3 lợi ích sức khỏe từ giá đỗ: Là một loại rau quen thuộc với mọi nhà nhưng có rất nhiều lợi ích sức khỏe ẩn chứa trong nó mà bạn có thể chưa biết!
Giá trị trong việc chữa bệnh
Các nhà khoa học Nhật bản phát hiện, trong quá trình hạt đậu xanh nảy mầm một phần protein có thể phân giải thành axit amin, từ đó làm tăng hàm lượng axit amin vốn có của nó.
Trong giá đỗ còn có chất chất xơ, nếu như khi trộn cùng với rau hẹ vừa có tác dụng an toàn vừa có hiệu quả tốt đối với bệnh táo bón ở trẻ em và người già. Ăn giá đỗ có thể giúp điều trị các chứng bệnh như là bệnh quáng gà do thiếu Vitamin A, bệnh viêm miệng viêm lưỡi và viêm tinh hoàn do thiếu vitamin B2, hoại huyết do thiếu vitamin C...
Các nhà khoa học Nhật bản phát hiện, trong quá trình hạt đậu xanh nảy mầm một phần protein có thể phân giải thành axit amin, từ đó làm tăng hàm lượng axit amin vốn có của nó.
Trong giá đỗ còn có chất chất xơ, nếu như khi trộn cùng với rau hẹ vừa có tác dụng an toàn vừa có hiệu quả tốt đối với bệnh táo bón ở trẻ em và người già. Ăn giá đỗ có thể giúp điều trị các chứng bệnh như là bệnh quáng gà do thiếu Vitamin A, bệnh viêm miệng viêm lưỡi và viêm tinh hoàn do thiếu vitamin B2, hoại huyết do thiếu vitamin C...
Khi nấu giá đỗ tốt nhất bạn nên cho thêm một chút giấm ăn, như vậy có thể khiến cho porotein ngưng kết nhanh, vừa duy trì mỹ quan của từng sợi giá lại có thể giữ lại được chất dinh dưỡng tốt. Đồng thời khi chế biến, bạn nên chảo nóng và nấu nhanh tay để không làm mất đi chất vitamin C có trong giá đỗ.
Giá trị dinh dưỡng cao
1. Trong giá đỗ có chứa hàm lượng vitamin C rất phong phú, có thể rất hữu ích trong việc điều trị hoại huyết.
2. Giá đỗ có tác dụng giúp làm giảm lượng cholesterol và chất béo chất đống trong thành mạch máu, phòng chống các bệnh về tim mạch.
3. Giá đỗ còn chứa chất riboflavin rất thích hợp đối với những người hay mắc bệnh lở loét khoang miệng.
4. Nó còn chứa lượng chất xơ phong phú là loại thực phẩm rất tốt đối với các bệnh nhân mắc bệnh táo bón. Ngoài ra còn có tác dụng phòng ngừa ung thư ở một số cơ quan trong hệ tiêu hoá như là ung thư thực quản, ung thư dạ dày, ung thư trực tràng...
5. Nhiệt lượng trong giá đỗ rất thấp mà lượng nước và chất xơ lại cao nếu thường xuyên ăn giá đỗ còn có tác dụng giảm cân hiệu quả.
Tác dụng giảm cân
Giá đỗ vốn chứa rất ít năng lượng nhưng lại chứa lượng chất xơ, vitamin và khoáng chất phong phú. Chúng rất có công hiệu trong việc giải độc làm đẹp, tiêu mỡ, nhuận tràng chống ôxi hoá...
Từ góc độ về dinh dưỡng mà nói, nhiệt lượng trong giá đỗ thấp cứ mỗi 100g giá đỗ chỉ chứa 8 calo nhiệt lượng mà lại chứa lượng chất xơ phong phú giúp thúc đẩy sự nhu động của đường ruột và có tác dụng nhuận tràng, chỉ những đặc điểm này đã có thể đã có thể chứng minh được tác dụng giảm cân hữu hiệu từ giá đỗ.
Biện pháp "chuẩn" để xác định một “trinh nữ”
Nhìn, sờ, thậm chí phóng to màng trinh đều khó có thể xác định được đâu là một “trinh nữ”. Tuy nhiên, phương pháp định huyết hoàn toàn có thể xác định được điều này.
Phương pháp định huyết được tiến hành dựa vào việc kiểm tra, xác định các kháng nguyên tinh trùng trong cơ thể người phụ nữ.
Đây là một phương pháp hết sức đơn giản giống như xác định vi rút gây bệnh cho cơ thể. Khi vi rút xâm nhập vào hệ miễn dịch, cơ thể chúng ta sẽ tự động sản xuất ra một loại kháng thể để chống lại vi rút.
Tương tự như vậy, cơ thể người phụ nữ sẽ sản xuất ra một loại kháng thể nhằm tiêu diệt tinh trùng. Những tinh trùng yếu, chất lượng kém sẽ không thể “sống sót”.
Khi xét nghiệm, nếu trong máu của người phụ nữ có xuất hiện kháng nguyên tinh trùng có nghĩa là người đó đã có quan hệ tình dục.
Phương pháp này hoàn toàn có thể loại bỏ được những lí do hết sức “ngớ ngẩn” khi các quý ông thường chỉ dựa vào màng trinh để đánh giá trinh tiết của một cô gái.
Tương tự như vậy, cơ thể người phụ nữ sẽ sản xuất ra một loại kháng thể nhằm tiêu diệt tinh trùng. Những tinh trùng yếu, chất lượng kém sẽ không thể “sống sót”.
Khi xét nghiệm, nếu trong máu của người phụ nữ có xuất hiện kháng nguyên tinh trùng có nghĩa là người đó đã có quan hệ tình dục.
Phương pháp này hoàn toàn có thể loại bỏ được những lí do hết sức “ngớ ngẩn” khi các quý ông thường chỉ dựa vào màng trinh để đánh giá trinh tiết của một cô gái.
Mỗi màu nước tiểu một bệnh tật khác nhau
Tuy nhiên, một số nguyên nhân có thể làm cho nước tiểu có màu, có mùi khác biệt.
Nước tiểu chính là "chất thải" sau khi đã giúp cơ thể lọc những chất cặn bã, tạp chất, và cần được đào thải ra ngoài. Bình thường nước tiểu vốn vô trùng, màu nước tiểu thường từ hổ phách sang màu vàng nhạt. Tuy nhiên, một số nguyên nhân có thể làm cho nước tiểu có màu, có mùi khác biệt.
Dấu hiệu bình thường
Do uống ít nước: Màu sắc nước tiểu bình thường liên quan tới lượng nước uống vào. Khi bạn uống nhiều nước làm nước tiểu trong hơn do nước pha loãng màu vàng của nước tiểu. Khi bạn uống ít nước sẽ làm nước tiểu cô đặc, mất nước nặng có thể làm nước tiểu có màu hổ phách và có mùi khai. Vì vậy, mỗi người cần uống đủ nước mỗi ngày từ 2 - 2,5 lít.
Do ảnh hưởng từ thuốc: Mùi của nước tiểu cũng chịu ảnh hưởng rất lớn mùi vị của thuốc. Uống hay tiêm các loại Penicillin, Ampicillin... thấy mùi rất đặc trưng.
Do ảnh hưởng của thức ăn: Mùi vị của thức ăn có thể được bài tiết ảnh hưởng đến mùi nước tiểu. Ví dụ, khi ăn măng, nước tiểu sẽ có mùi rất nồng; Phẩm nhuộm dùng trong bột ngũ cốc có đường có thể xuất hiện ngay trong nước tiểu của trẻ sau khi uống.
Khi nước tiểu có màu lạ, bạn nên đi xét nghiệm để tìm ra nguyên nhânCác dấu hiệu trên đều bình thường, chỉ cần uống nhiều nước hoặc sau điều trị thuốc, sau khi thức ăn bị đào thải hết thì nước tiểu sẽ trở lại bình thường.
Biểu hiện của bệnh
Hầu hết các thay đổi nước tiểu là vô hại và thoáng qua, không gây đau và xảy ra không có triệu chứng gì. Nhưng khi cơ thể gặp rối loạn trao đổi chất hay mắc một số bệnh tật, những thay đổi cụ thể trong màu sắc nước tiểu sẽ xuất hiện, và bạn không nên bỏ qua nó, vì có thể được dùng để xác định bệnh.
Nước tiểu màu nâu: Cảnh báo những bệnh xơ gan, viêm gan, ngộ độc asen, chloroform và viêm thận, cầu thận cấp tính.
Nước tiểu màu đỏ: Nguyên nhân vì nó chứa một số lượng lớn các tế bào máu, là dấu hiệu cảnh báo cho căn bệnh viêm đường tiết niệu như: viêm thận, lao thận, viêm bàng quang cấp tính, viêm niệu đạo...
Nước tiểu màu trắng: Cảnh báo đường ruột của bạn có vấn đề, không thể hấp thụ chất lỏng. Cũng có thể bạn đang nhiễm trùng giun.
Nước tiểu có màu xanh lá cây: Là dấu hiệu cảnh báo đường tiết niệu bị nhiễm trùng Pseudomonas aeruginosa.
Nước tiểu có màu rượu vang đỏ: Là dấu hiệu của bệnh Porphyria là một bệnh ảnh hưởng lên da và hệ thần kinh.
Nước tiểu có màu nâu đen, đặc biệt nếu kèm đi đại tiện phân trắng và vàng da vàng mắt, đây có thể là dấu hiệu nặng của bệnh gan.
Nếu nước tiểu có mùi hôi kèm theo một số triệu chứng như đau tức bụng dưới, đau buốt khi đi tiểu... là dấu hiệu bị nhiễm trùng đường tiểu.
Cần đi khám ngay tại cơ sở y tế khi thấy tiểu ra máu đỏ kéo dài trên 24 giờ hay nước tiểu của bạn bị thay đổi màu mà hoàn toàn không liên quan đến thức ăn hay thuốc, chất bổ sung khác hay phẩm màu. Cũng nên đi khám bác sĩ nếu bạn có hai hay nhiều hơn hai giai đoạn tiểu máu, bất kể hai lần đó cách xa như thế nào.
Dấu hiệu bình thường
Do uống ít nước: Màu sắc nước tiểu bình thường liên quan tới lượng nước uống vào. Khi bạn uống nhiều nước làm nước tiểu trong hơn do nước pha loãng màu vàng của nước tiểu. Khi bạn uống ít nước sẽ làm nước tiểu cô đặc, mất nước nặng có thể làm nước tiểu có màu hổ phách và có mùi khai. Vì vậy, mỗi người cần uống đủ nước mỗi ngày từ 2 - 2,5 lít.
Do ảnh hưởng từ thuốc: Mùi của nước tiểu cũng chịu ảnh hưởng rất lớn mùi vị của thuốc. Uống hay tiêm các loại Penicillin, Ampicillin... thấy mùi rất đặc trưng.
Do ảnh hưởng của thức ăn: Mùi vị của thức ăn có thể được bài tiết ảnh hưởng đến mùi nước tiểu. Ví dụ, khi ăn măng, nước tiểu sẽ có mùi rất nồng; Phẩm nhuộm dùng trong bột ngũ cốc có đường có thể xuất hiện ngay trong nước tiểu của trẻ sau khi uống.
Khi nước tiểu có màu lạ, bạn nên đi xét nghiệm để tìm ra nguyên nhân
Biểu hiện của bệnh
Hầu hết các thay đổi nước tiểu là vô hại và thoáng qua, không gây đau và xảy ra không có triệu chứng gì. Nhưng khi cơ thể gặp rối loạn trao đổi chất hay mắc một số bệnh tật, những thay đổi cụ thể trong màu sắc nước tiểu sẽ xuất hiện, và bạn không nên bỏ qua nó, vì có thể được dùng để xác định bệnh.
Nước tiểu màu nâu: Cảnh báo những bệnh xơ gan, viêm gan, ngộ độc asen, chloroform và viêm thận, cầu thận cấp tính.
Nước tiểu màu đỏ: Nguyên nhân vì nó chứa một số lượng lớn các tế bào máu, là dấu hiệu cảnh báo cho căn bệnh viêm đường tiết niệu như: viêm thận, lao thận, viêm bàng quang cấp tính, viêm niệu đạo...
Nước tiểu màu trắng: Cảnh báo đường ruột của bạn có vấn đề, không thể hấp thụ chất lỏng. Cũng có thể bạn đang nhiễm trùng giun.
Nước tiểu có màu xanh lá cây: Là dấu hiệu cảnh báo đường tiết niệu bị nhiễm trùng Pseudomonas aeruginosa.
Nước tiểu có màu rượu vang đỏ: Là dấu hiệu của bệnh Porphyria là một bệnh ảnh hưởng lên da và hệ thần kinh.
Nước tiểu có màu nâu đen, đặc biệt nếu kèm đi đại tiện phân trắng và vàng da vàng mắt, đây có thể là dấu hiệu nặng của bệnh gan.
Nếu nước tiểu có mùi hôi kèm theo một số triệu chứng như đau tức bụng dưới, đau buốt khi đi tiểu... là dấu hiệu bị nhiễm trùng đường tiểu.
Cần đi khám ngay tại cơ sở y tế khi thấy tiểu ra máu đỏ kéo dài trên 24 giờ hay nước tiểu của bạn bị thay đổi màu mà hoàn toàn không liên quan đến thức ăn hay thuốc, chất bổ sung khác hay phẩm màu. Cũng nên đi khám bác sĩ nếu bạn có hai hay nhiều hơn hai giai đoạn tiểu máu, bất kể hai lần đó cách xa như thế nào.
Nước khoáng, trà, coca và cà ri chính là bốn thủ phạm khiến răng bạn bị biến sắc vì vậy nên chú ý trong cách sử dụng để bảo vệ hàm răng chắc khỏe.
1. Nước khoáng
Chất hóa học vừa có lợi cho men răng nhưng đồng thời cũng làm cho răng chúng ta bị vàng đi. Nước khoáng có chứa rất nhiều chất hóa học, uống càng nhiều thì cũng đồng nghĩa với việc răng sẽ biến màu.
Chuyên gia nha khoa của Mỹ khuyên rằng mỗi người tối thiểu nên uống 1 lít nước một ngày, trong đó chỉ nên có 300ml là nước khoáng còn lại 700ml nên là nước tinh khiết hoặc nước tự nấu.
Chất hóa học vừa có lợi cho men răng nhưng đồng thời cũng làm cho răng chúng ta bị vàng đi. Nước khoáng có chứa rất nhiều chất hóa học, uống càng nhiều thì cũng đồng nghĩa với việc răng sẽ biến màu.
Chuyên gia nha khoa của Mỹ khuyên rằng mỗi người tối thiểu nên uống 1 lít nước một ngày, trong đó chỉ nên có 300ml là nước khoáng còn lại 700ml nên là nước tinh khiết hoặc nước tự nấu.
2. Trà
Lá trà xanh có chứa rất nhiều Polyphenols. Nếu thường xuyên uống trà răng sẽ chuyển sang màu vàng.
Các nghiên cứu cho thấy, thời gian ngâm trà càng lâu thì tác dụng của Polyphenols càng giảm đi. Vì vậy mà để bảo vệ hàm răng chúng ta nên kéo dài thời gian ngâm trà.
3. Coca
Đường và Carbon dioxide là hai thành phần chủ yếu của coca. Uống càng nhiều thì lượng đường bám trên răng sẽ tăng lên khiến cho răng bị đen.
Có nghiên cứu phát hiện, nếu mỗi ngày uống 1 lít coca thì sau hai năm men răng sẽ bị các axit ăn mòn mất một nửa. Thông thường thì các loại nước ngọt có màu đậm sẽ không có lợi cho men răng.
4. Cà ri
Theo như danh sách những đồ ăn làm răng biến màu do hiệp hội nha khoa Mỹ công bố thời gian gần đây thì gừng có trong cà ri xếp vị trí đầu bảng.
Các nghiên cứu chỉ rõ, gừng chính là khắc tinh của một hàm răng trắng bóng. Nếu bạn thật sự thích ăn cà ri thì nên chọn loại cà ri xanh để bảo vệ hàm răng.
Lợi ích của việc ăn chậm, nhai kỹ với sức khỏe
Khi nhai kỹ, thức ăn sẽ được nghiền nhỏ hơn, làm tăng diện tích tiếp xúc của thức ăn, giúp cho thức ăn được tiêu hóa triệt để hơn.
Thay vì một người ăn 4 chén cơm mới cảm thấy no và đầy đủ năng lượng thì chỉ cần ăn 2 - 3 chén và nhai kỹ cũng có thể mang lại phần năng lượng tương tự. Các chất dinh dưỡng được hấp thu tốt hơn và dạ dày cũng làm việc bớt cực nhọc hơn. Từ việc nhai kỹ thức ăn, chúng ta có thể tiết kiệm được lượng thức ăn mỗi ngày, vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm bớt gánh nặng cho dạ dày mà vẫn đảm bảo đủ năng lượng.
Không những thế, trong khi nhai, nước bọt tiết ra làm nhão thức ăn giúp chúng ta dễ nuốt hơn. Trong nước bọt có men tiêu hóa thức ăn giúp thức ăn được tiêu hóa một phần trước khi xuống dạ dày.
Nếu ta không nhai kỹ trước khi nuốt, thì dạ dày sẽ lãnh hết mọi trách nhiệm nặng nề, và trở nên suy yếu sau vài chục năm làm việc. Không những thế, nước bọt còn có chất Immunoglobulin giúp tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể và muccus protein có nhiệm vụ bảo vệ niêm mạc dạ dày.
Ngoài ra, trong nước bọt còn có chất bacteriolysin có tác dụng phân giải và hòa tan các vi khuẩn và virút. Người ta thí nghiệm với ống nghiệm có đựng nước bọt, sau đó đưa vật chất gây bệnh ung thư có hại nhất vào rồi quan sát. Lúc đầu không có gì lạ nhưng khi lắc ống nghiệm khoảng 30 giây thì thấy 80 - 100% độc tố của vật chất gây bệnh ung thư đã biến mất.
Thí nghiệm trên chứng tỏ rằng, nước bọt được tiết ra khi nhai có tác dụng trừ độc rất mạnh, giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Chúng ta cần phải nhai kỹ thức ăn từ 30 giây trở lên hay khoảng 20 lần thì mới có thể đạt được hiệu quả tốt nhất.
Việc ăn nhanh làm tăng nguy cơ béo phì. Nghiên cứu cho thấy những người ăn nhanh sẽ ăn nhiều hơn những người ăn chậm. Khi ăn nhanh, cơ thể sẽ ngừng tiết hormone có nhiệm vụ thông báo lên não khi dạ dày đã đầy. GS. Stephen Bloom ở đại học Imperial cho biết: “Vừa ăn vừa làm việc hay ngồi ăn trước màn hình đều làm cho lượng thực phẩm vào cơ thể nhiều hơn bình thường, làm tăng nguy cơ béo phì. Không nghi ngờ gì nữa nếu bạn ăn chậm, mọi thứ sẽ được kiểm soát và bạn sẽ thon thả hơn”.
Một trong những điều quan trọng mà việc ăn chậm, nhai kỹ mang lại cho chúng ta là giúp chúng ta ăn ngon hơn. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã ăn rất ngon khi nhai kỹ bánh mì với một ít sữa và ông đã kêu gọi mọi người hãy nhai thật kỹ thức ăn, dù là một miếng bánh mì hay chỉ là cơm trắng để cảm nhận vị ngon kỳ diệu của thức ăn.
Phương pháp thực dưỡng của tiên sinh Osawa cũng kêu mọi người nhai cơm thật kỹ, đến khi thành nước rồi hãy nuốt. Bạn có thể thử nghiệm với chính bản thân. Thử lấy một miếng bánh mì hay một ít cơm rồi nhai thật kỹ, khoảng 20 lần xem như thế nào. Bạn sẽ cảm nhận được vị ngon ngọt của thức ăn, và sự tuyệt diệu mà chúng mang lại.
Chúng ta ngày nay ăn không biết ngon nữa vì nhai và nuốt vội vàng, đánh mất khả năng thưởng thức thực phẩm. Chúng ta phải nhờ đến những cách chế biến thức ăn cầu kỳ, phức tạp với nhiều gia vị khác nhau để biết được vị ngon giả tạo trong chốc lát ở đầu lưỡi.
Và càng ngày chúng ta càng cần nhiều gia vị hơn, nhiều thức ăn lạ hơn, nhiều cách chế biến phức tạp hơn… để thỏa mãn nhu cầu ăn uống. Ăn không biết ngon là nguồn gốc của mọi căn bệnh về thân và cả về tâm. Ăn và biết ngon, thì thức ăn chính là thuốc. Muốn được vậy, bạn cần tập nhai. Nhai cho đến khi nào thực phẩm biến thành ngon và ngọt thì mới nuốt. Bạn sẽ thấy có nhiều hạnh phúc trong khi ăn. Thức ăn trở thành thuốc cho thân và cho tâm.
Để đạt hiệu quả cho việc ăn uống, chúng ta cần ăn những thức ăn ít nước để không nuốt thức ăn quá nhanh mà không kịp nhai kỹ, để nước bọt kịp tiết ra và phát huy khả năng kỳ diệu của nó. Chúng ta có thể uống nước canh sau khi đã ăn cơm xong thay vì đổ nước canh vào cơm.
Những thức ăn có nhiều nước như: hủ tiếu, phở, cháo, bún, bánh canh… chúng ta cần hạn chế, không nên ăn quá thường xuyên. Ngay cả khi bạn vội thì nhai kỹ một chút thức ăn vẫn đủ năng lượng và tốt hơn là ngốn thật nhiều thức ăn vào miệng trong một lúc.
Không những thế, trong khi nhai, nước bọt tiết ra làm nhão thức ăn giúp chúng ta dễ nuốt hơn. Trong nước bọt có men tiêu hóa thức ăn giúp thức ăn được tiêu hóa một phần trước khi xuống dạ dày.
Nếu ta không nhai kỹ trước khi nuốt, thì dạ dày sẽ lãnh hết mọi trách nhiệm nặng nề, và trở nên suy yếu sau vài chục năm làm việc. Không những thế, nước bọt còn có chất Immunoglobulin giúp tăng cường hệ miễn dịch cho cơ thể và muccus protein có nhiệm vụ bảo vệ niêm mạc dạ dày.
Ngoài ra, trong nước bọt còn có chất bacteriolysin có tác dụng phân giải và hòa tan các vi khuẩn và virút. Người ta thí nghiệm với ống nghiệm có đựng nước bọt, sau đó đưa vật chất gây bệnh ung thư có hại nhất vào rồi quan sát. Lúc đầu không có gì lạ nhưng khi lắc ống nghiệm khoảng 30 giây thì thấy 80 - 100% độc tố của vật chất gây bệnh ung thư đã biến mất.
Thí nghiệm trên chứng tỏ rằng, nước bọt được tiết ra khi nhai có tác dụng trừ độc rất mạnh, giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Chúng ta cần phải nhai kỹ thức ăn từ 30 giây trở lên hay khoảng 20 lần thì mới có thể đạt được hiệu quả tốt nhất.
Một trong những điều quan trọng mà việc ăn chậm, nhai kỹ mang lại cho chúng ta là giúp chúng ta ăn ngon hơn. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã ăn rất ngon khi nhai kỹ bánh mì với một ít sữa và ông đã kêu gọi mọi người hãy nhai thật kỹ thức ăn, dù là một miếng bánh mì hay chỉ là cơm trắng để cảm nhận vị ngon kỳ diệu của thức ăn.
Phương pháp thực dưỡng của tiên sinh Osawa cũng kêu mọi người nhai cơm thật kỹ, đến khi thành nước rồi hãy nuốt. Bạn có thể thử nghiệm với chính bản thân. Thử lấy một miếng bánh mì hay một ít cơm rồi nhai thật kỹ, khoảng 20 lần xem như thế nào. Bạn sẽ cảm nhận được vị ngon ngọt của thức ăn, và sự tuyệt diệu mà chúng mang lại.
Chúng ta ngày nay ăn không biết ngon nữa vì nhai và nuốt vội vàng, đánh mất khả năng thưởng thức thực phẩm. Chúng ta phải nhờ đến những cách chế biến thức ăn cầu kỳ, phức tạp với nhiều gia vị khác nhau để biết được vị ngon giả tạo trong chốc lát ở đầu lưỡi.
Và càng ngày chúng ta càng cần nhiều gia vị hơn, nhiều thức ăn lạ hơn, nhiều cách chế biến phức tạp hơn… để thỏa mãn nhu cầu ăn uống. Ăn không biết ngon là nguồn gốc của mọi căn bệnh về thân và cả về tâm. Ăn và biết ngon, thì thức ăn chính là thuốc. Muốn được vậy, bạn cần tập nhai. Nhai cho đến khi nào thực phẩm biến thành ngon và ngọt thì mới nuốt. Bạn sẽ thấy có nhiều hạnh phúc trong khi ăn. Thức ăn trở thành thuốc cho thân và cho tâm.
Để đạt hiệu quả cho việc ăn uống, chúng ta cần ăn những thức ăn ít nước để không nuốt thức ăn quá nhanh mà không kịp nhai kỹ, để nước bọt kịp tiết ra và phát huy khả năng kỳ diệu của nó. Chúng ta có thể uống nước canh sau khi đã ăn cơm xong thay vì đổ nước canh vào cơm.
Những thức ăn có nhiều nước như: hủ tiếu, phở, cháo, bún, bánh canh… chúng ta cần hạn chế, không nên ăn quá thường xuyên. Ngay cả khi bạn vội thì nhai kỹ một chút thức ăn vẫn đủ năng lượng và tốt hơn là ngốn thật nhiều thức ăn vào miệng trong một lúc.
Giảm nấc cụt trong 5 giây
Nấc cụt là hiện tượng ai cũng có thể gặp hàng ngày. Có một cách rất đơn giản giúp bạn xử trí nấc cụt chỉ trong vòng 5 giây.
Những gì bạn cần lúc này chỉ là một ly nước và một bàn tay.
Hướng dẫn:
Khi bị nấc, hãy chuẩn bị sẵn một ly nước. Sau đó, dùng ngón tay bịt mũi lại, chỉ thở ra bằng miệng. Trong khi bịt mũi, bạn uống nửa ly nước. Uống xong, bỏ tay ra khỏi mũi.
Nếu vẫn còn tiếp tục nấc, bạn đợi khoảng 5 phút và lặp lại các hướng dẫn như trên, chắc chắn sẽ cải thiện được tình trạng khó chịu vì nấc.
Hướng dẫn:
Khi bị nấc, hãy chuẩn bị sẵn một ly nước. Sau đó, dùng ngón tay bịt mũi lại, chỉ thở ra bằng miệng. Trong khi bịt mũi, bạn uống nửa ly nước. Uống xong, bỏ tay ra khỏi mũi.
Nếu vẫn còn tiếp tục nấc, bạn đợi khoảng 5 phút và lặp lại các hướng dẫn như trên, chắc chắn sẽ cải thiện được tình trạng khó chịu vì nấc.
5 thủ thuật giảm nôn nao khi say nắng hoặc say tàu xe
Khi bị say nắng hoặc say tàu xe, bạn có thể áp dụng 5 thủ thuật dưới đây nhằm giảm bớt những cơn nôn nao cực kỳ khó chịu và mệt mỏi.
Theo giáo sư, tiến sỹ người Anh, ông Graham Archard, mất nước là nguyên nhân chính gây ra triệu chứng nôn nao. Vị giáo sư này cũng chia sẻ năm thủ thuật để giảm bớt những cơn nôn nao khi bị say nắng hoặc say khi tham gia giao thông.
Năm thủ thuật đó bao gồm:
1. Tránh sử dụng nước cam vì các chất axit có trong loại quả này sẽ làm dạ dày bị tổn thương và trách uống các loại nước giải khát có chứa chất kích thích, nhất là cồn và cà phê, vì các chất này sẽ làm cho cơ thể mất nước nhiều hơn.
2. Ăn cháo có thể giúp cơ thể giải phóng năng lượng "thừa" và phục hồi lượng đường trong máu.
3. Trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy, nên uống 1/2 lít nước khoáng. Trong những quãng thời gian này nên đặc biệt hạn chế những đồ uống có cồn vì chúng có thể làm tăng hàm lượng đường trong máu và cơ thể buộc phải phản ứng lại bằng cách "sản xuất" thêm insulin, dẫn đến những cơn đau đầu, hạ đường huyết và cảm giác đói.
4. Bánh mì và thịt xông khói có chứa nhiều protein sẽ là một sự lựa chọn rất hữu quả cho cơ thể khi bị say hoặc có triệu chứng nôn nao.
5. Uống paracetamol để giảm đau đầu là cần thiết, nhưng tránh uống aspirin vì có thể gây thêm triệu chứng buồn nôn và khó tiêu.
Năm thủ thuật đó bao gồm:
1. Tránh sử dụng nước cam vì các chất axit có trong loại quả này sẽ làm dạ dày bị tổn thương và trách uống các loại nước giải khát có chứa chất kích thích, nhất là cồn và cà phê, vì các chất này sẽ làm cho cơ thể mất nước nhiều hơn.
2. Ăn cháo có thể giúp cơ thể giải phóng năng lượng "thừa" và phục hồi lượng đường trong máu.
4. Bánh mì và thịt xông khói có chứa nhiều protein sẽ là một sự lựa chọn rất hữu quả cho cơ thể khi bị say hoặc có triệu chứng nôn nao.
5. Uống paracetamol để giảm đau đầu là cần thiết, nhưng tránh uống aspirin vì có thể gây thêm triệu chứng buồn nôn và khó tiêu.
Một đặc tính của thực phẩm mà chúng ta vô tình không biết hoặc biết nhưng không tin và cố tình bỏ qua, đó là khả năng chữa lành các tổn thương. Một số thực phẩm còn có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa.
Vậy nên, nếu gặp các vấn đề về tiêu hóa như táo bón hoặc đầy hơi, chướng bụng, đừng bỏ qua những thực phẩm dưới đây nhé. Những thực phẩm này sẽ làm cho dạ dày nhẹ nhàng hơn và tiêu hóa dễ dàng.
Chuối
Chuối có rất nhiều kali và vitamin A, lại có thể điều chỉnh mực nước trong cơ thể của bạn. Các chất hóa học trong chuối khi vào cơ thể sẽ làm giảm căng thẳng cho não bộ. Hãy ăn chuối nếu bị tiêu chảy, đó là lời khuyên của những chuyên gia dinh dưỡng.
Mận khô
Mận có nhiều chất xơ nên giúp bạn dễ tiêu hóa thức ăn trong dạ dày, ngăn ngừa táo bón. Mận, kể cả mận khô cũng rất giàu chất chống oxy hóa, làm cho bạn trông trẻ trung hơn.
Táo
Ai cũng biết, nếu thường xuyên ăn táo sẽ giảm bớt nỗi lo về bệnh tật. Bởi lẽ, táo có lượng lớn chất xơ và nước. Trong thực tế, nên ăn một quả táo khi dạ dày trống rỗng, tốt nhất vào buổi sáng, để làm cho dịch trong ruột trơn tru.
Sữa chua
Sữa chua có các enzym với các nvi khuẩn sống hỗ trợ tiêu hóa. Sữa chua giữ một lượng vi khuẩn tốt trong dạ dày, do đó ngăn ngừa bệnh dạ dày. Đây là lý do tại sao bác sĩ của bạn yêu cầu ăn sữa chua đối với bệnh nhân có triệu chứng rối loạn dạ dày.
Yến mạch
"Yến mạch có chất xơ, folate, vitamin A và kẽm, làm cho quá trình tiêu hóa dễ dàng hơn. Yến mạch nguyên hạt là tốt nhất vì nó làm bạn có cảm giác no cho dù ngay cả lúc dạ dày đang trống rỗng.
Bạc hà
Bạc hà làm giảm sự khó chịu dạ dày và làm mát dạ dày và gan. Nhai một vài lá bạc hà mỗi ngày sẽ làm sạch hệ thống tiêu hóa, giảm thiểu nỗi lo đau dạ dày.
Gừng
Các axit trong gừng có thể làm cho cơ thể không bị ứ đọng các chất nhầy dẫn đến viêm. Gừng còn chứa vitamin B3 mà theo các chuyên gia thì uống nước gừng có thể ngăn ngừa rối loạn tiêu hóa.
Kết hợp những thực phẩm này trong chế độ ăn uống của bạn có thể làm cho hệ thống tiêu hóa trong cơ thể bạn khỏe mạnh hơn. Các chất dinh dưỡng trong các loại thực phẩm này rất tốt cho cơ thể và làm cho bạn cảm thấy tốt hơn rất nhiều.
6 cấm kỵ khi dùng bột ngọt
Bột ngọt là gia vị không thể thiếu nhưng các bà nội trợ cần chú ý những điều nhỏ khi chế biến để tránh tác dụng ngược không đáng có.
Vai trò chính của bột ngọt là để tăng hương vị của thực phẩm. Bột ngọt nếu dùng lượng thích hợp có thể điều trị suy nhược thần kinh song nếu sử dụng không đúng cách sẽ gây phản ứng phụ đối với sức khỏe con người.
Khi sử dụng bột ngọt cần lưu ý những điều sau đây:
1. Tránh nhiệt độ cao
Khi nấu ăn, nêm bột ngọt ở nhiệt độ cao dễ làm thay đổi thành phần hóa học trong bột ngọt, không những thay đổi hương vị mà còn có hại cho sức khỏe.
Nhiệt độ là 70-90 độ C, là tốt nhất để bột ngọt hòa tan trong các món ăn. Vì vậy thời gian tốt nhất để cho loại gia vị này vào là khi đã tắt bếp, và món ăn hơi nguội.
2. Tránh nhiệt độ thấp
Nêm bột ngọt khi món ăn đã nguội cũng không tốt, bột ngọt sẽ khó hòa tan hết, ảnh hưởng nhiều đến vị giác khi thưởng thức.
3. Tránh các món chua
Khi nấu các món có vị chua không nên cho bột ngọt, vì những thực phẩm có tính acid cao dễ làm thành phần trong gia vị này thay đổi. Nếu cho bột ngọt vào món có độ chua càng cao càng dễ ảnh hưởng đến sức khỏe nội tạng cơ thể.
4. Kiêng các món ngọt
Khi nấu các món có độ ngọt, hay đã sử dụng các loại rau củ quả có vị ngọt tự nhiên như củ cải, cà chua… không nên cho thêm bột ngọt, dễ phá hủy hương vị ngọt sẵn có.
5. Lượng vừa đủ
Một người/ngày không nên tiêu thụ quá 6g bột ngọt. Qúa lượng này dễ gây đau đầu, sốt, buồn nôn, lượng đường trong máu cao và các triệu chứng khác
Người cao tuổi và bị cao huyết áp, viêm thận, phù nề nên cẩn thận khi dùng bột ngọt.
6. Cấm kỵ với các món chiên
Với các thực phẩm chiên vàng, cháy xém cạnh, không nên cho trực tiếp bột ngọt lên trên bề mặt vừa mất hương vị đặc trưng lại tổn hại cho dạ dày.
Khi sử dụng bột ngọt cần lưu ý những điều sau đây:
1. Tránh nhiệt độ cao
Khi nấu ăn, nêm bột ngọt ở nhiệt độ cao dễ làm thay đổi thành phần hóa học trong bột ngọt, không những thay đổi hương vị mà còn có hại cho sức khỏe.
Nhiệt độ là 70-90 độ C, là tốt nhất để bột ngọt hòa tan trong các món ăn. Vì vậy thời gian tốt nhất để cho loại gia vị này vào là khi đã tắt bếp, và món ăn hơi nguội.
Nêm bột ngọt khi món ăn đã nguội cũng không tốt, bột ngọt sẽ khó hòa tan hết, ảnh hưởng nhiều đến vị giác khi thưởng thức.
3. Tránh các món chua
Khi nấu các món có vị chua không nên cho bột ngọt, vì những thực phẩm có tính acid cao dễ làm thành phần trong gia vị này thay đổi. Nếu cho bột ngọt vào món có độ chua càng cao càng dễ ảnh hưởng đến sức khỏe nội tạng cơ thể.
4. Kiêng các món ngọt
Khi nấu các món có độ ngọt, hay đã sử dụng các loại rau củ quả có vị ngọt tự nhiên như củ cải, cà chua… không nên cho thêm bột ngọt, dễ phá hủy hương vị ngọt sẵn có.
5. Lượng vừa đủ
Một người/ngày không nên tiêu thụ quá 6g bột ngọt. Qúa lượng này dễ gây đau đầu, sốt, buồn nôn, lượng đường trong máu cao và các triệu chứng khác
Người cao tuổi và bị cao huyết áp, viêm thận, phù nề nên cẩn thận khi dùng bột ngọt.
6. Cấm kỵ với các món chiên
Với các thực phẩm chiên vàng, cháy xém cạnh, không nên cho trực tiếp bột ngọt lên trên bề mặt vừa mất hương vị đặc trưng lại tổn hại cho dạ dày.
Vì những lợi ích vượt trội của nó với sức khỏe con người mà từ lâu, Christopher Columbus đã gọi đu đủ với các tên trìu mến “Thiên thần của các loại quả".
Vài nét về đu đủBan đầu, đu đủ ban chỉ có ở miền nam Mexico và các nước lân cận. Sau đó, nó được trồng phổ biến ở hầu hết các nước có khí hậu nhiệt đới.
Đây là loại trái cây hình cầu hoặc hình quả lê. Thịt của đu đủ là một màu cam hoặc có màu sắc phong phú của sự kết hợp giữa màu vàng và màu hồng. Các khoang bên trong của quả là những hạt đen tròn. Đu đủ ăn được hạt, mặc dù hương vị cay của nó có phần cay và đắng.
Từ lâu, nhà thám hiểm Christopher Columbus đã gọi đu đủ với cái tên trìu mến “Thiên thần của các loại quả”. Thực tế, đu đủ là một trong những nguồn giàu chất dinh dưỡng, chất chống oxy hóa, chất khoáng và chất xơ phong phú hơn hẳn các loại quả khác.
Trong quả đu đủ, đặc biệt là đu đủ xanh có chứa papain, một loại enzyme giúp tiêu hóa protein trong cơ thể. Ngoài ra, enzyme này cũng được sử dụng để điều trị chấn thương khi chơi thể thao hoặc ứng phó với các nguyên nhân khác gây chấn thương, dị ứng khác.
Lợi ích sức khỏe của đu đủ
Bệnh tim: đu đủ có thể rất hữu ích cho công tác phòng chống xơ vữa động mạch và bệnh tim, tiểu đường.
Chất chống ô xy hóa mạnh mẽ: Đu đủ là một nguồn vitamin C tuyệt vời cũng như một nguồn vitamin E và beta-carotene dồi dào. Đây được coi là 3 chất chống oxy hóa rất mạnh, có lợi cho sức khỏe con người.
Giảm đau tim, đột quỵ: Những dưỡng chất trong đu đủ còn giúp ngăn chặn sự oxy hóa cholesterol. Khi cholesterol bị oxy hóa sẽ có thể dính và tích tụ trong thành mạch máu, tạo thành mảng bám nguy hiểm mà cuối cùng có thể gây ra cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Giảm cholesterol cao: đu đủ cũng là một nguồn chất xơ dồi dào nên có tác dụng giảm mức cholesterol cao.
Axit amin lành tính: Các acid folic được tìm thấy trong đu đủ cần thiết cho việc chuyển đổi chất gọi là homocysteine thành các axit amin lành tính, có lợi cho cơ thể.
Bởi vì nếu chất homocysteine không được chuyển đổi có thể gây thiệt hại cho các thành mạch máu và được xem là một nguy cơ quan trọng tạo nên những cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Chống ung thư: Chất xơ trong đu đủ có thể liên kết với các chất độc gây ung thư trong ruột kết và làm cho chúng đi ra khỏi các tế bào ruột già.
Ngoài ra, đu đủ có nhiều folate, vitamin C, beta-carotene và vitamin E được kết hợp để giảm nguy cơ ung thư ruột kết. Các dưỡng chất này bảo vệ cho tế bào ruột kết, chống lại thiệt hại của các gốc tự do. Do đó, bạn nên tăng cường tiêu thụ các chất dinh dưỡng có trong đu đủ bởi nó thực sự tốt cho những người bị ung thư ruột kết.
Giảm viêm nhiễm: Các enzym có trong đu đủ có thể giúp giảm tình trạng viêm nhiễm và cải thiện những vết bỏng từ nặng đến nhẹ.
Ngoài ra, các chất chống oxy hóa được tìm thấy trong đu đủ cũng rất tốt trong việc giảm bệnh suyễn, viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp nên bạn tích cực ăn đu đủ nhiều. Những nghiên cứu chỉ ra rằng các loại thực phẩm giàu vitamin C như đu đủ rất tốt cho những người bị viêm khớp dạng thấp ở hai hoặc nhiều khớp.
Các lợi ích khác: Các chất xơ được tìm thấy trong đu đủ cũng có thể cải thiện các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích.
Tăng cường hệ miễn dịch: Ngoài vitamin C, đu đủ còn có nhiều vitamin A cần thiết cho các chức năng trong cơ thể và tạo nên một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh. Đu đủ là một trái cây lành mạnh để ngăn ngừa các bệnh như nhiễm trùng tai tái phát, cảm lạnh và cảm cúm.
Các chuyên gia sức khỏe còn coi chất papain có trong đu đủ là một phương thuốc hiệu quả điều trị cho chứng rối loạn bụng. Vì thế, nó là một loại thuốc tốt cho bệnh lỵ, khó tiêu, quá nhiều lượng a xit và táo bón.
Làm đẹp da: Nếu như bạn bị nổi mụn, bạn có thể lấy nhựa màu trắng của đu đủ xanh để cọ xát vào mặt. Điều này sẽ giúp điều trị mụn, mang đến cho bạn một làn da căng mịn và loại bỏ nếp nhăn.
Thảo Nguyên (Theo Vitaminsdiary) Trong quả đu đủ, đặc biệt là đu đủ xanh có chứa papain, một loại enzyme giúp tiêu hóa protein trong cơ thể. Ngoài ra, enzyme này cũng được sử dụng để điều trị chấn thương khi chơi thể thao hoặc ứng phó với các nguyên nhân khác gây chấn thương, dị ứng khác.
Lợi ích sức khỏe của đu đủ
Bệnh tim: đu đủ có thể rất hữu ích cho công tác phòng chống xơ vữa động mạch và bệnh tim, tiểu đường.
Chất chống ô xy hóa mạnh mẽ: Đu đủ là một nguồn vitamin C tuyệt vời cũng như một nguồn vitamin E và beta-carotene dồi dào. Đây được coi là 3 chất chống oxy hóa rất mạnh, có lợi cho sức khỏe con người.
Giảm đau tim, đột quỵ: Những dưỡng chất trong đu đủ còn giúp ngăn chặn sự oxy hóa cholesterol. Khi cholesterol bị oxy hóa sẽ có thể dính và tích tụ trong thành mạch máu, tạo thành mảng bám nguy hiểm mà cuối cùng có thể gây ra cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Giảm cholesterol cao: đu đủ cũng là một nguồn chất xơ dồi dào nên có tác dụng giảm mức cholesterol cao.
Axit amin lành tính: Các acid folic được tìm thấy trong đu đủ cần thiết cho việc chuyển đổi chất gọi là homocysteine thành các axit amin lành tính, có lợi cho cơ thể.
Bởi vì nếu chất homocysteine không được chuyển đổi có thể gây thiệt hại cho các thành mạch máu và được xem là một nguy cơ quan trọng tạo nên những cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Chống ung thư: Chất xơ trong đu đủ có thể liên kết với các chất độc gây ung thư trong ruột kết và làm cho chúng đi ra khỏi các tế bào ruột già.
Ngoài ra, đu đủ có nhiều folate, vitamin C, beta-carotene và vitamin E được kết hợp để giảm nguy cơ ung thư ruột kết. Các dưỡng chất này bảo vệ cho tế bào ruột kết, chống lại thiệt hại của các gốc tự do. Do đó, bạn nên tăng cường tiêu thụ các chất dinh dưỡng có trong đu đủ bởi nó thực sự tốt cho những người bị ung thư ruột kết.
Giảm viêm nhiễm: Các enzym có trong đu đủ có thể giúp giảm tình trạng viêm nhiễm và cải thiện những vết bỏng từ nặng đến nhẹ.
Ngoài ra, các chất chống oxy hóa được tìm thấy trong đu đủ cũng rất tốt trong việc giảm bệnh suyễn, viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp nên bạn tích cực ăn đu đủ nhiều. Những nghiên cứu chỉ ra rằng các loại thực phẩm giàu vitamin C như đu đủ rất tốt cho những người bị viêm khớp dạng thấp ở hai hoặc nhiều khớp.
Các lợi ích khác: Các chất xơ được tìm thấy trong đu đủ cũng có thể cải thiện các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích.
Tăng cường hệ miễn dịch: Ngoài vitamin C, đu đủ còn có nhiều vitamin A cần thiết cho các chức năng trong cơ thể và tạo nên một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh. Đu đủ là một trái cây lành mạnh để ngăn ngừa các bệnh như nhiễm trùng tai tái phát, cảm lạnh và cảm cúm.
Các chuyên gia sức khỏe còn coi chất papain có trong đu đủ là một phương thuốc hiệu quả điều trị cho chứng rối loạn bụng. Vì thế, nó là một loại thuốc tốt cho bệnh lỵ, khó tiêu, quá nhiều lượng a xit và táo bón.
Làm đẹp da: Nếu như bạn bị nổi mụn, bạn có thể lấy nhựa màu trắng của đu đủ xanh để cọ xát vào mặt. Điều này sẽ giúp điều trị mụn, mang đến cho bạn một làn da căng mịn và loại bỏ nếp nhăn.
Quế: Có rất nhiều lợi ích từ vỏ quế với sức khỏe đa chiều của bạn mà vẫn chưa khám phá hết!
Quế còn gọi là quế quỳ, quế thanh, nhục quế, quế tâm. Bộ phận dùng chủ yếu là vỏ. Vỏ quế có chứa nhiều tinh dầu, tinh bột, chất nhầy, tanin và chất mầu.
Theo Đông y, quế có vị cay ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào 2 kinh can và thận. Có công dụng bổ hoả, hồi dương, ấm thận, tỳ, tán hàn hoạt huyết. Có tác dụng chữa thũng, đại tiện lỏng, kinh bế do hàn, giải biểu tán hàn, hoá khí, trị kinh giản, chân tay co quắp, lưng gối đau, tê, tiểu tiện không thông.
Sau đây là một số bài thuốc có dùng quế:
Bài Kim quỹ thận khí hoàn: trị thận khí hư hạ nguyên lạnh đêm đi tiểu nhiều, chân tay đầu gối yếu, mặt sạm đen, không thiết ăn uống, eo lưng đau, nặng nề nhức mỏi, bụng dưới bất hoà, tiểu tiện không thông lợi: thục địa 320g, đơn bì 120g, phục linh 120g, trạch tả 120g, sơn thù 160g, hoài sơn 160g, phụ tử (nướng) 80g, nhục quế 80g. Tất cả tán nhỏ luyện mật ong làm viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 15-20 viên với rượu ấm, lúc đói, trước bữa ăn, ngày 2 lần.
Bài Hữu quy hoàn: trị nguyên dương không đủ mệnh môn hoả suy, tỳ vị hư lạnh, bụng đau, rốn lạnh, ăn uống kém, ăn vào nôn ra: thục địa 320g, hoài sơn (sao) 160g, sơn thù (sao qua) 120g, câu kỷ tử (sao qua) 160g, đỗ trọng (sao nước gừng) 160g, nhục quế 120g, chế phụ tử 80g, đương quy 120g. Đem thục địa nấu thành cao, các vị kia tán nhỏ rồi trộn chung, giã nhuyễn viên bằng quả táo ta. Mỗi lần uống 2 quả với nước sôi.
Bài Quế tâm tán:
- Trị khí lạnh công tâm, bụng đau, nôn nhiều không muốn ăn uống: quế tâm 40g, cao lương khương 40g, đương quy 40g, thảo đậu khấu (bỏ vỏ) 60g, hậu phác 80g (bỏ vỏ thô, tẩm nước gừng sao) nhân sâm 40g. Tất cả nghiền nhỏ cùng với nước cháo làm viên mỗi viên bằng hạt ngô đồng (3/10g) mỗi lần uống 20 viên với nước cháo hoặc nước cơm trước bữa ăn.
- Trị tâm đau, buồn bực phiền não: nhục quế 20g, nghiền nhỏ, dùng rượu 100ml sắc còn 50ml uống nóng.
Bài Quế phụ đỗ trọng thang:
- Trị thực hàn, eo lưng đau, miệng lưỡi xanh, âm nang co, mình rét run, mạch huyền khẩn: Nhục quế 12g, phụ tử 12g, đỗ trọng 8g. Sắc uống nóng.
- Trị sau đẻ trong bụng kết cục (hà) đau: bột quế uống với rượu ấm 1-2g, uống ngày 3 lần.
Bài Quế liên hoàn: trị trẻ con đi lỵ đỏ trắng, bụng đau không ăn được: nhục quế, hoàng liên lượng bằng nhau, tán nhỏ, hồ trộn làm hoàn bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 5-10 với nước cơm.
Bài Quế can hoàn: trị trẻ con đái dầm nhục quế nghiền nhỏ, gan gà trống 1 bộ, hai vị lượng bằng nhau, giã nhừ, viên như hạt đậu xanh.Uống ngày 3 lần, mỗi lần 5-10g với nước ấm.
Bài Dưng hoà thang:
- Trị hạc tất phong và các loại âm thư: thục địa 40g, nhục quế 4g, ma hoàng 2g, bạch giới tử 8g, lộc giác giao 12g, sinh cam thảo 4g, gừng nướng đen 2g. Sắc uống.
- Trị bị ngã, bị đánh, bị thương trong bụng có máu ứ: nhục quế 80g, đương quy 80g, bồ hoàng 100g. Tán nhỏ uống ngày ba lần, đêm 1 lần với rượu, mỗi lần 1 thìa cà phê.
- Trị hư hàn hầu họng đau: nhục quế, gừng khô, cam thảo các vị đều 2g, tán nhỏ hoà nước ấm rồi ngậm, từ từ nuốt nước thuốc.
- Trị ngứa da: quế, riềng, tế tân đều 2g, ban miêu (sâu đậu) 10 con nghiền nát, rượu trắng 150g, ngâm 7 ngày mỗi ngày khuấy đều 1 lần rồi lọc lấy nước. Rửa sạch chỗ ngứa sần rồi xoa thuốc này ngày 1 lần. Kiêng uống rượu và các món ăn có tính kích thích, dị ứng, động phong.
Chú ý: người có thể âm hư không được dùng. Phụ nữ có thai thận trọng khi dùng.
Theo Đông y, quế có vị cay ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào 2 kinh can và thận. Có công dụng bổ hoả, hồi dương, ấm thận, tỳ, tán hàn hoạt huyết. Có tác dụng chữa thũng, đại tiện lỏng, kinh bế do hàn, giải biểu tán hàn, hoá khí, trị kinh giản, chân tay co quắp, lưng gối đau, tê, tiểu tiện không thông.
Bài Kim quỹ thận khí hoàn: trị thận khí hư hạ nguyên lạnh đêm đi tiểu nhiều, chân tay đầu gối yếu, mặt sạm đen, không thiết ăn uống, eo lưng đau, nặng nề nhức mỏi, bụng dưới bất hoà, tiểu tiện không thông lợi: thục địa 320g, đơn bì 120g, phục linh 120g, trạch tả 120g, sơn thù 160g, hoài sơn 160g, phụ tử (nướng) 80g, nhục quế 80g. Tất cả tán nhỏ luyện mật ong làm viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 15-20 viên với rượu ấm, lúc đói, trước bữa ăn, ngày 2 lần.
Bài Hữu quy hoàn: trị nguyên dương không đủ mệnh môn hoả suy, tỳ vị hư lạnh, bụng đau, rốn lạnh, ăn uống kém, ăn vào nôn ra: thục địa 320g, hoài sơn (sao) 160g, sơn thù (sao qua) 120g, câu kỷ tử (sao qua) 160g, đỗ trọng (sao nước gừng) 160g, nhục quế 120g, chế phụ tử 80g, đương quy 120g. Đem thục địa nấu thành cao, các vị kia tán nhỏ rồi trộn chung, giã nhuyễn viên bằng quả táo ta. Mỗi lần uống 2 quả với nước sôi.
Bài Quế tâm tán:
- Trị khí lạnh công tâm, bụng đau, nôn nhiều không muốn ăn uống: quế tâm 40g, cao lương khương 40g, đương quy 40g, thảo đậu khấu (bỏ vỏ) 60g, hậu phác 80g (bỏ vỏ thô, tẩm nước gừng sao) nhân sâm 40g. Tất cả nghiền nhỏ cùng với nước cháo làm viên mỗi viên bằng hạt ngô đồng (3/10g) mỗi lần uống 20 viên với nước cháo hoặc nước cơm trước bữa ăn.
- Trị tâm đau, buồn bực phiền não: nhục quế 20g, nghiền nhỏ, dùng rượu 100ml sắc còn 50ml uống nóng.
- Trị thực hàn, eo lưng đau, miệng lưỡi xanh, âm nang co, mình rét run, mạch huyền khẩn: Nhục quế 12g, phụ tử 12g, đỗ trọng 8g. Sắc uống nóng.
- Trị sau đẻ trong bụng kết cục (hà) đau: bột quế uống với rượu ấm 1-2g, uống ngày 3 lần.
Bài Quế liên hoàn: trị trẻ con đi lỵ đỏ trắng, bụng đau không ăn được: nhục quế, hoàng liên lượng bằng nhau, tán nhỏ, hồ trộn làm hoàn bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 5-10 với nước cơm.
Bài Quế can hoàn: trị trẻ con đái dầm nhục quế nghiền nhỏ, gan gà trống 1 bộ, hai vị lượng bằng nhau, giã nhừ, viên như hạt đậu xanh.Uống ngày 3 lần, mỗi lần 5-10g với nước ấm.
Bài Dưng hoà thang:
- Trị hạc tất phong và các loại âm thư: thục địa 40g, nhục quế 4g, ma hoàng 2g, bạch giới tử 8g, lộc giác giao 12g, sinh cam thảo 4g, gừng nướng đen 2g. Sắc uống.
- Trị bị ngã, bị đánh, bị thương trong bụng có máu ứ: nhục quế 80g, đương quy 80g, bồ hoàng 100g. Tán nhỏ uống ngày ba lần, đêm 1 lần với rượu, mỗi lần 1 thìa cà phê.
- Trị ngứa da: quế, riềng, tế tân đều 2g, ban miêu (sâu đậu) 10 con nghiền nát, rượu trắng 150g, ngâm 7 ngày mỗi ngày khuấy đều 1 lần rồi lọc lấy nước. Rửa sạch chỗ ngứa sần rồi xoa thuốc này ngày 1 lần. Kiêng uống rượu và các món ăn có tính kích thích, dị ứng, động phong.
Chú ý: người có thể âm hư không được dùng. Phụ nữ có thai thận trọng khi dùng.
"Hòn bi" đau có phải bị ung thư tinh hoàn?
Hai bìu chứa hai “quả trứng” có hiện tượng “thốn” hơi nhói nhưng không đau. Lúc bị lúc không. Hiện nay ở vùng dưới của tôi thường thấy dấu hiệu “tưng tức” khó chịu. Hai bìu chứa hai “quả trứng” có hiện tượng “thốn” hơi nhói nhưng không đau. Lúc bị lúc không. Các dấu hiệu đó có phải là bị ung thư hay không?
Trả lời:
Để có thể phát hiện ung thư tinh hoàn, cách tốt nhất là biết tự phát hiện. Tinh hoàn bình thường của người trưởng thành chỉ to bằng ngón tay cái của người đó, không đau, mặt nhẵn. Sau khi tắm nước nóng, sờ nắn nhẹ nhàng, tinh hoàn nếu thấy đau, có u nhỏ hay không nhẵn thì nên đi khám để được thầy thuốc xác định.
Ung thư tinh hoàn phát triển từ những tế bào của tinh hoàn, là bệnh lý của nam giới trẻ, ở độ tuổi từ 15-30. Những điều kiện thuận lợi để ung thư tinh hoàn phát triển là: gia đình có tiền sử ung thư, tinh hoàn không xuống bìu trong tuổi thiếu niên, tinh hoàn đã bị chấn thương, viêm tinh hoàn do quai bị sau tuổi dậy thì, người mẹ đã được điều trị bằng hormon trước khi sinh.
Giai đoạn đầu của ung thư tinh hoàn thường không có dấu hiệu gì đặc biệt, chỉ thấy tinh hoàn to và rắn khi sờ nắn cũng có thể không đau hoặc hơi đau. Đôi khi có thêm cảm giác nằng nặng ở bìu, gai sốt và hơi đau ở vú. Nếu được phát hiện sớm thì đối với thể ung thư tinh hoàn thường gặp nhất là ung thư tuyến tinh (Seminoma) thì tỷ lệ chữa khỏi có thể gần 100%.
Cách đề phòng là cần tập thói quen tự kiểm tra tinh hoàn ít nhất mỗi tháng 1 lần, nếu thấy có cục cứng dù có vẻ nhỏ cũng cần được thầy thuốc chuyên khoa về các vấn đề tiết niệu và sinh dục khám.
Mào tinh sưng ít thường không nguy hiểm nhưng có cục cứng ở tinh hoàn thì không bao giờ vô hại và hầu hết những trường hợp sưng đều cần được làm sinh thiết (lấy một ít mô tinh hoàn để xét nghiệm xem có bị ung thư không).
Cách điều trị duy nhất với ung thư tinh hoàn là mổ cắt bỏ tinh hoàn bị bệnh, để lại tinh hoàn lành do đó khả năng tình dục và sinh sản ít khi bị ảnh hưởng nhiều. Liệu pháp tia xạ, hoá liệu pháp và mổ cắt bỏ hạch có thể thực hiện để điều trị bổ sung.
Theo BS. Thu Xuân (Sức Khỏe & Đời Sống)
Để có thể phát hiện ung thư tinh hoàn, cách tốt nhất là biết tự phát hiện. Tinh hoàn bình thường của người trưởng thành chỉ to bằng ngón tay cái của người đó, không đau, mặt nhẵn. Sau khi tắm nước nóng, sờ nắn nhẹ nhàng, tinh hoàn nếu thấy đau, có u nhỏ hay không nhẵn thì nên đi khám để được thầy thuốc xác định.
Ung thư tinh hoàn phát triển từ những tế bào của tinh hoàn, là bệnh lý của nam giới trẻ, ở độ tuổi từ 15-30. Những điều kiện thuận lợi để ung thư tinh hoàn phát triển là: gia đình có tiền sử ung thư, tinh hoàn không xuống bìu trong tuổi thiếu niên, tinh hoàn đã bị chấn thương, viêm tinh hoàn do quai bị sau tuổi dậy thì, người mẹ đã được điều trị bằng hormon trước khi sinh.
Cách đề phòng là cần tập thói quen tự kiểm tra tinh hoàn ít nhất mỗi tháng 1 lần, nếu thấy có cục cứng dù có vẻ nhỏ cũng cần được thầy thuốc chuyên khoa về các vấn đề tiết niệu và sinh dục khám.
Mào tinh sưng ít thường không nguy hiểm nhưng có cục cứng ở tinh hoàn thì không bao giờ vô hại và hầu hết những trường hợp sưng đều cần được làm sinh thiết (lấy một ít mô tinh hoàn để xét nghiệm xem có bị ung thư không).
Cách điều trị duy nhất với ung thư tinh hoàn là mổ cắt bỏ tinh hoàn bị bệnh, để lại tinh hoàn lành do đó khả năng tình dục và sinh sản ít khi bị ảnh hưởng nhiều. Liệu pháp tia xạ, hoá liệu pháp và mổ cắt bỏ hạch có thể thực hiện để điều trị bổ sung.
Theo BS. Thu Xuân (Sức Khỏe & Đời Sống)
Có nên chọn ngày, giờ để sinh con?
Yếu tố tâm linh là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nhiều sản phụ chọn phương pháp phẫu thuật thay vì sinh đẻ tự nhiên. Nhưng có thật sự là ai sinh vào ngày, giờ "vàng" cũng tốt không? Và việc chọn ngày, giờ để sinh con có những ảnh hưởng như thế nào đến thai phụ và thai nhi?
Những con số đáng báo động
Theo nghiên cứu mới đây của nhóm bác sĩ Bệnh viện phụ sản TƯ và Trường Đại học Y Hà Nội, tỷ lệ mổ lấy thai ở nước ta đang có xu hướng tăng dần. Hiện, tỷ lệ này ở Bệnh viện phụ sản TƯ là gần 41%, Bệnh viện phụ sản Hà Nội là hơn 43%. Trong số 423 bà mẹ (ở hai quận Hoàn Kiếm, Gia Lâm) tham gia nghiên cứu, có 30,3% bà mẹ mổ lấy thai, trong đó, 14% muốn mổ lấy thai để chọn được ngày, giờ sinh tốt cho đứa trẻ và 16,7% là do chịu sự tác động từ phía gia đình...
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thời điểm tỷ lệ mổ đẻ chiếm tới 60% các ca sinh nở.
Con số thấp hơn, như ở Bệnh viện TP Hồ Chí Minh các ca mổ đẻ cũng chiếm trên 30%. Tại Bệnh viện Đà Nẵng, tỷ lệ này cũng trên 40% ca mổ đẻ. Trong khi đó, mức trung bình trên thế giới chỉ chiếm trên 10% tổng số các ca sinh.
Sinh mổ mang lại nhiều nguy cơ cho mẹ và con
Nhiều nguy cơ cho mẹ và con
Theo các bác sĩ, có thể tiến hành các ca mổ đẻ trước từ mấy tuần tuổi, miễn sao đảm bảo theo tiêu chuẩn, chỉ định của ngành y tế. Nhưng việc can thiệp thai nhi sớm, chắc chắn làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của bào thai cũng như đứa trẻ sau này và cả người mẹ nữa.
Theo đó, dù nguyên nhân nào thì việc đứa trẻ chào đời do không được ra bằng đường tự nhiên (trẻ không đi qua ống âm đạo, phổi không bị ép để tống xuất các chất dịch) nên dạ dày và phổi có thể vẫn còn nước ối. Sự tồn ứ dịch trong phổi trẻ làm tăng nguy cơ suy hô hấp, gây bệnh màng trong.
Đây là các bệnh lý rất nặng ở trẻ sơ sinh, việc điều trị đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Ngoài ra, sự chuyển dạ của người mẹ sẽ sản sinh ra nhiều hormon giúp trẻ đề kháng tốt. Những trẻ sinh mổ không trải qua quá trình này sẽ thiếu những hormon cần thiết nên thường yếu hơn những trẻ sinh thường.
Việc sinh mổ còn có thể dẫn đến những biến chứng cho người mẹ trong lần mang thai sau, nhất là nguy cơ chửa ngoài dạ con, vỡ tử cung ở mẹ, nhau thai bám vào vết mổ cũ... rồi lần sinh con sau hầu như đều phải mổ, quá trình mang thai sau cũng phải theo dõi sát sao, căng thẳng hơn.
Vì vậy, trước khi đề nghị chọn ngày giờ sinh mổ, sản phụ cần tìm hiểu kỹ những ích lợi và tác hại của nó, lắng nghe những tư vấn của bác sĩ. Nếu bác sĩ không chỉ định mổ lấy thai, sản phụ nên sinh con theo cách tự nhiên.
Bác sĩ sẽ chỉ định cho sinh mổ trong một số trường hợp như: thai quá to, người mẹ có bệnh nhiễm khuẩn có thể gây lây nhiễm cho bé trong khi sinh thường hay dị tật về cơ thể, mẹ mang thai nhiều bé cùng một lúc, trẻ bị tràng hoa quấn cổ có nguy cơ tử vong, thai ngược...
5 nguy hiểm khi phụ nữ có thai béo phì
Và việc chọn ngày, giờ để sinh con có những ảnh hưởng như thế nào đến thai phụ và thai nhi?
Ngày càng có nhiều sản phụ chọn phương pháp sinh mổ, họ quan niệm rằng việc phẫu thuật giúp họ lựa chọn được ngày sinh, tháng đẻ, giờ sinh và cả bác sĩ mát tay và số giường, số phòng... để sinh con quý tử, hợp với bố mẹ...Yếu tố tâm linh là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nhiều sản phụ chọn phương pháp phẫu thuật thay vì sinh đẻ tự nhiên. Nhưng có thật sự là ai sinh vào ngày, giờ "vàng" cũng tốt không? Và việc chọn ngày, giờ để sinh con có những ảnh hưởng như thế nào đến thai phụ và thai nhi?
Những con số đáng báo động
Theo nghiên cứu mới đây của nhóm bác sĩ Bệnh viện phụ sản TƯ và Trường Đại học Y Hà Nội, tỷ lệ mổ lấy thai ở nước ta đang có xu hướng tăng dần. Hiện, tỷ lệ này ở Bệnh viện phụ sản TƯ là gần 41%, Bệnh viện phụ sản Hà Nội là hơn 43%. Trong số 423 bà mẹ (ở hai quận Hoàn Kiếm, Gia Lâm) tham gia nghiên cứu, có 30,3% bà mẹ mổ lấy thai, trong đó, 14% muốn mổ lấy thai để chọn được ngày, giờ sinh tốt cho đứa trẻ và 16,7% là do chịu sự tác động từ phía gia đình...
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thời điểm tỷ lệ mổ đẻ chiếm tới 60% các ca sinh nở.
Con số thấp hơn, như ở Bệnh viện TP Hồ Chí Minh các ca mổ đẻ cũng chiếm trên 30%. Tại Bệnh viện Đà Nẵng, tỷ lệ này cũng trên 40% ca mổ đẻ. Trong khi đó, mức trung bình trên thế giới chỉ chiếm trên 10% tổng số các ca sinh.
Nhiều nguy cơ cho mẹ và con
Theo các bác sĩ, có thể tiến hành các ca mổ đẻ trước từ mấy tuần tuổi, miễn sao đảm bảo theo tiêu chuẩn, chỉ định của ngành y tế. Nhưng việc can thiệp thai nhi sớm, chắc chắn làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của bào thai cũng như đứa trẻ sau này và cả người mẹ nữa.
Theo đó, dù nguyên nhân nào thì việc đứa trẻ chào đời do không được ra bằng đường tự nhiên (trẻ không đi qua ống âm đạo, phổi không bị ép để tống xuất các chất dịch) nên dạ dày và phổi có thể vẫn còn nước ối. Sự tồn ứ dịch trong phổi trẻ làm tăng nguy cơ suy hô hấp, gây bệnh màng trong.
Đây là các bệnh lý rất nặng ở trẻ sơ sinh, việc điều trị đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Ngoài ra, sự chuyển dạ của người mẹ sẽ sản sinh ra nhiều hormon giúp trẻ đề kháng tốt. Những trẻ sinh mổ không trải qua quá trình này sẽ thiếu những hormon cần thiết nên thường yếu hơn những trẻ sinh thường.
Việc sinh mổ còn có thể dẫn đến những biến chứng cho người mẹ trong lần mang thai sau, nhất là nguy cơ chửa ngoài dạ con, vỡ tử cung ở mẹ, nhau thai bám vào vết mổ cũ... rồi lần sinh con sau hầu như đều phải mổ, quá trình mang thai sau cũng phải theo dõi sát sao, căng thẳng hơn.
Vì vậy, trước khi đề nghị chọn ngày giờ sinh mổ, sản phụ cần tìm hiểu kỹ những ích lợi và tác hại của nó, lắng nghe những tư vấn của bác sĩ. Nếu bác sĩ không chỉ định mổ lấy thai, sản phụ nên sinh con theo cách tự nhiên.
Bác sĩ sẽ chỉ định cho sinh mổ trong một số trường hợp như: thai quá to, người mẹ có bệnh nhiễm khuẩn có thể gây lây nhiễm cho bé trong khi sinh thường hay dị tật về cơ thể, mẹ mang thai nhiều bé cùng một lúc, trẻ bị tràng hoa quấn cổ có nguy cơ tử vong, thai ngược...
5 nguy hiểm khi phụ nữ có thai béo phì
Với những phụ nữ đang mang thai, béo phì làm tăng khả năng sẩy thai, tiền sản giật và dị tật bẩm sinh ở thai nhi.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, thu nhập cá nhân được cải thiện cũng như những thay đổi về lối sống và hành vi ăn uống khiến ngày càng nhiều người trẻ thừa cân và béo phì. Đáng lo là trong đó có những người phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ.
Thừa cân và béo phì có thể gây nên những hậu quả xấu về sức khỏe lâu dài như gia tăng nguy cơ đái tháo đường type 2, bệnh tim mạch và một số loại ung thư. Béo phì còn nguy hiểm ở chỗ nó có thể gây nên những bất lợi tức thời cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vì làm tăng nguy cơ vô sinh.
Với những phụ nữ đang mang thai, béo phì làm tăng khả năng sẩy thai, tiền sản giật và dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Một điều đáng quan ngại nữa là, những bằng chứng khoa học gần đây đã cho thấy trẻ sinh ra từ các bà mẹ béo phì sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh béo phì, đái tháo đường type 2 và bệnh tim mạch về sau.
Điều này có thể là do những biến đổi bên ngoài bộ gen của phôi thai vì những thay đổi của môi trường tử cung ở những bà mẹ béo phì.
Béo phì- khó thụ thai
Béo phì thường liên quan với hội chứng buồng trứng đa nang, tăng đề kháng insuline cùng những rối loạn nội tiết khác ảnh hưởng không thuận lợi đến quá trình phát triển trứng và rụng trứng bình thường.
Ngay trong trường hợp trứng đã rụng thì tình trạng thừa cân cũng làm cho trứng này khó có thể thụ tinh và làm tổ bình thường được.
Giảm khả năng sống của phôi thai
Chất lượng của phôi từ những phụ nữ béo phì cũng kém hơn bình thường. Quá trình thụ tinh và làm tổ trong tử cung cũng rất mong manh và dễ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi chuyển hóa.
Các nghiên cứu cũng cho thấy béo phì sẽ gây nên những xáo trộn bất lợi này, do đó có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện dị tật bẩm sinh. Ngay cả ở những thai nhi sống sót thì những biến đổi trong môi trường tử cung của người mẹ béo phì cũng được lưu lại một cách bền vững ở thai nhi thông qua những quá trình tương tác phức tạp để rồi sau đó gây hậu quả bất lợi khi trẻ lớn lên.
Tăng các biến cố sản khoa
Bên cạnh tăng cao nguy cơ xuất hiện dị tật bẩm sinh, tiền sản giật và thai chết lưu ở phụ nữ mang thai mắc chứng béo phì, thì tỉ lệ sẩy thai cũng cao hơn ở những đối tượng này.
Các nhà khoa học giải thích rằng tỉ lệ sẩy cao có thể là do bản thân chất lượng phôi kém như đã nói ở trên cộng với những thay đổi bất lợi của lớp nội mạc tử cung do béo phì.
Khó khăn trong giai đoạn nuôi con
Tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ thừa cân và béo phì thấp hơn rõ rệt so với những bà mẹ có cân nặng trong giới hạn bình thường. Ngoài những khó khăn trong việc ngậm bắt vú và nút sữa hiệu quả của trẻ thì còn có lý do: động tác mút của trẻ sẽ kích thích não người mẹ tiết ra một loại hormone có tên là prolactin, một loại hormone gây tiết sữa.
Ở phụ nữ béo phì, động tác mút của con không thể gây tiết prolactin như bình thường. Chính vì vậy các bà mẹ béo phì thường hay cho con ngưng bú sớm.
Trong khi đó, việc bú mẹ có ý nghĩa rất quan trọng vì có thể tăng cường miễn dịch cho trẻ sơ sinh và giảm nguy cơ mắc bệnh khác như bệnh đường tiêu hóa, viêm khớp thiếu niên, dị ứng, hen phế quản và chàm. Trẻ được bú mẹ cũng giảm nguy cơ béo phì về sau. Một số nghiên cứu còn cho rằng bú mẹ có thể giúp não bộ phát triển một cách tối ưu.
Can thiệp trước khi muộn
Những can thiệp nhằm cải thiện dự hậu của những bà mẹ thừa cân và béo phì thường chỉ tập trung vào hạn chế tăng cân trong thai kỳ. Tuy nhiên những nguy cơ cho thai có thể đã xuất hiện ngay cả trước khi thụ thai và ngay trong thời kỳ sớm của quá trình mang thai, ví dụ quá trình phát triển trứng, phóng noãn, thụ thai, thời kỳ di chuyển trong vòi trứng và làm tổ ở tử cung.
Việc hạn chế tăng cân trong thai kỳ có thể có ích trong phòng ngừa những biến cố sản khoa bất lợi nhưng nó không làm thay đổi những bất thường đã xuất hiện trước đó. Chính vì vậy việc chú ý kiểm soát cân nặng ở những phụ nữ đang ở độ tuổi sinh nở là biện pháp phòng ngừa cần thiết.
Thừa cân và béo phì có thể gây nên những hậu quả xấu về sức khỏe lâu dài như gia tăng nguy cơ đái tháo đường type 2, bệnh tim mạch và một số loại ung thư. Béo phì còn nguy hiểm ở chỗ nó có thể gây nên những bất lợi tức thời cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ vì làm tăng nguy cơ vô sinh.
Với những phụ nữ đang mang thai, béo phì làm tăng khả năng sẩy thai, tiền sản giật và dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Một điều đáng quan ngại nữa là, những bằng chứng khoa học gần đây đã cho thấy trẻ sinh ra từ các bà mẹ béo phì sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh béo phì, đái tháo đường type 2 và bệnh tim mạch về sau.
Điều này có thể là do những biến đổi bên ngoài bộ gen của phôi thai vì những thay đổi của môi trường tử cung ở những bà mẹ béo phì.
Béo phì- khó thụ thai
Béo phì thường liên quan với hội chứng buồng trứng đa nang, tăng đề kháng insuline cùng những rối loạn nội tiết khác ảnh hưởng không thuận lợi đến quá trình phát triển trứng và rụng trứng bình thường.
Giảm khả năng sống của phôi thai
Chất lượng của phôi từ những phụ nữ béo phì cũng kém hơn bình thường. Quá trình thụ tinh và làm tổ trong tử cung cũng rất mong manh và dễ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi chuyển hóa.
Các nghiên cứu cũng cho thấy béo phì sẽ gây nên những xáo trộn bất lợi này, do đó có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện dị tật bẩm sinh. Ngay cả ở những thai nhi sống sót thì những biến đổi trong môi trường tử cung của người mẹ béo phì cũng được lưu lại một cách bền vững ở thai nhi thông qua những quá trình tương tác phức tạp để rồi sau đó gây hậu quả bất lợi khi trẻ lớn lên.
Tăng các biến cố sản khoa
Bên cạnh tăng cao nguy cơ xuất hiện dị tật bẩm sinh, tiền sản giật và thai chết lưu ở phụ nữ mang thai mắc chứng béo phì, thì tỉ lệ sẩy thai cũng cao hơn ở những đối tượng này.
Các nhà khoa học giải thích rằng tỉ lệ sẩy cao có thể là do bản thân chất lượng phôi kém như đã nói ở trên cộng với những thay đổi bất lợi của lớp nội mạc tử cung do béo phì.
Khó khăn trong giai đoạn nuôi con
Tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ thừa cân và béo phì thấp hơn rõ rệt so với những bà mẹ có cân nặng trong giới hạn bình thường. Ngoài những khó khăn trong việc ngậm bắt vú và nút sữa hiệu quả của trẻ thì còn có lý do: động tác mút của trẻ sẽ kích thích não người mẹ tiết ra một loại hormone có tên là prolactin, một loại hormone gây tiết sữa.
Ở phụ nữ béo phì, động tác mút của con không thể gây tiết prolactin như bình thường. Chính vì vậy các bà mẹ béo phì thường hay cho con ngưng bú sớm.
Trong khi đó, việc bú mẹ có ý nghĩa rất quan trọng vì có thể tăng cường miễn dịch cho trẻ sơ sinh và giảm nguy cơ mắc bệnh khác như bệnh đường tiêu hóa, viêm khớp thiếu niên, dị ứng, hen phế quản và chàm. Trẻ được bú mẹ cũng giảm nguy cơ béo phì về sau. Một số nghiên cứu còn cho rằng bú mẹ có thể giúp não bộ phát triển một cách tối ưu.
Can thiệp trước khi muộn
Những can thiệp nhằm cải thiện dự hậu của những bà mẹ thừa cân và béo phì thường chỉ tập trung vào hạn chế tăng cân trong thai kỳ. Tuy nhiên những nguy cơ cho thai có thể đã xuất hiện ngay cả trước khi thụ thai và ngay trong thời kỳ sớm của quá trình mang thai, ví dụ quá trình phát triển trứng, phóng noãn, thụ thai, thời kỳ di chuyển trong vòi trứng và làm tổ ở tử cung.
Việc hạn chế tăng cân trong thai kỳ có thể có ích trong phòng ngừa những biến cố sản khoa bất lợi nhưng nó không làm thay đổi những bất thường đã xuất hiện trước đó. Chính vì vậy việc chú ý kiểm soát cân nặng ở những phụ nữ đang ở độ tuổi sinh nở là biện pháp phòng ngừa cần thiết.
10 ngộ nhận sai lầm về kinh nguyệt của phụ nữ
Mọi chị em đều biết, trong thời gian kinh nguyệt có rất nhiều điều cần được quan tâm. Nhưng những hiểu biết trong thời kỳ này cái gì là đúng, cái gì là sai thì không nhiều người biết. Bài viết này sẽ giúp bạn hóa giải được một vài ngộ nhận. Hy vọng rằng bạn có thể ghi nhớ và cố gắng tránh những tin đồn không đúng.
Ngộ nhận 1: Chu kỳ kinh nguyệt là cố định, nếu không phải thì điều đó không bình thường
Trên thực tế thì kinh nguyệt bình thường bao gồm 3 yếu tố: chu kỳ khoảng từ 21-35 ngày, thời gian kéo dài từ 2-7 ngày; và lượng máu trong kỳ khoảng 30-50 ml máu. Miễn là chu kỳ của bạn nằm trong giới hạn dao động trên thì sức khỏe kinh nguyệt của bạn là bình thường.
Ngộ nhận 2: Ăn đồ ngọt có thể điều trị đau bụng kinh
Lập luận này không có cơ sở khoa học, ăn đồ ngọt quá nhiều không những không thể loại trừ hội chứng đau bụng trong chu kỳ kinh nguyệt mà còn có thể làm lượng đường trong máu không ổn định, làm tăng sự khó chịu.
Ngộ nhận 3: Sau khi kết hôn đau bụng kinh sẽ biến mất
Sau khi mang thai một số triệu chứng đau bụng kinh có thể giảm, nguyên nhân chủ yếu là do mang thai gây ra những thay đổi của một số giao cảm. Nhưng không phải tất cả phụ nữ đều có may mắn đó nên bạn đừng quá kỳ vọng.
Ngộ nhận 4: Quan hệ tình dục trong kỳ kinh nguyệt có thể kích thích hoạt động của nữ giới
Tình dục chỉ làm trầm trọng thêm xung huyết vùng chậu và đau bụng kinh, kinh nguyệt và nội mạc tử cung. Chưa nói đến việc quan hệ trong thời điểm này rất dễ gây viêm nhiễm hay tổn thương hệ thống sinh sản.
Ngộ nhận 5: Kinh nguyệt ngắn 3 ngày ảnh hưởng đến khả năng làm mẹ
Thông thường, miễn là chu kỳ kinh nguyệt kéo dài trong khoảng 2 – 7 ngày thì nó phản ánh tình trạng sức khỏe bình thường. Miễn là các chu kỳ kinh nguyệt vẫn diễn ra đều đặn thì nó không hề ảnh hưởng đến khả năng làm mẹ của chị em.
Ngộ nhận 6: Mẹ và con gái có cảm giác gần tương tự nhau trong thời kỳ kinh nguyệt
Tuổi có kinh nguyệt có thể được di truyền, nhưng không phải triệu chứng đau bụng kinh cũng di truyền.
Ngộ nhận 7: Máu đen, cục máu đông là báo hiệu bệnh phụ khoa
Cục máu đông xuất hiện trong kỳ kinh nguyệt có thể là do ít vận động. Máu không thể thoát ra ngay lập tức, bị cô đọng lại một thời gian mới được tống ra, do đó có màu sắc tối hơn.
Ngộ nhận 8: Tăng thân nhiệt giúp làm giảm những khó chịu sinh lý
Vai trò của tăng thân nhiệt là tăng lưu thông máu đồng thời giảm sưng, phồng tại vùng được làm nóng. Tuy nhiên nó không phải có tác dụng cho tất cả phụ nữ.
Ngộ nhận 9: Thuốc giảm đau có tác dụng giảm đau bụng kinh
Việc sử dụng thuốc giảm đau trong thời gian dài sẽ gây ra những bất lợi cho sức khỏe, chưa nói đến sinh lý cơ thể. Trừ trường hợp đau bụng kinh thứ cấp, đau vùng chậu quá khó chịu thì bạn hãy tìm đến giải pháp này nhé!
Ngộ nhận 10: Trong thời kỳ kinh nguyệt không nên tập thể dục
Bạn vẫn có thể đi bộ, thể dục nhẹ nhàng và các chuyển động không quá sức khác. Như giải thích trong ngộ nhận thứ 7, nó còn giúp máu nhanh chóng được đào thải, không sinh ra những cục máu đông hay máu đen.
No comments:
Post a Comment