Tuesday, September 20, 2011

Kuwait

https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/graphics/flags/large/ku-lgflag.gifKuwait (tiếng Ả Rập: دولة الكويت, Dawlat al Kuwayt, tiếng Việt phiên âm là Cô-oét) là một quốc gia tại Trung Đông. Nằm trên bờ Vịnh Ba tư(Persia), giáp với Arập-Xêút ở phía nam và với Irắc ở hướng Tây và hướng Bắc. Tên nước được rút ra từ trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "Pháo đài được xây dựng gần nước". Dân số gần 3.1 triệu người và diện tích lên đến 17.818 km². 85% dân theo Hồi Giáo. Đây là 1 đất nước có nền quân chủ lập hiến, với Thành phố Kuwait là thủ đô chính trị, kinh tế. Kuwait là nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ 5 trên thế giới và là nước giầu thứ 6 hoàn cầu. Dầu mỏ ở quốc gia này được khám phá và khai thác từ những năm 30, và sau khi nước này giành được độc lập từ tay thực dân Anh năm 1961, nền công nghiệp dầu lửa ở quốc gia vùng vịnh đã có những bước tiến vượt bậc. Dầu khí và các sản phẩm từ dầu khí chiếm xấp xỉ 95% tổng doanh thu từ xuất khẩu và chiếm gần 80% lợi tức của chính phủ.
Hình ảnh Kuwait 1Chính trị
Kuwait theo chế độ quân chủ lập hiến, được điều hành bởi thủ tướng. Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện bao gồm 50 đại biểu được tuyển chọn từ bầu cử và các bộ trưởng. Cựu thủ tướng - ngài tù trưởng Sabah Al-Ahmad Al-Jaber Al-Sabah trở thành thủ lĩnh hồi giáo vào ngày 29 tháng 1 năm 2006, thay thế cho tù trưởng Abdallah Al-Sabah, đã bị bãi chức vào ngày 24 cùng tháng bởi Nghị viện vì những lí do về sức khỏe. Người này chỉ trị vì trong vòng vài ngày, vì ông ta đã nối ngôi Jaber Al-Ahmad Al-Sabah, mất vào ngày 15 tháng 1 năm 2006.
Kuwait 9K2HN CQ WW DX SSB Contest 2009 DX News
Địa lý http://www.memnav.com/im/kuwait-map.gif
*Nằm ở phía Đông-Bắc của Bán đảo Arap, Kuwait là một trong những nước có diện tích nhỏ nhất trên thế giới. Sa mạc Arap bao trùm phần lớn diện tích của đất nước này. Kuwait là nước duy nhất trên thế giới không có một hồ tự nhiên hay hồ chứa nước nào. Đất nước này có 9 hòn đảo, ngoại trừ đảo Failaka thì tất cả số còn lại đều không có người ở. Với diện tích 860km², đảo Bubiyan là đảo lớn nhất ở Kuwait và được nối với phần còn lại của đất nước bằng một chiếc cầu dài 2.380m. Thành phố Kuwait nằm ở trên Vịnh Kuwait là thủ đô. Kuwait là sa mạc, không có nhiều thắng cảnh du lịch nên khi đến Kuwait thì du khách chỉ ghé qua đảo Failaka trong khi Al-Jahara bị tàn phá khá nhiều sau khi Iraq xua quân xâm chiếm, tạo lý cớ cho Bush cha đem quân trừng phạt Saddam Hussein nhưng không chiếm Iraq như Bush con. http://www.cityknown.com/MainPhotos/004/Attractions/2423769920778620.jpghttp://alfanarholidays.com/blog/wp-content/uploads/2010/10/Kuwait-National-Museum.jpg
http://www.360dewan.com/wp-content/uploads/2010/03/IMG_0453.jpgKuwait National Museum
http://farm3.static.flickr.com/2246/2050617770_99dfee641b.jpghttp://static.panoramio.com/photos/original/3257707.jpgKuwait Grand mosque
Kuwait là 1 nước Hồi giáo truyền thống với nhà Sadu và phố chợ thể hiện văn hóa Bedouin nhưng cũng là 1 xứ dầu hỏa giàu có với nhiều khách sạn & shopping mall hiện đại xây theo kiến trúc phương Tây.
Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Péc-xích hay Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait.
Sự kiện dẫn tới chiến tranh là việc Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq cho rằng (nhưng không chứng minh được) Kuwait đã "khoan nghiêng" giếng dầu của họ vào biên giới Iraq. Hậu quả của cuộc xâm chiếm là Iraq ngay lập tức bị Liên Hiệp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1991, dẫn tới một thắng lợi hoàn toàn của các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng ở mức tối thiểu cho lực lượng đồng minh. Những trận đánh chính là những trận đánh trên không và trên bộ bên trong Iraq, Kuwait và những vùng giáp biên giới Ả Rập Saudi. Cuộc chiến không mở rộng ra ngoài vùng biên giới Iraq/Kuwait/Ả Rập Saudi, dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel.
Cuộc chiến vùng Vịnh này được coi là dấu chấm hết cho thời kỳ chung sống hòa bình của thế giới.Trước Thế chiến thứ nhất, theo Hiệp định Anh-Ottoman năm 1913, Kuwait bị coi là một "caza tự trị" bên trong Iraq của Đế chế Ottoman. Sau cuộc chiến, Kuwait thuộc quyền cai trị của Anh và nước này coi Kuwait và Iraq là hai quốc gia riêng biệt, được gọi là Các Tiểu Vương quốc Ả Rập. Tuy nhiên, những quan chức Iraq không chấp nhận tính hợp pháp của nền độc lập của Kuwait hay chính quyền Emir tại Kuwait. Iraq không bao giờ chấp nhận chủ quyền của Kuwait và vào thập kỷ 1960 Anh đã phải triển khai quân đội để bảo vệ Kuwait khỏi ý định sáp nhập của Iraq.
Trong Chiến tranh Iran-Iraqthập niên 1980, Kuwait là đồng minh của Iraq, phần lớn là để được Iraq bảo vệ khỏi những người Shi'iteIran. Sau cuộc chiến, Iraq nợ các nước Ả Rập nhiều khoản tiền lớn, trong đó có 14 tỷ dollar nợ Kuwait. Iraq hy vọng sẽ trả được những khoản nợ đó khi làm tăng giá dầu mỏ thông qua việc cắt giảm sản lượng khai thác của OPEC, nhưng thay vào đó, Kuwait lại tăng lượng khai thác của mình khiến giá dầu giảm sút, trong một nỗ lực nhằm kích thích có được một giải pháp giải quyết tốt hơn cho việc tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, Iraq bắt đầu buộc tội Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ ở vùng biên giới và cho rằng vì Iraq là nước đệm chống lại Iran bảo vệ cho toàn bộ các nước Ả Rập và vì thế Kuwait và Ả Rập Saudi phải đàm phán hay huỷ bỏ những khoản nợ cho chiến tranh của Iraq. Hai lý do ban đầu Tổng thống Iraq Saddam Hussein đưa ra để biện hộ cho cuộc chiến là để xác nhận việc Kuwait từng là một phần của lãnh thổ Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân tách ra một cách không công bằng, và Iraq sáp nhập Kuwait để bù "phí tổn kinh tế" khi họ phải bảo vệ Kuwait trước Iran cũng như việc Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ.
Cuộc chiến với Iran đã khiến hầu hết tất cả các cơ sở cảng biển của Iraq ở Vịnh Péc xích (hay Vịnh Ba Tư) bị huỷ hoại, khiến cho con đường giao thương chính của nước này với bên ngoài bị cản trở. Nhiều người Iraq, cho rằng cuộc chiến với Iran sẽ lại tái diễn trong tương lai, cảm thấy rằng an ninh của Iraq chỉ được đảm bảo khi họ kiểm soát thêm được vùng vịnh Péc xích, gồm cả những cảng biển quan trọng. Vì thế Kuwait chính là một mục tiêu.
Về ý thức hệ, cuộc xâm chiếm Kuwait được biện hộ bởi những lời kêu gọi của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập. Kuwait từng được coi là một phần lãnh thổ tự nhiên của Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân Anh tách ra. Việc sáp nhập Kuwait được miêu tả như là một bước trên con đường tiến tới một Liên hiệp Ả Rập rộng lớn hơn. Các lý do khác cũng được đưa ra. Hussein coi đó là một cách để khôi phục Đế chế Babylon theo cách khoa trương của những người Ả Rập theo chủ nghĩa quốc gia. Cuộc xâm chiếm cũng có quan hệ chặt chẽ với các sự kiện ở vùng Trung Đông. Phong trào Intifada lần thứ nhất của người Palestine đang ở cao trào, và hầu hết các nước Ả Rập, gồm cả Kuwait, Ả Rập Saudi và Ai Cập, đang phải phụ thuộc vào các nước đồng minh phương Tây. Vì thế Saddam xuất hiện với vai trò là một chính khách Ả Rập đứng lên chống lại IsraelHoa Kỳ.
  • Ngày 2 - 8 - 1990: Quân đội Iraq tiến vào Kuwait. Hội đồng bảo an LHQ lên án cuộc xâm lược của Iraq và đòi rút ngay lập tức và không điều kiện các lực lượng của Iraq ra khỏi Kuwaitg
  • ngày 6 - 8 - 1990: Hội đồng bảo an LHQ kêu gọi các nước thành viên LHQ ngừng buôn bán với Iraq để buộc Iraq phải rút quân khỏi Kuwait.
  • Ngày 8 - 8 - 1990: Iraq tuyên bố sát nhập Kuwait vào Iraq. Tổng thống Mỹ, Bush nói các lực lượng chiến đấu đang được triển khai như một bộ phận của các lực lượng đa quốc gia để bảo vệ Ả Rập Saudi.
  • Ngày 12 - 8 - 1990: Tổng thống Iraq Saddam Hussein công bố đề nghị hoà bình gắn việc rút quân đội Iraq với việc rút các lực lượng Ixraen ra khỏi bờ Tây sông Gioóc-đan và Dải Gaza và vấn đề Palestin.
  • Ngày 18 - 8 - 1990: Iraq tuyên bố bắt giữ tất cả người nước ngoài. Hội đồng bảo an LHQ Kêu gọi trả tự do không điều kiện cho những người nước ngoài.
  • Ngày 9 - 9 - 1990: Tổng thống Mỹ Bush và tổng thống Liên Xô Goóc-Ba-chốp kêu gọi rút hoàn toàn và không điều kiện các lực lượng của Iraq ra khỏi Kuwait.
  • Ngày 8 - 11 - 1990: Mỹ quyết định gửi thêm 200000 quân sang Ả Rập Saudi.
  • Ngày 29 - 11 - 1990: Hội đồng bảo an LHQ cho phép sử dụng tất cả những biện pháp can thiệp. Nếu Iraq không chịu rút quân ra khỏi Kuwait vào ngày 15 - 1 - 1991.
  • Ngày 6 - 12 1990: Iraq tuyên bố trả lại tự do cho các con tin người nước ngoài.
  • Ngày 9 - 1 - 1991: Ngoại trưởng Mỹ J Baker và ngoại trưởng Iraq A-dít gặp nhau tại Giơ ne vơ, nhưng không phá vỡ được bế tắc.
  • Ngày 13 - 1 - 1991: Tổng thư ký LHQ Pê-rét Đê Cu-ê-gia gặp Husscin ở Bat-đa, nhưng không đạt được tiến bộ cho một giải pháp hoà bình.
  • Ngày 15 - 1 - 1991: Nghị quyết của hội đồng bảo an LHQ đề ra thời hạn cuối cùng cho việc Iraq rút khỏi Kuwait.
  • Ngày 17 - 1 - 1991: các lực lượng đa quốc gia bắt đầu mở các cuộc tiến công chống quân đội Iraq chiếm đóng Kuwait.
  • Ngày 18 - 1 - 1991: Iraq bắt đầu các cuộc tiến công bằng tên lửa Scud vào IxraenẢ Rập Saudi.
  • Ngày 25 - 1 - 1991: Hoa Kỳ nói Iraq đang xả dầu thô vào vùng Vịnh.
  • Ngày 30 - 1 - 1991: Lực lượng Iraq và đa quốc gia tiến hành cuộc chiến đấu trên bộ ở thành phố Kháp-gi biên giới Ả Rập Saudi
  • Ngày 13 - 2 - 1991: Nhiều dân thường chết Trong cuộc oanh kích của không quân Hoa Kỳ vào một hầm trú ẩn ở BaSra.
  • Ngày 15 - 2 - 1991: Iraq thông báo sẵn sàng rút khỏi Kuwait , nhưng lại gắn với việc đòi Ixraencũng phải rút khỏi những vùng lãnh thổ đã chiếm đóng của các nước Ả Rập.
  • Ngày 21 - 1 - 1991: Tổng thống Saddam Hussein kêu gọi các lực lượng vũ trang và quân đội Iraq chiến đấu tới cùng chống các lực lượng liên minh.
  • Ngày 22 - 1 - 1991: Liên xô và Iraq thoả thuận về đề nghị hoà bình do Liên xô đưa ra, nhưng Hoa Kỳ bác bỏ đề nghị đó và đòi Iraq phải rút quân vào trưa 23 - 2 - 1991.
  • Ngày 24 - 2 - 1991: Liên minh do Hoa Kỳ đứng đầu mở cuộc tiến công trên bộ.
  • Ngày 25 - 2 - 1991: Iraq bắn tên lửa vào các doanh trại quân đội hoa kỳ làm chết 28 lính và bị thương nhiều binh sĩ khác.
  • Ngày 26 - 2 - 1991: Iraq tuyên bố quân đội sẽ rút khỏi Kuwait vào cuối ngày 26 - 2 - 1991.
  • Ngày 27 - 2 - 1991: Hoa Kỳ tuyên bố Kuwait được giải phóng sau gần 7 tháng bị Iraq chiếm đóng và tuyên bố ngừng các cuộc tiến công của đồng minh, bắt đầu có hiệu lực từ 5 giờ GMT ngày 28 - 2 - 1991. Iraq chấp nhận toàn bộ 12 nghị quyết của hội đồng bảo an LHQ.
  • Ngày 28 - 2 - 1991: Chiến tranh chấm dứt sau khi tổng thống Saddam Hussein ra lệnh ngừng chiến đấu.Rạng sáng ngày 2 tháng 8 năm 1990, quân đội Iraq vượt biên giới Kuwait với bộ binhxe bọc thép, chiếm các vị trí chiến lược trên toàn bộ Kuwait, gồm cả cung điện Emir. Quân đội Kuwait nhanh chóng bị áp đảo, dù họ cũng kìm chân địch đủ thời gian cho Không quân Kuwait bay sang trốn ở Ả Rập Saudi. Trận đánh dữ dội nhất diễn ra tại Cung Emir, nơi các lực lượng bảo vệ hoàng gia chiến đấu bọc hậu cho gia đình hoàng gia tẩu thoát. Anh (Em) của Emir, là người chỉ huy đội quân đó, nằm trong số người thiệt mạng. Quân đội Iraq cướp bóc các kho thực phẩm và thuốc men dự trữ, giam giữ hàng nghìn dân thường và chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh. Đã có nhiều báo cáo về các vụ sát hại, những hành động tàn bạo và những vụ hãm hiếp của quân đội Iraq với thường dân Kuwait. Tuy nhiên, Iraq đã giam giữ hàng nghìn người phương Tây làm con tin và sau đó tìm cách đem họ ra làm vật trao đổi. Sau một khi lập nên chính phủ bù nhìn do Alaa Hussein Ali lãnh đạo một thời gian ngắn, Iraq sáp nhập Kuwait. Sau đó Hussein lập ra một thống đốc tỉnh mới này của Iraq, gọi đó là "sự giải phóng" khỏi chế độ Emir của Kuwait, đây chỉ là một biện pháp tuyên truyền trong chiến tranh.Chỉ vài giờ sau cuộc tấn công đầu tiên, các phái đoàn Kuwait và Hoa Kỳ đã yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhóm họp, thông qua Nghị quyết 660, lên án cuộc xâm lược và yêu cầu I-rắc rút quân. Ngày 3 tháng 8, Liên đoàn Ả Rập thông qua nghị quyết của riêng mình lên án cuộc xâm lược và đòi I-rắc rút quân. Nghị quyết của Liên đoàn Ả Rập cũng kêu gọi tìm ra một giải pháp cho cuộc xung đột từ bên trong Liên đoàn Ả Rập, và cảnh báo chống lại sự can thiệp từ bên ngoài. Ngày 6 tháng 8, Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 661, áp đặt trừng phạt kinh tế lên I-rắc.
    Quyết định của phương Tây nhằm đẩy lùi cuộc xâm lược của I-rắc thực chất có mục đích chính là để ngăn Iraq xâm lược Ả Rập Xê-út, một nước có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với Cô-oét, như việc Iraq đã làm với Cô-oét. Thắng lợi nhanh chóng của quân đội I-rắc trước Cô-oét khiến quân đội Iraq đã tiến đến rất gần các giếng dầu ở Hama, là nguồn tài nguyên giá trị nhất của Ả Rập Saudi. Việc I-rắc kiểm soát được các giếng dầu đó cũng như những nguồn tài nguyên dầu lửa của I-rắc và Cô-oét sẽ làm cho họ nắm được một phần quan trọng tài nguyên dầu lửa thế giới, chỉ đứng sau chính Ả Rập Xê-út. Đặc biệt, Hoa Kỳ, châu ÂuNhật Bản coi một sự độc quyền tiềm tàng như vậy là rất nguy hiểm. Về mặt địa lý, Ả Rập Xê-út là một nước lớn với các khu vực dân cư nằm phân tán và sẽ rất khó khăn để động viên binh lính nhằm chống lại các đội quân I-rắc đang được triển khai ở phía nam Cô-oét. Rất có khả năng là I-rắc sẽ chiếm quyền kiểm soát các giếng dầu ở phía đông nhưng lại khó đoán được khi nào họ sẽ tấn công vào Ri-át, thủ đô của Ả Rập Xê-út. Các sư đoàn thiết giáp I-rắc cũng sẽ phải đối mặt với những khó khăn tương tự như khó khăn mà các lực lượng Ả Rập Xê-út được triển khai tới bảo vệ các giếng dầu gặp phải, vì họ cùng phải vượt qua một sa mạc rộng lớn với điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Việc này, nếu đã xảy ra, sẽ phải xảy ra dưới bom của không lực Xê-út, phần hiện đại hóa nhất của quân đội Xê-út.
    Iraq có một số bất mãn với Ả Rập Xê-út. Mối lo về những khoản nợ nảy sinh từ thời Chiến tranh I-ran - I-rắc là rất lớn vì I-rắc nợ Ả Rập Xê-út tới khoảng 26 tỷ đô-la Mỹ. Biên giới sa mạc dài giữa hai nước cũng chưa được phân chia rõ ràng. Ngay sau khi có được chiến thắng ở Cô-oét, Xát-đam bắt đầu dùng những lời phát biểu để công kích vương triều Ả Rập Xê-út. Ông cho rằng vương triều do Mỹ hậu thuẫn đó là kẻ trông coi bất hợp pháp của những thành phố linh thiêng như Méc-caMê-đi-na. Xát-đam gộp cả ngôn ngữ của những nhóm Hồi giáo đang chiến đấu ở Ap-ga-nít-xơ-tan thời đó với kiểu phát biểu khoa trương mà I-ran từ lâu đã sử dụng để tấn công Ả Rập Xê-út. Việc đưa thêm dòng chữ Allahu Akbar (Thánh Ala vĩ đại) vào lá cờ I-rắc và những hình ảnh Xát-đam đang cầu nguyện ở Cô-oét được coi là một phần của kế hoạch lôi kéo sự ủng hộ từ Nhóm huynh đệ Hồi giáo và chia rẽ nhóm Hồi giáo Mu-gia-hít-đin với Ả Rập Xê-út. Khi quân đội phương tây bắt đầu kéo đến nước này, những cuộc tấn công tuyên truyền đó còn leo thang lên mức cao hơn nữa.
    Tổng thống George H. W. Bush nhanh chóng thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ tung ra một chiến dịch "bảo vệ toàn diện" nhằm ngăn chặn Iraq tấn công Ả Rập Saudi – "Chiến dịch Lá chắn sa mạc" – và quân đội Hoa Kỳ được chuyển tới Ả Rập Saudi ngày 7 tháng 8. Ngày 8 tháng 8, Iraq tuyên bố một số phần lãnh thổ Kuwait sẽ bị sáp nhập vào quận Basra và phần còn lại trở thành tỉnh thứ 19 của Iraq.
    Hải quân Hoa Kỳ huy động hai nhóm tàu chiến, USS Dwight D. EisenhowerUSS Independence tới khu vực, và họ đã ở tình trạng sẵn sàng vào ngày 8 tháng 8. Cũng trong ngày hôm đó, 48 chiếc F-15 thuộc Không lực Hoa Kỳ từ 1st Fighter Wing tại Căn cứ không quân Langley, Virginia, đã hạ cánh xuống Ả Rập Saudi và ngay lập tức bắt đầu tiến hành tuần tra trên những vùng không phận biên giới Ả Rập Saudi và Iraq nhằm ngăn chặn đà tiến của quân đội Iraq. Hoa Kỳ cũng gửi những thiết giáp hạm USS MissouriUSS Wisconsin vào trong vùng, sau này chúng sẽ là những tàu chiến cuối cùng tham gia tích cực vào cuộc chiến. Việc huy động quân sự tiếp tục diễn ra, cuối cùng đã lên tới 500.000 quân. Những nhà phân tích quân sự nhất trí rằng tới tháng 10, quân đội Mỹ trong vùng chưa đủ sức để ngăn chặn cuộc tấn công (nếu có) của Iraq vào Ả Rập Saudi.
    Cùng lúc ấy hàng loạt những nghị quyết của Hội đồng bảo an và Liên đoàn Ả Rập được đưa ra về cuộc xung đột. Một trong những nghị quyết quan trọng nhất là Nghị quyết 678 của Liên Hiệp Quốc, thông qua ngày 29 tháng 11, trao cho Iraq hạn chót để rút quân là ngày 15 tháng 1 năm 1991, và cho phép sử dụng "mọi biện pháp cần thiết để duy trì và thực hiện Nghị quyết 660", một công thức ngoại giao có nghĩa là cho phép sử dụng vũ lực.
    Hoa Kỳ, đặc biệt là Ngoại trưởng James Baker, tập hợp các lực lượng đồng minh chống lại Iraq, gồm lực lượng từ 34 nước: Afghanistan, Argentina, Australia, Bahrain, Bangladesh, Canada, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Honduras, Ý, Kuwait, Maroc, Hà Lan, New Zealand, Niger, Na Uy, Oman, Pakistan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Qatar, Ả Rập Saudi, Sénégal, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Anh và chính Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ chiếm 74% trong số 660.000 lính trước chiến tranh. Nhiều lực lượng đồng minh bất đắc dĩ phải tham gia; một số cảm thấy rằng cuộc chiến là công việc nội bộ của Ả Rập, hay lo ngại sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Kuwait. Cuối cùng, nhiều nước đã bị thuyết phục khi chứng khiến sự hiếu chiến của Iraq đối với các nước Ả Rập khác, và khi được hứa hẹn viện trợ kinh tế cũng như giảm nợ.
    Hoa Kỳ đưa ra nhiều lí do biện minh cho việc dính líu vào cuộc xung đột. Lý lẽ đầu tiên là tầm quan trọng của mối quan hệ liên minh lâu dài với Ả Rập Saudi. Tuy nhiên, một số người Mỹ không bằng lòng với cách giải thích đó và khẩu hiệu "Không đổi máu lấy dầu" đã trở thành tiếng kêu thường thấy nhất trong các cuộc biểu tình phản đối từ bên trong nước Mỹ, dù chúng không bao giờ đạt tới tầm cao như phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Lý do tiếp sau cho cuộc chiến là lịch sử vi phạm nhân quyền của Iraq dưới chế độ Tổng thống Saddam Hussein, nguy cơ Iraq có thể phát triển vũ khí hạt nhân hay vũ khí huỷ diệt hàng loạt và rằng "naked aggression will not stand" (sự gây hấn lộ liễu sẽ không có chỗ đứng).
    Dù những vụ vi phạm nhân quyền của chính quyền Iraq trước và sau khi xâm chiếm Kuwait được ghi chép rất nhiều, chính phủ Kuwait đã bị ảnh hưởng từ quan điểm của Hoa Kỳ trong một số vấn đề. Ngay sau khi Iraq chiếm Kuwait, tổ chức Các công dân cho một nước Kuwait tự do đã được thành lập ở Mỹ. Nó thuê công ty quan hệ công chúng Hill and Knowlton với giá 11 triệu dollar do chính phủ Kuwait cung cấp. Công ty này bắt đầu tạo ra một chiến dịch miêu tả các binh sĩ Iraq là đã lôi những đứa trẻ ra khỏi lồng ấp trong các bệnh viện Kuwait và để chúng chết dưới sàn. Tuy nhiên, một năm sau luận điệu này đã bị khám phá ra là giả dối. Người đã làm chứng cho việc đó hoá ra là một thành viên của Gia đình hoàng gia Kuwait sống tại Paris khi xảy ra chiến tranh, và vì thế không thể có mặt ở Iraq vào thời điểm xảy ra cái gọi là tội ác. (Xem Nurse Nayirah.)
    Nhiều sáng kiến hoà bình đã được đưa ra nhưng không được chấp nhận. Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng những giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được để có hoà bình toàn diện với Iraq, là việc rút quân không điều kiện ra khỏi Kuwait. Iraq nhấn mạnh rằng việc rút quân khỏi Kuwait phải được "gắn liền với" sự rút quân đồng thời của quân đội Syria ra khỏi Liban và quân đội Israel ra khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và Nam Liban. MarocJordan đã bị thuyết phục bởi đề xuất này, nhưng Syria, Israel và liên minh chống Iraq phản đối rằng không hề có một mối liên hệ nào giữa những việc trên với vấn đề Kuwait. Syria đã tham gia vào liên quân chống lại Saddam nhưng Israel vẫn chính thức giữ thái độ trung lập dù đã có những cuộc tấn công tên lửa vào thường dân Israel. Chính quyền Bush đã thuyết phục Israel đứng ngoài cuộc chiến với những hứa hẹn về việc tăng cường viện trợ, trong khi Tổ chức giải phóng Palestine dưới quyền lãnh đạo của Yasser Arafat hoàn toàn ủng hộ Saddam Hussein, sau này dẫn tới một sự tuyệt giao trong quan hệ giữa Palestine-Kuwait, dẫn tới sự trục xuất nhiều người Palestine ra khỏi Kuwait.
    Ngày 12 tháng 1 năm 1991 Hạ viện Hoa Kỳ cho phép sử dụng sức mạnh quân sự để trục xuất quân Iraq ra khỏi Kuwait. Ngay sau đó, các nước đồng minh khác cũng làm điều tương tự.

    Những nước đã đóng góp lực lượng và tiền của cho liên minh chống Iraq

    Đóng góp lực lượng quân sự lớn

  • Ai Cập: Khoảng 30000 quân gồm 2 sư đoàn thiết giáp và trên 400 xe tăng
  • Pháp 16000 quân bao gồm các trung đoàn pháo, kỵ binh và trực thăng: 40 máy bay chiến đấu; 9 - 10 chiến hạm.
  • Ả Rập Saudi: 45000 quân, 500 xe tăng và 300 máy bay chiến đấu. Cam kết đóng góp 16,8 tỷ đô-la và dầu hoả trị giá 1,7 tỷ đô-la.
  • Anh trên 40000 quân gồm 25000lục quân và hàng trăm xe tăng; trên 800 máy bay chiến đấu, 26 chiến hạm.

Đóng góp lực lượng quân sự có ý nghĩa

  • Canada: 2200 nhân viên quân sự, 2 tàu khu trục, 24 máy bay phản lực chiến đấu CF - 18. 1 máy bay tiếp dầu CC-137 và 12 máy bay vận tải C-130.
  • Đức 71 xe trinh sát phát hiện chất độc hoá học, sinh học cho các lực lượng Mỹ và Anh cùng 200 người điều khiển: 5 tàu quét lôi; 18 máy bay phản lực quân sự ở Thổ. Cam kết đóng góp 6,6 tỷ đô-la.
  • Hội đồng hợp tác vùng vịnh gồm Kuwait, A-rạp Xê-út, Ba-rên, Qua-ta, các tiểu vương quốc A-rập và Ô-man: khoảng 10000 binh sĩ ở bắc a-rập Xê-út đặt dưới quyền bộ tư lệnh liên hợp Mỹ A-rập Xê-út: phi đội MIRAGEF-IE ở Qua-ta.
  • Ý: 10 máy bay chiến đấu TORNPO, 3 tàu Pri-gát; 4 tàu quét lôi và 1 tàu tiếp tế.
  • Kuwait: 11500 binh sĩ, 30-40 xe tăng, 15 máy bay MIRAGE; 34 trực thăng, cam kết đóng góp 16 tỷ đô-la.
  • Pakistan: 11000 bộ binh đặt dưới quyền chỉ huy của A-rập Xê-út.
  • Tây Ban Nha: cho Mỹ sử dụng 2 sân bay đảm bảo hậu cần cho các phi đội F-16 của Mỹ ở Thổ; 3 tàu Pri-gát.
  • Syria: 20000 quân và 300 xe tăng.
  • Thổ Nhĩ Kỳ: Cho phép khoảng 100 máy bay chiến đấu Mỹ đến căn cứ INCIRLIK, 3 tàu khu trục, 2 tàu ngầm và 1tàu quét lôi.

Đóng góp lực lượng quân sự tượng trưng

  • Afghanistan: 2000 quân Mu-gia-hit-đin.
  • Ác-hen-ti-na: 100 binh sĩ luc quân, 2 chiến hạm, 2 máy bay.
  • Australia: 1 tàu khu trục, 1 tàu Pri-gát, 1 tàu tiếp tế.
  • Băng-la-đét: 2230 binh sĩ cho mục đích phòng thủ.
  • Bỉ: 6 máy bay C-130, 1 tàu quét lôi, một số tàu đổ bộ và tiếp tế.
  • Bun-ga-ri: 1 đơn vị công binh lục quân.
  • Đan Mạch: 1 chiến hạm hộ tống và một số tàu vận tải.
  • Hi Lạp: 150 binh sĩ.
  • Ma-rốc: 1300 binh sĩ.
  • Hà Lan: Một số tàu Pri-gát, 1 tàu tiếp tế và 1 đơn vị quân y, 40 nhân viên.
  • Niu Di-lân: 3 máy bay vận tải, một đội bảo đảm 100 người và một đơn vị y tế.
  • Ni-giê-ri-a: 500 binh sĩ.
  • Na Uy: 1 xuồng hải quân và 1 số tàu chở quân.
  • Xê-nê-gan: 500 binh sĩ.
  • Xi-ê-ra Lê-ôn: Hứa hẹn đóng góp 200 binh sĩ.

Đóng góp phi quân sự

  • Séc và Xlô-va-ki-a: 1 đơn vị tẩy độc hoá học.
  • Nhật Bản: Hàng trăm xe việt dã, máy phát điện, dụng cụ y tế và thuốc men, máy điện toán và thiết bị khác. Cam kết đóng góp 13 tỷ đô-la.
  • Hungary: hứa hẹn đóng góp 1 đơn vị y tế.
  • Ba Lan: 1đội 17 nhân viên y tế và một bệnh viện nổi.
  • Bồ Đào Nha: 1 tàu hậu cần.
  • Xinhgapo: 1 đơn vị 35 nhân viên y tế cho một bệnh viện của lục quân Anh.
  • Hàn Quốc: 1 đội y tế 154 nhân viên. Cam kết đóng góp 400 triệu đô-la.
  • Sri Lanka: cho phép sử dụng sân bay và đi qua hải phận (đối với những tàu tiếp nhiên liệu và máy bay chở hàng không phải là vũ khí).
  • Thuỵ Điển: 1 bệnh viện dã chiến 350 giường và 525 nhân viên.
Theo: Newsweek 4 tháng 03 năm 1991(Theo wikipedia.org)
http://www.wayfaring.info/wp-content/uploads/2007/04/kuwait-towers-1.jpgTháp Kuwait trên bờ vịnh Ảrập do 1 nhóm KTS Thụy Điển thiết kếhttp://media-cdn.tripadvisor.com/media/photo-s/01/46/c5/e0/kuwait-city.jpg
kuwait-towers.jpgHình ảnh Kuwait 5Hình ảnh Kuwait 3http://media-cdn.tripadvisor.com/media/photo-s/01/64/22/6a/marina-shopping-mall.jpgMarina Shopping Mall Kuwait city
***
*
*

No comments:

Post a Comment