Áo dài Việt Hùng – Model: Diễm My * Setup: Nikonvn
• Nét đẹp và ý nghĩa Đường hoa Nguyễn Huệ 2011: 
Năm nay, với chủ đề Hồn Việt, khu công viên Tượng đài Bác nổi bật sắc vàng của hoa mai. Xung quanh Tượng Bác được sắp đặt các bình hoa sen, loài hoa tượng trưng sự giản dị, thanh cao và đằm thắm. Một hành lang dài được được tạo thành bởi những chậu mai vàng khoe sắc thắm.
 Năm nay, với chủ đề Hồn Việt, khu công viên Tượng đài Bác nổi bật sắc vàng của hoa mai. Xung quanh Tượng Bác được sắp đặt các bình hoa sen, loài hoa tượng trưng sự giản dị, thanh cao và đằm thắm. Một hành lang dài được được tạo thành bởi những chậu mai vàng khoe sắc thắm.
Tại  vòng xoay cây liễu, các loại hoa  mang sắc màu của vàng, hồng, đỏ      được sắp đặt một cách khéo léo tạo  thành một vầng thái dương rạng rỡ      như soi rọi ánh bình minh, đem lại  sức sống mới cho năm 2011.
 Chỉ  một vài bước chân về phía trước,  phân đoạn đường Nguyễn Huệ từ      đường Lê Lợi đến đường Nguyễn Thiệp  với chủ đề Tết Phương Nam, đôi mèo      hạnh phúc – biểu tượng của năm  Tân Mão -  sẽ tươi cười chào đón du    khách   đến với một Tết Phương Nam  đúng nghĩa đầy sắc màu đặc trưng.  Cụm   tiểu   cảnh Nắng Phương Nam,  gió Phương Nam được thể hiện bằng  những   thanh gỗ   mộc mạc phối hợp  với hoa thật tinh tế. Xen kẽ với  các tiểu   cảnh quạt  hoa  là những chú  mèo chúc xuân đầy nét nghệ  thuật, những   hình ảnh thân  quen  của Bánh  Tét, dưa hấu, liễn đối  chúc xuân, trống   hoa đua nở góp  phần  tạo nên  một không khí xuân  chào năm mới
 Đoạn  Đường hoa từ đường Nguyễn Thiệp đến  đường Huỳnh Thúc Kháng chủ     đề  Tầm Cao Mới với biểu tượng chính là  những vòng hoa tượng trưng cho      những vòng tay vươn lên cao thể hiện  sự đoàn kết xây dựng, phát  triển     của Việt Nam trong năm mới. Trong  suốt phân đoạn, các tiểu cảnh   cách    điệu của đèn lồng, hoa tre…sẽ  khiến du khách phải dừng chân   ngắm nhìn.    Tại giao lộ Nguyễn Huệ –  Huỳnh Thúc Kháng hình ảnh cánh   diều hoành  tráng   được tạo thành bởi  vô số cánh diều nhỏ thể hiện sự   đoàn kết,  chung sức   của người dân vì  sự phát triển của đất nước  Việt  Nam thân  yêu.
 Hơi  nước mát dịu từ hồ nước được thiết  kế theo phong cách hiện đại      phối hợp tinh tế với các loại hoa kiểng  bình dị, một trong các tiểu    cảnh   của phân đoạn Xuân An Vui kéo dài  từ đường Huỳnh Thúc Kháng đến    đường   Ngô Đức Kế. Các tiểu cảnh Vòm  hoa lan, cánh sen cách điệu,  thúng   hoa,   ghe hoa và hoa rừng là sự  kết hợp tuyệt vời giữa hoa và  các  chất  liệu   mộc mạc của tre, trúc  mang lại cho du khách một cảm  giác  nhẹ  nhàng, thư   thái. Nối liền với  đại cảnh Hồ Sen, các tiểu  cảnh giỏ  hoa  tình yêu, xe   đạp hoa, ngôi  nhà hoa hồng thay lời chúc  xuân của  Thành  phố Hồ Chí Minh   đến tất cả  mọi người.
 Phân  đoạn từ đường Ngô Đức Kế và đường  Hải Triều với thông điệp Vào     Mùa  đưa du khách vào một vụ mùa bội thu  với hoa trái to tròn, với ô      vuông phơi lúa, với những chậu gốm và  hoa bung mình trong nắng. Dọc   hai    bên đường, những bức tranh Tết,  thiệp chúc Tết, phướn Đường hoa   đầy  màu   sắc như hòa thêm với niềm  vui của một ngày mùa.
 Đang  đắm mình trong không gian của vùng  quê trù phú với các nông     phẩm  kết hợp với chất liệu gốm sứ, du khách  sẽ bị thu hút bởi một cây      mai vàng rực nằm giữa một hồ nước xinh  xắn – Hồ Chúc Phúc tiểu cảnh      chính của phân đoạn từ đường Hải Triều  đến đường Tôn Đức Thắng với chủ      đề Vườn Nhân Ái. Tại khu vực này,  Ban Tổ chức Đường hoa và Công ty  CP     Kinh Đô trao tặng du khách những  tấm thiệp xinh xắn. Cây mai  vàng  khoe    sắc không chỉ là một phần của  tiểu cảnh mà còn là nơi để  treo  các  thiệp   Tết do du khách ghi câu  chúc với mong ước chuyển  những lời  chúc  đầy yêu   hương, phước lành  đến người thân.
 Hồ  Chúc Phúc đã từng hiện diện tại Đường  hoa Mậu Tý 2008 lại một lần      nữa hội ngộ cùng du khách. Xuân Tân Mão  này, toàn bộ sự sẻ chia của    du   khách dành cho đồng bào vùng thiên  tai thông qua những đồng xu   được   thả  vào hồ Chúc Phúc cùng với số  tiền do công ty CP Kinh Đô  đóng  góp  sẽ  được  Ban Tổ chức Đường hoa  chuyển vào Quỹ hỗ trợ đồng  bào  vùng  thiên  tai sau  khi kết thúc Đường  hoa Nguyễn Huệ 2011.
Tiểu cảnh Lều Hoa tại phân đoạn giáp đường Tôn Đức Thắng là sự kết hợp giữa chất liệu vải và hoa mang hình ảnh một bàn tay nhẹ nhàng ôm lấy những bông hoa nhỏ bé thể hiện cho tinh thần tương thân tương ái của người dân Thành phố.
 Tiểu cảnh Lều Hoa tại phân đoạn giáp đường Tôn Đức Thắng là sự kết hợp giữa chất liệu vải và hoa mang hình ảnh một bàn tay nhẹ nhàng ôm lấy những bông hoa nhỏ bé thể hiện cho tinh thần tương thân tương ái của người dân Thành phố.
Đường  hoa Nguyễn Huệ 2011 được trưng bày  suốt trục đường Nguyễn Huệ,      phối âm thanh hài hòa, tôn vẻ đẹp của  không gian Xuân. Trưng bày  nghệ     thuật cắm hoa, tổ chức Hồ Chúc Phúc  để quyên góp từ thiện. Bố  trí  một   số  điểm cà phê giải khát trước các  khách sạn, thương xá Tax  và  trên  vỉa  hè  để phục vụ khách tham quan.  Tổ chức phố đi bộ trên   đường Lê Lợi  với  một  số nhóm biểu diễn nhạc  cụ dân tộc, múa sạp, trò   chơi dân  gian,…  vào đêm  kết thúc Đường hoa  (mùng 4 Tết).
 • Các đơn vị và cá nhân thiết kế Đường hoa Nguyễn Huệ 2011: Công ty TNHH Đêm Trắng; Ông Chiêm Thành Liêm, Trưởng Phòng Kỹ thuật – Làng Du lịch Bình Quới, Tổng chỉ huy công trình Đường Hoa.
 • Nhà tài trợ Đường hoa 2011: 
- Tài trợ chính: Công ty CPĐT Vạn Thịnh Phát, Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Liên Thái Bình Dương (Imex Pan Pacific), công ty CP Kinh Đô, công ty PepsiCo Việt Nam.
- Đồng tài trợ: Công ty DVLH Saigontourist, Làng Du lịch Bình Quới, công ty TNHH MTV Dịch vụ du lịch Phú Thọ và công viên Văn hóa Đầm Sen.
         - Tài trợ chính: Công ty CPĐT Vạn Thịnh Phát, Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu Liên Thái Bình Dương (Imex Pan Pacific), công ty CP Kinh Đô, công ty PepsiCo Việt Nam.
- Đồng tài trợ: Công ty DVLH Saigontourist, Làng Du lịch Bình Quới, công ty TNHH MTV Dịch vụ du lịch Phú Thọ và công viên Văn hóa Đầm Sen.
Càphê  Sài Gòn đang khoác thêm  cho mình  một vẻ đẹp mới, nơi những cộng đồng  nhỏ tìm đến nhau như một  nhu cầu tự  thân, chia sẻ với nhau những vẻ  đẹp tinh thần đang bị thách  thức dữ dội  trước cơn lốc của vật chất.
 Những nơi chốn tri âm
Hội quán Hội Ngộ là nơi cất giữ bao kỷ niệm đẹp về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cũng chính nơi đây đã phát hiện và gìn giữ một đội ngũ những giọng ca trẻ, những giọng hát vô danh với những đêm “hát giữa đồng” làm thổn thức lòng người. Linh hồn của hội quán chính là anh Cao Lập, chủ nhân quán Ami Art Café tại Văn Thánh, một không gian mở giữa mặt sông lộng gió, với những buổi ca hát, thơ nhạc, triển lãm hội hoạ hàng tuần độc đáo.
  Hội quán Hội Ngộ là nơi cất giữ bao kỷ niệm đẹp về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cũng chính nơi đây đã phát hiện và gìn giữ một đội ngũ những giọng ca trẻ, những giọng hát vô danh với những đêm “hát giữa đồng” làm thổn thức lòng người. Linh hồn của hội quán chính là anh Cao Lập, chủ nhân quán Ami Art Café tại Văn Thánh, một không gian mở giữa mặt sông lộng gió, với những buổi ca hát, thơ nhạc, triển lãm hội hoạ hàng tuần độc đáo.
Nhà  báo Nguyễn Trọng Chức, người gắn bó   nhiều năm với các hoạt động ở hội  quán Hội Ngộ và Ami Art Café tỏ ra   thích thú: “Hội Ngộ là nơi cất giữ  kỷ niệm, cất giữ vẻ đẹp của nhạc   Trịnh một cách hồn nhiên, thi vị,  phóng khoáng. Còn Ami Art Café Văn   Thánh cách đây không lâu còn là một  “địa chỉ đen”, vậy mà chỉ cần một   thời gian ngắn dưới bàn tay của anh  Cao Lập đã hoàn toàn lột xác trở   thành không gian thiên nhiên lộng  gió của người Sài Gòn ngay cửa ngõ   thành phố”.
 Bác  sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng tỏ ra tâm đắc:  “Đối với  tôi, hội quán Hội Ngộ là  một phát hiện tri âm. Ở đây thấm đẫm  chất nhà  quê, tình quê, hồn quê,  đặc biệt là ngôi nhà mở dành cho những  người mê  Trịnh Công Sơn. Còn  Ami Art Café Văn Thánh lại là không gian  lý tưởng để  các hoạ sĩ, nhà  thơ, nhà văn tổ chức triển lãm. Nếu không  có sự đồng  cảm lớn giữa  người nghệ sĩ, nhà sưu tập với anh Cao Lập,  chắc gì họ đã  đồng ý mang  đến đây những bộ sưu tập quý giá cho mọi  người chiêm ngưỡng,  tạo nên  một hoạt động văn hoá tốt cho Sài Gòn”.
 Cùng  với Bình  Quới, Văn Thánh, mới đây  câu lạc bộ Sài Gòn Đẹp, nơi các  kiến trúc sư,  nhà văn hoá, nhà kinh  doanh… gặp nhau với mục đích cùng  tìm ra những  giải pháp thiết thực để  gìn giữ di sản cho Sài Gòn, đã  trở thành một địa  điểm sinh hoạt thu hút  nhiều người có tiếng nói  trong xã hội như KTS  Nguyễn Văn Tất, chuyên  gia kinh tế Phan Chánh  Dưỡng… Sau buổi thảo luận  sôi nổi về những di  sản trong lòng đất do  nhà khảo cổ Nguyễn Thị Hậu chủ  xướng, câu lạc bộ  Sài Gòn Đẹp đang định  hình lại 27 con đường xưa của  Sài Gòn, để có  những góp ý cụ thể với  người làm di sản thành phố.
 “Buổi sáng một ngàn đôla”
 Chị  Tô Hồng Trang,  phó chủ tịch hội  đồng quản trị công ty Digiworld, một  phụ nữ thành đạt,  rất chịu khó học  hỏi cũng đánh giá cao cách chia sẻ  từ nhiều phía, đa  chiều và rất thân  tình của những buổi càphê này:  “Tôi thích không khí  cởi mở, chuyện trò  trực tiếp với nhau không hề có  rào cản, chia sẻ cả  những cái chưa  được, những lúng túng của riêng  mình khi phải đối mặt với  việc tuyển  CEO. Tôi đã dự nhiều diễn đàn  dành cho doanh nhân, nhưng  thấy không  hiệu quả, vì nó quá hình thức và  giáo điều. Riêng ở đây, cách  trao đổi  đào sâu hơn với mỗi người, có  sự tương tác giữa chủ doanh  nghiệp, người  làm thuê, và cả chuyên gia  tư vấn. Tôi cảm thấy rất chân  tình”… “Càphê  sáng thứ bảy” do Plan A  Group và hội Doanh nhân trẻ tổ  chức đang trở  thành một trong những  diễn đàn nhận được sự quan tâm của  giới doanh  nhân TP.HCM và các tỉnh  lân cận.
 So  với hơn 300 năm Sài Gòn – Gia Định được thiết lập nền hành  chính, so  với hơn 3.000 năm vùng đất này in dấu tích những con người cổ  xưa nhất,  35 năm tôi sống ở Sài Gòn chỉ là chớp mắt! Chợt nhận ra dường  như mình  chưa một lần nói lời yêu với thành phố này.
Nhiều  người đã yêu, rất yêu Sài Gòn. Có  thể đối với họ đây là nơi chôn nhau  cắt rốn, là nơi họ đã rời xa quê nhà  vào kiếm sống và được Sài Gòn rộng  rãi sẻ chia. Có thể là nơi để lại  mối tình đầu, là nơi họ rời bỏ mà  luôn mong một ngày quay lại… Nhưng  cũng với nhiều người, tình yêu Sài  Gòn thật khó có thể bộc lộ thành lời,  phải chăng vì Sài Gòn không như  một cô gái đẹp dịu dàng, yểu điệu làm  người ta dễ cảm mến để rồi thốt  vội lời yêu? Sài Gòn mang dáng vẻ của cô  gái hiện đại, năng động và  bình dị, một vẻ đẹp mà người ta thường ngại  ngùng khi muốn ngỏ lời yêu…  Nhiều năm trước tôi cũng vậy, mải mê nhớ về  thành phố đẹp đến nao lòng  của thời thơ ấu, để rồi đến một ngày thu tôi  mới nhận ra mình đã yêu  Sài Gòn từ khi nào không rõ…
Ấn  tượng của tôi lần đầu gặp Sài Gòn là  bến Bạch Đằng sông rộng nước đầy  với những con tàu lớn nằm sát đại lộ  Nguyễn Huệ. Đường phố thênh thang  luôn tấp nập, hàng cây xanh cao vút  trong ánh nắng chói chang, những cô  gái đạp xe tà áo dài trắng bay bay  trong gió. Những ngôi biệt thự sang  trọng ẩn hiện sau tường rào cây  xanh, những ngôi chùa rực rỡ đèn điện  vôi màu…
So với Hà Nội hay Huế, có  vẻ như Sài Gòn  thiếu sự lắng đọng “hồn núi sông ngàn năm”, vì đây là  thành phố hiện  đại kiểu Âu – Mỹ. Nhưng Sài Gòn mang hình hài đặc sắc  một đô thị phương  Nam “trên bến dưới thuyền”. Khởi thủy, thành Gia Định  dựng bên góc sông  Sài Gòn và sông Thị Nghè. Kéo dài về phía tây nam  vài cây số, là Chợ  Lớn, của đa số người Hoa, nằm trên những mối giao  nhau của kinh rạch  chằng chịt, nối ra sông Sài Gòn bằng rạch Tầu Hũ hay  còn gọi là rạch Bến  Nghé. Nhắc đến Sài Gòn, người ta nhớ ngay đến hai  cái chợ nổi tiếng:  Chợ Bến Thành – bến sông thị tứ buôn bán quan trọng  nhất của thành Gia  Định và Chợ Lớn – đầu mối giao thương lớn nhất Đàng  trong.
Giai đoạn hình thành Bến Nghé  – Sài Gòn  cũng là giai đoạn tụ cư nhanh chóng của những cộng đồng  người từ nhiều  nơi đến đây. Quá trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản  xuất…, lưu dân  đã duy trì những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn  giáo của quê hương  ở vùng đất mới. Đình, chùa, đền, miếu, hội quán… xây  dựng trong khoảng  300 năm nay thể hiện sự đa dạng và hội tụ văn hóa  của các cộng đồng cư  dân và sinh hoạt tinh thần của người Việt, người  Hoa, Khmer, Chăm.
Cũng như nhiều  nước Đông Nam Á, kiến  trúc thời thuộc địa cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ  20 đã để lại cho Sài  Gòn nhiều di sản kiến trúc có giá trị nghệ thuật  cao. Những con đường  ngang dọc lấy sông Sài Gòn làm chuẩn chia thành  phố thành những ô vuông.  Trên những đường chính là các công sở, khu  buôn bán, khách sạn, nhà  hàng… Những đường nhỏ là khu cư trú của giới  công chức, nhân viên, những  biệt thự xinh xắn, rồi những dãy nhà phố,  sâu hơn trong hẻm là xóm “nhà  lá” của người lao động… Cứ vài ô vuông  lại có nhà thờ làm trung tâm  sinh hoạt tinh thần. Có thể thấy 3 đỉnh  của tam giác trung tâm thành phố  chính là 3 nhà thờ: Đức Bà – Tân Định –  Huyện Sĩ.
| Nhiều người đã yêu, rất yêu Sài Gòn… Nhưng cũng với nhiều người, tình yêu Sài Gòn thật khó có thể bộc lộ thành lời. | 
Những  kiến trúc công sở hay tôn giáo có  nhiều chi tiết trang trí mang yếu tố  của mỹ thuật Việt, Chămpa, Khmer…  Sự kết hợp giữa kết cấu, kiểu dáng  kiến trúc, vật liệu xây dựng, đề tài  trang trí, giữa phương Tây và  phương Đông – bản địa và ngoại sinh, làm  cho các công trình ở Sài Gòn  thời thuộc Pháp có một phong cách kiến trúc  khá đặc biệt, được gọi là  phong cách kiến trúc Đông Dương, thể hiện xu  thế “chủ nghĩa văn hoá”  của kiến trúc đô thị phương Tây trong giai đoạn  cuối thế kỷ 19 – đầu  thế kỷ 20 ở nhiều nước Châu Á.
Tính  đến tháng 4.2010, toàn thành phố có  124 công trình, địa điểm được xếp  hạng di tích, trong đó: 1 di tích  quốc gia đặc biệt (dinh Thống Nhất);  53 di tích quốc gia, 70 di tích cấp  thành phố. Hệ thống di tích trong  cảnh quan chung của một “Sài Gòn xưa”  làm nên “bản sắc Sài Gòn”. Nhưng  giờ đây “bản sắc Sài Gòn” đang mai  một, bởi các công trình cao tầng  hiện đại. Con đường Đồng Khởi là một  trường hợp như thế. Đây có lẽ là  con đường nổi tiếng nhất và có tuổi đời  xưa nhất của Sài Gòn.
Nằm  ở quận 1, con đường này tập trung  nhiều khách sạn sang trọng, cửa  hàng, tiệm càphê, hiệu sách… đã trở  thành địa chỉ văn hóa quen thuộc  với nhiều thế hệ người Sài Gòn. Khu  hành lang Eden với rạp chiếu phim,  các cửa hàng tơ lụa, đồ lưu niệm, nhà  sách Xuân – Thu, đối diện Nhà hát  thành phố là tiệm càphê Givral nổi  tiếng, nhưng gần đây nó nổi tiếng  hơn bởi ca khúc “Vĩnh biệt Givral” –  C’est fini Givral. Ca khúc này làm  ta nhớ đến bộ phim lãng mạn “Mùa hè  cuối cùng ở Capri” đã làm rung  động biết bao trái tim, còn bây giờ nó  làm nhiều người rưng rưng nước  mắt. Một phần quá khứ của Sài Gòn không  còn nữa. Givral và những di  tích khác mất đi, Sài Gòn có nguy cơ là một  thành phố không còn ký ức…  Tôi cũng như mọi người, chẳng ai muốn phải  nghe “C’est fini…” đối với  những di sản văn hóa còn lại của Sài Gòn.
Nhưng  Sài Gòn không chỉ có “mất đi” mà  đã mở rộng và thay đổi từng ngày.  Kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè “nổi tiếng”  kênh đen giờ đang được nạo vét, kè  bờ, không lâu nữa sẽ là những “con  kênh xanh xanh” chảy giữa lòng  thành phố. Một dự án con đường trên cao  dọc theo hai con kênh này với  hàng chục cây cầu bắc ngang sẽ trở thành  “điểm nhấn” cho vùng trung tâm  cũ của Sài Gòn. Khu quận 4 bên kia cầu  Khánh Hội nổi tiếng “xã hội  đen” một thời, giờ những con đường rộng rãi,  những ngôi nhà khang trang  đã hiện lên.
Vùng trũng Nhà Bè mênh  mông dừa nước đất  vàng phèn mặn, giờ là đại lộ 8 làn xe chạy giữa khu  đô thị mới Phú Mỹ  Hưng đẹp như mơ! Những làng xóm ruộng vườn phía Gò  Vấp, Tân Bình hay Hóc  Môn, Củ Chi cũng đã thành phố mới. Tốc độ đô thị  hóa ở Sài Gòn khá  nhanh, việc quy hoạch thành phố còn chưa theo kịp sự  phát triển, vì vậy  không tránh khỏi sự lộn xộn, việc xây dựng tự phát,  sự tùy tiện phát  triển các khu dân cư xen lẫn thương mại, khu công  nghiệp…
Sài Gòn bây giờ đã hơn 7  triệu dân, mà  phần lớn là người tứ xứ. Qua nhiều năm khó nhọc mưu sinh,  nhiều người đã  hiểu nơi ta sinh ra là để gửi nhớ, gửi thương, còn Sài  Gòn là nơi mỗi  ngày ta có thể sống hết mình… Nếu đừng quá “thiên lệch”  lòng yêu thương  đối với nơi chôn nhau cắt rốn, thì tình cảm của ta đối  với Sài Gòn sẽ  công bằng hơn, vì đó là thành phố của mình, vì ta cũng  đã là người Sài  Gòn! Hiểu người Sài Gòn hơn, ta sẽ nhận ra tấm lòng  nặng tình đầy nghĩa  của những con người bộc trực phóng khoáng nơi đây.
Ba  mươi lăm năm sống ở Sài Gòn, sống với  Sài Gòn, liệu tôi có thể nói  “Sài Gòn của tôi”? Của tôi, như một quê  hương. Của tôi, như một nơi đã  cho tôi trưởng thành. Của tôi, như một  mối tình nồng nàn mà lặng lẽ  thủy chung suốt cả cuộc đời…
TS Nguyễn Thị Hậu
Đường Tôn Đức Thắng 
Đường   này thuộc loại xưa, lớn và quan  trọng nhất của vùng Sài Gòn, thời  Pháp  thuộc là ba đường khác nhau. Đó  là đọan từ cầu Khánh Hội đến công  trường  Mê Linh năm 1865 mang tên Quai  de Donnai, sau đổi là Quai  Napoléon. Năm  1870 đổi là Quai du Commerce.  Năm 1896 đổi là Quai  Francis Garnier.  Ngày 26-4-1920 đổi là Quai le  Myre de Vilers. Đọan từ  công trường Mê  Linh đến giáp nhà máy Ba Son,  lúc đầu mang tên đường   Primauguet. Ngày  26-4-1920 đổi là Quai  d’Argonne, và đoạn từ bờ sông  vào đến đường Nguyễn  Thị Minh Khai là con  đường có trước khi Pháp  chiếm Sài Gòn. Chính họ đã  đi theo con đường  này từ trại Thủy Quân lên  đánh thành Gia Định và hạ  thành ngày  17-2-1859. Năm 1865, người Pháp  đặt tên đường Boulevard de la   Citadelle. Đến năm 1901, người Pháp mới  đặt tên đường Luro. Năm 1955,   chính quyền Sài Gòn nhập hai bến Le Myre  Vilers và Argonne làm một và   đổi tên là bến Bạch Đằng. Còn đường Luro  thì đổi là đường Cường Để. Năm   1980, UBND Thành phố nhập bến Bạch  Đằng với đường Cường Để làm một, đổi   tên là đường Tôn Đức Thắng, nhưng  cắt đoạn từ  đường Lê Duẩn đến đường   Nguyễn Thị Minh Khai nhập vào  đường Đinh Tiên Hoàng.
Đường Nguyễn Huệ
Đường Lê Lợi 
Đường   này thời Pháp thuộc lúc đầu mang  số 13. Từ 1865 gọi là đường Bonard.   Ngày 22-3-1955, chính quyền Sài Gòn  đổi là đường Lê Lợi cho đến nay.
Đường Đồng Khởi
Thời Pháp thuộc mang số 16. Từ ngày 1-2-1865 người Pháp đặt tên đường Catinát, lúc đó chạy suốt tới Công Trường Công Xã Paris đến Công Trường Quốc Tế thành đường riêng và đặt tên là đường Blancsubé. Từ năm 1955 chính quyền Sài Gòn đổi tên đường Catinat thành đường Tự Do. Ngày 14-8-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đổi là đường Đồng Khởi.
Đường Lê Duẩn
Đường này mang tên đường Norodom từ 1871, vì dinh Thống Nhất lúc đó gọi là dinh Norodom. Từ năm 1950, khi cựu hòang đế Bảo Đại lập chính phủ, đặt thủ đô tại Sài Gòn, dinh Norodom được đổi tên thành dinh Độc Lập, và đường Norodom được đổi tên thành đường Thống Nhất. Sau 30-4-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đổi dinh Độc Lập thành dinh Thống Nhất và đường Thống Nhất thành đường 30 tháng 4. Năm 1986, sau khi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam mất, UBND Thành phố đổi tên là đường Lê Duẩn.
Đường Huyền Trân Công Chúa
Đường   này nằm bên hông dinh Norodom,  thời Pháp thuộc mang tên đường Miss   Cavell. Từ năm 1955, chính quyền  Sài Gòn đổi tên là đường Huyền Trân   Công Chúa cho đến nay. Khoảng từ  năm 1963 đến năm 1975, đường này bị  rào  bít, cấm lưu thông, vì vấn đề  an ninh của dinh Độc Lập. Lộ giới  mỗi bên  hơn 10m.
Đường Nguyễn Thị Minh Khai
Đường   này đã có từ trước khi người Pháp  chiếm Sài Gòn và gọi là đường Thiên   Lý. Khi người Pháp đến, họ đổi tên  là đường Stratégique. Sau khi có  bản  đồ quy hoạch, họ đổi là đường 25.  Từ ngày 1-2-1865, lại đặt tên là  đường  Chasseloup Laubat. Ngày  22-3-1955, chính quyền Sài Gòn đổi là  đường  Hồng Thập Tự. Ngày  14-8-1975, Chính phủ  Cách mạng Lâm thời nhập  chug  đường này với đường  Hùng Vương ở Thị Nghè, quốc lộ 13 ở Hàng  Xanh làm  một đường và đặt tên  là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh. Nhân dịp  Quốc khánh  1991, UBND Thành phố  lại cắt đoạn như hiện nay, tức đường  Hồng Thập Tự  cũ thành một đường  riêng và đổi tên là đường Nguyễn Thị  Minh Khai.
Đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
Đường  này thuộc loại xưa nhất, lớn nhất  và quan trọng nhất của vùng Sài  Gòn  nói riêng, thành phố Hồ Chí Minh  nói chung. Nó chạy qua dinh Thống   Nhất dẫn tới sân bay Tân Sơn Nhất.  Thời Pháp thuộc nó mang tên đầu tiên   là đường số 26. Từ ngày 1-2-1865,  đặt tên đường Impératrice. Năm 1870   đổi tên là đường Mac Mahon. Sau năm  1945, người Pháp trở lại chiếm  Sài  Gòn, ngày 28-12-1945 họ đổi tên  đường là Général de Gaulle. Đến  năm  1952, tướng de Lattre de Tassigny  bị tử trận trên chiến trường  miền Bắc  Việt Nam, được truy phong Thống  chế, ngày 15-1-1952 người  Pháp cắt đoạn  từ đường Lý Tự Trọng ra đến bến  Chương Dương thành đường  riêng và đặt  tên là đường Maréchal de Lattre  de Tassigny. Từ ngày  22-3-1955, chính  quyền Sài Gòn nhập hai đường làm  một và đặt tên là  đường Công Lý. Nhưng  đến ngày 16-5-1955, lại tách  đoạn đầu thành đường  riêng và lấy lại tên  Maréchal de Lattre de  Tassigny. Ngày 14-8-1975,  Chính phủ Cách mạng Lâm  Thời nhập đường De  Tassigny với đường Công Lý  và đường Cách Mạng 1-11  làm một và đặt tên  đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.  Ngày 4-4-1985, UBND thành  phố lại cắt đoạn từ  cầu Công Lý đến sân bay  Tân Sơn Nhất, ngang đường  Hoàng Văn Thụ thành  đường riêng và đặt tên  đường Nguyễn Văn Trỗi. Đường  Nam Kỳ Khởi Nghĩa  còn lại chiều dài như  hiện nay.
Đường Hàm Nghi
Đường này khi người Pháp mới chiếm Sài Gòn, nó còn con rạch, hai bên bờ có hai con đường cùng mang tên số 3. Về sau đường phía bắc, tức nay là đường một chiều từ đường Tôn Đức Thắng vào chợ Bên Thành, được đặt tên là đường Canton, còn đường bờ phía nam, tức nay là đường một chiều theo hướng chợ Bến Thánh ra đường Tôn Đức Thắng được đặt tên đường D’Ayot. Khoảng năm 1870, con rạch được lấp và hai đường gọi chung tên đường Canton do quyết định ngày 14-5-1877 của Thống đốc Nam kỳ. Từ ngày 24-2-1897, hai đường lại tách riêng, ở giữa có tiểu đảo. Đường phía bắc đặt tên đường Krantz, đường phía nam là Duperré. Từ ngày 22-4-1920, hai đường nhập một và mang tên đại lộ De lka Somme. Từ năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi là đại lộ Hàm Nghi cho đến nay.
       Saigon Trade Center có tổng diện tích là 40.000 m2 với 33 tầng lầu, tòa nhà cung cấp các diện tích cho thuê từ 55 – 2.200 m2.

Saigon Trade Center có tổng diện tích là 40.000 m2 với 33 tầng lầu, tòa nhà cung cấp các diện tích cho thuê từ 55 – 2.200 m2.Tòa  nhà nằm cách trung tâm thành phố 5 phút, tọa lạc trên 2 trục  đường   chính thuận tiện cho việc tiếp xúc với tất cả các khu vực. Khối  văn   phòng nằm từ tầng 6 tới tầng 30 và tầng trệt, tầng 2 tới tầng 5  dành  cho  các của hàng bán lẻ, tầng thượng dành cho bar và nhà hàng,  tầng  hầm  dành cho bãi đậu xe. Tòa nhà đã thu hút hơn 100 chủ văn phòng  đại  diện.
Địa chỉ: 37 Tôn Đức thắng, Q. 1, TP. Hồ Chí Minh
Theo nhà văn Sơn Nam, tên Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Ở Thủ Ðức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.
Năm 1835 sau sự biến thành Phiên An, Lê Văn Duyệt bị lên án và buộc tội đã gián tiếp gây nên biến loạn, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, xiềng xích sắt, trên dựng bia đá có khắc tám chữ Quyền yểm Lê Văn duyệt phục pháp xử (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ.
Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.
Trong khu vực lăng còn có mộ vợ ông là bà Đỗ Thị Phận và hai cô hầu. Ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.
Và từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914 việc cúng tế được tổ chức đều đặn hàng năm và việc trùng tu cũng được tiến hành nhiều lần…
Kiến trúc

Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linh miếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang…
Saigon Trade Center có tổng diện tích là 40.000 m2 với 33 tầng lầu, tòa nhà cung cấp các diện tích cho thuê từ 55 – 2.200 m2.
Tòa nhà có 10 thang máy tốc độ  cao dành  cho khách hàng ở 3 khối lầu, 2  thang máy cho nhân viên phục  vụ tòa nhà  và 4 thang lăn cho khu vực bán  lẻ. Tòa nhà Saigon Trade  Center do công  ty WMKY Architects Engineer Ltd.  (Hồng Kông) thiết kế,  công ty Project  Start Limited (Hồng Kông) tư vấn,  công ty Pentad  Construction Company,  Ltd (Hồng Kông) làm quản lý dự án
Saigon Trade CenterĐịa chỉ: 37 Tôn Đức thắng, Q. 1, TP. Hồ Chí Minh
Lăng  Ông Bà Chiểu, tên gọi đúng  là  Thượng Công miếu, là khu lăng mộ của Tả  quân Lê Văn Duyệt  (1764-1832).  Khu lăng tọa lạc tại số 1 đường Vũ  Tùng, phường 1, quận  Bình Thạnh,  Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Vị trí, tên gọi
Lăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500m2, nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng trên một gò đất cao
Và do   lệ kiên cử tên, không biết từ lúc nào, người dân đã ghép hai  từ “lăng   Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khu lăng của Tả Quân.Lăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500m2, nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức, Vũ Tùng trên một gò đất cao
Theo nhà văn Sơn Nam, tên Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Ở Thủ Ðức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.
Năm 1835 sau sự biến thành Phiên An, Lê Văn Duyệt bị lên án và buộc tội đã gián tiếp gây nên biến loạn, vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, xiềng xích sắt, trên dựng bia đá có khắc tám chữ Quyền yểm Lê Văn duyệt phục pháp xử (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho phá bỏ xiềng xích và đắp lại mộ.
Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt. Vua Tự Đức xem sớ cảm động mới truy phong lại cho cả ba ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Lại cho đắp phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.
Trong khu vực lăng còn có mộ vợ ông là bà Đỗ Thị Phận và hai cô hầu. Ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.
Và từ khi Hội Thượng Công Quý Tế được thành lập vào năm 1914 việc cúng tế được tổ chức đều đặn hàng năm và việc trùng tu cũng được tiến hành nhiều lần…
Kiến trúc
Chung   quanh khu lăng có bức tường bao  bọc dài 500m, cao 1,2m được trổ bốn   cổng ra vào theo bốn hướng, được  xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng   Tam quan cũng được xây. Cổng có  hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng  Công  Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở  ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975,  cổng  này đã từng được chọn là biểu  tượng của vùng Sài Gòn – Gia Định  xưa.
Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính, từ cổng Tam Quan vào gồm: Nhà bia-lăng mộ-miếu thờ.
Nhà   bia được xây dựng như một ngôi điện  nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm   dương. Văn bia chữ hán tiêu đề Lê  công miếu bi do Hoàng Cao Khải viết   năm Giáp Ngọ 1894. Nội dung bia ca  tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với   triều đình và nhân dân.
Toàn thể  khu mộ đều được xây bằng hợp   chất. Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và  vợ ông, bà Đỗ Thị Phận. Hai   ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo  giống nhau, có hình dạng như nửa   quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp  trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước   mộ có một sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi  nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt   phía bên phải. Bao quanh mộ là một  bức tường bằng đá ong dày hình chữ   nhật, thông ra tận sân đốt nhang  đèn.
Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linh miếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang…
Công trình mang dấu ấn  của  lối kiến  trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái “trùng thiềm điệp  ốc”  và kỹ  thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ   thuật chạm  khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ…mà nơi thờ cúng này còn   giữ được vẻ  đẹp cổ kính cho đến ngày nay.
 Điện thoại:  (84-8) 824 6125Hôm sau, trong ánh nắng ban mai, tôi khám phá màu sắc của các căn nhà và không khí nhộn nhịp của các chợ trong hẻm. Mọi thứ đều rất lạ lẫm. Tôi quyết định dạo một vòng trong hẻm và bước đi trong ánh mắt ngạc nhiên của mọi người. Trong suốt nhiều tháng, tôi đi dạo rất nhiều lần trong các con hẻm, khi thì đi một mình, khi thì đi cùng với các bạn sinh viên hoặc chuyên gia quy hoạch đô thị Việt Nam. Lúc đầu, tôi chỉ đi dạo cho vui, sau đó là để làm đề tài tốt nghiệp ngành địa lý đô thị. Hiện nay, tôi đang làm luận án tiến sĩ với đề tài hẻm Sài Gòn. Dần dần, tôi nhận thấy mạng lưới hẻm ở đây thật rộng lớn. Hẻm là cấp đường nhỏ nhất trong hệ thống đường đô thị, nhưng trên hết, hẻm là nơi giao lưu, trao đổi, nơi cuộc sống diễn ra và mỗi khu vực có nét đặc trưng riêng. Mỗi lần đi dạo trong hẻm, tôi đều thấy nhiều điều ngạc nhiên: khi thì một ngôi chùa cổ (rất nhiều ở Chợ Lớn), khi thì tôi nhận ra cuộc sống cộng đồng của những người làm cùng nghề. Ở quận 3, tôi gặp con hẻm của những người chuyên làm bánh, mứt phục vụ tết; ở quận 6, tôi phát hiện hẻm nghề in và ở quận Tân Bình có hẻm thợ may. Theo lẽ thường, người thành phố không biết nhiều về hàng xóm của mình. Thế nhưng, trong hẻm, tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương thân tương ái gắn kết mọi người với nhau. Một người dân trong hẻm nói với tôi: “Khi có người hỏi, tôi ở đâu, tôi luôn trả lời bằng tên hẻm của mình trước. Con hẻm đối với tôi như một đại gia đình”.
Mỗi   con hẻm đều có lịch sử, kiến trúc  và đặc trưng riêng. Giữa hẻm chính  và  hẻm nhánh có sự khác biệt khá rõ  nét. Chợ và hàng quán thường gắn  với  hẻm chính. Hẻm nhánh như những  cánh tay vươn ra từ hẻm chính,  thường rất  yên tĩnh và được tô điểm bằng  các chậu hoa do người dân đặt  ở hai bên.  Hẻm nhánh thường hẹp hơn và  có khi là hẻm cụt. Khi vào  hẻm, tôi cứ thế  bước đi, bước đi và… rất  nhiều lần bị lạc. Nhiều khi  thấy tôi đi vào một  con hẻm, mọi người cứ  nhìn tôi rồi cười. Vài phút  sau, tôi hiểu được ý  nghĩa của những nụ  cười đó: hết đường rồi, tôi  đang ở trong hẻm cụt.  Chẳng sao cả, tôi  quay trở ra và tiếp tục đi,  sẵn sàng bị lạc trong mê  cung đô thị đầy  sức sống và cũng lắm bất ngờ.  Đi vào hẻm là đắm mình vào  gia đình Việt.  Tôi không nhớ hết số lần  mình được mọi người niềm nở mời  vào tham quan  nhà, uống trà và vui  cười cùng các em nhỏ. Các bác lớn  tuổi rất thích  kể về lịch sử và  những thay đổi trong con hẻm của mình.  Một số bác sống  ở đó từ hơn 50  năm nay. Theo năm tháng, ngôi nhà được  nâng cấp, xây  thêm tầng lầu,  nâng nền để chống ngập vào mùa mưa. Tuy môi  trường sống  có được cải  thiện, nhưng nhiều người vẫn luyến tiếc thời  con hẻm còn có  những bụi  tre hai bên, mỗi nhà đều có góc vườn nhỏ và mỗi  người đều  quen biết  với nhau.
Những năm gần đây, dân số  Sài Gòn gia  tăng nhanh chóng,  do đó mật độ xây dựng cũng tăng cao. Các  lô đất tại  các quận trung tâm  và ven trung tâm thường có mật độ xây  dựng lên đến  100%. Điều này lý  giải tại sao trong khu vực này mật độ  đô thị rất cao  và có hàng ngàn con  hẻm nhỏ với chiều rộng chỉ vài mét.
Tuy  kế thừa những gì quá khứ để lại,  nhưng các con hẻm  cũng không ngừng  thay đổi để phù hợp với lối sống của  người dân đô thị.  Ngày nay, số  người sống và làm việc trong con hẻm  của mình ngày càng ít  vì mỗi sáng  họ đi làm ở phường hoặc quận khác  bằng xe gắn máy. Một số  người đã  chuyển nhà đi và căn nhà của họ bị đổi  thành cơ sở sản xuất.  Hẻm không  chỉ gắn với nơi ở mà còn gắn với hoạt  động kinh tế ở đô thị.  Hiện  nay, chính quyền các quận đang tiến hành  chương trình nâng cấp, cải   tạo hẻm nhằm đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá đô  thị. Trước mắt, các hạng   mục nâng cấp gồm lắp đặt hệ thống cấp, thoát  nước và nâng cao hẻm. Mục   tiêu xa hơn là mở rộng hẻm để xe hơi có thể  vào được và tạo thuận lợi   cho giao thông. Nhiều lúc, khi giao thông  trên các tuyến đường bị tắc   nghẽn vào giờ cao điểm, người điều khiển xe  máy không ngần ngại đi vào   hẻm để tìm lối đi tắt. Điều này đôi khi gây  ra xung đột trong việc sử   dụng hẻm giữa một bên là phục vụ cho giao  thông và một bên là phục vụ   cho hoạt động thương mại như chợ, hàng quán  (người dân có thể ngồi  uống  càphê mỗi sáng trong hẻm trong không khí  nhộn nhịp). Thách thức  hiện nay  đối với những nhà quy hoạch và quản lý  đô thị là rất lớn: làm  thế nào  để vừa hiện đại hoá hẻm vừa giữ được sự  đa dạng và phong phú  về văn hoá –  xã hội của nó. (Theo SGTT)
Mở  quán cà phê trên chung cư,  quảng bá bằng kênh… truyền miệng đang trở   thành xu hướng kinh doanh khá  thú vị ở Sài Gòn. Quán cà phê ở Sài Gòn   mọc như nấm, không tránh khỏi  cạnh tranh. Tuy nhiên những quán “không   đụng hàng” như vậy lại có một  lượng khách hàng riêng. Ai đã chịu “gu”   của quán rồi chắc chắn sẽ còn  quay lại.
Quán  cà phê trên chung cư đầu tiên ở Sài  Gòn có lẽ là “Cửa sổ mặt  trời”  (La Fenêtre Soleil). Hơn 10 năm trước,  anh Takayuki, chuyên gia  thiết  kế túi xách người Nhật và một người bạn  Việt Nam phải vất vả hàng   tháng trời chạy khắp khu trung tâm Sài Gòn  với ý định tìm mặt bằng mở   quán cà phê. Khi đã “chồn chân mỏi gối”, họ  được giới thiệu đến một khu   chung cư nằm ở góc đường Lê Thánh Tôn – Nam  Kỳ Khởi Nghĩa (quận 1)…
Liều…
Takayuki  và cô bạn người Việt của anh  đều rất thích lối kiến trúc của  căn hộ.  Thấy giá rẻ, dù có phần e ngại  việc mở quán trên chung cư sẽ  khó kinh  doanh nhưng họ vẫn quyết định  thuê. Takayuki đích thân thiết  kế, trang  trí và sưu tầm các đồ vật bài  trí cho quán.
“Cửa  sổ mặt trời” ra đời với thiết kế  tận dụng tối đa ưu thế của các  cửa  sổ lớn có sẵn. Không gian đẹp kết  hợp với các đồ vật cổ, pha trộn   phong cách Á, Âu khiến cho quán ngày  càng nổi tiếng qua kênh… truyền   miệng. Khách hàng tìm đến Cửa sổ mặt  trời phải gửi xe bên Thư viện Tổng   hợp, phải leo lên một cầu thang  chung cư xoàng xĩnh, rồi mới đột ngột  rẽ  vào cánh cửa kính lớn, mở ra  một không gian rộng, thoáng, sạch sẽ,  mát  mẻ và êm đềm. Sự bất ngờ, ngồ  ngộ ấy làm khách thích thú bỏ qua  những  bất tiện trước đó.
Thời kỳ  đầu, Cửa sổ mặt trời còn “nằm  chễm chệ” cả 4 trang trên tạp  chí Kiến  trúc, Nhà Đẹp và được rất nhiều  tạp chí hướng dẫn du lịch  trong, ngoài  nước giới thiệu như là một điểm  đến thú vị ở Sài Gòn. Những  chiếc bàn  cổ, bộ sofa rộng rãi, chiếc  giường xưa treo mùng vắt vẻo…  phối trộn  lẫn nhau trong một không gian  đậm tính nghệ sĩ đã làm hài lòng  những  người ưa thích sự riêng tư, độc   đáo.
Chủ  quán Cửa sổ mặt trời, dù không tiết  lộ giá thuê mặt bằng là bao   nhiêu, nhưng “bật mí”: thuê trên lầu rẻ  được một nửa so với tầng trệt.
Gần  đây, Cửa sổ mặt trời đã chuyển sang  một khu chung cư khác trên  đường  Lý Tự Trọng, quận 1. Quán vẫn duy trì  lượng khách cũ và thu hút  khách  mới. Đến bây giờ chủ quán mới tự tin  kết luận: “Mở quán ở đâu cũng   được, miễn là có ý tưởng tốt”.
Tương  tự như thế, Hà Thanh Phúc, chàng  cử nhân Ngoại thương thế hệ 8x  cũng  “liều hết cỡ” khi chọn cho “Vừng  ơi, mở ra” một địa điểm tại tầng  một  của chung cư trên đường Ngô Thời  Nhiệm (quận 3). Ngay mặt tiền, phía   dưới quán là tiệm rửa xe. Khách  phải đi thẳng vào tiệm rồi… “lần mò”   qua một cầu thang nhỏ để lên quán.  Thanh Phúc kể: lần đầu nhìn thấy căn   hộ đã cảm thấy thích và quyết  thuê bằng được. Quán có diện tích 80m2,   giá thuê trên 20 triệu  đồng/tháng. Khai trương ngày 14/5/2010, đến  nay  “Vừng ơi mở ra” đã có  thể tự tin với lượng khách của mình, mặc dù  chủ  quán thừa nhận: “Hai  tháng đầu tôi bị strees vì quán không có  khách”.
Tiếp nối dòng cà phê chung  cư, cà phê  Things nằm tại tầng một, chung cư  14 Tôn Thất Đạm (quận 1)  khai trương  ngày 13/9/2010. Tuy nhiên, chị Tạ  Thùy Minh, chủ quán, làm  trong ngành  truyền thông cho biết, chị mở quán  không phải vì mục đích  kinh doanh mà  chủ yếu là do thích kiến trúc cũ kỹ  của khu chung cư.  Không gian, kiểu  bài trí của quán giống như trong một  gia đình, các đồ  vật đều do người  quen, bạn bè tặng. Phía dưới chung cư  không hề có  bảng hiệu hay chỉ  dẫn. Khi lên lầu khách có thể … lạc nếu  không tinh  mắt nhìn thấy cái  bảng hiệu nhỏ xíu ghi chữ “Things” treo  trước cửa  phòng.
… có lý
Hiện  nay tại Sài Gòn có khoảng hơn chục  quán cà phê trên chung cư,  cao ốc.  Dạo một vòng các quán như L’Usine  (Đồng Khởi), L’appartement   (Pasteur), The Loft (Nguyễn Công Trứ),  Casbar (Nguyễn Du)… cho thấy,  các  khu chung cư cũ tại khu vực quận 1  chính là địa chỉ vàng cho các  quán  kiểu này. Mỗi quán tuy có kiểu thiết  kế theo “gu” riêng của chủ  quán  nhưng đều có chung một đặc điểm là  không gian nhỏ, nằm ở vị trí  không dễ  tìm.
Chỗ gửi xe bất tiện  nhưng xem ra là  chuyện nhỏ. Bất lợi lớn nhất đối  với một địa điểm kinh  doanh là vị trí  khuất. Tuy vậy, nhà kinh doanh đã  biết chuyển bại  thành thắng: thu hút  khách bằng địa điểm gợi tò mò. Anh  Phúc, chủ nhân  của “Vừng ơi mở ra”,  cho biết: “Quán nằm trên lầu nên gợi  sự tò mò  cho khách hàng. Gu của  khách Sài Gòn là quán càng khó kiếm  càng thích  tìm cho ra. Nếu có cơ  hội tôi sẽ mở thêm quán nữa”.
Chị  Hoàng Ngọc Thi, nhân viên văn phòng  tại quận 1, khách hàng thường   xuyên của các quán trên lầu cho biết:  “Đây là nơi chốn bí mật của riêng   mình với không gian đẹp và cảm giác  lơ lửng”.
Còn  chị Nguyễn Thị Châu Giang, nhân viên  xuất nhập khẩu tại quận 3  chia  sẻ: “Chọn một góc riêng, ngồi nhâm nhi  thức uống, thả hồn xuống  dòng  xe cộ bên dưới giúp tôi xả strees hiệu  quả. Không gian yên tĩnh,  tầm  nhìn đẹp là ưu điểm khiến tôi phải leo  lầu”. Anh  Trần Quang Tùng ở   quận 11 ngắn gọn: “Tôi thích không gian  hoài cổ của quán”.
Với bạn trẻ hệ 9x như Huỳnh Thế Phong thì: “Đi các quán trên lầu như vầy mới sành điệu”.
Quán  cà phê ở Sài Gòn mọc như nấm, không  tránh khỏi cạnh tranh. Tuy  nhiên  những quán “không đụng hàng” như vậy  lại có một lượng khách hàng   riêng. Ai đã chịu “gu” của quán rồi chắc  chắn sẽ còn quay lại.
| Quán nằm trên lầu gợi tò mò cho khách hàng. Quán càng khó kiếm càng thích tìm cho ra | 
Tất   nhiên, sự tò mò cho khách hàng thôi  chưa đủ. “Cửa sổ mặt trời” sở hữu   các món ăn tự chế theo phong cách ẩm  thực Nhật – Âu, tối thứ năm hàng   tuần có nhảy salsa. Còn Casbar thu  hút những người thích khung cảnh  Sài  Gòn về đêm với Nhà thờ Đức Bà,  thích không gian mang hơi hướng  Trung  Đông. Tương tự như thế, “Vừng ơi,  mở ra” khẳng định thế mạnh về  nhạc  sống. Chủ quán rất chịu khó thuê ca  sĩ phòng trà hát mộc hàng  đêm. Khách  đến Things thì có cảm giác thân  thuộc khi bắt gặp món đồ cũ  mà mình đã  tặng cho quán và có thể tìm một  góc nào đó ngủ, nghỉ như ở  nhà.
Một chủ chuỗi các quán cà phê ở  Sài Gòn  sân vườn cho rằng, thời giá  đất đắt đỏ, thuê mặt bằng trở  thành gánh  nặng mà các chủ đầu tư đều  ngán. Hơn nữa, chỉ khi có thể  thuê từ 5 năm  trở lên thì chủ mới dám đầu  tư mạnh để sửa chữa, trang  trí. Cho nên mặt  bằng nhỏ ở chung cư, nếu  biết làm cho có nét độc đáo  riêng, có sức  “cám dỗ” khách hàng, thì địa  điểm “xấu” cũng trở thành  “đắc địa”.
Nhưng muốn vậy, người chủ  phải biết rất  rõ mình bán cái gì, cho đối  tượng nào. Bắt chước hay  chạy theo những  quán này, quán nọ thì chẳng bao  giờ có thể… sống thọ.
Có lẽ, điều này luôn đúng, không riêng gì cho kinh doanh ẩm thực!?
UBND TP.HCM vừa thông qua chủ trương phát triển loại hình buýt trên sông.Đại   diện chủ đề án là Công ty TNHH  Thường Nhật cho biết, ở nhiều thành  phố  trên thế giới như Bangkok (Thái  Lan), Paris (Pháp), London (Anh)…  đã  triển khai mô hình buýt trên sông  (Daily Express) và hiện rất thành  công  trong việc giải quyết vấn đề  giao thông công cộng tại địa  phương.
Hiện   nay, ngoài lợi thế cư dân chật kín  dọc hai bờ các tuyến sông như: Sài   Gòn, Vàm Thuật, kênh Tàu Hủ – Bến  Nghé, kênh Đôi – Tẻ… Chính quyền TP   cũng có chủ trương ủng hộ xây dựng  các bến bãi đưa đón khách, làm  đường  dẫn vào bến.
Ông Nguyễn Kim  Toản, Giám đốc Công ty  TNHH Thường  Nhật cho biết, giai đoạn 1 (dự kiến  năm 2011) sẽ triển khai  2 lộ trình,  mỗi lộ trình có khoảng 10 bến tàu  đón khách, thời gian di  chuyển 30  phút/chuyến, giá vé dự kiến 15.000  đồng/người, sử dụng tàu từ  40, 60 đến  80 khách. Lộ trình 1 có chiều  dài khoảng 11 km từ Linh Đông  (Thủ Đức)  về bến Bạch Đằng (Q.1), ghé  đón khách tại các bến Hiệp Bình  Phước, Thanh  Đa, Tầm Vu, Thảo Điền,  Tân Cảng, Trần Não, Nguyễn Hữu  Cảnh. Lộ trình 2  bắt đầu từ bến trung  tâm ở đường Tôn Đức Thắng (Q.1)  rồi đến các điểm:  cầu đi bộ gần cầu  Calmette – gần cầu Chữ Y (P.4, Q.5)  – gần chợ Hòa Bình  (P.5, Q.5) –  gần cầu Chà Và (P.10, Q.5) – bến gần  đường Mai Xuân Thưởng  (P.1, Q.6) –  cách cầu rạch Lò Gốm 300m (P.7,  Q.6). Tiếp theo đó, giai  đoạn 2 bắt  đầu từ An Lộc (Q.12) theo sông Vàm  Thuật về Bình Thạnh – Q.1,  rồi từ  Q.1 đi Phú Mỹ Hưng (Q.7) – kết nối  xuống xã Phú Xuân (H.Nhà Bè).  Các  tuyến buýt trên sông tại TP.HCM có  thể kết nối với các bến tại Bình   Dương, Vũng Tàu, Long An…
Theo  đánh  giá của Khu đường sông  TP.HCM, ưu điểm của loại hình buýt trên  sông  tại TP là mặt sông thông  thoáng, thời gian di chuyển nhanh, có  nhiều  nhánh tỏa đi các hướng. Tuy  nhiên, khó khăn bước đầu đối với mô  hình  vận tải này là thói quen sử  dụng phương tiện cá nhân của đa số  người  dân khó thay đổi trong một  thời gian ngắn.
Ông  Trần Thế  Kỷ, Phó giám đốc Sở GTVT  TP.HCM nhận xét: “Tôi thấy Bangkok  (Thái Lan)  áp dụng mô hình này khá  thành công. Ở đó, trên dòng sông  Chao Phraya,  sáng sớm tàu chở công  nhân đi làm việc, sau đó khoảng 8 –  9 giờ tàu chở  du khách du ngoạn  trên sông, chiều lại chở công nhân đi  làm về. Ban đêm  thì các tàu phục  vụ nhà hàng đi trên sông”.
Ông  Kỷ cho biết, trong  2 – 3 năm tới,  khi cảng Sài Gòn, Nhà máy Ba Son  được di dời xong; cảng  Khánh Hội, Nhà  Rồng sẽ được cải tạo thành cảng  du lịch khang trang, đại  lộ Đông Tây  hoàn thành… diện mạo khu vực này  sẽ thay đổi. Vì vậy, việc  đầu tư các  tuyến buýt trên sông là rất cần  thiết.
Đi  ngang bến Bạch Đằng, đường Tôn  Đức Thắng, quận 1 vào ban đêm thấy   những con tàu nhà hàng, còn được gọi  là nhà hàng nổi trên sông Sài Gòn   dập dềnh ánh sáng. Và không ít sinh  viên học sinh, công nhân, người  thu  nhập thấp “mơ” được một lần lên đó  dạo quanh sông. Nay điều đó đã  thành  hiện thực.
Bắt đầu từ tháng 3 năm nay, những nhà hàng di động này sẽ trở thành phương tiện phục vụ khách du lịch trên sông vào ban ngày.
Một  trong những nhà hàng nổi đậu ở bến  sông Sài Gòn là  tàu Bến Nghé thuộc  nhà hàng ba sao, có ba tầng với sức  chứa 1.000 khách.  Mới đây, tàu  Bến Nghé phối hợp với công ty dã ngoại  Lửa Việt tổ chức  chương trình  “Một thoáng Sài Gòn”, đặc biệt vào các  buổi sáng dành cho  đối tượng  chính là học sinh, sinh viên và công nhân.  Với giá vé chỉ  20.000 đồng/  một người, đã bao gồm phí bảo hiểm và mỗi  người một chai  nước suối.  Tàu sẽ đưa khách tham quan theo cung đường từ  bến Bạch Đằng  đến cảng  Sài Gòn, khu chế xuất Tân Thuận qua Nhà Bè rồi  vòng về bến.
Khởi hành vào khoảng 8 giờ sáng và mỗi chuyến đi kéo dài khoảng 3 tiếng, không cập bến giữa chừng. Chọn thời gian cho tàu đi vào buổi sáng là thời điểm mà theo những người tổ chức tour: “Khách sẽ có dịp ngắm cảnh hai bên sông Sài Gòn, biết được sinh hoạt ven sông thành phố mỗi ngày, chứng kiến cảng hàng hoá nhộn nhịp với những tàu hàng xuất nhập khẩu từ sông Sài Gòn ra biển đi các nước…”
Hướng  đến đối tượng học sinh, công nhân  nhưng dịch vụ  này luôn mở rộng cho  mọi người. Ngoài một chai nước suối  đã có trong giá  vé, nếu có nhu cầu  ăn uống thêm thì bộ phận nhà hàng  trên thuyền vẫn  luôn sẵn sàng đáp  ứng. Thực đơn được chia theo khẩu  phần hoặc theo sở  thích riêng tuỳ  nhu cầu của khách. Giá thức uống từ  10.000 – 15.000  đồng, thức ăn từ  20.0000 – 25.000 đồng/món.
Sức chứa  đến 1.000 người, nhưng đoàn chỉ  cần có chừng  500 người, tàu cũng sẽ  phục vụ. Ông Nguyễn Văn Mỹ, giám  đốc Lửa Việt cho  biết: “Đây là một  trong những chương trình tour khai  thác mở rộng: tour  – tuyến du lịch  đường sông”. Trước đây các thuyền đã  hoạt động nhưng  chủ yếu dành cho  du khách nước ngoài và khách ẩm thực  vào ban đêm, vừa  ăn vừa hóng mát.  “Bây giờ tàu chạy ban ngày, tận dụng  thêm công suất và  phục vụ thêm  nhu cầu tham quan loại hình khác với  buổi tối”.
Dịch  vụ du lịch này thích hợp cho các  trường học, doanh  nghiệp sản xuất có  đông công nhân tổ chức những buổi  dã ngoại ngắn,  cùng nhau thư giãn  vui chơi. Với chi phí dễ chấp nhận và  nội dung có  tính chất “bình cũ  rượu mới”, những người tổ chức tour này  lạc quan và  hy vọng sẽ đón  nhận 500.000 khách trong năm nay.
Liên hệ: Công ty dã ngoại Lửa Việt, số 677 Trần Hưng Đạo, phường 1, quận 5.
Các Ngọc (SGTT)         
Đô  thị PMH xây dựng theo quy hoạch tổng  thể ngay từ đầu sẽ trở thành  T.T  thương mại tài chính quốc tế hấp dẫn  nhất Đông Nam Á. Trên diện tích   2.600ha tọa lạc song song với TP.HCM về  phía Nam, Cty LD PMH được phép   khai thác phát triển khu đất trong phạm  vi công trình đô thị mới để  xây  dựng một đô thị kiểu mẫu tại Đông Nam  Á.
Quy  hoạch tổng thể đô thị mới do công ty  Skidmore, Owings &  Merrill  (Mỹ) thiết kế đã được Thủ tướng phê  duyệt vào ngày 8/12/1994 và  vào  ngày 3/3/1995, Chính Phủ Việt nam đã  chính thức chấp thuận việc  thành  lập Ban Quản Lý Khu Nam với cơ chế đầu  tư Một Cửa cho Đô Thị PMH.  Đô  thị Phú Mỹ Hưng được phát triển trong cơ  cấu bảo vệ môi trường. Nền   Tảng Cho Chiến Lược Phát Triển Một Thành  Phố Hướng Ra Biển Đông.
Ba chức năng của Công ty TNHH Liên doanh Phú Mỹ Hưng:
1)  Xây dựng đại  lộ Nguyễn Văn Linh dài  17,8km, lộ giới 120m có 10 làn xe  (6 làn xe cao  tốc và 4 làn xe hỗn  hợp, riêng đoạn đi ngang qua Khu A –  Trung tâm đô  thị PMH – có 14 làn  xe). Chính giữa đại lộ là phần đất  công viên rộng 18  – 36m dự phòng để  phát triển dự án metro trong tương  lai. Đại lộ này  được xây dựng hoàn  toàn mới băng qua vùng đất đầm lầy  của huyện Nhà Bè  (nay là quận 7),  quận 8 và huyện Bình Chánh. Đây là  tuyến đường giao  thông huyết mạch  trung chuyển hàng hoá từ TP.HCM đến  các tỉnh đồng bằng  sông Cửu Long,  mở ra thời cơ mới trong việc phát  triển thành phố theo  quy hoạch đã  được chính phủ phê duyệt, là đòn bẩy  quan trọng thúc đẩy  quá trình đô  thị hóa, chuyển đổi một bộ phận dân  cư nông nghiệp trở  thành dân cư  thành thị và cải tạo vùng đất nông  nghiệp phèn mặn trở  thành một đô thị  hiện đại cho thế kỷ 21, từ đó làm  động lực thúc đẩy  phát triển kinh tế  toàn khu Nam và TP.HCM. Cầu Phú  Mỹ đã thông xe nối  liền quận 7 với  quận 2, từ đó liên thông các tỉnh  miền Đông với miền Tây  nam bộ. Công  trình xây dựng đại lộ Nguyễn Văn  Linh được chia làm 3 giai  đoạn. Giai  đoạn 1 thông xe 2 làn vào đầu năm  1998. Giai đoạn 2 thông xe  từ 4 – 6  làn vào năm 2003. Giai đoạn 3  thông xe đủ 10 làn theo đúng  thiết kế,  đúng tiến độ vào ngày  30/12/2007. Nhân dịp này, Công ty TNHH  LD Phú Mỹ  Hưng đã vinh dự được  Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương  Lao động  Hạng I.
3) Xây dựng 5 cụm đô thị  hiện đại theo  quy hoạch tổng thể A, B, C, D,  E dọc theo đại lộ Nguyễn  Văn Linh, nhằm  thực hiện định hướng phát triển  TP.HCM hướng ra biển  Đông theo chủ  trương của Chính phủ Việt Nam nói  chung và TP.HC
Tọa  lạc trên con đường Ðồng Khởi – trung  tâm thành phố Hồ Chí Minh, bên  cạnh là hai khách sạn lớn Caravelle và  Continental. Nhà hát thành phố  Hồ Chí Minh có kiến trúc cổ kính, uy nghi  với 1 tầng trệt, hai tầng  lầu, 1800 ghế, không khí thoáng, hệ thống âm  thanh ánh sáng hiện đại.  Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh là nơi tổ chức  biểu diễn sân khấu chuyên  nghiệp như: biểu diễn kịch nói, cải lương, ca  nhạc, múa Balê, dân tộc,  Ôpêra cho tất cả các đoàn nghệ thuật trong và  ngoài nước.Ngoài ra,  những đêm trình diễn thời trang đã thu hút bao  khách thanh lịch ở Sài  Gòn và nước ngoài, đặc biệt những nhà trình diễn  thời trang quốc tế  cũng chọn nhà hát Thành Phố làm nơi phô diễn những  kiểu quần áo đặc sắc  đang được thế giới ưa chuộng. Tại đây có thể tổ  chức những buổi mít  tinh, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các hội thảo chuyên  đề…
Ngay  từ năm 1863 đã có những đoàn hát từ  Pháp sang trình diễn cho quân viễn  chinh Pháp xem. Lúc đầu họ trình  diễn tại ngôi nhà bằng gỗ của vị Ðô  Ðốc tại Công trường Ðồng Hồ (Place  de L’Horloge) ở góc Nguyễn Du-Ðồng  Khởi hiện nay. Sau đó một nhà hát tạm  được lập ở vị trí khách sạn  Caravelle ngày nay. Nhà hát lớn (Nhà hát  Thành phố ngày nay) được khởi  công xây dựng từ năm 1898. Ðầu năm 1900,  nhà hát được khánh thành trọng  thể. Mặt tiền của nhà hát được trang trí  bằng nhiều tượng và tượng đắp  nổi (như ở tòa nhà Ủy ban nhân dân thành  phố) theo kiểu cách kiến trúc  thời bấy giờ.
Sau  khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do  hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không  được tu bổ nhiều. Năm 1954, nơi đây  được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho  các thường dân Pháp từ miền Bắc di  cư vào Nam theo Hiệp định Genève  năm 1954. Năm 1955, nhà hát được tu bổ  cải tạo nhưng lại được sử dụng  với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau  gọi là Hạ nghị viện) của chính  quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1975, Nhà hát được trả lại chức  năng ban đầu là tổ chức biểu  diện nghệ thuật. Năm 1998,  nhân dịp 300  năm khai sinh Thành phố Sài  Gòn, chính quyền thành phố đã  cho tu bổ  lớn với phương châm bảo tồn  phong cách kiến trúc ban đầu, với  một số  trang trí, điêu khắc nổi ở mặt  tiền nhà hát như tượng nữ thần  nghệ  thuật, các dây hoa… được phục chế.Hội đồng nhân dân thành phố đã phê chuẩn một dự án tân trang nhà hát vào tháng 11 năm 2007, kinh phí trù liệu là 1,6 tỉ đồng. Trong chương trình này, những bộ phận kiến trúc trùng tu dược liệt kê như sau:
- Mái ngói với những vật liệu chế tạo đúng theo khuôn mẫu của thời đó (1900).
 - Thay ghế ngồi bằng ghế đệm (giảm số ghế từ 559 xuống 500 chỗ ngồi).
 - Thay gạch lát nền.
 - Trùng tu các tượng phía trong nhà hát.
 - Trùng tu các điêu khắc nổi trên tường và các tượng theo đúng mẫu ban đầu.
 
Kiến trúc
Tuy  vậy, về phần trang trí ở mặt tiền  nhà hát cũng có nhiều lời chỉ trích.  Theo phong cách Đế Quốc (sau được  trang trí thêm theo phong cách Beaux  Arts, rồi giản tiện hóa  kiểu Art  Deco), mặt tiền nhà hát được trang  trí nhiều phù điêu và tượng  đắp nổi  (giống như Tòa Thị chính), nên bị  chỉ trích là khá rườm rà và  rối rắm.  Vì vậy vào năm 1943, một số chi  tiết trang trí này đã bị dỡ bỏ  nhằm trẻ  trung hóa phong cách kiến  trúc. Vào năm 1998, nhân dịp kỷ niêm  300  thành lập Thành phố HCM,  chính quyền đương thời phục hồi chức năng  củ  là nhà hát thành phố củng  như đã cho phục hồi một số trang trí như   tượng 2 nữ thần nghệ thuật,  các dây hoa, hai cây đèn… trong đợt cải  tạo  và nâng cấp nhà hát. Tổng  kinh phí trùng tu phục chế vào khoảng 25  tỉ  đồng thời giá bấy giờ.         
Còn  gọi là dinh Xã Tây, dinh Ðốc Lý và  sau này là tòa Ðô Chính (tòa Ðô  Sảnh) là một trong những kiến trúc to  lớn và cổ của thành phố Sài Gòn.  Năm 1862 sau khi chiếm được một số tỉnh  của Nam Kỳ, người Pháp tổ chức  một hội đồng thị xã để cai trị (Conseil  minicipal). Nhưng hội đồng này  chưa có trụ sở chính thức, phải thuê nhà  của một người khách trú tên là  Ðoàn Tại để làm trụ sở tạm thời (1868) ở  Rue.aux fleurs hiện giờ ở sau  trụ sở hải quan thành phố) nằm giữa đại lộ  Nguyễn Huệ (Charner) và Hàm  Nghi (De la Some). Ngôi nhà này đồng thời  còn dùng làm phòng Thương  mại và Chứng khoán. Mãi đến năm 1871, chính  quyến Pháp mới bắt đầu nghĩ  đến việc xây dựng một nhà làm việc chính  thức cho Hội đồng thị xã. Khu  kinh lấp (tức đường Nguyễn Huệ hiện nay)  đã được lưu ý đầu tiên, nhưng  vẫn còn e ngại về vấn đề đổ móng xây nền  vì nơi đây là vùng đất bùn.  Dự án xây cất được đặt thành một cuộc thi vẽ  họa đồ và người được giải  là kiến trúc sư Codry. Nhưng vào năm sau bản  đồ án này bị thay đổi  không rõ lý do và một kiến trúc sư khác được mời  đến thiết kế. Ðó là  kiến trúc sư Métayer.
Năm 1874 vấn  đề xây cất không được nhắc  lại. Mãi đến năm năm sau, việc xây cất được  đề cập đến, nhưhg chỉ là  nhắc nhở mà không thực hiện. Ðến năm 1880 viên  thị trưởng Balancsubé cố  gắng phục hồi lại dự án cũ, nhưng vẫn không  thành công. Bước sang năm  1888 bản đồ án kiến trúc ban đầu bị sửa đổi  hoàn toàn. Năm 1893 vấn đề  xây cất lại được nêu ra tại Hội đồng thị xã  Sài Gòn lại bắt đầu họp bàn  về địa điểm. Cuối cùng năm 1896 một cuộc  bàn cãi về địa điểm được triệu  tập một lần nữa và một cuộc thi vẽ họa  đồ thứ hai được tổ chức. Nguyên  nhân cản trở việc xây cất tiến hành  trong các năm trước đó chính là vấn  đề địa điểm. Tuy nhiên, trong thời  gian từ 1898 đến 1899 tòa thị sảnh  được khởi công xây cất ngay trên  vùng đất đã chọn trước đó. Kiến trúc sư  Gardès chịu trách nhiệm xây  dựng đồ án và họa sĩ Ruffier chịu trách  nhiệm trang trí. Nhưng do nhiều  lý do không thuận lợi, do sự bất đồng ý  kiến giữa họa sĩ Ruffier và  các nghị viện Việt Nam trong hội đồng thị  xã.
Trước  sự bất đồng giữa các nghị viện và  họa sĩ Ruffier, thị trưởng Cuniac có  ý hòa giải bằng cách gửi một tấm  ảnh về cái trung đoạn kỳ dị của tòa  nhà về Pháp cho Ruffier và đề nghị  nếu có thể tìm đề tài khác thay thế.  Nhưng vì thay đổi quá tốn kém, nên  viên Thống đốc Rodier từ chối những  chi phí mới. Sự bàn cãi giằng co kéo  dài mãi đến năm 1907, sau đó hợp  đồng của Fuffier bị bãi bỏ và một họa  sĩ khác là Bonnet nhận lãnh hoàn  toàn mọi công việc trang trí. Ðến năm  1908 tòa Ðô sảnh được hoàn thành  và vụ Ruffier được đưa ra trước Tham  chính viện vì Ruffier đã nhận  trước môt khoản kinh phí là 2/3 trong tổng  số kinh phí để thực hiện  công việc. Mãi đến năm 1914 vụ kiện này mới  được giải quyết, Ruffier  buộc phải hoàn lại toàn bộ số tiền đã lĩnh. Tòa  nhà được khánh thành  vào năm 1909 với sự tham dự của viên toàn quyền  Ðông Dương nhân kỷ niệm  50 năm duy trì chánh quyền thực dân Pháp tại Sài  Gòn (1859-1909).
Với  một vóc dáng nhại theo kiểu lầu  chuông đúc cao có nóc nhọn thường lấy ở  vùng miền Bắc nước Pháp, về sau  xây thêm lầu chuông ở hai bên, cách  kiến trúc kỳ dị này đã có một thời  là đề tài cho các ký giả ngoại quốc  chê cưới là rườm rà, là ăn cắp kiểu  thời kỳ Phục Hưng ở Ý, lai căng  Pháp. Chính giữa mặt tiền là một kiểu  trang trí đắp nổi có hình dáng  một người phụ nữ mạnh khỏe tiêu biểu cho  nước Pháp, một hình đứa bé  đang chế ngự thú dữ, hai bức đắp nổi hai bên  tiêu biểu cho nước Pháp  cầm gương đi chinh phục thuộc địa. Phía trước  dinh là một bãi cỏ rộng  có ghế đá và bồn kèn-nơi ban nhạc của hải quân  Pháp trình diễn cho công  chúng xem. Pháp xem Nam Kỳ là thuộc địa của  mình, và Sài Gòn là khu  vực của người Pháp theo quy chế một xã ở bên  Pháp với một viên xã  trưởng. Ủy ban thị xã (đô thành) do một xã trưởng  Tây đứng đầu, nên khi  xây dinh này xong, người Sài Gòn gọi là dinh Xã  Tây. Thời kỳ thuộc  chính quyền Sài Gòn, một chức Ðô trưởng được đặt ra  để trông coi thành  phố Sài Gòn-chợ Lớn mà trụ sở đặt tại đây, nên dinh  này được đổi tên là  tòa Ðô Chính. Sau ngày giải phóng 30-4-1975 tòa nhà  này được dùng làm  trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
Là  một trong những trụ sở của chính  quyền, tòa nhà này đã chứng kiến  nhiều sự kiện, biến cố lịch sử. Trong  cao trào đấu tranh của mặt trận  Dân chủ 1936-1939, ngày 14-6-1937 đồng  bào thất nghiệp ở Sài Gòn biểu  tình trước dinh Xã Tây đòi công ăn việc  làm. Năm 1942 phong trào sinh  viên đã có tổ chức một cuộc triển lãm lịch  sử dân tộc tại tòa Xã Tây để  cổ súy lòng yêu nước của thanh niên thành  phố.
Trong  những ngày tổng khởi nghĩa và Cách  mạng tháng Tám, không khí trước  dinh Xã Tây cũng hết sức sôi động. Chập  tối ngày 24-8-1945 tại bùng  binh trước dinh Xã Tây, kiến trúc sư Huỳnh  Tấn Phát đã chỉ đạo một toán  lính theo cách mạng dựng lên môt kỳ đài sơn  đỏ cao 10m mang danh sách  các vị trong Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam  Bộ. Sáng 25-8-1945 lá cờ đỏ  sao vàng kiêu hãnh tung bay trên dinh Xã  Tây, đẩy lùi cả một thế kỷ nô  lệ vào dĩ vãng. Quảng trường trước dinh  cũng như đường Bonard (nay là  đường Lê Lợi) thẳng đến chợ Bến Thành tràn  ngập một rừng người, cờ hoa  và biểu ngữ hoan hô ủy ban kháng chiến ra  mắt đồng bào.
Nhưng  không lâu, các khó khăn nghiêm  trọng đã bắt đầu đe dọa chính quyền  cách mạng còn non trẻ. Ngày  10-9-1945, Ủy ban đồng minh sung công dinh  hành chánh của Ủy ban kháng  chiến (Viện bảo tàng Cách Mạng ngày nay) và  buộc Ủy ban Nam Bộ phải dời  về dinh Ðốc Lý. Mặc dù Ủy ban kêu gọi đồng  bào bình tĩnh, ngày nào đồng  bào thành phố cũng kéo đến đông đảo tại  bùng binh trước dinh Ðốc Lý theo  dõi tình hình. Chỉ vài ngày sau, lệnh  tản cư khỏi thành phố được ban  hành. Thế rồi cuộc Nam Bộ kháng chiến  xảy ra đêm 22 rạng 23-9-1945, dinh  Ðốc Lý bị thực dân chiếm đóng. Nhiều  cán bộ và đồng bào yêu nước bị  Pháp bắt đem về đây tra tấn dã man.
Trong  những ngày đầu kháng chiến chống  Pháp, dinh Ðốc Lý là một trong những  địa điểm bị quân và dân Việt Nam  tấn công. Ðặc biệt giữa lúc thực dân  Pháp ráo riết cho một số người Việt  mất gốc đưa ra thuyết phân kỳ đòi  lập Nam Kỳ quốc, lúc 16 giờ 20 ngày  25-2-1946 một nhóm 70 người Pháp  tiến bộ (thuộc Ðảng Xã hội Pháp và nhóm  nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Sài  Gòn) đã họp tại dinh Ðốc Lý, ra một  quyết nghị đòi chính phủ Pháp phải  thừa nhận nền độc lập của nước Việt  Nam, thừa nhận chính phủ hiện thời  của cụ Hồ Chí Minh do cuộc tổng tuyển  cử bầu lên và đòi ngưng chiến tức  khắc.
Năm 1950, khu vực trước dinh  Xã Tây lại  sôi động với nhiều cuộc đấu tranh mạnh mẽ của đồng bào thành  phố: cuộc  đấu tranh lịch sử ngày 9-1 rồi cuộc tổng bãi công bãi thị,  tuần hành của  nhân dân thành phố ngày 14-1-1950 trên các đường phố  chính dẫn đến Bạch  Ðằng rồi dồn lại trước dinh Xã Tây.
Trong  những ngày toàn quốc chống Mỹ,  ngày 19-3-1950, sau cuộc mít tinh lên  án can thiệp Mỹ ở trường Tôn Thọ  Tường, nửa triệu nhân dân thành phố đã  tỏa đi chiếm lĩnh cả khu vực  trung tâm thành phố từ chợ Bến Thành,  dinh Ðốc Lý đến Bến Bạch Ðằng.  Trước dinh Ðốc Lý, tên thiếu tá Perier  hỗn xược từ trong xe thò tay ra  giật cờ đỏ sao vàng của đoàn biểu tình,  liền bị đồng bào chặn xe lại,  đốt cháy và kết liễu đời hắn bằng những  nhát giao găm phẫn nộ. Cũng  trong năm này, nhiều cuộc biểu tình nhân  ngày 1-5 được tổ chức trước  dinh Ðốc Lý.
Nếu bạn ghé thăm thành phố Hồ  Chí Minh,  chắc chắn bạn sẽ không thể bỏ  qua Bưu điện Sài Gòn bởi kiến  trúc đẹp và  sang trọng của nó. Cho đến  ngày nay, bưu điện Sài Gòn vẫn  còn được bảo  quản tốt và giữ đúng chức  năng bưu điện – một trong những  nỗ lực đáng  khen ngợi của chính quyền  thành phố. Người thiết kế Bưu  điện Sài Gòn là  một người rất nổi tiếng –  kiến trúc sư Gustave Eiffel,  người đã tổ  chức thiết kế tháp Eiffel,  tượng nữ thần Tự do, cầu Long  Biên (Hà Nội),  cầu Trường Tiền (Huế).
Ngay  sau khi đánh thành Gia Định, chiếm  được vùng đất Sài Gòn, Pháp đã   thiết lập hệ thống thông tin liên lạc.  Ngày 11.11.1860, “Sở dây thép”   Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được  thành lập. Ông Phạm Văn Trung là   người Việt Nam đầu tiên làm giám đốc  Bưu điện An Nam tại Sài Gòn. Ngày   13.1.1863, Sở dây thép Sài Gòn được  chính thức khánh thành và phát  hành  “con cò” (người Sài Gòn xưa hay gọi  con tem là con cò) đẩu tiên.  Năm  1864, dân chúng Sài Gòn bắt đầu gởi  thơ qua nhà “dây thép” (hệ  thống bưu  điện).
Kiến trúc bên trong toà nhà Bưu điện
Toà nhà Bưu điện Sài Gòn là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng của thành phố, có nhiều đặc trưng của phong cách kiến trúc châu Âu và châu Á quyện vào nhau. Tòa nhà tọa lạc bên hông Vương cung Thánh đường (Nhà thờ Ðức Bà) ở quảng trường Công Xã Paris. Nhà Bưu điện được xây dựng xong, trở thành một loại hình dịch vụ lạ và gây ấn tượng rất mạnh với dân chúng.
Vẻ đẹp độc đáo của toà nhà bưu điện thành phố càng được tôn lên vì trước mặt nó có một công trình lộng lẫy là Nhà thờ Đức Bà với tháp chuông cao vút. Từ đó đến nay, tòa nhà này luôn là trung tâm bưu điện của thành phố.
Tòa nhà nổi bật với sự bố cục cân đối của các hạng mục công trình mang tính thẩm mỹ cao. Các chi tiết cân đối, chia đều ra hai bên, đối xứng nhau qua một “trục” trung tâm. Mặt tiền có kết cấu hình khối, với vòm cung phía trên các cửa. Hệ thống cột, trụ chính, phụ, mái hiên đều có kết cấu hình khối vuông. Trên mỗi đầu trụ, cột được chạm khắc hoa văn, phù điều công phu, tỉ mỉ. Ở mặt tiền tòa nhà có hệ thống đường viền, đường chỉ là những chuỗi hoa văn chạy ngang, tạo nên vẻ đẹp, sự cân đối và làm cho tòa nhà có vẻ như không cao lắm.
Kiến trúc mái vòm rất độc đáo
Với  thiết kế độc  đáo từ trong đến ngoài  như vậy, tòa nhà Bưu điện Sài Gòn  có thể xem là  một công trình xây  dựng có phong cách độc đáo về kiến  trúc, màu sắc của  Sài Gòn lúc bấy  giờ. Trên vòm mái trong tiền sảnh  của toà nhà có hai bản  đồ lịch sử:  “Saigon et ses environs 1892” và  “Lignes télegraphiques du  Sud Vietnam  et du Cambodge 1936”.         
Ngay sau khi  chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho  lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ  Thiên Chúa giáo trong đoàn  quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được  lập ở đường số 5 (nay là Ngô  Ðức Kế). Ðây là một ngôi chùa của người  Việt. Vì chiến cuộc, vì quân  xâm lăng đến trú đóng, người Việt đã bỏ  chạy và cố đạo Lefebvre đã biến  ngôi chùa này thành nhà thờ.
Nhà  thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên Pháp đã  lập ngôi nhà thờ thứ hai bên bờ  “Kinh Lớn” (hay kinh Charner, ở vị trí  sau này là Tòa án Nhân dân quận  1). Cố đạo Lefebvre đã đặt viên đá đầu  tiên xây dựng ngôi nhà thờ này  vào ngày 28-3-1863. Nhà thờ xây cất bằng  gỗ, hoàn thành năm 1865. Nhưng  khoảng 12 năm sau ngôi nhà thờ gỗ này bị  hư hại nhiều vì mối mọt, các  buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết  của “dinh Thống Ðốc” cũ nằm  ở vị trí trường sư phạm ngày nay, cho đến  khi nhà thờ lớn xây xong.
Ngoài  mục tiêu có chỗ thờ phượng, hành  lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ  lớn cũng nằm trong mục đích phô  trương Ðạo Thiên Chúa và sự vĩ đại của  nền văn minh Pháp trước người dân  thuộc địa.
Thống  đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một  kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ  mới. Nhiều kiến trúc sư đã đưa đồ án  đến tham dự, trong đó hai đồ án  của Fabre và Bourard là được sự đặc biệt  lưu ý. Cuối cùng đồ án của  Bourard đã được chọn. Về địa điểm xây cất có  3 nơi được đề nghị:
- Trên nền trường thi cũ (nằm ở góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp ngày nay).
- Ở khu kinh lớn tức đường Nguyễn Huệ ngày nay.
- Vị trí hiện nay.
- Ở khu kinh lớn tức đường Nguyễn Huệ ngày nay.
- Vị trí hiện nay.
Ngày  7-10-1877 cố đạo Colombert đặt viên  đá đầu tiên xây nhà thờ. Việc xây  cất được giao cho Bourard trông coi.  Ngày 11-4-1880 lễ ban phước và  khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức  trọng thể với sự có mặt của  Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hai  ngày này được khắc trên các  bảng cẩm thạch gắn trong hành lang  (transept) của nhà thờ.
Móng của nhà thờ thiết kế đặc  biệt, chịu  được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ  nằm bên trên.  Chiều dài nhà thờ dài 93m, ngang 36m60, cao 21m. Gạch xây  được chở từ  Marseille đến, kiếng màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres  (Pháp) sản  xuất. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào  hoặc bờ  tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Ðịnh  lúc ấy và  bây giờ.
Mười bốn năm  sau, năm 1894, người ta xây  thêm hai nóc trên tháp chuông. Như thế  chiều cao của nhà thờ lên đến 57  mét. Tháp có 6 chuông nặng tổng cộng  25.850kg lớn nhất Viễn Ðông thời  đó, âm thanh phát ra là Sol, La, Si,  Do, Ré, Mi. Phí tổn xây cất nhà thờ  lên đến 2.500.000 francs. Vì kiến  trúc theo kiểu mẫu Notre Dame de  Paris, cho nên 2 gác chuông cũng cao  ngang tầm nóc nhà thờ, bên trong có  treo 6 quả chuông, trọng lượng  24.000 kg. Lầu chuông bên Nam (từ công  viên có tượng đức Mẹ, nhìn vào  là lầu chuông bên tay phải), được treo  quả chuông lớn nhất và 3 quả  chuông nhỏ hơn, lầu chuông bên Nữ (nằm bên  trái, nhìn từ công viên vào)  treo hai quả chuông nữa. Năm 1920 xây thêm  hai tháp từ hai gác chuông  trở lên, cao 36m, mỗi nóc có đính 1 cây thánh  giá cao 3m50, ngang 2m,  nặng 600kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên  đỉnh thánh giá là 60m50.
Năm  1962, Tòa thánh Vatican đã cho phép  làm lễ “xức dầu” nâng nhà thờ lên  hàng Vương Cung Thánh Ðường  (Basllique). Trên vườn hoa trước nhà thờ,  năm 1903, người Pháp cho dựng  tượng đồng Pigneau de Béhaine dẫn Hoàng  tử Cảnh (con của Gia Long) để ca  ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”,  “khai hóa” cho Việt Nam. Năm  1945, nền cai trị của Pháp ở Việt Nam sụp  đổ, tượng này bị phá bỏ.
Năm 1959,  tượng Ðức Mẹ tay nâng quả cầu  tượng trưng trái đất, trên có thập tự  giác được dựng lên trên nền đế cũ.  Tượng cao 4,6m, nặng 5,8 tấn, bằng  cẩm thạch trằng, là tác phẩm của một  nghệ sĩ Ý.
Giữa  hai gác chuông còn có chiếc đồng hồ  hiệu R.A với 1 bộ máy nặng trên  1.000 kg, gắn trong khung sắt, chiều  ngang 2m, cao 1m, đặt nằm trên bệ  gạch; mặt kim đồng hồ hướng ra đường  Catina (nay là đường đồng Khởi).  Máy đồng hồ trông đơn giản, thô sơ  nhưng chạy bền và đúng giờ, đổ  chuông báo giờ rất chính xác. Ðồng hồ này  chào đời từ 1877, đến nay đã  được 120 tuổi.
Sau 3 năm xây dựng,  nhà thờ khánh thành  vào dịp lễ Phục sinh ngày 11.4.1880. Ðiều đặc biệt  là toàn bộ vật liệu  xây dựng từ xi măng, sắt, thép, gạch, ngói đinh ốc,  và cả 6 quả chuông  đều được chở từ bên Pháp sang. Hiện nay, trên bệ  phía trên, bên trong  cửa ra vào nhà thờ, vẫn còn hàng chữ 1877-1880 –  J. Bourard (ngày khởi  công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư).  Từ đó, nhà thờ Sài Gòn  có tên gọi là nhà thờ Nhà nước.
Sau  năm 1962, Giáo hội Việt Nam đề nghị  Tòa thánh Vatican, phong tước hiệu  Vương Cung Thánh đường cho nhà thờ  Sài Gòn. Ðề nghị ấy được chuẩn y.  Từ đó Nhà thờ Sài Gòn mang tước hiệu  Vương Cung Thánh Ðường.
Vào  những lễ Phục sinh, Giáng sinh, lễ  Chư thánh… 6 quả chuông của Nhà thờ  Ðức Bà cùng đổ một lượt, âm thanh  ngân vang trên 10 cây số đường chim  bay. Tiếng ngân của 6 quả chuông hòa  tạo ra thanh âm sắc lanh lảnh,  nhưng êm dịu và rộn rã như tiếng reo vui  của một đám đông từ xa vọng  lại. Tiếng ngân đặc biệt của chuông Nhà thờ  đức Bà không thể nào lẫn  với chuông các nhà thờ khác.
Hàng  năm, vào đêm Noel, hàng trăm nghìn  đồng bào và nam nữ thanh niên Thiên  Chúa giáo hội tụ về đây xem lễ, các  quảng trường chung quanh nhà thờ  đều bị tràn ngập.
Sau  khi đánh chiếm Gia Định, thực dân  Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở  ngay trên nền đất mà nay là  trường Trung học Ngân Hàng 3. Ngôi chợ này  bị cháy năm 1870, nhưng đã  được trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng  chợ có con kinh rộng chạy đến  trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy  ban Nhân dân thành phố. Đến năm  1887-1888 thì con kinh này được lấp  lại, làm cho khu vực Võ Di Nguy, Tôn  Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn.  Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường  kinh lấp. Ngôi chợ Bến Thành được  chuyển đến vị trí ngày nay. Nhà lồng  chợ được khởi công xây cất trên  vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi  là ao Boresse. Thế là chợ Bến  Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn Chợ Bến  Thành mới được gọi là Chợ Mới  Sài Gòn. Ngôi chợ này được khởi công xây  cất từ khoảng năm 1912 và  khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh  thành có khoảng 100.000  người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc  lễ diễn ra trong ba  ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông,  xe hoa. Hai con đường  bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò  miền Đông và miền Tây.  Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng  là một trung tâm  thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của thành phố  Sài Gòn và các  tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành một chợ lớn, nơi tập  trung những  mặt hàng quí hiếm của trong nước và nước ngoài.
Sau  ngày giải phóng, năm 1975, chợ Bến  thành được sắp xếp và cải tạo lại  một cách gọn gàng và ngăn nắp hơn.  Trong chợ Bến Thành ngày nay chúng  ta có thể tìm thấy đủ loại hàng hóa,  từ thực phẩm vật dụng hàng ngày,  hàng nhập cảng cũng như hàng nội hóa,  từ những mặt hàng thông thường  đến những hàng xa xỉ phẩm. Tính từ năm  1914 chợ Bến Thành đã trải qua  bao thăng trầm và chứng nhân của bao biến  cố và sự kiện lịch sử của hơn  nửa thế kỷ đấu tranh chống ngoại bang  giành độc lập. Năm 1944 chợ bị  máy bay đồng minh ném bom làm hư hại nặng  nề ; năm 1950 được trùng tu  lại; năm 1951 ngày 9/11, hàng vạn học sinh,  sinh viên biểu tình đã đốt  phá chợ bày tỏ lòng căm phẫn đối với thực  dân Pháp và tay sai ; đầu  thập niên 70 chính quyền Sài Gòn có ý định phá  dỡ chợ Bến Thành để xây  mới hoàn toàn theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh  Kim Mảng.
Chợ Bến Thành ngày nay lại  được đầu tư  nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng  là một trung  tâm buôn bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hoá chợ Bến  Thành rất phong  phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt  là sản vật ở vùng  đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt hàng công nghệ  hiện đại trên thế  giới.         
Vị  trí: Mười tám Thôn vườn trầu  thuộc  xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, ngoại  vi Tp. Hồ Chí Minh, cách trung  tâm  thành phố chưa đầy 10km.
Ðặc  điểm: Bà con sinh sống lâu đời ở đây coi trồng trầu là một nghề  ăn nên  làm ra. Do vậy mà, vườn nhà nọ nối với vườn nhà kia bằng một màu  xanh  bất tận của cây trầu.Phù Lưu Viên, theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức nguyên là một vùng hiểm yếu, có nhiều rừng rậm, mãnh hổ thường bắt người, nên tục ngữ có câu “dữ như cọp Vườn Trầu”. Tuy thế, ở chỗ thị tứ thì dân cư đông đúc, có nhiều vườn trầu. Mỗi lúc đi bán trầu, các nhà vườn thường rủ nhau cùng nhập toán lên đến ba, bốn mươi người gồng gánh đem trầu về bán tận Sài Gòn, Bến Nghé.
Mười Tám Thôn Vườn Trầu còn nổi tiếng với nghề nuôi  ngựa                      đua:
Trải xem Thập Bát Phù Viên,
Một nơi Bà Điểm khuôn viên mỹ miều.
Ngựa hay mua sắm quá nhiều,
Mỗi kỳ đua ngựa thảy đều có ăn.
Hai mươi hai hạt xa gần,
Tiếng ngựa Bà Điểm ai bằng đặng đâu
Một nơi Bà Điểm khuôn viên mỹ miều.
Ngựa hay mua sắm quá nhiều,
Mỗi kỳ đua ngựa thảy đều có ăn.
Hai mươi hai hạt xa gần,
Tiếng ngựa Bà Điểm ai bằng đặng đâu
Và nghề nuôi gà đá:
Tiếng đồn gà đá chưn trơn
Thời gà Bà Điểm lắm cơm ăn tiền.
Thời gà Bà Điểm lắm cơm ăn tiền.
Mười  Tám Thôn Vườn Trầu là quê hương và  đồng thời  là một                       trong các địa bàn hoạt động của  nhà cách mạng Nguyễn  An Ninh,                       người đã lập nên tờ  báo “La Cloche fêlée”, “La                       Lutte” công kích giới  quan lại thối nát và lên án  thực                       dân Pháp.
Điểm  nổi bật nhất của Mười Tám Thôn Vườn  Trầu là  tinh thần                       đoàn kết chiến đấu, là tính  cách mạng rất sớm ngay  từ khi                       đất nước mới sa vào  vòng lệ thuộc. Phản ứng của nhân  dân  Mười                      Tám Thôn  Vườn Trầu trước cảnh áp bức là:
Mười tám thôn ruột đau như chỉ thắt
Dân Hóc Môn tợ muối xát lòng
Dân Hóc Môn tợ muối xát lòng
Mùa  xuân năm 1885, nông dân Hóc Môn và  Đức Hòa,  dưới sự chỉ                       huy của hai ông Phan Công Hớn  (người Bà Điểm) và ông  Nguyễn                       Văn Quá (người Đức  Hòa) đã đứng lên khởi nghĩa. Trấn   quận                      Hóc Môn lúc  bấy giờ là đốc phủ Trần Tử Ca,  nổi tiếng  là tên                       tay sát khát máu và đắc lực của  thực dân Pháp:
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
Eép lấy dầu, nạp thiểu thâu đa
(vè Quản Hớn)
Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
Eép lấy dầu, nạp thiểu thâu đa
(vè Quản Hớn)
Đêm 30 rạng mồng một Tết Ất Dậu (1885), nhân dân  Hóc Môn                      nổi lên chiếm Hóc Môn:
Gậy tầm vông, võ ống vai mang,
Qua giờ dậu đoạt nơi yểm lộ.
Qua giờ dậu đoạt nơi yểm lộ.
Dân  Hóc Môn bắn chết Đốc phủ Ca, bêu đầu  lên cột  đèn trước                       chợ rồi kéo rốc về Sài Gòn,  nhưng chỉ đến Bình Hòa  thì đụng                       phải quân Pháp.  Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu.   Nghĩa quân                      thua  trận.
Tinh thần của Mười Tám Thôn Vườn Trầu không ngừng  lại ở đấy                      mà tiếp tục vào các giai đoạn sau.
Mười  Tám Thôn Vườn Trầu với những gia  đình cơ sở  cách mạng                       trung kiên chí cốt đã là địa  bàn hoạt động của Trung  Ương                       Đảng Cộng Sản Việt  Nam ngay từ thập kỷ đầu của Đảng.   Tại đây                      đã có  mặt các nhà lãnh đạo cách mạng như  Nguyễn Thị  Minh Khai,                       Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần…  cũng tại đây đã diễn ra  nhiều                       cuộc họp quan trọng  và quyết định của Trung Ương  Đảng.  Hai                      hội nghị  Trung Ương lần thứ tư vào năm 1937,  lần thứ  năm vào                       năm 1938 đều họp tại ấp Tiền Lân.  Đặc biệt hội nghị  Trung                       Ương Đảng lần thứ sáu vào  năm 1939 họp tại ấp Tây  Bắc Lân,                       các nhà cách mạng  Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan  Đăng  Lưu, Võ                      Văn Tần  tham dự. Hội nghị đã giải  quyết những vấn đề  chiến                       lược nhằm đánh đổ chính  quyền đế quốc và tay sai  bằng cách                       vận dụng thời  cơ từ cuộc chiến tranh thế giới để  giành chính                        quyền.
Cuộc Khởi Nghĩa Nam Kỳ bùng  nổ đầu tiên  tại Hóc Môn  vào rạng                      sáng 23 tháng 11  năm 1940.  Người dân Mười Tám Thôn  Vườn Trầu                      tự  vũ trang bằng  gậy gộc, giáo mác đánh vào các cơ  quan hành                       chính  của Pháp. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu.  Các nhà                        lãnh đạo chủ chốt Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn   Cừ, Phan                       Đăng Lưu, Võ Văn Tần bị bắt và bị xử bắn  ngay tại  trên  mảnh                      đất Hóc Môn. Dù bị đàn áp,  người dân Mười Tám  Thôn  Vườn Trầu                      vẫn kiên cường  tiếp tục chiến đấu,  góp công to lớn  cho sự                      nghiệp  giải phóng và thống  nhất của đất nước.
Ngày  nay Mười Tám Thôn Vườn Trầu đang nỗ  lực xây  dựng kinh                       tế, trở thành vùng trọng điểm  chuyên canh rau của  Thành phố                       Hồ Chí Minh. Đặc  biệt trong thời gian gần đây Hóc  Môn  phát                      triển  nhanh đàn bò sữa và cũng đang trở  thành vùng  trọng điểm                       vành đai bò sữa của thành  phố. Một loại hình hợp tác  mới nhằm                       giúp nhau làm  ăn, đóng góp cho sự phát triển của địa   phương                       cũng đang hình thành tại đây. Đó là sự ra  đời của  các nhóm                       làm kinh tế gia đình – khuyến  nông có mục đích hỗ  tương giúp                       đỡ để áp dụng các  tiến bộ kỹ thuật vào nông  nghiệp,  chăn nuôi,                      sưu  tập vườn cây…
Danh xưng Mười Tám Thôn Vườn Trầu mãi mãi là ấn  tượng về                      một địa danh giàu tính truyền thống và cách mạng.
Mười  tám Thôn vườn trầu thuộc địa phận  huyện Hóc  Môn, ngoại                       vi Sài gòn , cách trung tâm  thành phố chưa đầy 10  km. Từ xa                       xưa, dân vùng này  đã nổi tiếng là khẳng khái, trọng   nghĩa                      khinh tài,  giàu lòng tương thân tương ái.  Vua tôi  nhà Nguyễn                       cũng phải mặc nhiên chấp nhận  lẽ thời của những  người dân                       “cứng đầu cứng cổ” ở  nơi đây.
Thời ấy Mười tám Thôn vườn  trầu lắm thứ  dữ, cảnh  trí hoang                      sơn, cỏ cây rậm  rạp. Nhắc tới  địa danh này, nhiều cụ  cao niên                      cho  biết ngày xưa ở  đây nhiều hổ lắm, “ông ba mươi”                       đi trên đường làng  giữa ban ngày, còn ban đêm thì  thả sức                       tung hoành  quấy phá, bởi vậy mới có câu truyền miệng  “dữ                       như  hổ Mười tám Thôn vườn trầu”. Bà con sinh sống  lâu                        đời ở đây coi trồng trầu là một nghề ăn nên làm  ra.  Do vậy                       mà, vườn nhà nọ nối với vườn nhà kia  bằng một màu  xanh bất                       tận của cây trầu. Nghề nuôi  ngựa, nuôi gà chọi cũng   là một                      trong những nghề  nổi tiếng ở đây. Buổi đầu  Pháp xâm  chiếm                      Nam Bộ,  giữa tết năm ất Dậu (1885),  nhân dân Mười  tám Thôn                       vườn trầu đã nổi dậy, khởi  nghĩa giết đốc phủ Ca,  một tên                       tay sai gian ác,  rồi kéo quân vào Sài Gòn…..
Năm  1930 khi Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ra  đời thì  Mười tám                       Thôn vườn trầu được chọn làm hậu  cứ, nơi nuôi dưỡng  các cán                       bộ lãnh đạo của Ðảng,  nơi cất dấu tài liệu bí mật  của  Ðảng.                      Trong khoảng  thời gian năm 1930 đến 1940,  bà con  Mười tám                      Thôn  vườn trầu đã bảo vệ, che  dấu, nuôi nấng nhiều  chiến sĩ                       cộng sản, nhiều  người con ưu tú của giai cấp công  nhân, của                       dân  tộc Việt Nam: Nguyễn Văn Cừ, Phan Ðăng Lưu, Hà  Huy  Tập,                       Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Quốc  Việt,  Lê Duẩn……Tin                       vào dân, dựa vào dân, Trung  ương Ðảng đã tổ chức ở   đây ba                      cuộc họp quan trọng.  Tháng 3 năm 1937  Trung ương  Ðảng họp                      hội nghị mở  rộng kiểm điểm  tình hình, bàn chủ trương  biện                      pháp  cụ thể, nhất  là công tác mặt trận và công tác  đấu tranh                       hợp  pháp để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại ấp  Tiến Lâm.                        Cũng tại ấp này, tháng 3 năm 1938, Trung ương Ðảng  họp  hội                       nghị toàn thể kiểm điểm ưu khuyết điểm về các  mặt  công  tác:                      xây dựng Ðảng, tổ chức quần chúng,  xây dựng  mặt  trận. Và đề                      ra những chủ trương cụ  thể nhằm  phát huy thắng lợi  đã giành                      được, đưa  phong trào  đấu tranh dân chủ lên một bước  nữa. Từ                       ngày 6 đến  ngày 8 tháng 11 năm 1939, hội nghị Trung  ương Ðảng                        lần thứ 6 khai mạc tại ấp Tây Bắc Lân – Mười tám  Thôn vườn                        trầu với sự tham gia của các đồng chí Nguyễn Văn Cừ   (Tổng                       bí thư), Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Võ Văn  Tần…..  Hội  nghị                      đã bàn toàn diện các chủ trương  của Ðảng  trong tình  hình mới.                      Ðêm 23 tháng 11 năm  1940,  khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ.  Cả một                      vùng rộng  lớn  nông thôn Nam Bộ rung chuyển trước sức  nổi dậy,                        tiến công của quần chúng cách mạng. Ngày đó, bà con  Mười tám                        Thôn vườn trầu tự vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác  đánh vào                        các cơ quan hành chính của thực dân Pháp. Do điều    kiện chưa                      chín muồi, cuộc khởi nghĩa này đã thất   bại. Thực dân  Pháp                      dựng trường bắn ngay tại thị   trấn Hóc Môn – chỗ ngã  ba Giồng.                      Tại đây, những   người con ưu tú của dân tộc, những  cán bộ xuất                      sắc   của Ðảng: Nguyễn văn Cừ, Võ Văn Tần,. Phan Ðăng  Lưu, Nguyễn                        Thị Minh Khai…….. đã ngã xuống.
Ngày  nay Hóc Môn vẫn còn những di tích  lịch sử ghi  dấu những                       giai đoạn lịch sử anh hùng  của nhân dân Hóc Môn cùng  nhân                       dân Nam Bộ đấu  tranh anh dũng kiên cường với thực  dân  Pháp,                      đế  quốc Mỹ dành độc lập. Nhưng “Bia căm  thù” ở Cầu                       Xáng, khu di tích Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở  Ngã ba Giồng,  bia kỷ                       niệm liệt sĩ Nguyễn Thị Minh  Khai… Cùng với địa  danh 18                       Thôn vườn trầu Bà  Ðiểm, Hóc Môn mãi mãi vẫn còn lưu  danh  khi                      nói  đến Hóc Môn. Cùng với những thành tích vẻ  vang  trong 2                       cuộc kháng chiến, huyện Hóc Môn xứng  đáng được Nhà  nước trao                       tặng danh hiệu Anh hùng,  trong đó có 3 xã là 3 đơn   vị anh                      hùng là xã Xuân  Thới Thượng, Tân Xuân và Bà  điểm.Trường Trung Học Phổ Thông Lê Quý Đôn là  một trường phổ thông  trung  học công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây  là trường trung học  xưa nhất  Sài Gòn, được thành lập năm 1874, với tên  gọi ban đầu Collège   Chasseloup-Laubat. 
Sau khi chiếm được toàn cõi Nam Kỳ, ngày 14 tháng 1 năm 1874, Thống đốc Nam Kỳ, Chuẩn Đô đốc (Contre-amiral) Pháp Jules François Emile Krantz (1821-1914) đã ký nghị định thành lập một ngôi trường trung học tại Sài Gòn nhằm phục vụ nhu cầu đào tạo con em những thực dân người Pháp tại Sài Gòn. Chương trình giảng dạy theo chính quốc, dạy từ tiểu học đến tú tài (chương trình Pháp). Trường sở được khởi công xây dựng ngay vào năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877.
Lúc  đầu trường có tên Collège Indigène  (Trung học bản xứ), không lâu sau   được đổi tên thành Collège Chasseloup  Laubat, theo tên Bộ trưởng Pháp   quốc hải ngoại (còn gọi là Bộ Thuộc  địa) lúc bấy giờ là François  Marquis  de Chasseloup-Laubat (1754-1833).
Ban  đầu, trường chỉ nhận các học sinh  người Pháp, đến đầu thế kỷ 20 thì   mở rộng để nhận thêm học sinh người  Việt, tuy nhiên phải có quốc tịch   Pháp. Do đó, trường phân biệt thành 2  khu:
•Khu dành riêng học trò người Pháp, gọi là Quartier Européen
•Khu dành cho học trò Việt có học thêm giờ tiếng Việt, gọi là Quartier indigène (khu bản xứ)
Cả 2 khu này đều học chung chương trình Pháp và thi tú tài Pháp.
•Khu dành cho học trò Việt có học thêm giờ tiếng Việt, gọi là Quartier indigène (khu bản xứ)
Cả 2 khu này đều học chung chương trình Pháp và thi tú tài Pháp.
Tuy  là một khu trường dành cho những  người có quốc tịch Pháp (do đó,   trường còn có tên là trường Bổn quốc  Sài Gòn, khác với các trường bản  xứ  khác), vào năm 1926, những học sinh  người Việt đã viết lên bảng 4  chữ  A.B.L.F, viết tắt câu “A bas les  Français” (nghĩa là “Đả đảo thực  dân  Pháp”) trong một lần bãi khoá để  tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Ngày  28 tháng 11 năm 1927, Toàn quyền  Đông Dương G. Gal ra một nghị định   thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu  tạm thời của Collège Chasseloup   Laubat dành cho học sinh người bản xứ  lấy tên là Collège de  Cochinchine.  Phân hiệu này được đặt dưới sự điều  hành của Ban Giám đốc  Trường  Chasseloup Laubat và môt giáo sư phụ trách  tổng giám thị của  phân hiệu.
Ngày 11 tháng 8 năm 1928,  Toàn quyền  Đông Dương tạm quyền René Robert ký  nghị định số 3116 gồm 6  điều, thành  lập tại Chợ Quán, kể từ kỳ tựu  trường 1928-1929 một  trường Cao đẳng  Tiểu học Pháp bản xứ, chuyển giao  phân hiệu tạm thời  với trên 200 học  sinh của Collège Chasseloup Laubat  nói trên vào  trường này, có sát nhập  một hệ Trung học Đệ nhị cấp bản xứ  (Lycée) để  thành lập một trường  mới, về sau có tên là Lycée Petrus  Trương Vĩnh  Ký, hay trường Petrus  Ký.
Sau năm  1954, với dụng ý tránh gợi nhớ  thời thuộc địa, trường được đổi  tên là  trường Jean Jacques Rousseau,  dạy chủ yếu là học sinh người Việt,   nhưng vẫn do người Pháp quản lý.  Đến 1967, trường được trả lại cho Việt   Nam và trở thành Trung tâm giáo  dục Lê Quý Đôn. Từ 1975, chính quyền   Việt Nam vẫn giữ tên gọi Lê Quý  Đôn cho ngôi trường này.
Trải qua hơn một thế kỷ, kiến trúc ban đầu của ngôi trường vẫn còn gân như nguyên vẹn, gồm bốn dãy nhà cao hai tầng ghép lại có hình chữ “khẩu”. Với lối kiến trúc mang đậm chất Tây Âu, trường sở được xem như một kiến trúc cổ có lịch sử văn hóa lâu đời, vẫn giữ gìn được nét truyền thống cổ kính mặc dù đã được trùng tu, sửa chữa. Dựa trên nền kiến trúc cổ, hiện tại trường sở đã xây thêm một số công trình phụ gồm nhà luyện tập thể thao và 10 phòng học kiểu mới. Tính truyền thống và hiện đại được nhà trường chú ý ngay trong khâu thiết kế và trang trí, vì thế ngôi trường Lê Quý Đôn vẫn mang đậm nét cổ kính
Thời  Pháp trường nổi tiếng với nhiều  giáo viên và học sinh giỏi được lưu   danh. Ngàu nay, trường là một trong  những trường đầu tiên thực hiện mô   hình chất lượng cao tại thành phố  HCM. Tuy bước đầu gặp nhiều khó  khăn,  nhưng trường đang từng bước khẳng  định vị trí trên toàn thành  phố. Năm  2009 trường đã hoàn tất lứa đầu  tiên của mô hình mới vơí tỉ  lệ tốt  nghiệp 100% và chính thức trở thành  trường Công lập tự chủ tài  chính.
Hà Nội có 36 phố phường, còn  Sài Gòn có  gì cho ra phố             nhỉ? Chạy xe dạo chơi với bạn bè  chiều chủ  nhật, lang thang  đường Nguyễn            Trãi ngắm phố thời  trang rực  rỡ màu sắc, chọn một bộ cánh thật  xinh,            ghé qua  phố Nguyễn  Đình Chiểu tậu một đôi giày, rồi dạo phố đồ  cổ Nguyễn             Công  Kiều và đi uống cà phê ở Hồ Con rùa.
Từ phố cà phê đến phố  thời trang
Nhắc đến Sài Gòn  không thể không nhắc  đến  phố thời              trang bởi Sài Thành là  nơi phát kiến những bộ  trang phục đạt  giải              cao trong  những cuộc thi quốc tế, là  nơi người dân ǎn mặc  những bộ               quần áo đắt tiền cả hàng  chục triệu đồng, sang trọng, model  nhất và               cũng là nơi  người dân có thể ǎn mặc những mốt không giống   ai! Sài              Gòn  có nhiều con đường bán áo quần thời trang như:  Cách Mạng  Tháng               8, Trần Huy Liệu, Trần Quang Diệu, Lê  Vǎn Sĩ, Nguyễn Đình  Chiểu,  Hai              Bà Trưng nhưng có lẽ đáng  nể và đáng kể nhất là phố  thời  trang trên              đường Nguyễn  Trãi (Quận 1). Gần 200 cửa  hiệu thời trang từ  hàng hiệu               nước ngoài giá mấy triệu đồng  một cái áo cho đến hàng hiệu  Việt Nam               vài trǎm ngàn đồng  và cửa hàng bán đồ bình dân nữa, nhưng có   lẽ những              cửa  hàng này hơi bị lép vế bởi sự bắt mắt và  trang trí ấn  tượng của               những cửa hiệu nổi tiếng trong một  mặt bằng rộng và tiếng  nhạc  xập              xình.
Phố cổ
Muốn  chọn một món hàng cổ hay giả cổ để   chưng trong              nhà hay  tặng cho bạn bè, mời bạn đến phố đồ cổ  Nguyễn Công  Kiều (quận               1). Đường Nguyễn Công Kiều chỉ dài  khoảng 200m với khoảng 40  hộ  có              những gian hàng bán đồ cổ  và giả cổ. Đồ cổ hay không  thì chỉ  có những              người trong  nghề mới biết được nhưng  điều lý thú là nếu vào  đây hình               như bạn lạc vào thế giới  cổ xưa. Cái gì cũng cũ cũ, mờ mờ,  mang đậm               dấu ấn thời  gian. ở gian hàng đèn bạn có thể chiêm ngưỡng   hàng trǎm               loại đèn kiểu dáng phong phú và lạ mắt. Có chiếc  gần 100 nǎm  (theo               lời người bán), những chiếc đèn của Mỹ  hay Pháp hồi xưa cũng   có mặt              ở đây. Còn ở gian hàng đồng  hồ, bạn sẽ càng ngạc  nhiên thú  vị khi              nhìn thấy những  chiếc đồng hồ quả lắc  những nǎm 1920, 1930  bị gỉ sét              cũng  được bày bán, mà dĩ  nhiên có nhu cầu mua thì mới có  hàng trưng               bày. Càng đặc  biệt hơn, phố đồ cổ đúng thực là phố khi những  gian               hàng  được bày bán ngay bên lề đường. Người bán trưng bày  các  món hàng               ra tràn lan cho khách lựa chọn, nêu một giá  nhất định, không   kèo nài              giá cả, thích thì khách mua,  không thì thôi. Có  thể nói khi  đến phố              đồ cổ này bạn như  đang đến tham quan  một viện bảo tàng. Bạn  có thể              tìm hiểu  lịch sử qua các  món đồ trưng bày và được minh họa  bởi lời               kể của người  bán hàng. Từ hòn đá xanh hình lưỡi dao ngày xưa  được               cha  ông ta dùng làm dao để sinh hoạt cho đến những bình gốm  cổ…                Đến phố cổ Nguyễn Công Kiều cũng là một cách bạn học về  lịch  sử, và               biết đâu bạn sẽ tậu được trong tay một món đồ  cổ với giá…   hời. Rồi              biết đâu nó là vật quý mai sau…
Và… mênh mang Sài Gòn  phố
Sài  Gòn thênh thang và còn nhiều phố nữa   như phố              cưới đường 3  tháng 2 với một con đường dài rực rỡ  những bộ  váy của              cô  dâu và hàng chục studio chụp ảnh  cưới, phố thuốc bắc trên  đường               Hải Thượng Lãn Ông mà chỉ  cần đi đến đầu phố thôi, nghe mùi   thuốc              bay lên từ những  thang thuốc bắc thơm nồng hương  liệu của  lá, của              cỏ, của  cây thì bao bệnh tật trong người  như bay đi hết, phố  tranh               đường Nguyễn Vǎn Trỗi trưng  bày những sản phẩm mỹ thuật có  giá trị               rất cao. Phố giày  đường Nguyễn Đình Chiểu với những cửa hiệu   giày              thời  trang nổi tiếng của Việt Nam như T & T, Vina  Giày,  Hồng Thạnh,               Hạnh Dung, Hồng Anh… và các cửa hiệu  giày ngoại của ý,  Pháp,  Anh…              phố ảnh trên đường Nguyễn Huệ  với hàng chục minilab  với  trang thiết              bị kỹ thuật về ảnh  tối tân đem lại cho  bạn những tấm ảnh  tuyệt vời              lưu lại kỷ  niệm ngọt ngào.  Rồi thì phố may màn cửa trên  đường Điện               Biên Phủ, phố  trang trí nội thất trên đường Cộng Hòa, phố ẩm  thực               trên  đường Lê Quý Đôn, chỉ cần dạo một vòng trên con đường  nhỏ  này               bạn đã nếm đủ những món đặc trưng của Sài Gòn, phố  photocopy  trên               đường Lý Thái Tổ giá cả rất mềm và tiết  kiệm cho bạn thời   gian, phố              hoa trên đường Cách mạng Tháng  8, gần ngã tư  Bảy Hiền hay  góc đường              Lê Thánh Tôn bên  hông chợ Bến  Thành, phố tràn ngập hoa và  hoa, từ              những đóa  hồng rực rỡ  của xứ Đà Lạt mộng mơ đến cành hoa  tulip của               Hà Lan ánh  lên trong nắng, hoa lyly khoe thắm sắc màu…
Ngày  xuân, dạo phố Sài Gòn, mỗi góc phố,   mỗi con              đường có  những nét đặc trưng riêng và thú vị của  nó. Những  gian hàng               trên mỗi đường phố đang tự tạo cho  mình những chiếc áo mới  xinh đẹp               và tươi tắn hơn. Và hình  như Sài Gòn đang tạo cho mình  những  góc phố              mang tên của  những gian hàng ấy. Bởi Sài  Gòn là nàng công  chúa đỏng               đảnh đang đi tìm nét riêng cho  mình. Thú vị thay chiều Sài  Gòn bát               phố!         
Cách  đây một thập kỷ, Phạm Ngũ Lão là  một  khu dân              cư, sự yên  tĩnh duy nhất vào buổi sáng sớm của  nó bị phá vỡ  bởi những               chuyến xe chở nông dân từ vùng  đồng bằng Cửu Long đến bán  nông sản.               Hai khách sạn duy  nhất của khu phố là Hoàng Tú và Viễn  Đông  cung cấp              chỗ  nghỉ đêm cho những người bán hàng này  với giá 1  đồng/đêm. Ở đây,               khách nước ngoài thường bị từ  chối.
Ngày nay, những khách sạn  này-đã được  đổi  mới và              nâng cấp-cùng với hơn 100 nhà trọ  và khách sạn  mini trong  khu vực              cạnh tranh nhau quyết  liệt trong việc  giảm giá, nâng tiêu  chuẩn để              thu hút  khách vì Việt Nam đã  rất mạnh mẻ trong việc gia nhập  vào Đông               Nam Á như là một  điểm đến của ngành du lịch.
Nếu  có người nào xứng đáng được xem là   người thành              lập Khu  phố Tây Phạm Ngũ Lão, đó chính là Bà  Trần Ngọc An,  hiện trên               năm mươi tuổi. Trong thời chiến  tranh Việt Nam, bà làm trong  Tòa  Đại              sứ và trong những năm  sau cùng của thập kỷ 1970, bà  bán rau  cải và              nước mát từ  một tủ lạnh cũ hiệu Sears.
Khi  Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị   trường năm              1989, bà  bị thuyết phục với ý tưởng Việt Nam  sẽ trở thành  một điểm               đến nổi tiếng và cho là khu phố chỉ  cách trung tâm thương  mại của               thành phố không xa sẽ trở  thành một nơi nghỉ hoàn hảo cho   những khách              du lịch có thu  nhập thấp. Bà thuyết phục khách  sạn Hoàng Tú  cho đặt              một  bàn đăng ký tour ở hành lang.
Khách  hàng đầu tiên của bà là một cặp vợ   chồng người              Hà Lan,  sau đó là khách ba lô Đức, Israeli và  Pháp-ngay cả  có một               cựu chiến binh Mỹ. Bà nói tiếng Anh  và phục vụ rất tốt,  tiếng tốt               lan đi nhanh chóng. Công ty  du lịch của bà An trở thành công   ty du              lịch tư nhận đầu  tiên được Nhà nước cấp phép.
Đối  với những du khách đầu tiên năm  1989,  Việt Nam              không  phải là vùng Riviera của Pháp. Họ cần  phải có giấy  phép đặc               biệt để đi mọi nơi, công an có thể  gõ cửa khách sạn vào ban  đêm để               xem du khách có ở trong  phòng không, và không người Việt  Nam  nào dám              trò chuyện  với người nước ngoài trên đường  phố.
Trong một thời gian dài, Việt  Nam đã  đóng  cửa và              ngày nay Chính quyền đang quan tâm đến  ngành  du lịch-một  ngành thu              hút nhiều nhân lực, tổ chức  nhiều  lớp học đào tạo du lịch  bậc đại              học và là nguồn thu  hút  ngoại tệ chính-một bệ phóng cho sự  phát triển              kinh  tế.  Trong những năm qua ngành này đã có nhiều thay đổi  với những                khu du lịch sang trọng ở các bãi biển Đà Nẵng, Nha Trang và   hàng tá               khách sạn năm sao ở TP HCM và Hà Nội.
(SGN-Theo Los Angeles  Times)
Tham quan Phố Tây
Khu  tây ba lô nằm ở phường Phạm Ngũ Lão  với những dãy phố hẹp dài tít   tắp. Và dường như cái chật hẹp ngột ngạt  này làm nên sự quyến rũ kỳ lạ   đối với du khách. “Bạn có thể sống cả năm  ở đây mà chẳng cần phải đi  đâu  cả” – Rayanam, một anh bạn da đen đã ở  đây cả năm trời từng nói  với tôi  như vậy. Anh đến từ cộng đồng da đen ở  Houston, Mỹ, đến đây để  dễ thở  hơn bằng trợ cấp thất nghiệp. Bạn có  thể dễ dàng bắt gặp Ray  lang thang  la cà quán xá trên khu Bùi Viện – Đề  Thám cả ngày. Và như  đã nói bạn có  thể mua mọi thứ rẻ hơn so với khu  Đồng Khởi rất nhiều.  Ví dụ nhé, một  người bạn của tôi cần mua một cái  nón lưỡi trai, sau  khi bị hét 180  nghìn đồng cho một cái giả Nike, anh  về Bùi Viện và mua  một cái giống y  với giá 25 nghìn.
Để  khẳng định điều này có một cách rất  đơn  giản,              đầu tiên  bạn hãy đến với Phố Tây ở Sài gòn -nơi  dành riêng  cho khách               du lịch ba lô, tiếp theo đó bạn chỉ  cần bỏ chút thời gian  thâm nhập               vào cuộc sống du lịch của  những Tây ba lô có mặt tại đây.  Đã  có nhiều              người đến với  Việt Nam mà trong túi chỉ vẻn  vẹn vài trăm  đôla, cùng              đồng  hành với họ đơn giản chỉ là  một bản photocopy của những  cuốn               sách hướng dẫn du lịch?
Phải  chăng điều kỳ lạ nằm trong những  cuốn  sách ấy?              Xin thưa  ngay rằng những cuốn sách được  photocopy đó chỉ là  những               kiến thức, những hướng dẫn rất  thông thường và bạn có thể  tìm thấy               ở bất cứ cuốn sách nào  khác. Và chẳng có điều kỳ lạ nào cả   bởi trong              đó ngoài  những hướng dẫn thì chỉ có đôi chút  kinh nghiệm  “truyền               tay” của những người đã từng đi du  lịch, nhất là đã từng đến                với Phố Tây.
Phố  Tây, cái tên nghe rất lạ, thế nhưng  đối  với người              dân  Sài Gòn và khách du lịch (những ai từng  đến với TP Hồ  Chí Minh)               thì nó lại chẳng xa lạ gì. Thực ra  Phố Tây chỉ là một con  đường  lớn              mang tên Phạm Ngũ Lão,  Phố Tây chỉ là tên gọi xuất  hiện gần  đây khi              người ta muốn  nói tới con đường này.  Thật chẳng ngoa chút  nào khi              người  ta gọi tên nó như vậy  bởi hầu như tất cả khách du lịch  nước               ngoài khi đến với  thành phố náo nhiệt này đều đặt chân đến  khu phố               này. Tất  cả những điều được coi là “khó tin” đó lại là   chuyện               thường ngày và chẳng đáng kể gì ở Phố Tây. Giống như  những  con phố               bất kỳ dành cho khách du lịch nước ngoài  nào, Phố Tây trở   thành một              địa chỉ hấp dẫn cho khách du  lịch cả trong và  ngoài nước.  Cái hấp              dẫn của Phố Tây là ở  chỗ giá của nó  khá rẻ, điều này chẳng  cần quảng              cáo gì  người ta cũng  biết.
Thực ra đường Phạm Ngũ Lão mới  mở cho  kinh  doanh              du lịch ba lô được gần 10 năm gần đây.  Đó là  những phố và  hẻm bao              quanh ba khách sạn quốc doanh  lớn là  Tự Do 3 và Tự Do 4 cùng  Viễn              Đông, san sát những  hiệu cà  phê đường, cửa hàng lưu niệm,  tour du              lịch và  khách sạn  mini rẻ tiền. Quả thật là rất rẻ! Căn  phòng “đời               mới” ở  khách sạn Tự Do 3 là 4 đô la một đêm, các giường ngủ ở                 những nhà nghỉ gần đó chỉ có 3 đô la cho khách thuê.
Cùng  với dịch vụ nhà nghỉ, các quán ăn  cũng  mọc lên              san sát,  những hiệu ăn này có ba điểm chung  rất dễ nhận thấy  là: trang               trí giống nhau, phục vụ thanh  đạm và đặc biệt là giá rất rẻ.  Ở  bất              cứ một khách sạn hay  nhà nghỉ nào khách du lịch cũng  có thể  đặt hoặc              tham gia  trực tiếp các tour du lịch trong  ngày bằng xe buýt,  giá của               các tour này rẻ đến mức kinh  ngạc, 4 đến 7 đô la cho một  tour đi địa               đạo Củ Chi, Vũng  Tàu, Cao Đài, xa hơn nữa có thể là đồng   bằng sông              Cửu  Long, Nha Trang hoặc ra phía Bắc. Một chuyến  xe buýt đi  từ TP               Hồ Chí Minh ra Hà Nội (1.726 km) với điểm  dừng chân cho phép  tại  Đà              Lạt, Nha Trang, Hội An và Huế  chỉ tốn có 29 USD.
Chỉ  trên con Phố Tây mà có tới bốn hãng   hoạt động              bán quốc  doanh đó là: Lữ hành Kim, Du lịch Bến  Thành,  Fiditourist               và Du lịch Sài Gòn cùng với những hiệu  ăn tư nhân và một số  các nhà               kinh doanh nhỏ hơn khác. Với  khung lợi nhuận thấp những công   ty tour              du lịch kiểu này  phụ thuộc vào số lượng, bởi còn  thiếu nhiều  kinh              nghiệm.
Một  doanh nhân du lịch tiêu một ngày  bằng  một du              lịch ba lô  tiêu một tuần. Thế nhưng công việc  làm ăn của các  nhà “tổ               chức lữ hành” ở Phố Tây là một bằng  chứng khẳng định không  vì               thế mà họ bị giảm mức thu nhập.  Trước đây khách du lịch chủ  yếu  là              người Úc và châu Âu,  ngày nay cả những khách người Mỹ  và  châu Á cũng              rất thích  và bị thu hút bởi dịch vụ du  lịch kiểu này, có lẽ  vì thế               mà Phố Tây vẫn là địa chỉ hấp  dẫn.         
Sau  năm 1945, những bức vách gỗ bị mối  mọt  ăn đã              được thay  thế bằng gạch. Trong lần tu sửa vào  năm 1980,  những người               thợ đã thay phần lõi bên trong của  những cột gỗ bị mối mọt  ăn bằng               cách đổ bê tông vào. Phần  mặt ngoài những cột gỗ này vẫn   được giữ              nguyên nên chúng  trông vẫn có vẻ cổ xưa. Đồng  thời, những  người thợ              này  cũng đã nâng phần đế cột lên  30cm.
Năm 1790, Nguyễn Ánh, vị Vua  cuối cùng  của  triều              Nguyễn, đã cho xây dựng ngôi nhà này  để Giám mục  xứ Adran,  Pierre              Pigneau de Behaine trú ngụ.  Vị Giám mục  này đã giúp đở  Nguyễn Ánh              trong cuộc chiến  tranh chống lại  những người nông dân áo vải  Tây Sơn.               Chính trong ngôi nhà  này, Vị Giám mục này đã dạy học cho  Hoàng tử               Cảnh, con  trai của Nguyễn Ánh.
Khởi  thủy, ngôi nhà tọa lạc gần kênh Thị   Nghè, nằm              trong khu  vực Thảo cầm Viên hiện giờ. Năm 1799,  sau khi  Pierre Pigneau               mất, một Giám mục Pháp khác đã đến  thay thế và ở trong ngôi  nhà,  nhưng              giữa những năm 1811  và 1864, do triều đình Huế cấm  đạo Công  Giáo,              ngôi nhà bị  đóng cửa. Trong triều đại Tự  Đức, ông Vua này đã  ký hòa               ước với Pháp và ngôi nhà được  chuyển lại cho Tòa Giám mục và  di chuyển               về đường  Alexandre de Rhodes, gần nhà thờ Chánh tòa. Năm   1900, cùng               với Tòa Giám mục, ngôi nhà được di chuyển về địa  điểm hiện  tại. Hiện               nó được sử dụng như nhà nguyện.
Với  tình trạng nguyên thủy vẫn được vẫn  giữ  nguyên,              chúng ta  sẽ học hỏi được rất nhiều thứ khi  tham quan ngôi  nhà cổ đã               được tu sửa rất tốt này. Một số  tòa nhà di tích lịch sử của  Sài Gòn               không may là đã bị phá  hỏng hình dáng nguyên thủy do sự  tu  sửa quá              tệ.         
Mặt  tiền của Dinh Thống Nhất nằm trên  ngã  ba đường              Nam Kỳ  Khởi Nghĩa và đường Lê Duẩn. Khuôn  viên rộng 15ha.  Trên mặt               bằng này, ngày 23.2. 1868, đô đốc  thực dân Pháp De  lagrandière làm               lễ đặt viên đá đầu tiên,  đặt tên là Dinh Norodom. Dinh   Norodom được              xây dựng và  hoàn thành sau đó 3 năm, đây là  cơ quan biểu thị  cho bộ               máy cai trị Pháp trên toàn cõi  Ðông Dương.
Thời Pháp thuộc đây là  trụ sở của các vị   thủ hiến              người Pháp được dân Nam gọi là  dinh Thống Soái,  và người  Pháp gọi              là Palais Norodom.  Năm 1865 tờ Courier  de Saigon viết:  “Những              nghiên cứu đầu  tiên liên quan đến  việc xây cất một dinh thự  dành làm               trụ sở vĩnh viễn cho  quan Thống đốc bắt đầu thực hiện để  thay thế               cho những nhà  bằng ống tạm thời”. Và dinh Thống Soái là một   trong              những  dinh thự đồ sộ được xây dựng với mục đích đó,  theo bản  vẽ của               kiến trúc sư Hermite (Hermite cũng là  người phác thảo đố án  tòa  thị              sảnh Hương Cảng). Theo sử  liệu, viên đá đầu tiên của  dinh  Thống Soái              do đô đốc De  Lagrandière tự tay đặt vào  ngày 23-2-1863. Viên  đá lịch               sử này là khối đá lấy ở Biên  Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh  50cm, có               lỗ, bên trong chứa  những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng   vàng, bạc,              đồng, có  chạm hình Napoléon đệ tam. Vật tư xây  cất phần lớn  được chuyển               từ Pháp sang. Do chiến tranh  Pháp-Ðức (xảy ra năm 1870) nên  công  trình              này kéo dài mãi  đến năm 1873 mới xong, riêng việc  trang trí  dinh phải               kéo dài hai năm sau (1875). Lúc bấy  giờ đại lộ Thống Nhất  (nay là               đường Lê Duẩn) còn gọi là  đại lộ Norodom vẫn còn bùn lầy, ẩm   thấp.              Dinh này được coi  là một công thự đẹp nhất ở Á Ðông.  Mặt  tiền rộng              80m, bên  trong có phòng khách có thể chức  đến 800 người.  Chung quanh               là khu vườn rộng lớn trồng đủ  loại cây cỏ rất ngoạn mục.  Ngay trước               mặt dinh, dưới chân  cột cờ có đặt một khẩu thần công kiểu  cổ  càng              làm tăng  thêm vẻ đẹp oai nghiêm cho công thự.
Nhiều  biến cố chính trị đã xảy ra tại  đây  suốt gần              một thế kỷ  dưới sự thống trị của thực dân  Pháp. Sau thất bại  Ðiện               Biên Phủ và Hiệp định Genève 1954,  Dinh Norodom được trao  lại cho               Việt Nam. Năm 1954, Ngô  Ðình Diệm được người Mỹ đặt ngồi vào   Dinh              Norodom. Ngày  26/10/1956 Dinh Norodom đổi tên là  “Dinh Ðộc  Lập”,              tức Phủ  Tổng Thống. Sau ngày hai viên phi  công của không  quân Sài               Gòn là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú  Quốc ném bom xuống Dinh Ðộc  Lập (ngày               27/02/1962) làm  thiệt hại nặng nề. Vì lối kiến trúc quá cổ   và vị hư              hại  nhiều nên Diệm quyết định phá hủy toàn bộ  dinh Norodom  để xây               dựng lại một dinh hoàn toàn mới gọi là  dinh Ðộc Lập.
Diện  tích khu này khoảng 12ha, diện tích   mặt bằng              dinh khoảng  2.000m2. Tòa nhà có diện tích  4.500m2, gồm1 tầng  nền,              3  tầng chính, 2 gác lửng, 1 sân  thượng đúc có thể làm bãi  đáp cho               máy bay trực thăng, trên  100 phòng ốc, 4000 ngọn đèn, 400  đường  dây              điện thoại nội  Dinh, 1 tầng hầm kiên cố, 1 đài phát  thanh dự  phòng,              1  phòng chỉ huy tác chiến…. Tác giả công  trình này là kiến  trúc               sư Ngô Viết Thụ, người từng đoạt  giải Khôi Nguyên Kiến Trúc ở  La  Mã.              Về kiến trúc, theo  kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thì từ sự  xếp  đặt bên              trong cho  đến phần tiền diện bên ngoài, tất cả  đều tượng  trưng cho               một truyền thuyết cổ truyền phương  đông, một nghi lễ thần  thánh theo               phong tục tập quán của  dân tộc. Chúng ta có thể nhận thấy   rằng, bình              diện của  toàn thể Dinh độc Lập được hình thành  từ chữ Cát  khi tâm               của tòa nhà là phòng trình ủy nhiệm  thư có thể so sánh như  vị trí               của điện Thái Hòa ở đại nội  cố đô Huế.
Ngày 8-4-1975 phi công  Nguyễn Thành  Trung  dùng máy              bay Mỹ ném hai quả bom làm  sập cánh trái  dinh, sau đó bay  luôn ra              vùng giải phóng.  Sức tiến công  thần tốc của quân giải phóng  trong              chiến  dịch Hồ Chí Minh  lịch sử làm cho quân đội Sài Gòn  không còn               sức chống đỡ:  Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống, giao  quyền lại               cho  Trần Văn Hương, sau đó Hương lại giao vào tay Dương Văn   Minh.               11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lữ đoàn 203 xe tăng  thuộc  quân đoàn               2 dưới sự hướng dẫn của cô gái giao liên  đất thép Củ Chi   Nguyễn Trung              Kiên (còn gọi là Cô Nhíp)  tiến thẳng vào Dinh  Ðộc Lập. Lúc  lá cờ cách              mạng tung bay  trên dinh cũng là  lúc toàn bộ nội các của  chính quyền               Sài Gòn dưới sự điều  khiển của Dương Văn Minh đầu hàng vô  điều kiện.               Dinh Ðộc  Lập trở thành hợp điểm của các cánh quân giải  phóng  Sài Gòn.
Sau chiến dịch Hồ  Chí Minh, dinh Ðộc lập  là  nơi làm              việc của Ủy ban Quân  Quản thành phố Sài Gòn.  Tháng 12-1975  tại đây              diễn ra hội  nghị Hiệp thương thống  nhất đất nước. Cũng tại  nơi đây               đã diễn ra những cuộc họp  quan trọng của Trung ương Ðảng  Cộng sản               Việt Nam, một số  các đoàn thể để bàn việc thống nhất các tổ   chức.              Với ý  nghĩa lịch sử đó Dinh Ðộc lập đổi tên thành  Hội trường  Thống               Nhất.
Một  đêm nào đó, nhất là vào những dịp lễ   hội, ngắm              Dinh  Thống Nhất rực rỡ ánh đèn và những chùm  pháo bông tỏa  sáng, đối               với du khách, Dinh Thống Nhất được  khoác lên một biểu tượng   mới: Không              khí hòa bình đang  trùm phủ khắp quê hương Việt  Nam.         
Vốn nằm trên  vùng đất hoang ở thượng du   Nghi giang              nên dọc lối đi vào  khuôn viên lăng ngày nay vẫn  còn nhiều  cây gỗ quý              cao to,  bóng mát như: si, dầu, bằng  lăng… Theo lời của một  số người               am hiểu thì ngày xưa, Lăng  ông nằm trên một gò đất hình lưng  qui.               Ðối với khoa “địa  lý” thì đây là vị thế nằm vào “long               mạch” hợp với “địa linh  nhân kiệt”, tài lộc đời đời               vĩnh tế và sẽ có ảnh hưởng tốt  cho sự an lạc của đồng bào cư  trú  trong              khu vực.
Khuôn  viên Lăng ông hiện còn khá rộng,  được  giới              hạn bởi bức  tường vây quanh với chu vi 500m, cao  1,2m. Bốn  cổng lăng               mở ra bốn hướng:
- Cổng Ðông (mở ra đường Trịnh Hoài Ðức).
- Cổng Tây (mở ra đường Ðinh Tiên Hoàng).
- Cổng Bắc (mở ra đường Phan Ðăng Lưu).
- Cổng Nam – Cổng Tam quan (mở ra đường Vũ  Tùng).
Trước               kia, khi những con  đường trên chưa được mở thì diện tích   Lăng ông              lớn gấp 2  lần hiện nay. Phía trước và hai bên  lăng miếu là  phần đất               hương hỏa mà triều đình Tự Ðức –  năm thứ 13 (1860) ban cho  xã Bình               Hòa thâu huê lợi để  phụng sự và trùng tu lăng miếu.
Cùng  nằm trên một trục và cách khu lăng  một  khoảng              sân rộng  26 x 15m là khu vực trung tâm diễn ra  các sinh hoạt  tín ngưỡng               được gọi là “Thượng công linh  miếu”. Bố cục của “Thượng               công linh miếu” bao gồm: tiền  điện, trung điện và chánh  điện,               mỗi gian điện thờ cách  nhau bằng một sân Thiên Tĩnh. Ðối  xứng  hai              bên trục nhà  chính là Ðông Lang , Tây Lang – Lễ khách  đường.  Nhìn              bề  ngoài, toàn bộ mái nhà “Thượng công linh  miếu” như điệp              vào  nhau xếp thành lớp, thành tầng. Nóc sau  cao hơn nóc  trước với               các cổ lầu rất nguy nga, bề thế.  Vật liệu cũng như kỹ thuật  kết  cấu              của “Thượng công linh  miếu” có những đặc điểm đáng chú  ý:              kế thừa kiến trúc cổ  truyền Việt Nam, đồng thời có sự  cách  tân , nên              hình khôí  kiến trúc có những thay đổi, tạo  sự vững vàng, bền  chắc.               Tường gạch giữ vai trò quan trọng  trong kết cấu chịu lực;  cột gạch               thay thế cột gỗ ở hàng  hiên để chịu đựng lâu dài trước mưa   dầm và              nắng gắt của  vùng nhiệt đới phương nam. Nhìn chung  Tiền  điện, Trung               điện và chánh điện có một vài sự khác  nhau về vật liệu và kỹ  thuật               kết nối bên trong. Tuy nhiên  bộ mái nhà hai tầng là một nét   đặc sắc              chung trong tổng  thể kiến trúc “Thượng công linh  miếu”,              thể hiện đặc điểm  kiến trúc Việt Nam. Các bờ nóc  được xây  cao với              hai đầu  cong, trang trí “Lưỡng Long chầu  nguyệt” trông giống               như  những chiếc thuyền rồng đang neo  lại. Trên bề mặt bờ nóc  được               chia thành từng ô hình vuông  và chữ nhật để đắp những đề tài   trang              trí khác. Cảm giác  cong nhẹ của mái là điểm xoáy hất  lên của  đuôi              rồng chầu  vào bờ nóc hoặc nơi oằn xuống của  lưng kỳ lân.
Sau nhiều đợt trùng  tu, di tích Lăng ông  đã  phần              nào phục hồi được nét uy  nghiêm, cổ kính vốn có  của một cơ  sở tín              ngưỡng và đã trở  thành di sản quí giá  trong kho tàng văn hóa  dân tộc              Việt  Nam.
Thành phố Sài Gòn được thành  lập trên  một vùng đất            có nhiều sông ngòi, kinh rạch và phát  triển  thành một đô thị  lớn nhưng            vẫn còn dấu vết của sông  ngòi cũ,  qua những địa danh đã trở  thành quen            thuộc.
Sông  chính của thành phố là sông Sài  Gòn,  chảy qua            tỉnh Bình  Dương xuống Gia Định, rồi chảy sát  phía Đông làm  ranh giới             với tỉnh. Những con sông và kinh  rạch đáng kể là sông Thị Nghè  (phụ             lưu của sông Sài Gòn),  kinh Đôi, kinh Hành Bàng, kinh Bến   Nghé, rạch            Cát, kinh Ruột  Ngựa, (Mã Trường Giang) rạch Cầu  Ông Lãnh, rạch  Lò Gốm,             rạch Cầu Kiệu, rạch Ông Buông, kinh  Tàu Hủ…
Về nguồn gốc tên sông Thị  Nghè, ta có  hai  tuyến khác            nhau: Thứ nhất Bà Nguyễn Thị  Khánh, con gái  Khâm sai Nguyễn  Cửu Vân            (thời chúa Nguyễn  Phúc Chu,  1691-1725) và là vợ của ông Nghè  làm thư            ký trong  dinh Phiên  Trấn, cho xây mộy cây cầu dài bắt qua sông  để chồng             tiện đi  làm việc và cũng để dân chúng sử dụng. Cầu nầy được  dân  gọi             Bà Nghè, sau đổi thành Thị Nghè. Thứ hai bà Thị Nghè(vợ  một  ông Nghè)             tổ chức các toán dân Pháp đánh quân Pháp. Khi  giặc chiếm Sài   Gòn, cho            một tàu nhỏ đổ quân lên bờ liền bị  nghĩa quân của  Thị Nghè  đánh dữ dội.            Sau bà hy sinh trong  một trận đánh.  Dân chúng đặt tên sông,  cầu và vùng            Thị Nghè  từ đó.
Kinh Tàu Hủ (còn gọi là kinh  Chợ Lớn) và   đường thủy            vẫn quan trọng về giao thông và  kinh tế, vì nối  liền Sài Gòn  với các            sông ngòi chảy xuống  miền Tây. Xưa,  vùng nầy còn có rạch Chợ  Lớn nhưng            quá nhỏ  hẹp nên vua Gia  Long cho 11.460 dân công đào kinh Tàu  Hủ trong             ba tháng và  hoàn tất ngày 23 tháng Tư năm Kỷ Mảo (1819). Kinh  dài  độ            năm  cây số rưởi, rộng gần 37 thước, sâu khoảng 17 thước.  Gia  Long đặt             tên kinh là An Thông Hạ. Kinh Ruột Ngựa do  quan Nguyễn Hữu Đàm   cho đào            vào mùa Thu năm Nhâm Thìn  (1772), phá một đường sình  lầy để  đào con            kinh thẳng như  ruột ngựa, nên gọi là “Mã  Trường Giang”, giúp            cho thuyền bè  đi lại được thuận lợi hơn.
Lúc đất  Sài Gòn mới phát triển, có rất  nhiều  kinh rạch            đào ngang  dọc thành phố nhưng đã bị lấp từ  lâu để làm đường xá  như kinh             Sa Ngư (sau lấp lại thành đường  Nguyễn Huệ, kinh Cây Cầm,  (chạy  trên            đường Lê Thánh Tông),  kinh Chợ Vải (chạy tới mặt tiền  Toà Đô  Chính).            rạch Cầu Sấu  (xưa có hầm nuôi cá sấu để bán  thịt, rạch chạy  đến hai            đường  Công Lý và Hàm Nghi), rạch Bà  Tịnh (chạy đến đường Võ  Tánh)…             Vì thế, Sài Gòn có rất  nhiều cầu xưa cũ như cầu Cao Miên (cầu  Bông),             cầu Muối ,  cầu Ông Lãnh, cầu Mống, cầu Quây, cầu Kho, cầu   Quan, cầu             Thị Nghè, cầu Xóm Chỉ, cầu Chợ Lớn, cầu Chà Và, cầu  Xóm Củi,  cầu Ông             Lớn (xưa dân chúng không được gọi tên thật  của Việt gian Đỗ   Hữu Phương),            cầu Bót Bình Tây, cầu Ba  Cẳng…
Sài  Gòn sớm xuất hiện ở vị trí mũi nhọn  của  cuộc Nam            tiến tìm  đất sống của người Việt, trở thành tụ  điểm di dân tứ  xứ, nơi             gặp gỡ của nhiều luồng giao lưu. Quá  khứ đó đã tạo nên diện  mạo và  bản            sắc của Sài Gòn, một thành  phố ngã ba đường, khác hẳn  với  những đô thị            truyền thống  Việt Nam. Tại những thành phố  như Sài Gòn, sự  phồn vinh            làm  cho cư dân gần gũi nhau, ký  ức đan xen vào nhau. Nhịp sống  ở đó             mãnh liệt, hỗn độn hơn.  Thông qua các đô thị như thế, đất nước  được             nối kết với  các luồng giao lưu liên tục về con người, tư  tưởng  và cả             luồng tư bản. Nó cũng chuyển về cho đất nước  luồng sinh khí  mới, nhiều             sáng tạo, ngày càng lan rộng ra  toàn bộ đất nước cùng với   những cái            mới rất cần thiết, chống  lại sự xơ cứng, rập  khuôn, đơn điệu.  Sài Gòn            khởi đầu là  giao điểm các đường  thủy bộ, tụ điểm lưu dân người  Việt.             Người Hoa tiếp tay  biến nó thành một cảng thị sầm uất để giao  lưu với             khu vực.  Người Pháp đến đã mở toang cảng thị, thu hút đầu tư   và di dân             tứ xứ về đây xây dựng nơi đây thành hẳn một đô thị  công thương   nghiệp            hiện đại, trung tâm của một thị trường  rộng lớn gồm  cả vùng  Đông Dương            lẫn Hoa Nam.
Không  ít người cho rằng Sài Gòn là một  thành  phố mới,            lai tạp,  không có bản sắc văn hóa riêng do  tính chất ngã ba  đường của             nó. Thực ra, lịch sử Sài Gòn tuy  chỉ mới mấy trăm năm, nhưng  bản sắc             độc đáo từng làm nên cái  hồn đô thị của nó cũng đã hình  thành  qua các            công trình cha  ông để lại. Khu tứ giác vùng  đất cao trung tâm  quận I            vẫn  là khu trung tâm lịch sử của  thành phố. Cha ông chúng ta  đã chọn             chốn này làm trung tâm  đô thị. Người Pháp đến cũng không có sự   chọn            lựa nào khác  để đặt các cơ quan đầu não với các công  trình  kiến trúc             chọn lọc như dinh Toàn quyền, Nhà thờ lớn  (Đức Bà), Tòa án,  Nhà hát,             Bưu điện… Tất cả đã làm nên một  quần thể kiến trúc với một   không gian            rộng mở, hòa nhập vào  trong khoảng cây xanh, tạo  thành một  tuyệt tác            quy hoạch đô  thị vừa lãng mạn, vừa uy  nghiêm. Nhờ đó mà Sài  Gòn đã từng             được du khách phương Tây  dành cho cái tên khá mỹ miều “Hòn             ngọc Viễn Đông“.
Khi  nói về Sài Gòn, KTS Hoàng Đạo Kính  đã  nhận xét            thật chính  xác: “Thành phố Sài gòn khác hẳn  những đô thị khác.             Trong  sự phát triển của nó không thể  không dựa vào những yếu  tố chủ             đạo như những khoảng không  lãnh thổ rộng lớn, hệ thống kênh  rạch,  sông            và biển, những  truyền thống và giá trị văn hóa Nam Bộ,  quỹ  kiến trúc            đô thị  và kỹ thuật khổng lồ và không thiếu  sắc thái riêng, sự  tham gia             tương đối sớm vào quá trình đô  thị hóa và hiện đại hóa, trình  độ  quản            lý đô thị và nhất là  trình độ nổi trội trong công nghệ  xây  dựng. Không            thể  không nhắc tới một yếu tố: sức sống,  tính năng động, sức  vươn lên             của cả một cộng đồng xã hội”.
Tiếc  rằng hiện nay trong cái nôn nóng  công  nghiệp hóa,            hiện đại  hóa, nhiều đô thị nước ta trong đó  có cả Sài Gòn,  chúng ta             chưa tiếp thu được những bài học  của quá khứ và đang vô tình  xóa dần             đi di sản khi áp dụng  kiểu qui hoạch máy móc bàn giấy, phủ   nhận nền            kiến trúc của  các thế hệ đi trước. Làm như vậy là  chúng ta tự  đóng cửa            với  quá khứ, làm mất đi bản sắc của  chính mình, phá bỏ thành  quả của             các thế hệ đã qua và trầm  trọng hơn là đang xóa đi chính cái  hồn  đô            thị của mình.
Chợ   Lớn ngày càng phát triển sung  túc, nhiều người dân từ nơi khác tập   trung đến làm ăn mua bán. Chợ trở  nên chật hẹp không thể phát triển   thêm. Chính quyền tỉnh Chợ Lớn thời  đó cũng dự định xây dựng chợ mới   nhưng chưa tìm được đất. Hay tin,  Quách Đàm bỏ tiền ra mua mảnh đất  sình  lầy rộng trên 25.000m2  ở thôn Bình Tây và cho san lấp  bằng  phẳng, xây dựng chợ mới bằng bê  tông cốt thép tặng nhà nước.  Riêng Ông  chỉ xin xây dựng mấy dãy phố lầu  xung quanh chợ và dựng  tượng Ông chính  giữa chợ sau khi Ông qua đời.
Quách  Đàm, thương hiệu  Thông Hiệp  (1863 – 1927, theo ghi khắc tại bệ đá thờ  Ông trong hoa viên  của chợ),  người được xem như thần tài của chợ Bình  Tây, người làng Triều  An, Long  Khanh, Triều Châu, Trung Quốc rời quê  hương với hai bàn tay  trắng.  Thuở  ban đầu Ông đi thu mua ve chai,  lông vịt và các loại nguyên liệu  phế  thải để kiếm sống qua ngày. Nhờ  đức tính cần cù chịu khó, lại giỏi  tính  toán, bán buôn Ông dần trở  thành người giàu có. Khi được chính  quyền  tỉnh Chợ Lớn đồng ý, Ong tổ  chức xây chợ mới theo lối kiến trúc  Trung  Quốc và áp dụng kỹ thuật xây  dựng hiện đại của Pháp thời bấy giờ.  Riêng  tượng Ông Quách Đàm bằng  đồng được thuê đúc tận bên Pháp. Sau  khi mất  tượng Ông Quách Đàm được  gia đình ông dựng lên vào năm 1930  trên bệ cao,  dưới chân tượng có kỳ  lân chầu và rồng phun nước. Hiện  nay, tượng của  Ông được lưu giữ và  bảo quản tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật  Thành phố Hồ Chí  Minh.
Ngay  sau ngày giải  phóng, chính quyền  Cách mạng tiếp nhận quản lý, sắp xếp  cho nhân dân  tiếp tục mua bán  phục vụ hàng hoá cho cả nước và các  nước bạn Lào,  Campuchia, Trung Quốc  và đổi tên chợ là chợ Bình Tây cho  đến ngày nay.  Năm 1992, tiếp tục  phát huy thế mạnh của chợ, UBND Quận  6 tổ chức sửa  chữa nâng cấp nhà  lồng chợ thêm một tầng lầu. Năm 2006  tiếp tục đầu tư  cải tạo sửa chữa  khu vực Trần Bình – Lê Tấn Kế khang  trang sạch đẹp, chợ  Bình Tây vì thế  trở thành một trong những ngôi chợ  lớn của thành phố  với 2.358 quầy  sạp. Khu vực nhà lồng chợ có 1446  sạp, trong đó tầng trệt  là 698 sạp,  tầng lầu có 748 sạp. Khu vực ngoài  nhà lồng có 912 sạp,  trong đó Trần  Bình có 408 sạp, Lê Tấn Kế có 328  sạp, Phan Văn Khoẻ là  176 sạp. Các  ngành hàng được bố trí, sắp xếp hợp  lý, tập trung theo từng  khu vực  kinh doanh nhằm phát huy thế mạnh của  từng ngành hàng. Bà con  người Hoa  vẫn tập trung về chợ làm ăn mua bán  mà đa số là người Hoa sinh  sống  tại các quận 5, quận 6 và quận 11.  Tiểu thương người Hoa hiện  chiếm tỷ  lệ 25% số lượng hộ kinh doanh tại  chợ Bình Tây.
Trải qua hơn 80  năm  hình thành và  phát triển, chợ Bình Tây ngày nay vẫn giữ được vị  thế của  một chợ đầu  mối bán buôn lớn của thành phố và của quận 6 mặc  dù có sự  cạnh tranh  khá quyết liệt của các hệ thống siêu thị, trung  tâm thương  mại hiện đại  trong những năm gần đây. Tuy nhiên, với lối  kiến trúc cổ  xưa của Trung  Quốc và bề dày lịch sử lâu năm nên chợ đang  mở ra một  hướng phát triển  mới đó là điểm du lịch tham quan mua sắm  nhiều tiềm  năng cho khách du  lịch trong và ngoài nước.
Hàng  năm có trên  120.000 lượt khách  du lịch người nước ngoài đến tham quan  và mua sắm tại  chợ do các Công  ty du lịch của cả nước đưa tới, trong  đó nhiều nhất là  Công ty du lịch  Sài Gòn. Đến với chợ Bình Tây, du  khách vừa được ngắm  nhìn kiến trúc  cổ, tìm hiểu lịch sử của chợ và mua  sắm với giá cả phù  hợp.
[www.chobinhtay.gov.vn]
Đô  thị PMH xây dựng theo quy hoạch tổng  thể ngay từ đầu sẽ trở thành  T.T  thương mại tài chính quốc tế hấp dẫn  nhất Đông Nam Á. Trên diện tích   2.600ha tọa lạc song song với TP.HCM về  phía Nam, Cty LD PMH được phép   khai thác phát triển khu đất trong phạm  vi công trình đô thị mới để  xây  dựng một đô thị kiểu mẫu tại Đông Nam  Á.
Quy  hoạch tổng thể đô thị mới do công ty  Skidmore, Owings &  Merrill  (Mỹ) thiết kế đã được Thủ tướng phê  duyệt vào ngày 8/12/1994 và  vào  ngày 3/3/1995, Chính Phủ Việt nam đã  chính thức chấp thuận việc  thành  lập Ban Quản Lý Khu Nam với cơ chế đầu  tư Một Cửa cho Đô Thị PMH.  Đô  thị Phú Mỹ Hưng được phát triển trong cơ  cấu bảo vệ môi trường. Nền   Tảng Cho Chiến Lược Phát Triển Một Thành  Phố Hướng Ra Biển Đông.
Ba chức năng của Công ty TNHH Liên doanh Phú Mỹ Hưng:
1)  Xây dựng đại  lộ Nguyễn Văn Linh dài  17,8km, lộ giới 120m có 10 làn xe  (6 làn xe cao  tốc và 4 làn xe hỗn  hợp, riêng đoạn đi ngang qua Khu A –  Trung tâm đô  thị PMH – có 14 làn  xe). Chính giữa đại lộ là phần đất  công viên rộng 18  – 36m dự phòng để  phát triển dự án metro trong tương  lai. Đại lộ này  được xây dựng hoàn  toàn mới băng qua vùng đất đầm lầy  của huyện Nhà Bè  (nay là quận 7),  quận 8 và huyện Bình Chánh. Đây là  tuyến đường giao  thông huyết mạch  trung chuyển hàng hoá từ TP.HCM đến  các tỉnh đồng bằng  sông Cửu Long,  mở ra thời cơ mới trong việc phát  triển thành phố theo  quy hoạch đã  được chính phủ phê duyệt, là đòn bẩy  quan trọng thúc đẩy  quá trình đô  thị hóa, chuyển đổi một bộ phận dân  cư nông nghiệp trở  thành dân cư  thành thị và cải tạo vùng đất nông  nghiệp phèn mặn trở  thành một đô thị  hiện đại cho thế kỷ 21, từ đó làm  động lực thúc đẩy  phát triển kinh tế  toàn khu Nam và TP.HCM. Cầu Phú  Mỹ đã thông xe nối  liền quận 7 với  quận 2, từ đó liên thông các tỉnh  miền Đông với miền Tây  nam bộ. Công  trình xây dựng đại lộ Nguyễn Văn  Linh được chia làm 3 giai  đoạn. Giai  đoạn 1 thông xe 2 làn vào đầu năm  1998. Giai đoạn 2 thông xe  từ 4 – 6  làn vào năm 2003. Giai đoạn 3  thông xe đủ 10 làn theo đúng  thiết kế,  đúng tiến độ vào ngày  30/12/2007. Nhân dịp này, Công ty TNHH  LD Phú Mỹ  Hưng đã vinh dự được  Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương  Lao động  Hạng I.
3) Xây dựng 5 cụm đô thị  hiện đại theo  quy hoạch tổng thể A, B, C, D,  E dọc theo đại lộ Nguyễn  Văn Linh, nhằm  thực hiện định hướng phát triển  TP.HCM hướng ra biển  Đông theo chủ  trương của Chính phủ Việt Nam nói  chung và TP.HCM nói  riêng.
ReplyDeletehãng hàng không eva air của nước nào
vé máy bay đi mỹ hạng thương gia
korean air vietnam office
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
đặt vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch
vé máy bay đi canada