay, chân, miệng?
11   tỉnh miền Trung đã có 10 trường hợp tử vong, trong đó có hai trường  hợp  xác định do EV71, tám trường hợp khác không lấy mẫu kịp thời nên  không  xác định được. Bệnh tay chân miệng mới xuất hiện tại miền Trung  từ năm  2006, các năm tiếp theo có người mắc nhưng không tử vong. Vì  vậy, công  tác giám sát không chú ý nhiều. Ngay cả bộ Y tế cũng phải đến  năm 2008  mới có hướng dẫn giám sát điều trị. Cũng vì không có tử vong  nên số liệu  thu thập không đầy đủ. Tháng 5 có ca tử vong đầu tiên, bệnh  lan ra  nhiều tỉnh, viện phải gửi công văn liên tục, các địa phương mới  chú ý  nhiều, lấy mẫu chính xác hơn.
Theo ông, vì sao năm nay, bệnh tay chân miệng lại diễn biến phức tạp như vậy?
|   Cục Y tế dự phòng: vẫn kiểm soát tốt! Ngày   4.10, TS Nguyễn Văn Bình, cục trưởng cục Y tế dự phòng (bộ Y tế) vẫn   tiếp tục nhận định, bệnh tay chân miệng sẽ diễn biến phức tạp trong   những tháng tới, gia tăng số ca mắc và tử vong nhưng “trong tầm kiểm   soát”. Đến thời điểm này, chưa có địa phương nào công bố dịch, các ca   mắc tăng là do số tỉnh có bệnh nhân tay chân miệng tăng lên chứ tại một   tỉnh không tăng đột biến về số ca mắc mới. Để hạn chế bệnh gia tăng, bộ  Y  tế và bộ Giáo dục và đào tạo đang phối hợp triển khai kế hoạch hành   động liên ngành về phòng chống bệnh dịch tay chân miệng trong trường  học  năm học 2011 – 2012. Lệ Hà  |  
Do   khí hậu thay đổi nên dịch bệnh biến đổi nhanh và tác nhân gây bệnh  cũng  thay đổi rất nhanh, chủng này vừa giảm, chủng khác đã nổi lên. Bản  thân  người dân ít được tuyên truyền, nên cũng coi thường. Bây giờ  tuyên  truyền nhưng người dân vẫn chưa thấm nhiều. Mọi năm, bệnh này tập  trung ở  nhà trẻ, năm nay có tỉnh thống kê được 87% số trẻ bị bệnh là  trong cộng  đồng. Bệnh đã lây lan rộng nên phải tuyên truyền để mỗi hộ  gia đình  phải tự ý thức vệ sinh cho trẻ nhỏ và người lớn. Quản lý chặt  phân trẻ  em, tránh mầm bệnh lây ra thực phẩm, bởi mầm bệnh vào ruột  phát triển  rất nhanh. Trẻ lớn và người lớn không biểu hiện bệnh ra  ngoài nhưng cũng  có thể chứa mầm bệnh làm lây lan. Vừa rồi xét nghiệm  34 người nhà bệnh  nhân, chúng tôi phát hiện đến chín người có EV, và  EV71. Ngay từ trong  tư duy, người dân phải hiểu rằng bản thân mình cũng  mang mầm bệnh, bản  thân mình phải thực hiện vệ sinh, ăn chín, uống  sôi… Nơi công cộng, các  khu vui chơi, siêu thị cần vệ sinh hai  lần/ngày. Bệnh dễ phát tán vì lây  chủ yếu qua nước giải và phân trẻ.
Bệnh đã lây lan rộng, vậy theo ông, các địa phương có nên công bố dịch?
Theo   tôi, một số địa phương đã đến mức công bố dịch. Theo quy định thì địa   phương có các ca dịch bệnh tăng lên bất thường, tác nhân gây bệnh mới,   quy mô vượt tầm kiểm soát… sẽ phải công bố dịch. Hiện bệnh tay chân   miệng tại Quảng Ngãi đã ở mức độ nặng, 14/14 huyện, thành phố có ca   bệnh. Những tỉnh khác có thể công bố dịch theo huyện, theo xã. Còn yếu   tố vượt tầm kiểm soát của từng địa phương thì phải do lãnh đạo chính   quyền quyết định. Tuy nhiên, các địa phương rất khó và không dám nói là   dịch vượt tầm kiểm soát của mình. Họ ngại vì nhiều lý do khác nhau.
Trẻ mắc bệnh tay chân miệng nhập viện quá đông khiến khoa nhi, bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi quá tải.
Việc các địa phương “ngại” công bố dịch sẽ ảnh hưởng như thế nào, thưa ông?
Mặc   dù không công bố dịch, nhưng qua kiểm tra, tất cả các tỉnh đều có chỉ   đạo các ngành hỗ trợ ngành y tế dập dịch. Tuy nhiên, nếu công bố dịch,   các địa phương sẽ dễ dàng mua sắm vật tư, hoá chất, trang bị để cứu  chữa  bệnh nhân, để phòng chống dịch như máy thở, máy lọc máu… Hay tiền  công  chi trả phòng chống dịch. Hiện nay, có quy định 50.000 đồng/1 công  đi  phun hoá chất chloramine B, nhưng không địa phương nào thuê được,  có địa  phương phải trả đến 200.000 đồng cho một công phun mà không có  người  làm. Rồi chi trả hỗ trợ cho những người chăm sóc bệnh nhân, những  người  phòng chống dịch. Bệnh này có một số ca chuyển biến nhanh khi từ  độ 1  sang độ 3 – 4 chỉ trong vòng 24 giờ, chết rất sớm, nên người dân  tìm đến  bệnh viện nhiều, dẫn đến bệnh viện quá tải. Chính vì vậy lực  lượng điều  trị cũng rất mệt mỏi. Đà Nẵng, Quảng Ngãi có nơi chỉ có 50  giường nhưng  có đến 200 bệnh nhân, nằm ra tận hành lang. Nếu không công  bố dịch thì  lực lượng cán bộ y tế, những người tham gia phòng chống  dịch vẫn phải  làm nhưng không được động viên kịp thời.
Công   bố dịch tuỳ phạm vi, mức độ, cấp độ xử lý ở từng địa phương, chứ không   phải tất cả. Theo tôi, quan trọng nhất là ngay lúc bắt đầu nghi có  dịch,  cần quy chế đặc biệt để giám sát, khoanh vùng. Chi phí một ca lúc  đó có  thể rất đắt nhưng hiệu quả sẽ rất cao. Chúng tôi đã đề nghị về  việc này  nhiều lần nhưng không được.
Theo Lê Anh (Sài Gòn tiếp thị)
Tại sao nữ dễ mắc bệnh loãng xương hơn nam giới?
 
Người ta đánh giá rằng sau 50 tuổi có 1 trong 3 phụ nữ sẽ là nạn nhân của tối thiểu một gãy xương do loãng xương trong quãng đời còn lại. Tỷ lệ LX ở phụ nữ trong độ tuổi 50-59 mới chỉ là 10%. Tuy nhiên tỷ lệ LX nhanh chóng tăng lên theo độ tuổi và đạt tới 70% ở phụ nữ trên 80 tuổi.
Người ta phân ra một thể riêng là LX ở phụ nữ sau mãn kinh. Phụ nữ sau mãn kinh từ 5-10 năm thường hay bị mất xương cột sống. Khi sự mất xương vượt quá ngưỡng gẫy xương là 11% thì sẽ xảy ra lún xẹp các cột sống, đặc biệt là cột sống vùng thắt lưng.
Biểu hiện thường gặp là giảm chiều cao, gù lưng, đau cột sống, đau thần kinh liên sườn hay thần kinh tọa. Ở giai đoạn muộn, mất xương diễn ra ở cả các xương dài. Khi đó phụ nữ dễ bị gẫy cổ xương đùi hoặc gẫy các xương dài khác.
 
Thứ hai là nữ giới có kích thước bộ xương nhỏ và khối lượng xương đỉnh thấp hơn nam. Đặc biệt người châu Á có nguy cơ cao hơn do khối xương nhỏ, thường gầy yếu và có lối sống tĩnh tại hơn nam giới. Họ cũng thường có chế độ dinh dưỡng không đầy đủ, đặc biệt là khẩu phần canxi trong thức ăn thiếu.
Thứ ba tình trạng mất kinh hay mãn kinh ở phụ nữ. Kinh nguyệt ở phụ nữ là một tấm gương phản ánh sức khoẻ sinh sản của họ, đảm bảo bởi hoạt động nhịp nhàng của hệ thống nội tiết, đặc biệt là vai trò của các hormon sinh dục. Tuy nhiên kinh nguyệt đồng thời cũng góp phần đánh giá sức khoẻ của xương.
Những phụ nữ chơi thể thao chuyên nghiệp như vận động viên chạy Marathon, diễn viên balet thường bị mất kinh, đều giảm tỷ trọng xương. Phụ nữ mất kinh kéo dài trên 12 tháng; phụ nữ mãn kinh, hay mãn kinh sớm trước 45 tuổi, bị mất xương nhiều hơn và dễ mắc chứng loãng xương. Phẫu thuật cắt buồng trứng làm mất xương nhanh chóng (12%/năm).
Thứ tư là phụ nữ phải trải qua thời kỳ mang thai và cho con bú. Khi đó cơ thể họ phải cung cấp nguồn canxi rất lớn cho phát triển thai và cho nuôi con bằng sữa mẹ. Do đó họ bị giảm lượng canxi nhanh chóng nếu không được cung cấp lượng canxi đầy đủ. Những người có từ ba con trở lên hay bị loãng xương.
Thứ năm là phụ nữ thường hay bị một số bệnh hệ thống như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp. Chính các bệnh này và các thuốc điều trị bệnh như corticoid là thủ phạm gây nên sự mất xương thái quá. Các bệnh nội tiết như đái tháo đường, cường cận giáp, bệnh lý tuyến giáp hay bệnh gan, thận, bệnh đường tiêu hoá cũng làm gia tăng nguy cơ LX.
Thứ sáu là đặc điểm cầu trúc và hình thái xương của phụ nữ. Xương bị loãng xương có tình trạng mỏng vỏ xương, rỗ trong vỏ xương, mỏng bè xương và đứt các liên kết gian bè.
Dự phòng LX như thế nào?
12 triệu người Việt có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần
Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở những phụ nữ chỉ uống từ 3-6 cốc rượu mỗi tuần cao hơn 15% so với những phụ nữ không sử dụng đồ uống có cồn. Trong khi đó, tỉ lệ này đối với những người uống trung bình 2 cốc rượu/ngày lên tới 51%.
Theo TTXVN, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở những phụ nữ uống rượu từ khi còn trẻ và những phụ nữ uống rượu sau tuổi 40 là như nhau. Đặc biệt, ở những đối tượng này, không có bằng chứng nào cho thấy việc ngừng sử dụng các đồ uống có cồn có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Tuy nhiên, các chuyên gia gợi ý chị em có thể uống một chút rượu vang đỏ bởi điều này rất tốt cho sức khỏe.Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở nữ giới, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Đến nay, nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh này vẫn là một ẩn số, song có nhiều giả thuyết cho rằng có thể là do sự tăng hormon giới tính trong cơ thể phụ nữ sau khi uống bia rượu.5 loại thực phẩm tốt nhất trong tháng 11 Những thực phẩm không nên ăn sốngCó rất nhiều thực phẩm phổ biến hàng ngày bạn không nên ăn sống chúng vì có thể gây hại cho sức khỏe.
 
Tại sao nữ dễ mắc bệnh loãng xương hơn nam giới?
Loãng xương là một bệnh xương rất thường gặp. Hiện nay trên thế giới có khoảng 200 triệu người bị bệnh này.
Loãng   xương (LX) gặp ở cả hai giới nhưng nữ giới có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. Ở   Việt Nam loãng xương chiếm tỷ lệ 13-15% phụ nữ sau mãn kinh. 
Loãng   xương có thể gây biến chứng nặng nề là gãy xương. LX không phải chỉ  khu  trú ở một vị trí nào mà đó là một bệnh lý toàn thân, có thể gây tổn   thương ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể như cột sống, cổ xương  đùi,  xương cẳng tay, xương sườn, xương cánh chậu....
Loãng xương ở phụ nữ
Bệnh   LX thường xảy ra ở phụ nữ có tuổi. Ở phụ nữ trên 45 tuổi, loãng xương   chiếm một số lượng lớn số ngày nằm viện, nhiều hơn tất cả các bệnh  khác,  bao gồm đái tháo đường, nhồi máu cơ tim và ung thư vú.Người ta đánh giá rằng sau 50 tuổi có 1 trong 3 phụ nữ sẽ là nạn nhân của tối thiểu một gãy xương do loãng xương trong quãng đời còn lại. Tỷ lệ LX ở phụ nữ trong độ tuổi 50-59 mới chỉ là 10%. Tuy nhiên tỷ lệ LX nhanh chóng tăng lên theo độ tuổi và đạt tới 70% ở phụ nữ trên 80 tuổi.
Người ta phân ra một thể riêng là LX ở phụ nữ sau mãn kinh. Phụ nữ sau mãn kinh từ 5-10 năm thường hay bị mất xương cột sống. Khi sự mất xương vượt quá ngưỡng gẫy xương là 11% thì sẽ xảy ra lún xẹp các cột sống, đặc biệt là cột sống vùng thắt lưng.
Biểu hiện thường gặp là giảm chiều cao, gù lưng, đau cột sống, đau thần kinh liên sườn hay thần kinh tọa. Ở giai đoạn muộn, mất xương diễn ra ở cả các xương dài. Khi đó phụ nữ dễ bị gẫy cổ xương đùi hoặc gẫy các xương dài khác.
Tại sao nữ lại hay bị mắc bệnh LX hơn nam giới?
Đầu   tiên là những phụ nữ có tiền sử gia đình bà hoặc mẹ bị loãng xương.   Những phụ nữ này được thừa hưởng một bản sao bộ xương yếu ớt dễ gãy từ   bà hay mẹ của họ.Thứ hai là nữ giới có kích thước bộ xương nhỏ và khối lượng xương đỉnh thấp hơn nam. Đặc biệt người châu Á có nguy cơ cao hơn do khối xương nhỏ, thường gầy yếu và có lối sống tĩnh tại hơn nam giới. Họ cũng thường có chế độ dinh dưỡng không đầy đủ, đặc biệt là khẩu phần canxi trong thức ăn thiếu.
Thứ ba tình trạng mất kinh hay mãn kinh ở phụ nữ. Kinh nguyệt ở phụ nữ là một tấm gương phản ánh sức khoẻ sinh sản của họ, đảm bảo bởi hoạt động nhịp nhàng của hệ thống nội tiết, đặc biệt là vai trò của các hormon sinh dục. Tuy nhiên kinh nguyệt đồng thời cũng góp phần đánh giá sức khoẻ của xương.
Những phụ nữ chơi thể thao chuyên nghiệp như vận động viên chạy Marathon, diễn viên balet thường bị mất kinh, đều giảm tỷ trọng xương. Phụ nữ mất kinh kéo dài trên 12 tháng; phụ nữ mãn kinh, hay mãn kinh sớm trước 45 tuổi, bị mất xương nhiều hơn và dễ mắc chứng loãng xương. Phẫu thuật cắt buồng trứng làm mất xương nhanh chóng (12%/năm).
Thứ tư là phụ nữ phải trải qua thời kỳ mang thai và cho con bú. Khi đó cơ thể họ phải cung cấp nguồn canxi rất lớn cho phát triển thai và cho nuôi con bằng sữa mẹ. Do đó họ bị giảm lượng canxi nhanh chóng nếu không được cung cấp lượng canxi đầy đủ. Những người có từ ba con trở lên hay bị loãng xương.
Thứ năm là phụ nữ thường hay bị một số bệnh hệ thống như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp. Chính các bệnh này và các thuốc điều trị bệnh như corticoid là thủ phạm gây nên sự mất xương thái quá. Các bệnh nội tiết như đái tháo đường, cường cận giáp, bệnh lý tuyến giáp hay bệnh gan, thận, bệnh đường tiêu hoá cũng làm gia tăng nguy cơ LX.
Thứ sáu là đặc điểm cầu trúc và hình thái xương của phụ nữ. Xương bị loãng xương có tình trạng mỏng vỏ xương, rỗ trong vỏ xương, mỏng bè xương và đứt các liên kết gian bè.
Dự phòng LX như thế nào?
 Mục   tiêu dự phòng LX là tối ưu hóa khối lượng đỉnh của xương ngay từ khi   còn trẻ, duy trì mật độ xương và giảm mất xương khi về già. Do vậy cần   dự phòng LX càng sớm càng tốt, ngay từ giai đoạn bào thai.
Chế độ dinh dưỡng cần điều độ, đa dạng, cân đối và hợp lý. Bữa ăn cần cung cấp đủ năng lượng và protein như thịt, cá, trứng, sữa. Cần ăn cả các loại thức ăn giàu chất khoáng như canxi, magiê, phospho, vitamin D.
Chế độ dinh dưỡng cần điều độ, đa dạng, cân đối và hợp lý. Bữa ăn cần cung cấp đủ năng lượng và protein như thịt, cá, trứng, sữa. Cần ăn cả các loại thức ăn giàu chất khoáng như canxi, magiê, phospho, vitamin D.
 Cần   ăn các loại sữa và sản phẩm sữa (sữa chua, phomát...) vì chúng có hàm   lượng canxi cao, canxi sữa có độ đồng nhất cao, dễ hấp thu. Vitamin D   trong sữa giúp cơ thể hấp thu tốt hơn canxi. Một lượng calcium và   vitamin D vừa đủ cần thiết cho xương khoẻ. Tổng lượng calcium tiêu thụ   mỗi ngày ít nhất là 1000mg. Bổ sung vitamin D 800UI/ngày nếu ít tiếp xúc   ánh nắng.
Ngoài ra bổ sung vitamin K, photpho, magiê làm tăng mức độ gắn canxi vào xương, tạo xương hiệu quả hơn. Vitamin K có trong các loại rau có lá xanh lục, đậu khô, dầu thực vật, đậu nành.
Tránh   rượu, thuốc lá, café; Vận động thể lực hợp lý; Tập thể dục, aerobic và   tập thể dục có tải trọng... Mục tiêu của ngăn ngừa và điều trị là giảm   nguy cơ gãy xương do loãng xương. Cần tạo điều kiện thuận lợi trong  cuộc  sống sinh hoạt hàng ngày để giảm thiểu nguy cơ té ngã gãy xương.(Theo SK&ĐS)Ngoài ra bổ sung vitamin K, photpho, magiê làm tăng mức độ gắn canxi vào xương, tạo xương hiệu quả hơn. Vitamin K có trong các loại rau có lá xanh lục, đậu khô, dầu thực vật, đậu nành.
12 triệu người Việt có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần
Khoảng   12 triệu người Việt Nam mắc và có dấu hiệu liên quan đến bệnh  tâm  thần, theo nghiên cứu của bác sĩ La Đức Cương, Giám đốc Bệnh  viện  Tâm thần Trung ương 1.
  Đáng  lo ngại là trong 10 loại rối loạn tâm thần thường gặp, các rối  loạn về  nghiện rượu, game, rối loạn trầm cảm đang có xu hướng gia tăng,  nhất là ở  nhóm thanh niên.
Trẻ hóa bệnh nhân nghiện rượu
Trẻ hóa bệnh nhân nghiện rượu
Tình  trạng trẻ hóa độ tuổi nghiện rượu và nổi cộm là tình trạng nghiện  game  gây rối loạn hành vi ứng xử ở thanh thiếu niên đang ngày càng  nghiêm  trọng. Theo bác sĩ Cương, ông đã gặp nhiều trường hợp thay đổi  hẳn tính  cách, từ ôn hòa trở lên cáu gắt, nổi khùng cả với bố mẹ. Những  người  này còn “giam mình” từ chối hòa nhập với gia đình.
Bên cạnh nghiện game, tình trạng rối loạn stress, áp lực công việc, làm ăn thua thiệt sinh ra trầm cảm cũng là mối lo mà nhiều người phải đối mặt. Theo thạc sĩ Tô Xuân Lân, Bệnh viện Sức khỏe tâm thần Trung ương 1, tỷ lệ rối loạn lo âu, trầm cảm chiếm 3% - 5% dân số và càng ngày càng tăng. Nguyên nhân trầm cảm lại đến từ những lý do có vẻ rất không đâu. Chẳng hạn, nhiều người tỉnh lẻ về thành phố làm việc sống đơn độc, ngoài công việc không có gì vui chơi nên dẫn đến lo âu, trầm cảm.
Bên cạnh nghiện game, tình trạng rối loạn stress, áp lực công việc, làm ăn thua thiệt sinh ra trầm cảm cũng là mối lo mà nhiều người phải đối mặt. Theo thạc sĩ Tô Xuân Lân, Bệnh viện Sức khỏe tâm thần Trung ương 1, tỷ lệ rối loạn lo âu, trầm cảm chiếm 3% - 5% dân số và càng ngày càng tăng. Nguyên nhân trầm cảm lại đến từ những lý do có vẻ rất không đâu. Chẳng hạn, nhiều người tỉnh lẻ về thành phố làm việc sống đơn độc, ngoài công việc không có gì vui chơi nên dẫn đến lo âu, trầm cảm.
Cần giải trí, nghỉ ngơi
Bác   sĩ La Đức Cương cho hay, từ trước đến nay nhiều người vẫn có quan niệm   sai về sức khỏe tâm thần khi cho rằng chỉ những người có những hành  động  kỳ quặc, đầu tóc bù xù mới là bệnh nhân tâm thần. Thực ra, đối với  các  bệnh lý rối loạn tâm thần thì những người có biểu hiện tóc tai bù  xù rất  ít. Trong khi đó, các bất thường về tâm lý học như ăn kém ngon,  đau  đầu, mất ngủ vài tuần, buồn chán mông lung, hay cáu gắt, người uể  oải  không rõ lý do... đều được coi là vấn đề tâm thần và tỷ lệ này mới   nhiều.
Còn theo thạc sĩ Tô Xuân Lân, bất kỳ vấn đề gì không như ý muốn đều có khả năng dẫn đến lo âu. Đây có thể là nguyên nhân cấp tính khiến người bệnh bị hoảng loạn ngay như thiên tai, người thân qua đời. Những trường hợp nhẹ hơn nhưng kéo dài như mâu thuẫn gia đình, áp lực công việc… sẽ tích lũy lại dần và đến một thời điểm sẽ bùng lên thành bệnh, nhiều trường hợp nảy sinh ý định tự tử.
Còn theo thạc sĩ Tô Xuân Lân, bất kỳ vấn đề gì không như ý muốn đều có khả năng dẫn đến lo âu. Đây có thể là nguyên nhân cấp tính khiến người bệnh bị hoảng loạn ngay như thiên tai, người thân qua đời. Những trường hợp nhẹ hơn nhưng kéo dài như mâu thuẫn gia đình, áp lực công việc… sẽ tích lũy lại dần và đến một thời điểm sẽ bùng lên thành bệnh, nhiều trường hợp nảy sinh ý định tự tử.
Vì   vậy, khi có bất kỳ thay đổi bất thường về tâm lý như ăn kém ngon, ứng   xử thiếu hòa hợp, hay cáu gắt không rõ lý do kéo dài hơn hai tuần, cần   đến gặp bác sĩ tâm thần để có phương pháp điều trị hợp lý. Bên cạnh đó,   các bác sĩ cũng khuyến cáo để tránh tình trạng rối loạn lo âu, mọi  người  nên nhận biết nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần, trực  tiếp  đối mặt và không trốn tránh. Nếu như áp lực công việc quá lớn, nên  tìm  cách tự cân bằng, hoặc thay đối công việc hoặc chấp nhận nó, nhưng  bên  cạnh công việc có thêm thời gian giải trí, nghỉ ngơi, bình thường  hóa  các stress trong gia đình.(theo Báo ĐV)
Nguy  cơ mắc bệnh ung thư vú không chỉ đối  với những phụ nữ nghiện rượu mà  còn ngay cả ở người ít uống bia rượu.  Kết luận gây sốc này được đăng  tải trên tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ  (American Medical Association)  số ra ngày 1-11.Các   nhà khoa học thuộc Trường Y khoa Harvard và Bệnh viện Phụ nữ Brigham   (Mỹ) đã khảo sát gần 106.000 phụ nữ về tình trạng sức khỏe và lượng rượu   bia họ tiêu thụ trong giai đoạn 1980-2008.
Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở những phụ nữ chỉ uống từ 3-6 cốc rượu mỗi tuần cao hơn 15% so với những phụ nữ không sử dụng đồ uống có cồn. Trong khi đó, tỉ lệ này đối với những người uống trung bình 2 cốc rượu/ngày lên tới 51%.
Theo TTXVN, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở những phụ nữ uống rượu từ khi còn trẻ và những phụ nữ uống rượu sau tuổi 40 là như nhau. Đặc biệt, ở những đối tượng này, không có bằng chứng nào cho thấy việc ngừng sử dụng các đồ uống có cồn có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Tuy nhiên, các chuyên gia gợi ý chị em có thể uống một chút rượu vang đỏ bởi điều này rất tốt cho sức khỏe.Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở nữ giới, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Đến nay, nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh này vẫn là một ẩn số, song có nhiều giả thuyết cho rằng có thể là do sự tăng hormon giới tính trong cơ thể phụ nữ sau khi uống bia rượu.
 Mùa  nào thực phẩm ấy, cuối thu sang  đông cũng có những loại thực phẩm đặc  trưng. Vậy loại thực phẩm nào mới  là tốt nhất cho cơ thể chúng ta?
Thời tiết thay đổi, nhất là khi chuyển sang đông sẽ ảnh hưởng khá nhiều đến hệ miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể. Nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị cúm và một số bệnh phổ biến về mùa đông. Nhiệm vụ của chúng ta lúc này là trang bị "vũ khí" cho hệ thống miễn dịch của cơ thể. 5 loại thực phẩm phổ biến sau có thể làm tốt "nhiệm vụ" này.
Cải Brussels
Loại cải này có thể không được coi là món ăn yêu thích của nhiều người nhưng nó lại là một nguồn tuyệt vời của vitamin C. Chính vì vậy mà nó được đánh giá là loại thực phẩm tuyệt vời để đưa vào chế độ ăn uống của bạn trong mùa lạnh và phòng chống cúm. Là một loại rau họ cải, cải Brussels có chứa các hợp chất chống ung thư và cũng có thể giúp ngăn ngừa khối u phát triển. Ngoài ra, cải Brussels còn chứa ít calo (khoảng 1/2 bát rau cải này nấu chín chỉ chứa chỉ có 32 calo.
Bắp cải
Bắp cải rất giàu vitamin C và K, và cũng là một trong những thực phẩm hàng đầu để phòng ngừa ung thư. Ăn nhiều cải bắp có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú, ruột kết và tuyến tiền liệt. Thêm vào đó, một nghiên cứu mới cho thấy ăn loại rau họ cải có thể giúp giữ cho chức năng hệ thống miễn dịch của bạn luôn hoạt động tốt.
Cà rốt

Cà rốt
Không chỉ là món ăn ưa thích của loài thỏ, cà rốt còn mang lại những lợi ích sức khỏe quan trọng đối với con người. Chất beta-carotene làm cho cà rốt màu cam tươi sáng, là một loại carotenoid có thể chuyển thành vitamin A trong cơ thể, và có thể giúp cải thiện tầm nhìn ban đêm của con người. Hơn nữa, carotenoid cũng như beta-carotene đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư.
Tỏi tây
Tỏi tây là một thành phần tuyệt vời để thêm hương vị cho nước sốt, súp, thịt hầm và các món xào, nó cũng cung cấp một nguồn cung cấp chất xơ, sắt và vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trong thời tiết "ẩm ương" này.
Các loại bí
Bí là một nguồn thực phẩm tuyệt vời chứa các chất chống oxy hóa và tăng cường hệ miễn dịch. Các chất beta-carotene có trong bí sẽ chuyển thành vitamin A trong cơ thể, cần thiết cho đôi mắt khỏe mạnh và phát triển xương. Các loại bí về mùa đông cũng rất giàu kali, có thể giúp giảm nguy cơ phát triển huyết áp cao.
Thời tiết thay đổi, nhất là khi chuyển sang đông sẽ ảnh hưởng khá nhiều đến hệ miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể. Nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị cúm và một số bệnh phổ biến về mùa đông. Nhiệm vụ của chúng ta lúc này là trang bị "vũ khí" cho hệ thống miễn dịch của cơ thể. 5 loại thực phẩm phổ biến sau có thể làm tốt "nhiệm vụ" này.
Cải Brussels
Loại cải này có thể không được coi là món ăn yêu thích của nhiều người nhưng nó lại là một nguồn tuyệt vời của vitamin C. Chính vì vậy mà nó được đánh giá là loại thực phẩm tuyệt vời để đưa vào chế độ ăn uống của bạn trong mùa lạnh và phòng chống cúm. Là một loại rau họ cải, cải Brussels có chứa các hợp chất chống ung thư và cũng có thể giúp ngăn ngừa khối u phát triển. Ngoài ra, cải Brussels còn chứa ít calo (khoảng 1/2 bát rau cải này nấu chín chỉ chứa chỉ có 32 calo.
Bắp cải
Bắp cải rất giàu vitamin C và K, và cũng là một trong những thực phẩm hàng đầu để phòng ngừa ung thư. Ăn nhiều cải bắp có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú, ruột kết và tuyến tiền liệt. Thêm vào đó, một nghiên cứu mới cho thấy ăn loại rau họ cải có thể giúp giữ cho chức năng hệ thống miễn dịch của bạn luôn hoạt động tốt.
Cà rốt
Cà rốt
Không chỉ là món ăn ưa thích của loài thỏ, cà rốt còn mang lại những lợi ích sức khỏe quan trọng đối với con người. Chất beta-carotene làm cho cà rốt màu cam tươi sáng, là một loại carotenoid có thể chuyển thành vitamin A trong cơ thể, và có thể giúp cải thiện tầm nhìn ban đêm của con người. Hơn nữa, carotenoid cũng như beta-carotene đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư.
Tỏi tây
Tỏi tây là một thành phần tuyệt vời để thêm hương vị cho nước sốt, súp, thịt hầm và các món xào, nó cũng cung cấp một nguồn cung cấp chất xơ, sắt và vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trong thời tiết "ẩm ương" này.
Các loại bí
Bí là một nguồn thực phẩm tuyệt vời chứa các chất chống oxy hóa và tăng cường hệ miễn dịch. Các chất beta-carotene có trong bí sẽ chuyển thành vitamin A trong cơ thể, cần thiết cho đôi mắt khỏe mạnh và phát triển xương. Các loại bí về mùa đông cũng rất giàu kali, có thể giúp giảm nguy cơ phát triển huyết áp cao.
 Một  số người ăn sống một số loại thực  phẩm vì không phải chúng có lợi cho  sức khỏe mà vì chúng có hương vị  tuyệt vời. Nhưng có những thực phẩm  dưới đây bạn không nên ăn sống mà  cần phải được nấu chín để loại bỏ các  chất độc hại và nhận được thêm  nhiều giá trị dinh dưỡng khác.
Cà chua

Khi ăn sống cà chua, sẽ chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ của lycopene được hấp thu vào cơ thể khi ăn chúng. Ngược lại, khi cà chua nấu chín, lycopene sẽ được hấp thụ nhiều hơn.
Bông cải xanh và súp lơ trắng

Trong bông cải xanh và súp lơ trắng có chứa nhiều flavon. Nhưng nếu bạn ăn sống thì hầu như flavon không được hấp thụ. Hơn nữa chúng cũng chứa goitrogens ức chế chức năng tuyến giáp nếu không được nấu chín.
Khoai tây

Trong củ khoai tây có chứa một hóa chất độc hại là alkaloid solanine. Hóa chất này tập trung ở hoa, mầm và vỏ khoai tây. Do đó, ăn khoai tây sống hoặc ăn khoai tây cả vỏ hay mầm khoai tây sẽ khiến cơ thể hấp thụ nhiều hóa chất alkaloid solanine hơn. Đây là nguyên nhân gây nên những triệu chứng khó chịu với dạ dày, ruột, gan cũng như làm tổn thương tim.
Bột bánh ngọt
Bột làm bánh ngọt thường có chứa trứng sống. Trứng sống lại chứa khuẩn E.coli có thể gây ngộ độc cho bạn.
Cá hồi

Những món ăn như sushi, gỏi sống có thể mang nhiều ký sinh trùng ceviche. Đây là nguyên nhân khiến bạn bị lây nhiễm sán dây đường ruột lây truyền từ các loài cá nước ngọt này.
Rau mầm

Đậu, đỗ và các loại rau mầm khác có thể chứa nhiều vi khuẩn Salmonella, E.coli, và vi khuẩn Bacillus từ môi trường ủ mầm nóng ẩm và có thể mang tới nguy cơ nhiễm bệnh. Do đó, những trẻ em, người cao tuổi hoặc những người có hệ miễn dịch suy yếu không nên ăn rau mầm.
Thịt bò và thịt lợn

Có một danh sách dài các bệnh tật bạn có thể nhận được từ thịt sống vì chúng có chứa neurocysticercosis - một ký sinh trùng từ thịt lợn hoặc thịt bò chưa nấu chín. Từ đó chúng xâm nhập vào ruột, đến não bộ của bạn và có thể sinh sống nhiều năm trong cơ thể và gây ra những cơn động kinh.
Mật ong

Mật ong có chứa các bào tử vi khuẩn gây ngộ độc, một căn bệnh thường gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Người lớn và trẻ em có nồng độ acid dạ dày cao nên có thể giết các bào tử vi khuẩn trong mật ong. Còn trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi không nên ăn mật ong.
Những lợi ích của thực phẩm nấu chín
Nấu chín thực phẩm thường mang lại sự hài lòng cho người thưởng thức nhiều hơn khi ăn sống chúng. Chưa kể, sự tăng nhiệt độ khi nấu nướng trong thực phẩm cũng tạo cảm giác no cho não bộ.
Những thực phẩm nấu chín cũng rất có lợi cho đường tiêu hóa của bạn, vì nó phản ứng hiệu quả hơn với những thức ăn được làm ấm.
Một số rau củ quả sẽ tạo nên nhiều chất xơ và được hấp thu tốt hơn khi nấu chín. 7 món ăn từ tôm, tép bổ thận tráng dương: Người xưa thường nói: Trên trời có sâm bồ câu, trên cạn có chim cút, dưới ao đầm có sâm tôm, lươn, dưới biển có hải sâm, hải mã... ý nói ăn tôm sẽ giữ mãi được tuổi thanh xuân. Tôm rất giàu chất dinh dưỡng như protein, lipid và vitamin B12, magie, photpho, iôt, đồng… và cung cấp nhiều calo.
1. Trường thọ như ý: Tôm tươi bóc vỏ 20g, trứng gà 2 quả, thịt lợn xay 30g, tinh bột, gia vị vừa đủ. Tôm băm nhỏ, trộn với thịt lợn xay, lòng trắng trứng, tinh bột, gia vị, gừng tỏi làm thành viên nhồi vào nấm hương chưng chín. Đây là món “Trường thọ như ý”.

2. Tôm xào tam thất: tôm bóc vỏ 100g, rau hẹ 300g, trứng gà 1 quả, bột tam thất 5g, bột ướt, gia vị . Bột tam thất bỏ vào bát với bột ướt, muối, trứng gà rồi trộn đều, xào với dầu rồi cho rau hẹ xào chín, nêm gia vị là được. Bài này dùng tốt cho nam giới yếu sinh lý và nữ bị lãnh cảm, vô sinh do tử cung lạnh.
3. Tôm càng xanh 150g, sài hồ 10g, quế chi 10g, đậu xị 15g, gừng hành tỏi vừa đủ. Các vị thuốc cho vào túi, đổ nước vừa đủ rồi nấu với tôm chừng 20 phút, vớt tôm ra. Các vị kia xào thơm rồi cho tôm vào xào lại, thêm nước tinh bột vào thành nước sền sệt để ăn. Ngày ăn 1 lần, ăn trong 1 tháng.
4. Tôm nõn 250g, rau hẹ 100g. Cho tôm đã rửa sạch vào rán, sau đó cho hẹ vào xào chín để ăn. Món này thích hợp với bệnh nhân vô sinh do ít tinh trùng.
5. Đảng sâm 10g, đương quy 9g, tôm 200g, trứng gà 1 quả, cải non 200g, bún tàu 50g, bột năng 30g, xì dầu 10g, tiêu, muối vừa đủ, canh gà 500ml, sâm quy sấy khô tán bột. Tôm giã nhuyễn, cải thái khúc. Trộn tôm, đảng sâm, đương quy, xì dầu, muối với trứng đánh đều vo thành viên. Bỏ canh gà vào nồi, cho bún tàu vào đun sôi rồi cho viên tôm vào nấu chín. Ngày ăn 1 lần, ăn thịt tôm, uống canh. Món này có tác dụng ôn dương bổ thận.
6. Thịt dê 200g thái miếng 200g, rau hẹ 100g, tép moi 50g ngâm vào nước ấm 10 phút sau đó cho rượu gạo, muối trộn đều để khử mùi tanh. Đặt nồi lên bếp, cho dầu vào nóng đổ thịt dê vào xào, sau đó cho tép moi vào, thêm một ít nước hầm âm ỉ. Sau khi thịt dê chín nhừ thì cho hẹ, mì chính, muối vừa ăn. Nên chọn thịt dê có da là tốt nhất vì hầm lâu, nước canh sau khi hầm có nhiều chất béo, đậm đà ăn rất ngon. Món này có tác dụng bổ hư nhược, ích tinh khí, cường lưng thận.
7. Tép moi khô 200g, tỏi 100g, bột gia vị vừa đủ. Phi thơm tỏi và cho tép vào xào, nêm bột gia vị xào đến khi chín là được. Món này có tác dụng chữa liệt dương, di tinh, xuất tinh sớm, đau lưng mỏi gối.
 
Cà chua
Khi ăn sống cà chua, sẽ chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ của lycopene được hấp thu vào cơ thể khi ăn chúng. Ngược lại, khi cà chua nấu chín, lycopene sẽ được hấp thụ nhiều hơn.
Bông cải xanh và súp lơ trắng
Trong bông cải xanh và súp lơ trắng có chứa nhiều flavon. Nhưng nếu bạn ăn sống thì hầu như flavon không được hấp thụ. Hơn nữa chúng cũng chứa goitrogens ức chế chức năng tuyến giáp nếu không được nấu chín.
Khoai tây
Trong củ khoai tây có chứa một hóa chất độc hại là alkaloid solanine. Hóa chất này tập trung ở hoa, mầm và vỏ khoai tây. Do đó, ăn khoai tây sống hoặc ăn khoai tây cả vỏ hay mầm khoai tây sẽ khiến cơ thể hấp thụ nhiều hóa chất alkaloid solanine hơn. Đây là nguyên nhân gây nên những triệu chứng khó chịu với dạ dày, ruột, gan cũng như làm tổn thương tim.
Bột bánh ngọt
Bột làm bánh ngọt thường có chứa trứng sống. Trứng sống lại chứa khuẩn E.coli có thể gây ngộ độc cho bạn.
Cá hồi
Những món ăn như sushi, gỏi sống có thể mang nhiều ký sinh trùng ceviche. Đây là nguyên nhân khiến bạn bị lây nhiễm sán dây đường ruột lây truyền từ các loài cá nước ngọt này.
Rau mầm
Đậu, đỗ và các loại rau mầm khác có thể chứa nhiều vi khuẩn Salmonella, E.coli, và vi khuẩn Bacillus từ môi trường ủ mầm nóng ẩm và có thể mang tới nguy cơ nhiễm bệnh. Do đó, những trẻ em, người cao tuổi hoặc những người có hệ miễn dịch suy yếu không nên ăn rau mầm.
Thịt bò và thịt lợn
Có một danh sách dài các bệnh tật bạn có thể nhận được từ thịt sống vì chúng có chứa neurocysticercosis - một ký sinh trùng từ thịt lợn hoặc thịt bò chưa nấu chín. Từ đó chúng xâm nhập vào ruột, đến não bộ của bạn và có thể sinh sống nhiều năm trong cơ thể và gây ra những cơn động kinh.
Mật ong
Mật ong có chứa các bào tử vi khuẩn gây ngộ độc, một căn bệnh thường gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Người lớn và trẻ em có nồng độ acid dạ dày cao nên có thể giết các bào tử vi khuẩn trong mật ong. Còn trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi không nên ăn mật ong.
Những lợi ích của thực phẩm nấu chín
Nấu chín thực phẩm thường mang lại sự hài lòng cho người thưởng thức nhiều hơn khi ăn sống chúng. Chưa kể, sự tăng nhiệt độ khi nấu nướng trong thực phẩm cũng tạo cảm giác no cho não bộ.
Những thực phẩm nấu chín cũng rất có lợi cho đường tiêu hóa của bạn, vì nó phản ứng hiệu quả hơn với những thức ăn được làm ấm.
Một số rau củ quả sẽ tạo nên nhiều chất xơ và được hấp thu tốt hơn khi nấu chín. 7 món ăn từ tôm, tép bổ thận tráng dương: Người xưa thường nói: Trên trời có sâm bồ câu, trên cạn có chim cút, dưới ao đầm có sâm tôm, lươn, dưới biển có hải sâm, hải mã... ý nói ăn tôm sẽ giữ mãi được tuổi thanh xuân. Tôm rất giàu chất dinh dưỡng như protein, lipid và vitamin B12, magie, photpho, iôt, đồng… và cung cấp nhiều calo.
1. Trường thọ như ý: Tôm tươi bóc vỏ 20g, trứng gà 2 quả, thịt lợn xay 30g, tinh bột, gia vị vừa đủ. Tôm băm nhỏ, trộn với thịt lợn xay, lòng trắng trứng, tinh bột, gia vị, gừng tỏi làm thành viên nhồi vào nấm hương chưng chín. Đây là món “Trường thọ như ý”.
2. Tôm xào tam thất: tôm bóc vỏ 100g, rau hẹ 300g, trứng gà 1 quả, bột tam thất 5g, bột ướt, gia vị . Bột tam thất bỏ vào bát với bột ướt, muối, trứng gà rồi trộn đều, xào với dầu rồi cho rau hẹ xào chín, nêm gia vị là được. Bài này dùng tốt cho nam giới yếu sinh lý và nữ bị lãnh cảm, vô sinh do tử cung lạnh.
3. Tôm càng xanh 150g, sài hồ 10g, quế chi 10g, đậu xị 15g, gừng hành tỏi vừa đủ. Các vị thuốc cho vào túi, đổ nước vừa đủ rồi nấu với tôm chừng 20 phút, vớt tôm ra. Các vị kia xào thơm rồi cho tôm vào xào lại, thêm nước tinh bột vào thành nước sền sệt để ăn. Ngày ăn 1 lần, ăn trong 1 tháng.
4. Tôm nõn 250g, rau hẹ 100g. Cho tôm đã rửa sạch vào rán, sau đó cho hẹ vào xào chín để ăn. Món này thích hợp với bệnh nhân vô sinh do ít tinh trùng.
5. Đảng sâm 10g, đương quy 9g, tôm 200g, trứng gà 1 quả, cải non 200g, bún tàu 50g, bột năng 30g, xì dầu 10g, tiêu, muối vừa đủ, canh gà 500ml, sâm quy sấy khô tán bột. Tôm giã nhuyễn, cải thái khúc. Trộn tôm, đảng sâm, đương quy, xì dầu, muối với trứng đánh đều vo thành viên. Bỏ canh gà vào nồi, cho bún tàu vào đun sôi rồi cho viên tôm vào nấu chín. Ngày ăn 1 lần, ăn thịt tôm, uống canh. Món này có tác dụng ôn dương bổ thận.
6. Thịt dê 200g thái miếng 200g, rau hẹ 100g, tép moi 50g ngâm vào nước ấm 10 phút sau đó cho rượu gạo, muối trộn đều để khử mùi tanh. Đặt nồi lên bếp, cho dầu vào nóng đổ thịt dê vào xào, sau đó cho tép moi vào, thêm một ít nước hầm âm ỉ. Sau khi thịt dê chín nhừ thì cho hẹ, mì chính, muối vừa ăn. Nên chọn thịt dê có da là tốt nhất vì hầm lâu, nước canh sau khi hầm có nhiều chất béo, đậm đà ăn rất ngon. Món này có tác dụng bổ hư nhược, ích tinh khí, cường lưng thận.
7. Tép moi khô 200g, tỏi 100g, bột gia vị vừa đủ. Phi thơm tỏi và cho tép vào xào, nêm bột gia vị xào đến khi chín là được. Món này có tác dụng chữa liệt dương, di tinh, xuất tinh sớm, đau lưng mỏi gối.
theo BS. Phó Đức Thuần (Sức khỏe & Đời sống)
Bài thuốc chữa viêm họng cấp và mạn tính
Thời tiết nóng lạnh, mưa nắng thất thường cùng với môi trường ngày càng ô nhiễm, nghiện thuốc lá… khiến bệnh viêm họng rất phổ biến trong cộng đồng.
  
Bài thuốc chữa viêm họng cấp và mạn tính
Thời tiết nóng lạnh, mưa nắng thất thường cùng với môi trường ngày càng ô nhiễm, nghiện thuốc lá… khiến bệnh viêm họng rất phổ biến trong cộng đồng.
 Theo   Ðông y, viêm họng thuộc phạm vi chứng tý, gọi là hầu tý. Viêm họng có   hai thể cấp tính và mạn tính. Viêm họng cấp tính nguyên nhân do ngoại   cảm phong hàn kết hợp đàm nhiệt bên trong cơ thể mà gây bệnh; viêm họng   mạn tính do đàm nhiệt lâu ngày tích tụ làm tổn thương phế âm mà gây   bệnh. Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh viêm họng theo từng thể   bệnh.

Bạc hà.
Viêm họng cấp tính: Người bệnh thấy đau rát trong cổ họng, niêm mạc họng rất đỏ, sưng nề, ho từng cơn, có đờm nhầy, lúc đầu trắng, sau đặc có màu vàng. Người bệnh có thể sốt, nhức đầu, mệt mỏi. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: kinh giới 16g, bạc hà 8g, kim ngân 12g, cỏ nhọ nồi 8g, huyền sâm 12g, xạ can 4g, sinh địa 12g, tang bạch bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần
Bài 2:kinh giới 12g, bạc hà 6g, kim ngân 20g, cát cánh 4g, liên kiều 12g, cam thảo 4g, ngưu bàng tử 12g, sinh địa 12g, cương tàm 12g, huyền sâm 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Viêm họng mạn tính: Người bệnh có cảm giác vướng víu, ngứa rát thường xuyên trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, gặng hắng. Niêm mạc họng có những điểm sung huyết màu đỏ nhạt, rải rác có những hạt lympho màu trắng (viêm họng hạt). Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút (do nhiễm virut, làm việc căng thẳng, thay đổi thời tiết), bệnh có thể nặng lên thành một đợt viêm họng cấp. Phương pháp chữa: dưỡng âm thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1:sinh địa 16g, xạ can 6g, huyền sâm 16g, kê huyết đằng 12g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, bạch cương tàm 8g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bài 2: sa sâm 16g, thiên hoa phấn 6g, hoàng cầm 12g, cát cánh 4g, tang bạch bì 12g, cam thảo 4g.
Nếu cổ họng có nhiều hạt lympho gia xạ can 8g. Họng khô rát gia thạch hộc 16g, huyền sâm 12g. Nếu đờm quánh dính, khó khạc ra được gia qua lâu 8g, bối mẫu 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Để phòng tránh viêm họng, hằng ngày cần:
Súc họng bằng nước muối ấm mỗi tối trước khi đi ngủ, sau khi đánh răng để sát khuẩn họng và miệng.
Ăn các thực phẩm thanh đạm, dễ tiêu hoá, cùng các thực phẩm chứa nhiều nước, mềm, có tác dụng thanh nhiệt. Nên ăn nhiều rau quả có chứa vitamin C và các thực phẩm giàu collagen và elastin như móng lợn, sữa, các loại đậu, gan động vật, thịt nạc…
Uống nhiều nước, không nên uống nước chè quá đặc, hạn chế các thực phẩm gây kích thích như gừng, tỏi, ớt…
Không hút thuốc, uống rượu.
Thường xuyên mở cửa để không khí lưu thông.
Không nên uống nước đá, đồ uống lạnh, tắm nước lạnh, ở trong phòng điều hòa nhiệt độ thấp vì nóng lạnh đột ngột dễ gây viêm họng đỏ cấp.
Bạc hà.
Viêm họng cấp tính: Người bệnh thấy đau rát trong cổ họng, niêm mạc họng rất đỏ, sưng nề, ho từng cơn, có đờm nhầy, lúc đầu trắng, sau đặc có màu vàng. Người bệnh có thể sốt, nhức đầu, mệt mỏi. Phương pháp chữa: sơ phong, thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc:
Bài 1: kinh giới 16g, bạc hà 8g, kim ngân 12g, cỏ nhọ nồi 8g, huyền sâm 12g, xạ can 4g, sinh địa 12g, tang bạch bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần
Bài 2:kinh giới 12g, bạc hà 6g, kim ngân 20g, cát cánh 4g, liên kiều 12g, cam thảo 4g, ngưu bàng tử 12g, sinh địa 12g, cương tàm 12g, huyền sâm 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Viêm họng mạn tính: Người bệnh có cảm giác vướng víu, ngứa rát thường xuyên trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy (nhất là sáng sớm, khi ngủ dậy). Nhiều người bệnh do ngứa họng nên hay khậm khạc, gặng hắng. Niêm mạc họng có những điểm sung huyết màu đỏ nhạt, rải rác có những hạt lympho màu trắng (viêm họng hạt). Khi sức đề kháng của cơ thể bị giảm sút (do nhiễm virut, làm việc căng thẳng, thay đổi thời tiết), bệnh có thể nặng lên thành một đợt viêm họng cấp. Phương pháp chữa: dưỡng âm thanh nhiệt, hóa đàm. Có thể dùng một trong các bài thuốc sau:
Bài 1:sinh địa 16g, xạ can 6g, huyền sâm 16g, kê huyết đằng 12g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, bạch cương tàm 8g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Bài 2: sa sâm 16g, thiên hoa phấn 6g, hoàng cầm 12g, cát cánh 4g, tang bạch bì 12g, cam thảo 4g.
Nếu cổ họng có nhiều hạt lympho gia xạ can 8g. Họng khô rát gia thạch hộc 16g, huyền sâm 12g. Nếu đờm quánh dính, khó khạc ra được gia qua lâu 8g, bối mẫu 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
Để phòng tránh viêm họng, hằng ngày cần:
Súc họng bằng nước muối ấm mỗi tối trước khi đi ngủ, sau khi đánh răng để sát khuẩn họng và miệng.
Ăn các thực phẩm thanh đạm, dễ tiêu hoá, cùng các thực phẩm chứa nhiều nước, mềm, có tác dụng thanh nhiệt. Nên ăn nhiều rau quả có chứa vitamin C và các thực phẩm giàu collagen và elastin như móng lợn, sữa, các loại đậu, gan động vật, thịt nạc…
Uống nhiều nước, không nên uống nước chè quá đặc, hạn chế các thực phẩm gây kích thích như gừng, tỏi, ớt…
Không hút thuốc, uống rượu.
Thường xuyên mở cửa để không khí lưu thông.
Không nên uống nước đá, đồ uống lạnh, tắm nước lạnh, ở trong phòng điều hòa nhiệt độ thấp vì nóng lạnh đột ngột dễ gây viêm họng đỏ cấp.
theo Lương y Thái Hòe (Sức khỏe & Đời sống)
Thực phẩm tốt cần thiết cho bà bầu
Bạn có ngạc nhiên không khi quả trứng chỉ chứa có 90 calo nhưng chúng chứa tới 12 loại vitamin và khoáng chất. Trứng chứa nhiều protein rất tốt cho thai kì. Mỗi tháng, em bé của bạn phát triển theo cấp số nhân, mà mỗi tế bào lại cầu tạo nên từ protein nên nhu cầu protein của bạn cần thiết tới mức nào.
Trứng cũng chứa nhiều choline, thúc đẩy sự phát triển của bé đặc biết là trí não, giúp ngăn ngừa khuyết tật ở ống thần kinh. Ngoài ra trứng còn chứa omega 3 cần thiết cho sự phát triển của não và thị lực.
Trứng có chứa nhiều chất béo bão hòa trong trứng không nhiều cholesterol bằng các thực phẩm khác tìm thấy trong tự nhiên. Phụ nữ với hàm lượng cholesterol bình thường trong máu có thể ăn một đến 2 quả trứng mỗi ngày.
2. Cá hồi

Cá hồi với hàm lượng protein cao đặc biệt là omega3 hoàn toàn tốt cho thai phụ. Những đứa trẻ mà mẹ của chúng trong thời gian mang thai ăn đủ lượng axit béo omega 3, khi lớn lên chúng sẽ có chỉ số IQ cao. Không giống với cá kiếm, cá thu, cá ngừ, cá hồi có hàm lượng metyl thủy ngân thấp nên không gây hại với sự phát triển thần kinh của bé.
Tuy vậy, ngay cả với cá hồi có hàm lượng thủy ngân thấp như vậy, các chuyên gia cũng chỉ khuyên bạn nên ăn nhiều nhất là 0,3kg trong một tuần.
3. Các loại đậu
Các loại đậu như đậu lăng, dậu xanh, đậu đỏ, đậu đen... là sự lựa chọn tốt cho thai phụ. Chúng ta nên biết rằng các loại đậu rất giàu năng lượng, chất xơ và protein như các loại rau.

Bạn đã biết vai trò của protein với quá trình mang thai nhưng chắc bạn chưa biết rằng chất xơ là người bạn tốt nhất trong 9 tháng thai kì của bạn. Khi mang thai, hệ thống tiêu hóa của bạn chậm lại. Bạn có nguy cơ mắc bệnh táo bón và bệnh trĩ. Chất xơ sẽ giúp bạn ngăn ngừa và giảm các bệnh này.
Ngoài chất xơ ra, các loại đậu còn chứa một số chất khác như sắt, canxi, folate và kẽm.
4. Khoai lang
Khoai lang màu vàng chứa nhiều carotein, và nhiều sắc tố thực vật được chuyển thành vitamin A tốt cho sức khỏe thai phụ.

Mặc dù tiêu thụ quá nhiều vitamin A có thể gây nguy hiểm nhưng với carotein thì lại là chuyện khác. Carotein sẽ chỉ chuyển thành vitamin A khi thật sự cần thiết. Do vậy, bạn không nên hạn chế ăn các loại rau và trái cây giàu vitamin A.
Khoai lang cũng cung cấp cả vitamin C, folate và chất xơ. Bà bầu có thể dễ dàng chế biến thành nhiều món ăn với khoai lang.
5. Bỏng ngô và các ngũ cốc khác.
Bạn có thể ăn các loại bỏng ngô hoặc các loại ngũ cốc nguyên hạt. Ngũ cốc nguyên hạt giàu chất xơ và nhiều dưỡng chất khác trong đó có vitamin E, selenium và các hợp chất thực vật bảo vệ các tế bào.

Trong đó, gạo lức, lúa mì nguyên hạt, ngũ cốc, mì ống, yến mạch là nguồn thực phấm rất giàu chất xơ, sắt và vitamin B. Chúng ta đều biết nhóm vitamin B rất quan trọng giúp cho hệ thống thần kinh khỏe mạnh và tạo tiền đề để thai nhi phát triển tốt nhất.
6. Thịt

Khi mang thai, nhu cầu bổ sung chất đạm của cơ thể tăng 50%. Nhu cầu hấp thụ chất sắt hàng ngày tăng lên gấp đôi nên cần phải bổ sung thêm nhiều thức ăn giàu sắt. Nếu bà bầu không có đủ lượng sắt cần thiết trong cơ thể thì sẽ rất dễ bị mệt mỏi. Thịt chứa nhiều chất sắt mà cơ thể dễ dàng hấp thụ.Vì vậy, ăn thịt sẽ giúp cho cơ thể bé hình thành và phát triển tốt trong suốt quá trình mang thai.
7. Rau
Các bà bầu nên ăn nhiều rau xanh để đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng vitamin và các chất bổ dưỡng cần thiết cho cơ thể và cho cả sự phát triển của thai nhi. Rau bina chứa hàm lượng axit folic và sắt cao. Cải xoăn và cây củ cải cũng là nguồn cung cấp calcium rất tốt. Bạn có thể sử dụng loại rau diếp lá xanh thẫm cho món xa lát bởi màu lá càng xanh thì càng giàu vitamin.

Khi mang thai, nhu cầu về những loại chất dinh dưỡng kể trên rất nhiều. Nếu trong thời kỳ thai nghén, bạn sợ ăn rau thì có thể bổ sung bằng cách uống nước ép của chúng. Bạn nên dùng thử một ít với những thứ mà bạn thích nhất. Dần dần, hãy nâng số lượng sử dụng lên.
8. Sữa

Sữa cung cấp canxi và các loại vitamin khác như A, D… Bạn có thể dùng sữa bà bầu hoặc vitamin tổng hợp ngay trước thời gian có em bé từ 2 – 3 tháng. Lợi ích của nó sẽ giúp cho cơ thể mẹ hoàn thiện hơn về thể chất để sẵn sàng đón nhận thai nhi và đảm bảo sức khỏe tốt cho cả mẹ và thai nhi trong thai kỳ cũng như sức khỏe của mẹ sau sinh và em bé được sinh ra sau này.
9. Táo

Với đầy đủ các vitamin, hyđrat cácbon, chất khoáng… đặc biệt là vitamin C, táo giúp cơ thể chống lại dịch bệnh, giúp ăn ngon miệng và ngủ tốt. Một vài lát táo cắt mỏng khi vừa ngủ dậy cũng giúp giảm buồn nôn vào mỗi buổi sáng.
10. Các loại quả mọng

Các loại quả mọng được gọi là siêu thực phẩm đối với bà bầu vì chúng rất giàu chất chống oxy hóa, axit folic, chất xơ và vitamin C. Vai trò của chất chống oxy hóa trong thời gian mang thai có thể nhiều người chưa biết. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, phụ nữ bổ sung thường xuyên chất dinh dưỡng này vào cơ thể sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và béo phì cho trẻ.
Nghiên cứu cũng cho thấy có một mối liến hệ giữa lượng chất chống oxy hóa và tỷ lệ giảm nguy cơ mắc bệnh tiền sản giật – một bệnh nghiêm trọng trong thai kỳ. Vì vậy, phụ nữ đặc biệt là bà bầu nên bổ sung những loại thực phẩm giàu dưỡng chất này vào cơ thể mỗi ngày.
Ý kiến chuyên gia:
- Từ bỏ thói quen uống cà phê mỗi sáng. Bạn cần ăn bữa sáng đầy đủ với đạm, ngũ cốc, vitamin.
- Không được bỏ bữa trưa và không được để đói bụng.
- Dần chuyển sang chế độ ăn 5 bữa/ngày.
- Ăn từng bữa nhỏ, nhai chậm, không ăn vội.
- Đừng ép mình ăn. Hãy thay thế những món không ưa thích bằng những món khác nhưng phải bổ dưỡng.
- Từ chối các loại bánh ngọt.
   
    
    
   
   Cải bắp cũng là  một   trong những thực phẩm giàu dinh dưỡng với nhiều chất chống ô-xy hóa và   nhiều vitamin thực vật lành mạnh. Đây là một loại thực phẩm giúp cải   thiện tâm trạng, tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể.
Thực phẩm tốt cần thiết cho bà bầu
 Thật  ra nhu cầu  năng lượng khi mang thai tăng không nhiều, chỉ cần thêm  300-350 kal. Bạn  không cần ăn quá nhiều nhưng là phải ăn đủ chất cho cả  mẹ và bé. Dưới  đây là một số thực phẩm tốt cần thiết cho bà bầu.Điều   đầu tiên là bạn cần xem lại trọng lượng của chính mình để lựa chọn thực   phẩm cho đúng hướng. Có nhiều cách khác nhau giúp bạn và em bé bổ sung   chất dinh dưỡng cần thiết. Bạn không cần ăn tất cả các loại thực phẩm   dưới đây nhưng có thể lựa chọn một số loại thực phẩm bạn thích. Chúng là   những loại thực phẩm hàng đầu tốt cho sức khỏe thai phụ.
1. Trứng
1. Trứng
Bạn có ngạc nhiên không khi quả trứng chỉ chứa có 90 calo nhưng chúng chứa tới 12 loại vitamin và khoáng chất. Trứng chứa nhiều protein rất tốt cho thai kì. Mỗi tháng, em bé của bạn phát triển theo cấp số nhân, mà mỗi tế bào lại cầu tạo nên từ protein nên nhu cầu protein của bạn cần thiết tới mức nào.
Trứng cũng chứa nhiều choline, thúc đẩy sự phát triển của bé đặc biết là trí não, giúp ngăn ngừa khuyết tật ở ống thần kinh. Ngoài ra trứng còn chứa omega 3 cần thiết cho sự phát triển của não và thị lực.
Trứng có chứa nhiều chất béo bão hòa trong trứng không nhiều cholesterol bằng các thực phẩm khác tìm thấy trong tự nhiên. Phụ nữ với hàm lượng cholesterol bình thường trong máu có thể ăn một đến 2 quả trứng mỗi ngày.
2. Cá hồi
Cá hồi với hàm lượng protein cao đặc biệt là omega3 hoàn toàn tốt cho thai phụ. Những đứa trẻ mà mẹ của chúng trong thời gian mang thai ăn đủ lượng axit béo omega 3, khi lớn lên chúng sẽ có chỉ số IQ cao. Không giống với cá kiếm, cá thu, cá ngừ, cá hồi có hàm lượng metyl thủy ngân thấp nên không gây hại với sự phát triển thần kinh của bé.
Tuy vậy, ngay cả với cá hồi có hàm lượng thủy ngân thấp như vậy, các chuyên gia cũng chỉ khuyên bạn nên ăn nhiều nhất là 0,3kg trong một tuần.
3. Các loại đậu
Các loại đậu như đậu lăng, dậu xanh, đậu đỏ, đậu đen... là sự lựa chọn tốt cho thai phụ. Chúng ta nên biết rằng các loại đậu rất giàu năng lượng, chất xơ và protein như các loại rau.
Bạn đã biết vai trò của protein với quá trình mang thai nhưng chắc bạn chưa biết rằng chất xơ là người bạn tốt nhất trong 9 tháng thai kì của bạn. Khi mang thai, hệ thống tiêu hóa của bạn chậm lại. Bạn có nguy cơ mắc bệnh táo bón và bệnh trĩ. Chất xơ sẽ giúp bạn ngăn ngừa và giảm các bệnh này.
Ngoài chất xơ ra, các loại đậu còn chứa một số chất khác như sắt, canxi, folate và kẽm.
4. Khoai lang
Khoai lang màu vàng chứa nhiều carotein, và nhiều sắc tố thực vật được chuyển thành vitamin A tốt cho sức khỏe thai phụ.
Mặc dù tiêu thụ quá nhiều vitamin A có thể gây nguy hiểm nhưng với carotein thì lại là chuyện khác. Carotein sẽ chỉ chuyển thành vitamin A khi thật sự cần thiết. Do vậy, bạn không nên hạn chế ăn các loại rau và trái cây giàu vitamin A.
Khoai lang cũng cung cấp cả vitamin C, folate và chất xơ. Bà bầu có thể dễ dàng chế biến thành nhiều món ăn với khoai lang.
5. Bỏng ngô và các ngũ cốc khác.
Bạn có thể ăn các loại bỏng ngô hoặc các loại ngũ cốc nguyên hạt. Ngũ cốc nguyên hạt giàu chất xơ và nhiều dưỡng chất khác trong đó có vitamin E, selenium và các hợp chất thực vật bảo vệ các tế bào.
Trong đó, gạo lức, lúa mì nguyên hạt, ngũ cốc, mì ống, yến mạch là nguồn thực phấm rất giàu chất xơ, sắt và vitamin B. Chúng ta đều biết nhóm vitamin B rất quan trọng giúp cho hệ thống thần kinh khỏe mạnh và tạo tiền đề để thai nhi phát triển tốt nhất.
6. Thịt
Khi mang thai, nhu cầu bổ sung chất đạm của cơ thể tăng 50%. Nhu cầu hấp thụ chất sắt hàng ngày tăng lên gấp đôi nên cần phải bổ sung thêm nhiều thức ăn giàu sắt. Nếu bà bầu không có đủ lượng sắt cần thiết trong cơ thể thì sẽ rất dễ bị mệt mỏi. Thịt chứa nhiều chất sắt mà cơ thể dễ dàng hấp thụ.Vì vậy, ăn thịt sẽ giúp cho cơ thể bé hình thành và phát triển tốt trong suốt quá trình mang thai.
7. Rau
Các bà bầu nên ăn nhiều rau xanh để đảm bảo cung cấp đầy đủ lượng vitamin và các chất bổ dưỡng cần thiết cho cơ thể và cho cả sự phát triển của thai nhi. Rau bina chứa hàm lượng axit folic và sắt cao. Cải xoăn và cây củ cải cũng là nguồn cung cấp calcium rất tốt. Bạn có thể sử dụng loại rau diếp lá xanh thẫm cho món xa lát bởi màu lá càng xanh thì càng giàu vitamin.
Khi mang thai, nhu cầu về những loại chất dinh dưỡng kể trên rất nhiều. Nếu trong thời kỳ thai nghén, bạn sợ ăn rau thì có thể bổ sung bằng cách uống nước ép của chúng. Bạn nên dùng thử một ít với những thứ mà bạn thích nhất. Dần dần, hãy nâng số lượng sử dụng lên.
8. Sữa
Sữa cung cấp canxi và các loại vitamin khác như A, D… Bạn có thể dùng sữa bà bầu hoặc vitamin tổng hợp ngay trước thời gian có em bé từ 2 – 3 tháng. Lợi ích của nó sẽ giúp cho cơ thể mẹ hoàn thiện hơn về thể chất để sẵn sàng đón nhận thai nhi và đảm bảo sức khỏe tốt cho cả mẹ và thai nhi trong thai kỳ cũng như sức khỏe của mẹ sau sinh và em bé được sinh ra sau này.
9. Táo
Với đầy đủ các vitamin, hyđrat cácbon, chất khoáng… đặc biệt là vitamin C, táo giúp cơ thể chống lại dịch bệnh, giúp ăn ngon miệng và ngủ tốt. Một vài lát táo cắt mỏng khi vừa ngủ dậy cũng giúp giảm buồn nôn vào mỗi buổi sáng.
10. Các loại quả mọng
Các loại quả mọng được gọi là siêu thực phẩm đối với bà bầu vì chúng rất giàu chất chống oxy hóa, axit folic, chất xơ và vitamin C. Vai trò của chất chống oxy hóa trong thời gian mang thai có thể nhiều người chưa biết. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, phụ nữ bổ sung thường xuyên chất dinh dưỡng này vào cơ thể sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và béo phì cho trẻ.
Nghiên cứu cũng cho thấy có một mối liến hệ giữa lượng chất chống oxy hóa và tỷ lệ giảm nguy cơ mắc bệnh tiền sản giật – một bệnh nghiêm trọng trong thai kỳ. Vì vậy, phụ nữ đặc biệt là bà bầu nên bổ sung những loại thực phẩm giàu dưỡng chất này vào cơ thể mỗi ngày.
Ý kiến chuyên gia:
- Từ bỏ thói quen uống cà phê mỗi sáng. Bạn cần ăn bữa sáng đầy đủ với đạm, ngũ cốc, vitamin.
- Không được bỏ bữa trưa và không được để đói bụng.
- Dần chuyển sang chế độ ăn 5 bữa/ngày.
- Ăn từng bữa nhỏ, nhai chậm, không ăn vội.
- Đừng ép mình ăn. Hãy thay thế những món không ưa thích bằng những món khác nhưng phải bổ dưỡng.
- Từ chối các loại bánh ngọt.
4 loại rau cần tăng cường ăn trong mùa đông 
(Dân  trí) - Tạp chí New York gần đây đã công bố  danh sách 4 loại rau bạn và  gia đình nên ăn trong mùa đông để tăng cường  hệ miễn dịch và tránh xa  bệnh tật mùa lạnh giá này.
Theo  đó, bạn nên bổ  sung thường xuyên 4 loại rau dưới đây vào thực đơn lành  mạnh hàng ngày  để chống lại cảm lạnh, cho làn da không bị khô nẻ và  nhiều nếp nhăn.  Nguyên nhân là do những loại rau này có nhiều vitamin,  khoáng chất, giúp  tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể. Bên cạnh đó chúng  lại có nhiều chất  chống ô xy hóa rất tốt để ngăn ngừa tình trạng da  lão hóa trong mùa  đông.
1. Quả bí ngô 
Là một loại quả  rất   phổ biến trong mùa đông và chúng có màu vàng tươi sáng bắt mắt. Điều   này cũng có nghĩa là chúng có chứa nhiều chất carotenoids giúp bảo vệ   sức khỏe tim mạch hữu hiệu. 
Bí  ngô cũng rất giàu  chất chống ô-xy hóa và là một loại thực phẩm chống  viêm có thể ngăn chặn  tất cả các nguy cơ bệnh tật xâm nhập vào cơ thể.  
Vào  mùa đông, bạn có  thể nấu canh bí ngô hay nướng chúng hoặc làm súp bí  ngô đều là những món  ăn rất tuyệt và nhận được nhiều lợi ích bảo vệ sức  khỏe. 
2. Củ cải đường
Củ  cải đường cũng là  một loại rau phổ biến trong thời tiết lạnh. Củ cải  đường rất giàu folate  và vitamin C, chúng nổi tiếng là một loại thực  phẩm trị khản tiếng,  chảy máu cam, nhiệt miệng trong mùa đông. 
Để nhận được những lợi ích từ củ cải đường, bạn có thể chế biến chúng thành nhiều món ăn khác nhau như luộc, kho, xào, làm dưa… 
3. Củ cải trắng 
Củ cải trắng giúp làm sạch và hỗ trợ tiêu hóa bởi nó giúp làm sạch dạ dày, đào thải các độc tố của cơ thể ra ngoài. 
Ngoài chế biến củ cải thành món ăn, bạn có thể uống nước ép củ cải cũng giúp thanh lọc cơ thể, tăng sức  đề kháng để đối phó với cảm lạnh, cảm cúm trong mùa đông.
4. Cải bắp 
Cải  bắp cũng được coi  là một loại rau phổ biến trong mùa đông. Đặc biệt  những cải bắp lá xoăn  là thực phẩm tuyệt vời để ăn kèm cùng các món  hầm, súp, mì ống nóng hổi  trong ngày đông giá lạnh. 
ReplyDeletevé máy bay eva air khuyến mãi
cách mua vé máy bay đi mỹ
hang khong korean air
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch
ve may bay di canada gia re