rái cóc là một trái cây nhiệt đới rất được lứa tuổi học trò ua chuộng cùng với ổi, xoài tuợng. Với giới thích nhậu thì cóc chua cùng muối ớt sẽ giúp 'đua cay' vài ba xị đế ! Cóc hiện đang nghiên cứu trồng tại Florida (Hoa Kỳ) và hy vọng trong thời gian ngắn sắp tới trái Cóc sẽ được cung cấp dồi dào tại những nơi tập trung của cộng đồng Việt Nam.
Bộ Canh Nông Hoa Kỳ đã nhập cảng hạt giống cóc từ Liberia vào năm 1909 (tuy nhiên, theo Wester thì cóc đã được trồng tại Miami (Florida) từ 4 năm truớc đó). Năm 1911, một số hạt giống khác đã được gửi từ Queensland (Úc) sang Washington. Hiện nay cây cóc đang được trồng và phát triển tại Florida.
Tên khoa học và các tên gọi khác
Spondias dulcis (hay Spondias cytherea) thuộc họ thực vật Anacardia ceae.
Các tên gọi: Tại Anh-Mỹ: Otaheite apple, Tahitian quince, Polynesian plum, Jew plum . Pháp: Pomme cythere (cây cóc= pommier de Cythère). Ðức: Cytherea, Tahiti-Apfel; Tây ban Nha: Cirnela dulce; Thái Lan: makok-farang; Cambodia: mokak..
Spondias là tên do Theophrastus đặt cho gia đình thực vật này; Dulcis có nghĩa là vị ngọt hay dịu. Tên Ambarella là tên gọi của quả bằng tiếng Bengali.Scientific: Spondias dulcis (Spondias cytherea)
Amberella, Java plum, Great hog plum, Otaheite apple
Dược sĩ Trần Việt Hưng
Trái Cóc là một trái cây nhiệt đới rất được lứa tuổi học trò ưa chuộng cùng với ổi, xoài tượng. Với giới thích nhậu thì cóc chua cùng muối ớt sẽ giúp "đưa cay" vài ba xị đế! Cóc hiện đang nghiên cứu trồng tại Florida (Hoa Kỳ) và hy vọng trong thời gian ngắn sắp tới trái Cóc sẽ được cung cấp dồi dào tại những nơi tập trung của Cộng đồng Việt Nam...
Cây cóc được xem là có nguồn gốc tại vùng Melanesia- Polynesia và sau đó được đến trồng tãi các vùng nhiệt đới của cả Cựu lẫn Tân Thế giới. Cây khá phổ biến tại Mã lai (cây trồng trong vườn), Ấn độ, Tích Lan.. Quả cóc được bán khắp các chợ Việt nam. Cây được nhập vào Philippines từ 1915, sau đó trồng tại Queensland (Úc). Cây được đưa đến Jamaica vào 1782, và 10 năm sau Thuyền trượng Bligh đã đưa thêm vào đây một giống Cóc khác, gốc từ Hawaii. Cây cóc cũng được trồng tại Cuba, Haiti, Cộng hòa Dominican, nhiều nước Trung Mỹ, Venezuela. Bộ Canh nông Hoa Kỳ đã nhập hạt giống Cóc từ Liberia vào năm 1909 (tuy nhiên, theo Wester thì cóc đã được trồng tại Miami (Florida) từ 4 năm trước đó). Năm 1911, một số hạt giống khác đã được gửi từ Queensland (Úc) sang Washington. Hiện nay cây cóc đang được trồng và phát triển tại Florida.
Tên khoa học và các tên gọi khác:
Spondias dulcis (hay Spondias cytherea) thuộc họ thực vật Anacardia ceae.
Các tên gọi: Tại Anh-Mỹ: Otaheite apple, Tahitian quince, Polynesian plum, Jew plum. Pháp : Pomme cythere (cây cóc= pommier de Cythère). Đức: Cytherea, Tahiti-Apfel; Tây ban Nha: Cirnela dulce; Thái Lan: makok-farang ; Cambodia: mokak.
Spondias là tên do Theophrastus đặt cho gia đình thực vật này; Dulcis có nghĩa là vị ngọt hay dịu.Tên Ambarella là tên gọi của quả bằng tiếng Bengali.
Đặc tính thực vật:
Cây cóc thuộc loại cây thân mộc, lớn, mọc nhanh, cao 8-18 m (tại Mỹ châu) thường trung bình 9-12 m, phân nhánh nhiều cành dễ gẫy. Lá kép, lẻ, to, dài 20-60 cm, mọc ở ngọn nhánh; lá mang 7-12 đôi lá chét dài 6.25-10 cm, hình thuôn tròn; mép lá có răng cưa. Vào đầu mua khô, lá cây chuyển đổi sang màu vàng tươi, rụng. Hoa mọc thành chùy to, có thể dài đến 30 cm, chùy mang ít hoa thường thòng xuống. Hoa nhỏ, màu trắng, có 10 nhị. Quả thuộc loại quả hạch, hình trứng hay hình bầu dục, dài 6-8 cm, rộng 4-5 cm, da ngoài vàng-cam; thịt màu vàng-xanh nhạt, dòn, vị chua; Quả mọc thành chùm từ 2-12 quả , thòng xuống. Hạch khá lớn hình bầu dục có nhiều gai dạng sợi dính chặt với thịt, có 5,6 ô cách nhau không đều.
Ngoài ra còn có loại Cóc chua hay Cóc rừng (Spondias pinnata) (tên Anh là Hog plum), thuộc loại tiểu mộc, rụng lá vào mùa khô. Lá kép, lẻ dài 30-40 cm, có 2-5 đôi lá chét quăn, hình bầu dục, mép lá nguyên. Hoa mọc thành chùy rộng, lớn hơn lá, có nhánh dài 10-15 cm. Hoa vàng nhạt. Quả hạch hình trứng màu vàng lớn 5 cm x 3 cm. Quả có vị chua và mùi dầu thông.
Trái cóc với người bị tiểu đường.
Trái cóc là một loại quả có nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài việc trái cóc dùng để ăn (có vị ngọt và hơi chua, rất dễ ăn), lá cóc còn dùng để nấu canh chua - món ăn dân dã được nhiều người ưa chuộng
Nhưng trái cóc còn có tác dụng làm giảm đường trong máu đối với người bị tiểu đường týp II (tức là loại tiểu đường do chế độ ăn uống quá nhiều chất có đường và tinh bột sinh ra. Vì vậy có người còn gọi là bệnh tiểu đường "mắc phải").
Cách làm:
Quả cóc chín vứt bỏ hạt, số lượng không hạn chế, bổ nhỏ sấy hay phơi khô, tán thành bột mịn, để dành (chú ý tránh ẩm mốc bằng cách thỉnh thoảng đổ ra sao qua hay phơi). Cách dùng: Mỗi ngày 3 thìa bột cốc, mỗi lần 1 thìa, trước các bữa ăn sáng, trưa, chiều chừng 30-40 phút. Dùng kéo dài thường xuyên. Sau 1-2 tháng thử lại đường máu 1 lần, nếu nồng độ trở lại bình thường thì có thể giảm số lần uống còn 2 lần/ngày (sáng, chiều).
Cần lưu ý rằng đây không phải là một loại thuốc có tác dụng điều trị tiệt căn bệnh tiểu đường. Vì vậy người bệnh vẫn nên tuân thủ chế độ ăn kiêng của người bị tiểu đường: Không nên ăn các loại có đường, nên bổ sung chất đạm, tốt nhất là đạm thực vật như đậu nành, đậu phụng; ăn nhiều rau có chất xơ và rèn luyện (tốt nhất là đi bộ) để tránh bị thừa cân. Vì ở bệnh nhân tiểu đường týp II rất "nhạy cảm" với tình trạng tăng cân, khi bị tăng cân thì hàm lượng đường trong máu cũng dễ tăng theo.
Giá trị dinh dưỡng:
100 gram quả phần ăn được chứa :
- Calories 157
- Chất đạm 0.5-08 g
- Chất béo 0.28- 1.79 g
- Chất carbohydrate 1.2-9.5 g
(Chất sơ=fiber) : 1.1-8.4g
- Calcium 0.42 g
- Sắt 0.02 g
- Magnesium 0.2 g
- Phosphorus 0.51 g
- Potassium 2 g
- Kẽm 1.9 mg
- Beta-Carotene 16 mg
- Niacin 105 mg
- Riboflavine 1.5 mg
- Vitamin C 42 mg
Về phương diện dinh dưỡng quả Cóc thường được đánh giá là kém hơn Xoài, tuy nhiên nếu để quả chín đúng độ thì vị khá ngon. Quả xanh (lúc còn cứng) có vị hơi chua, dòn, nhiều nước và khá thơm thoảng mùi của dứa, nhưng nếu để mềm thì thành hơi nhão và khó cắt. Quả xanh có thể chế tạo thành sauce, ngâm giấm. Nấu với chút đường rồi ép qua rây, cóc có thể so sánh với applesauce, nhưng thơm hơn. Lá non có vị hơi chua được dùng làm salad tại indonesia, lá đước hấp chín làm rau ăn với cá khô.
Tại Trinidad và Tobago (West Indies), các nhà sản xuất thực phẩm đã dùng nước ép từ quả Cóc pha trộn trong một loại yoghurts (từ sữa bò). Loại ya-ua này được đánh giá về hương vị, khẩu vị khá cao và được xem là một nguồn cung cấp rất tốt về phosphorus và chất đạm.Thành phần hóa học:
Ngoài thành phần dinh dưỡng trên, một số bộ phận khác còn chứa:
Chất nhựa như keo trong màu vàng chứa những đường hữu cơ như D-galactose, D-xylose, L-arabinose, L-fucose, L-rhamnose ; và còn có mono-methyl-glucuronic acid.
Hạt chứa nhiều khoáng chất như Calcium, Magnesium, Phosphorus, Potassium, Sulfur.
Pectin trong Vỏ trái Cóc:
Nghiên cứu tại ĐH Cameroun, phối hợp với Trung Tâm Nghiên cứu Nantes (Pháp) phân chất vỏ của quả cóc (thường bị vất bỏ) ghi nhận Vỏ cóc chứa 9-30% pectin, uronic acid (557-727 mg/g trọng lượng khô), đường trung tính 9125-158 mg/g. Sản lượng pectin cao nhất khi trích bằng dung dịch oxalic acid/ ammonium oxalate, đồng thời pectin lấy được có trọng khối cao, độ methyl hóa tốt nên có thể dùng trong công nghiệp thực phẩm. Pectin trích từ vỏ Cóc có thể so sánh với pectin trích từ chanh xanh (Food Chemistry Số 3, Bộ 106-2008).
Một nghiên cứu khác thực hiện tại ĐH Universidade Federal do Parana, Curitiba (Ba Tây) ghi nhận lượng Carbohydrate tổng cộng trong quả Cóc lên đến 41%. Polysaccharides chiết được bằng nước nóng cho thấy có cấu trúc loại I rhamnogalacturonan với các dây nhánh arabinogalactan. Dịch chiết này có hoạt tính kích khởi sự hoạt động của thực bào nơi màng phúc toan (Fitoterapia Số 76, tháng 12/ 2005).
Nhựa (Gôm của quả Cóc):
Các phân chất về thành phần chất nhựa (gôm) màu nâu nhạt trong trái Cóc tại ĐH La Universidad del Zulia (Venezuela) cho thấy hợp chất polysaccharide trong gôm chứa galactose, arabinose, mannose, rhamnose, glucuronic acid và chất chuyển hóa loại 4-O-methyl. (Carbohydrate Research Số 28-2003)
Vài phương thức sử dụng:
Tại nhiều nơi trên thế giới, Cóc còn được dùng làm thuốc chữa bệnh:
Tại Kampuchea: Vỏ của cây dùng phối hợp với vỏ Chiêu liêu, mỗi thứ 4 mảnh nhỏ, cỡ ngón tay cái, sắc chung trong 2 lit nước, đến còn 0.5 lít, uống để trị tiêu chảy (chia làm 3 lần).
Tại Ấn độ, Cóc chua (Spondias pinnata) được gọi là ambra, jangli am Vỏ cây dùng trị đau bao tử, kiết lỵ; hay nghiền nát trộn nước đắp trị đau khớp xương, và thấp khớp; Quả dùng trị yếu tiêu hóa do mật; Nước sắc từ lá dùng trị xuất huyết. Rễ dùng điều hòa kinh nguyệt.
Tài liệu sử dụng:
Medicinal Plants of india (SK Jain & Robert DeFilipps)
Whole Foods Companion (Dianne Onstad)
Fruit : A Connoisseur's Guide and Cookbook (Alan Davidson)
Fruits of Warm Climates (Julia Morton)
DS Trần Việt Hưng
Quả cóc có khả năng làm sinh tân dịch, kích thích tiêu hóa, giúp ăn ngon miệng, giải khát và giải nhiệt. Khi bị đau họng, chỉ cần chấm thịt quả cóc với muối, nhai thật kỹ, nuốt từ từ là sẽ hết đau.
Trong 100 g thịt quả cóc có 42 mg axit Ascorbic (vitamin C). Nhờ vậy, cóc có tác dụng tăng sức đề kháng cho người bị cảm cúm.
Ngoài ra, vỏ thân cây cóc cũng được dùng để trị bệnh tiêu chảy: cắt 3 miếng vỏ cây (cỡ 2 lóng tay) cho vào một lít nước, đun sôi đến khi còn 250 ml, chia 4 lần uống trong ngày, cách nhau 3 giờ.
Trái Cóc (Spondias dulcis),Trái Cóc cắt làm đôi, Hột trong trái Cóc
(Nguồn: Wikipedia)
Cóc Thái là một loại cây mộc, cũng là cây ăn trái miền nhiệt đới, cùng họ với xoài.
Bản địa của cóc Thái là Trung Mỹ từ Mexico xuống Peru, Brasil và Caribe nhưng đã lan rộng khắp vùng nhiệt đới như châu Phi, Ấn Độ, và Indonesia.
Trái cóc Thái sắc xanh lục, có vị chua và dòn. Vỏ cóc Thái dày nhưng mềm. Cóc Thái có thể ăn sống hay đem muối. Cóc Thái già thì thịt nhiều xơ. Trái cóc Thái chấm muối ớt là món quà rong ăn chơi phổ biến trong giới học trò tại Việt Nam.
Thủ đô nước Thái Lan Bangkok tương truyền là từ chữ "makok" (มะกอก), tiếng Thái có nghĩa là "cóc" mà ra.
Cóc Tahiti (danh pháp khoa học: Spondias dulcis, đồng nghĩa: Spondias cytherea) là một loài cây thân gỗ ở vùng nhiệt đới, với quả ăn được chứa hột nhiều xơ. Tại Trinidad và Tobago nó được gọi là Pommecythere.
Quả cóc có thể ăn tươi; lớp cùi thịt dày, cứng, giòn và có vị hơi chua-ngọt. Tại Indonesia và Malaysia, nó được ăn kèm với một loại nước xốt mặn-ngọt màu đen và đặc, gọi là hayko. Nó cũng là thành phần chế biến món rojak, một món xà lách rau quả trong ẩm thực ở Malaysia, Singapore và Indonesia. Nó cũng thể được dùng để làm nước quả.
Vật liệu:
- 1 kg cóc xanh, 1 kg đường, muối
Cách làm:
Cách làm:
- Cóc gọt vỏ, bỏ cuống, vạt bớt ngang hai đầu trái cóc. Chẻ dọc trái cóc làm tám, đường xẻ ôm sát vào ruột cóc, trẩy múi cóc ra, khéo tay cho múi cóc không gãy, xắt lại múi cóc thành lát dày chừng 2mm.
- Ngâm cóc với 1 lít nước + 50g muối trong khoảng nửa giờ. Vớt ra xả lại nước lạnh để ráo.
- Trộn đều cóc với 1 kg đường cát trắng + 10g ớt tươi băm nhuyễn trong chảo. Ðể cho đến khi thấy tan đường, trộn kỹ lại. Mứt cóc nên làm chua hơn ngọt một chút, vị sẽ hấp dẫn hơn mà vẫn không làm hư mứt dù để lâu.
- Bắc chảo mứt lên bếp, nhỏ lửa, đảo đều tay cho đến khi gắp thử miếng mứt lên thấy đường kéo theo thành sợi là mứt bắt đầu được. Gỡ rời mứt, vắt lên thành chảo. Ðể đến khi chảo nguội, gỡ mứt ra cất vào lọ thuỷ tinh.
Cóc ngâm cam thảo:
Hồi xưa, mỗi lần có dịp đi Sàigòn, thế nào Xeo cũng rinh về mấy chục trái Cóc vàng này, vừa dòn, ngọt, vừa thơm lạ lùng.( thèm quá!)
eva airline vietnam
vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ nhất
hang ve may bay korean
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich
vé máy bay đi canada