Du lịch Ấn Độ
Du lịch Ấn Độ với tôi chủ yếu là đi hành hương về đất Phật nên cho dù trước khi lên đường, bạn bè của tôi đều khuyên nên đi xứ khác, Ấn Độ vừa dơ, vừa charged tiền xin visa mắc, phương tiện giao thông thiếu an toàn, v.v... Cuối cùng tôi vẫn đi Ấn Độ mà ban đầu tôi chỉ muốn đạt 6 mục tiêu chính:
- Thăm kỳ quan số 1 của Ấn Độ: Taj Mahal.
- Thăm bốn thánh địa Phật giáo: bắt đầu từ Boddhgaya (nơi Phật giác ngộ, có cây bồ đề) đến Sarnath (nơi Phật giảng bài kinh đầu tiên), và Kushinagar (nơi Người nhập niết bàn), rồi đi tiếp qua biên giới Nepal sang Lumbini (nơi Phật ra đời).
- Thăm thủ đô New Dehli và vùng OLD Dehli của Ấn Độ
- Thăm qua vài kiến trúc, công trình xây dựng & văn hóa mới của Ấn Độ( chủ yếu là pháo đài đỏ, cụm thánh tích Mahabalipuram, ngôi đền Ranganathaswamy,
-Thăm Varanasi, thánh địa đạo Hindu của Ấn Độ
-Thăm Mumbai, trung tâm kinh tế và thương mại Ấn Độ
Đến Ấn Độ nên đi thăm những đâu? Một câu hỏi thật khó trả lời. Ấn Độ là một tiểu lục địa. Quá nhiều nơi nên thăm thú. Quá nhiều thứ nên xem. Thăm những đâu phụ thuộc vào việc ta quan tâm đến lĩnh vực gì, ta có bao nhiêu thời gian và thành phố ta đến thuộc vùng miền nào trên cái tiểu lục địa mênh mông này?...
Đầu tiên và trên hết, cần đi thăm những nơi nổi tiếng nhất của Ấn Độ, những nơi đã thành biểu tượng cho đất nước.
Lâu đài Taj Mahal
Trong mắt người nước ngoài, Taj Mahal là tòa lâu đài biểu tượng cho đất nước Ấn Độ, cũng như tháp Eiffel là biểu tượng của nước Pháp, hoặc nhà hát Opera Sidney đối với Australia . Kiến trúc là một tòa lâu đài, nhưng thực tế lại là lăng mộ của hoàng hậu Mumtaz Mahal - bà mất khi sinh con vào năm 1631. Hoàng đế Shah Jahan cho xây lâu đài này trong 22 năm, từ 1631 đến 1653 ở thành phố Agra, cách thủ đô New Delhi khoảng 200 km. Kiến trúc sư trưởng là Isa Khan, người Iran, và một số kiến trúc sư người Châu Âu. Công trình cuốn vào đó khoảng 20.000 nhân công, chi phí 3 triệu rupee thời ấy, tương đương 60 triệu USD thời nay.
Sau khi xây dựng Taj Mahal bằng cẩm thạch trắng, Shah Jahan xây tiếp một lâu đài giống hệt như vậy, nhưng bằng cẩm thạch màu đen, dành cho chính mình. Vừa mới khởi công, ông bị con trai cướp ngôi, bắt nhốt vào Thành Đỏ, những ngày cuối đời chỉ biết ngồi nhìn sang lăng mộ Taj Mahal ở bên kia sông Yamuna.
Chuyến đi thăm Taj Mahal thường được kết hợp với việc ghé vào Mathura, nơi sinh của Krishna, về sau được coi là một hiện thân của Thần Bảo Vệ Vishnu. Thuở ban đầu, Mathura là một trung tâm Phật giáo với 20 thiền viện và khoảng 3000 nhà sư. Nhưng từ thế kỷ VIII, trung tâm này suy tàn khi đạo Hindu phục hồi ở vùng bắc Ấn.
Trong chuyến đi, du khách có thể dừng chân ở Fatehpur Sikri. Đây là kinh đô từ 1571 đến 1585 dưới thời hoàng đế Akbar, ngay sau đó bị bỏ hoang vì thiếu nguồn nước sinh hoạt. Kinh đô bỏ hoang (thành phố ma) với kiến trúc tuyệt vời xứng đáng thăm viếng cả một ngày, không chỉ là một vài tiếng đồng hồ dừng chân.
Cụm thánh tích Mahabalipuram:
Ở miền nam Ấn Độ, có một cụm đền thờ hay Thánh Tích nổi tiếng vào bậc nhất của Ấn Độ giáo, đó là di tích Mahabalipuram, một vùng đất ngay cửa con sông Palar, bên bờ vịnh Bengal (gần thành Madras). Tất cả những di tích hiện còn ở Mahabalipuram đều được xây dựng vào khoảng những năm 630 và 715, khi vương triều Palava đạt tới đỉnh cực thịnh ở miền nam Ấn Độ. Hiện còn nhiều đền đài xây cất dở dang do cuộc chiến tranh với triều đại Chôla (876-895).
Tuy thế, Mahabalipuram vẫn là một cụm kiến trúc đặc biệt gồm những ngôi đền to, nhỏ khác nhau nằm chen nhau được tách trực tiếp vào những tảng đá lớn liền khối như các catha (thiên xa) và một đền thờ Chiva có tên là. Đền ven biển cũng được xây hoàn toàn bằng đá. Bên cạnh các ngôi đền đều có những tượng lớn: voi, sư tử, bò...
Trong số tám thiên xa bằng đá, khối nổi bật lên là năm ratha đứng cạnh nhau mang tên những người anh em nhà Pandava trong sử thi Mahabharata và người vợ chung của họ Yudisthira, Đharmaradja, Ácguiman Bhima và Nakula. Nhưng mỗi thiên xa đá khối có vóc dáng riêng của nó như thân vuông, mỗi cạnh dài 8,85mét, cao 12,2 mét và bộ mái ba tầng thu nhỏ dần về phía đỉnh.
Hai tầng mái phía dưới có hành lang bao quanh và được tô điểm bằng các tháp nhỏ, còn tầng thứ ba hay tầng trên cùng lại là cả một khối vòm tròn lớn, gây được ấn tượng hoành tráng mạnh mẽ. Nếu Đharmaradja ratha có hình vuông thì Bhimaratha nằm ngay bên cạnh lại là kiến trúc hình chữ nhật dài 14,6 mét, cao 7,90 mét và có bộ mái hoàn toàn khác: mái dài, hai cánh cong như lưng voi. Vì chỉ có hai tầng và bộ mái lại chạy theo chiều dài của kiến trúc, thế nhưng các khối lớn của thân và mái đã tạo cho ngôi tháp này một vẻ đẹp bề thế và vững chãi.
Nhỏ nhất trong nhóm và cũng đặc biệt nhất là Draupadi ratha mỗi chiều dài 3,40 mét và cao 5,50mét. Thoạt nhìn Draupadi ratha có hình dáng hệt như mái nhà gỗ đơn sơ với các mái tranh trùm lên bốn bức tường nhà. Song ở đây, tất cả đều được khắc vào đá, vì thế mà Draupadi ratha có vẻ dung dị và trang nhã.
Khu đền Shiva hay Đền ven biển là một quần thể kiến trúc được xây dựng vào khoảng năm 700, dưới thời vua Ratgiasimha. Nhưng hiện nay chỉ còn lại có hai ngôi đền dưới dạng tháp nhiều tầng kiểu như Đharmaradja ratha, Tuy vậy, do có kích thước lớn hơn và có chiều cao hơn nên ngôi đền lớn của khu Đền ven biển vút lên trời cao lồng lộng ngay bên bờ biển như một ngọn hải đăng khổng lồ.
Ở đây, dường như tất cả các ngôi đền ở Mahabalipuram đều được trang trí bằng điêu khắc. Đáng kể nhất và có giá trị nhất về nghệ thuật điêu khắc của Mahabalipuram là bức phù điêu đá khổng lồ. Nó đã mô tả được các câu chuyện huyền thoại về dòng sông Hằng linh thiêng.
Một truyền thuyết nổi tiếng khác là câu chuyện Kiratacgiunnarút từ sử thi Mahabharata cũng được thể hiện thành cả một dãy phù điêu hoành tráng, giàu trí tưởng tượng với những ước vọng bay bổng, đầy lãng mạn. Nhìn vào hình phù điêu này có thể thấy những kỳ tích chính của người anh hùng Ardjuna: Cầu xin thần Shiva ban cho chiếc cung thần, cuộc thi bắn cung, hình ảnh thần Krisna hoá thân thành người đánh xe cho Ardjuna...
Ngoài hai huyền thoại và truyền thuyết lớn vừa kể trên, mặt đá còn lại của các ngôi đền ở Mahabalipuram được phủ kín bằng những hình phù điêu, thể hiện đủ loại người, thần linh, súc vật và các tình tiết rút từ nhiều truyền thuyết khác nhau của Ấn Độ giáo.
Mặt dầu rất đa dạng và phong phú về đề tài thể hiện, song nghệ thuật điêu khắc đá ở Mahabalipuram vẫn toát lên một bút pháp hoặc phong cách nghệ thuật chung là: mạnh mẽ, sống động chuẩn xác và hoành tráng.
Mahabalipuram với nhiều ngôi đền độc đáo và những hình phù điêu khổng lồ quả là điều kỳ diệu của nghệ thuật miền nam Ấn Độ. Không phải ngẫu nhiên mà có các nhà khoa học đã ví khu đền Mahabapuram như đỉnh Everest của nghệ thuật cổ Trung đại của Ấn Độ.
Họ sử dụng vật liệu bằng đá để xây dựng và điêu khắc, chứng tỏ nghệ thuật chạm khắc đến mức tinh vi. Họ muốn làm ra một tác phẩm để lại cho mọi thế hệ sau này chiêm ngưỡng.
Khu đền Ranganathaswamy
Ngôi đền Sri Ranganathaswamy nằm trong thành phố Tiruchirapalli của Ấn Độ, là ngôi đền Hindu quan trọng lớn nhất trên thế giới (Ankor là ngôi đền lớn thứ hai). Là đền thờ Ấn giáo (Hindu) nhằm vinh danh Ngài Ranganatha, hiện thân của thần Vishnu tái thế nên trang trí với 108 Devya Desams, xây từ 2000 năm trước.
Đền Sri Ranganathaswamy
Ngôi đền này được xây dựng cho Vishnu, một trong ba vị thần trong đạo Hindu. Truyền thuyết kể rằng, trước kia một nhà hiền triết đã đến nơi đây và đặt một bức tượng của Vishnu dựa trên một con rắn lớn. Khi ông chuẩn bị bắt đầu chuyến đi của mình, ông đã phát hiện thấy rằng bức tượng không thể di chuyển được và vì thế một ngôi đền nhỏ đã được xây dựng ở đó. Qua nhiều thế kỷ, ngôi đền càng ngày càng trở nên to lớn hơn rất nhiều so với kích cỡ ban đầu của nó.
Tổng thể ngôi đền rất đồ sộ: Nó bao quanh một khu vực rộng khoảng 63 ha với 7 bức tường đồng tâm, bức tường phía ngoài cùng có chiều dài khoảng 4km. Ngôi đền Sri Ranganathaswamy rất nổi tiếng vì lối ra vào ở dưới những kim tự tháp đầy màu sắc. Ngôi đền có 21 lối đi tổng thể, lối đi lớn nhất có 15 tầng và có độ cao gần 60m.
Khu đền Khajuraho
Vùng Khajuraho cách thủ đô khoảng 550 km, nổi tiếng với vô vàn pho tượng trai gái giao hoan. Quần thể 85 ngôi đền tuyệt tác ở Khajuraho, miền trung Ấn Độ, bị bỏ quên những tám thế kỷ. Mãi đến năm 1839, viên tiểu đội trưởng công binh Hoàng gia bang Bengal, thuộc chính quyền thực dân Anh, tên là T. S. Burt, mới tình cờ phát hiện ra quần thể đền đài này giữa rừng sâu.
Được những ông vua triều Chandella ở miền Trung Ấn xây dựng dần dần trong hai thế kỷ X và XI, ở Khajuraho hiện tại chỉ còn 22 đền trong tổng số 85 ngôi đền. Khắp bề mặt các ngôi đền, từ những bậc đá lên đến tận đỉnh tháp, là những bức tượng bằng đá diễn tả cảnh sinh hoạt mọi mặt của người Ấn Độ. Từ cảnh ăn chơi xa hoa của vua chúa trong hoàng cung cho đến cảnh lao động, học hành tu tập, thuần hóa thú dữ... Những hình chạm khắc trên đá miêu tả vũ nữ apsara trên thiên đình hay hình những thiếu nữ đồng trinh xuất hiện trên các đỉnh cột. Đặc biệt, xen kẽ giữa các nữ thần là tượng những cặp trai gái, hoặc từng nhóm trai gái, đang giao hoan.
Điều đó không có gì lạ khi mà trong các đền thờ của đạo Hindu, người ta đều thờ tượng dương vật của thần Shiva, biểu tượng của sự sáng tạo ra thế giới. Thời điểm hoạt động nhục dục giữa hai người yêu nhau được coi là sự hòa hợp và thống nhất hoàn toàn giữa linh hồn với sự thánh thiện. Một giáo phái Hindu thờ cúng biểu tượng hòa hợp thể xác này, coi lạc thú nhục dục và tu luyện yoga là hai con đường cùng dẫn đến sự giải thoát khỏi kiếp luân hồi.
Nhưng cũng có người lại cho rằng quanh đền được trang trí bằng nhiều nhóm tượng nam nữ giao hoan để tránh cho đền bị sét đánh. Bởi lẽ Ngọc Hoàng Indra nổi tiếng phong tình, Ngọc Hoàng không bao giờ đặt lưỡi tầm sét xuống những ngôi đền như vậy.
Lại có ý kiến rằng đây là một cách làm trong sạch linh hồn cho những kẻ mộ đạo, một cách thử thách những người tới đền để cúng tế, khiến họ phải kiềm chế được bản thân và bỏ lại bên ngoài tất cả những ham muốn trần tục trước khi bước vào chính điện. Phía ngoài ngôi đền có pho tượng một người đang thuần hóa một con vật nửa sư tử nửa hổ báo, lớn hơn mình gấp bội - cảnh này được coi như cuộc chiến đấu chống lại con thú nhục dục trong chính con người.
Tứ thánh địa của Phật giáo
Thăm bốn thánh địa Phật giáo, nếu đi tàu hỏa thì cần khoảng mười ngày. Chuyến đi có thể bắt đầu từ Boddhgaya (nơi Phật giác ngộ, có cây bồ đề) đến Sarnath (nơi Phật giảng bài kinh đầu tiên), và Kushinagar (nơi Người nhập niết bàn), rồi đi tiếp qua biên giới Nepal sang Lumbini (nơi Phật ra đời).
Từ thủ đô New Delhi có thể bay đến Boddhgaya (khoảng hơn một giờ bay, 1000 km). Hoặc ta có thể bay thẳng sang Lumbini rồi thực hiện chuyến đi theo chiều ngược lại với hành trình trên.
Đền Mahabodhi từng được Unesco giám định là xây dựng bằng đá cổ từ thời đế quốc Gupta (320 - 550 CE) và đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đền Mahabodhi cao 50m, là ngôi đền được xây dựng đầu tiên vào thế kỷ thứ 5 - 6 ở lục địa Ấn Độ. Nó là một trong những ngôi đền tiêu biểu đặc trưng cho kiến trúc xây dựng các đền thờ bằng gạch của người Ấn Độ ở kỷ nguyên đó. Đền Mahabohi là một trong những ngôi đền được xây bằng gạch đầu tiên còn sót lại của Ấn Độ, có ảnh hưởng đáng kể trong việc phát triển ngành kiến trúc ở các thế kỷ sau này.Ngôi đền Mahabodhi còn ghi lại các sự kiện có liên quan đến cuộc sống của Đức Phật và các nghi thức tế lễ sau này, đặc biệt từ thời Hoàng đế Asoka đã cho xây dựng ngôi đền đầu tiên với các cột đền lớn bao quanh. Ngôi đền Mahabodhi là ngôi đền đầu tiên có kết cấu bề thế, được xây dựng toàn bộ bằng gạch từ thời kỳ Gupta cổ xưa. Những cột đá được chạm khắc tinh tế là một tác phẩm điển hình cho nghệ thuật điêu khắc trên đá của thời kỳ này. Ngôi đền Mahabodhi ở Bodh Gaya liên quan trực tiếp đến cuộc sống của Đức Phật, là nơi mà Người đã tu thành chính quả.
Ngôi đền Mahabodhi là một trong 4 ngôi đền phản ánh cuộc sống của Đức Phật, đặc biệt là những tri thức của thời kỳ khai sáng. Ngôi đền đầu tiên được Hoàng đế Asoka xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên còn ngôi đền này được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 - thứ 6. Nó là ngôi đền thờ Phật đầu tiên được xây dựng toàn bộ bằng gạch từ thời kỳ Gupta cổ đến nay vẫn còn tồn tại ở Ấn Độ.
Ngoài cổng đền vẫn còn những mảnh đời khốn khổ, ước nguyện vẫn không được trọn vẹn. Tương truyền rằng, vào khoảng năm 530 BC, Siddhartha Gautama, vị hoàng tử trẻ tuổi của Ấn Độ, nhận thấy được sự đau khổ của dân gian và muốn kết thúc chúng. Ông đi khắp nơi để tìm cách giải cứu. Khi đến bên bờ sông Falgu (gần thị trấn Gaya), ông ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề để thỉnh cầu ước vọng. Sau 3 ngày 3 đêm, ông đã thấu hiểu và đạt được giác ngộ. Đền Mahabodhi được xây dựng để đánh dấu nơi này.
Tháp chính của đền Mahabodhi cao 55 mét và được bao bọc xung quanh bởi 4 tháp nhỏ với cấu trúc tương tự.
Đền Vàng của đạo Sikh
Đền Vàng ( Golden Temple ) ở thành phố Amritsar , bang Punjab , cách thủ đô 428 km. Đây là ngôi đền thiêng nhất của đạo Sikh. Mái vòm dát 750 kg vàng nguyên chất, ngôi đền là sự pha trộn giữa kiến trúc Hindu giáo và kiến trúc Hồi giáo. Trong khi đền thờ Hindu hướng về phía đông, đền thờ Hồi giáo hướng về phía tây, thì Đền Vàng Hari Mandir lại hướng về khoảng giữa của hai phương này. Trong đền lưu giữ văn bản gốc của kinh thánh Guru Granth Sahib. Suốt ngày, bốn vị giáo sĩ thay nhau đọc bản kinh này qua hệ thống loa truyền thanh của khu đền.
Varanasi, thánh địa đạo Hindu
Varanasi là thành phố thiêng nhất của đạo Hindu, một trung tâm học vấn và văn minh. Gần 3000 năm tuổi, Varanasi ( Benares ) cũng thuộc số những thành phố cổ nhất của nhân loại. Sau lần dừng chân ở đây trong một chuyến đi diễn thuyết, nhà văn Mỹ Mark Twain nói rằng Varanasi "cổ hơn lịch sử, cổ hơn truyền thống, thậm chí cổ hơn cả huyền thoại, và trông như cổ gấp đôi tất cả những cái đó cộng lại". Khúc sông Hằng chảy qua đây cũng là khúc thiêng nhất. Người theo đạo Hindu từ khắp đất nước hành hương về Varanasi, tắm nước sông Hằng để rửa sạch tội lỗi, để cầu tự hoặc gửi những điều ước lên thánh thần trên cao. Người chết được hỏa táng ở đây và rải tro cốt trên đầu nguồn để được lên thiên đường. Nên dậy sớm, đứng bên bờ sông Hằng ngắm mặt trời mọc cùng với người hành hương và nên thuê một con thuyền nhỏ đi trên khúc sông này. Trong thành phố có hàng trăm ngôi đền có giá trị lịch sử và kiến trúc.
Cách Varanasi khoảng 15 km là Sarnath (Lộc Uyển), nơi Đức Phật đến giảng bài kinh đầu tiên cho năm tín đồ đầu tiên của Phật giáo. Varanasi cách thủ đô New Delhi khoảng 750 km.
Ajanta và Ellora, khu đền chùa trong hang động
Hai khu này cách Mumbai khoảng 450 km. Ajanta là một hệ thống 30 thiền viện Phật giáo trong hang động, nổi tiếng với những bức tranh tường lớn và tác phẩm điêu khắc trong hang đá. Hệ thống thiền viện trong hang này được hình thành từ năm 200 trước CN cho đến năm 650 CN. Có rất nhiều cách lý giải khác nhau về việc các nhà sư thời ấy sử dụng ánh sáng từ đâu để vẽ và để tạo tác tượng trong hang đá.
Hệ thống đền chùa ở Ellora hình thành muộn hơn, trên một vùng kéo dài 2 km, với 34 đền chùa: 12 chùa hang Phật giáo (khoảng năm 600 đến 800 CN), 17 ngôi đền Hindu giáo (năm 600 đến 900), 5 ngôi đền đạo Jain (năm 800 đến 1000). Kiến trúc đền chùa trong hang đá và nghệ thuật điêu khắc ở đây thực sự đã đạt đến đỉnh cao.
Cũng có thể ta chỉ có một vài ngày, ở thủ đô New Delhi . Vậy thì một chuyến thăm thú thủ đô cũng có nhiều điểm hấp dẫn.
Vùng Cựu Delhi (Old Delhi )
Vùng Cựu Delhi (Old Delhi )
Thành Đỏ
Thành Đỏ do hoàng đế Shah Jahan xây dựng từ 1638 đến 1648. Thành dài 2 km, tường thành ở phía bên sông Yamuna cao 18 mét còn phía trong thành phố cao 33 mét. Vào thăm thành, kiến trúc đặc trưng Hồi giáo hòa trộn với Ấn giáo, ta cần ít nhất hai giờ đồng hồ hoặc nửa ngày.
Chandni Chowk
Chandni Chowk: khu chợ mênh mông trong phố cổ, ngay phía trước mặt Thành Đỏ. Bạt ngàn hàng quán, phong phú về mặt hàng, ở đây người ta có thể tìm được hầu như tất cả những mặt hàng mình cần.
Jama Masjid
Đền thờ Hồi giáo Jama Masjid: ngôi đền Hồi giáo lớn nhất ở Ấn Độ, do vị hoàng đế yêu thích kiến trúc và xây dựng Shah Jahan cho xây từ năm 1644 đến 1658. Đền cao 40 mét. Sân trước có thể chứa 25.000 người cầu nguyện một lúc. Lưu ý: khi vào đền thờ Hồi giáo không để đầu trần (một cử chỉ bị coi là thiếu thành kính) mà phải trùm khăn hoặc đội mũ.
Vùng Tân Delhi ( New Delhi )
Ấn Môn (India Gate)
Xuất phát từ đường Rajpath, nơi hàng năm có duyệt binh vào Ngày Cộng hòa 26-1, ta sẽ gặp Ấn Môn (India Gate). Đây là một đài tưởng niệm theo kiểu Khải Hoàn Môn, khắc tên 85.000 binh lính Ấn Độ hy sinh trong Chiến tranh Thế giới I và trong cuộc xung đột với Afghanistan năm 1919.Đầu đường bên kia của Rajpath là Phủ Tổng thống. Hai bên đường là khu văn phòng của các bộ các ngành, cùng nhà Quốc Hội. Tất cả đều là những kiến trúc bề thế bằng sa thạch màu nâu hồng.
Thành cổ Purana Qila: cách Ấn Môn khoảng 2 km. Khu thành cổ này được xây dựng từ 1538 đến 1545, hiện đã đổ nát nhiều, nhưng những bức tường thành cao rộng, những tòa nhà còn lại vẫn gây được ấn tượng hoành tráng. Đây chính là vùng Indraprastha, phần vương quốc được chia cho năm anh em Pandava trong sử thi Mahabharata.
Firoz Shah Kotla
Firoz Shah Kotla: di tích thành phố thứ năm thuộc vùng Delhi , một pháo đài do Firoz Shah xây dựng năm 1354. Ở đây vẫn còn chiếc cột đá Ashoka Pillar do hoàng đế theo Phật giáo Ashoka dựng lên vào thế kỷ III trước CN.Quanh vùng Rajpath còn có nhiều lăng mộ của các vị hoàng đế, nhiều bảo tàng quan trọng như National Museum, Bảo tàng Tưởng niệm Nehru, Bảo tàng Tưởng niệm Indira Gandhi, Hội quán Tây Tạng (Tibet House)...
Connaught Place là vùng trung tâm của New Delhi , gồm những khu phố bán hàng hiệu, vây quanh một cái bùng binh lớn. Bùng binh lại chính là một cái chợ dưới hầm khá sầm uất.
Jantar Mantar
Jantar Mantar là một hệ thống đồng hồ mặt trời, được xây dựng năm 1725. Một công trình đồ sộ màu hồng, đẹp về kiến trúc, nhiều thiết bị tính thời gian, dự báo nhật nguyệt thực... theo phương pháp đồng hồ mặt trời cổ.
Lakshmi Narayan
Đền Lakshmi Narayan (còn gọi là Birla Mandir) do nhà tư bản công nghiệp B. D. Birla xây dựng năm 1938 để thờ Nữ Thần Tài Lộc Lakshmi. Ở New Delhi có rất nhiều đền thờ Hindu giáo, nhưng ít nhất cũng nên đến thăm ngôi đền đồ sộ này. Trong và phía sau đền có một không gian rộng và khá thanh tịnh.Chùa thờ Phật: ngay bên cạnh đền Birla. Đây là một ngôi chùa nhỏ, ít người để ý, nhưng có ý nghĩa vì là ngôi chùa Phật hiếm hoi ở thủ đô New Delhi . Có lẽ đây cũng là biểu tượng về vai trò và vị trí khiêm nhường của Phật giáo trong xã hội Ấn Độ hiện đại.
Qutab Minar
Qutab Minar là ngọn tháp cao 73 mét, đường kính chân là 15 mét, đường kính phía trên ngọn là 2,5 mét. Tháp gồm năm tầng, ba tầng dưới bằng sa thạch màu đỏ, tầng bốn và tầng năm bằng cẩm thạch và sa thạch. Được khởi công từ năm 1193, nhưng phải đến 1368 mới hoàn tất. Dưới chân tháp là ngôi đền Hồi giáo đầu tiên được xây dựng ở Ấn Độ, năm 1193, và phải mất hàng thế kỷ cho việc bổ sung và mở rộng. Trên sân trước của ngôi đền là Cột Sắt (Iron Pillar) cao 7 mét. Thân cột khắc bảy dòng chữ Sanskrit chỉ ra rằng ban đầu Cột Sắt được dựng lên trước một ngôi đền thờ thần Vishnu (có thể là ở bang Bihar), để tưởng nhớ vua Chandra Gupta II, người cai trị Ấn Độ từ năm 375 đến 413 CN. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được chất thép đặc biệt của cây cột này được luyện như thế nào mà qua gần 2000 năm, thép vẫn không gỉ. Người ta còn tin rằng nếu đứng tựa lưng vào cột, hai tay vòng ra sau mà ôm tròn cột và tay gặp được nhau thì có thể ước gì được nấy. Khoảng cuối những năm 1980, đầu 1990, tôi cũng như mọi du khách đã thử đứng ôm cột như vậy. Nhưng hiện nay, xung quanh cột đã có hàng rào bảo vệ.
Cũng ở phía nam New Delhi còn có đền thờ Bahai, một công trình hoành tráng bằng cẩm thạch màu trắng, hình một bông hoa sen cách điệu vươn trên nền trời. Đền được hoàn thành năm 1986 và du khách có thể tìm được một không gian đẹp và thanh tịnh trong quần thể rộng lớn này.
Ta cũng có thể chọn đi thăm những vùng miền khác nhau về khí hậu: vùng sa mạc, vùng núi cao tuyết phủ, vùng ven biển hoặc cao nguyên...
Rajasthan, xứ sở của những ông vua
Từ thủ đô, có thể thực hiện một tour đi thăm bang Rajasthan với những thành phố: Jaipur (nếu có 3 ngày), thêm Udaipur , Chittorgarh, Mount Abu (nếu có 5 ngày), đi tiếp đến sa mạc Thar với hai thành phố Jaisalmer và Jodhpur (nếu có 7 ngày).
Bang Rajasthan là một trong những vùng quyến rũ nhất của Ấn Độ. Nằm kề bên sa mạc Thar, đây là vùng đất nóng bỏng cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trang phục lộng lẫy và sặc sỡ. Âm nhạc réo rắt đặc trưng. Kiến trúc hoành tráng và rực rỡ. Các lâu đài sử dụng nhiều màu nổi bật như màu hồng (toàn bộ lâu đài màu hồng ở Jaipur) màu trắng tinh (lâu đài trắng bên hồ nước ở Udaipur) màu mật ong (như các lâu đài và nhà dân ở thành phố "nghìn lẻ một đêm" Jaisalmer) màu nâu vàng (pháo đài hùng vĩ trên đỉnh núi ở Jodhpur)... Chiết tự thì raja nghĩa là nhà vua (hoặc tiểu vương, những vị vua của một vùng) sthan là vùng đất, vậy Rajasthan là "vùng đất của các ông vua". Đẳng cấp chiến binh ở vùng này gọi là Rajput, những hiệp sĩ đề cao lòng dũng cảm và quyết tử trong chiến đấu. Lịch sử ghi lại ba trận tử chiến lớn nhất tại thành Chittorgarh. Khi thành thất thủ, các chiến binh Rajput khoác chiến bào màu vàng phi ngựa ra khỏi cổng thành quyết tử, trong khi vợ con họ tự sát bằng cách nhảy vào những giàn hỏa táng cực lớn, nhất quyết không chịu rơi vào tay quân thù. Trận lớn nhất là năm 1535, 32.000 chiến binh quyết tử, 13.000 phụ nữ và trẻ em chết trên giàn thiêu.
Những miền đất lạnh
Nói đến Ấn Độ, người ta lập tức hình dung ra một xứ nóng ghê người, khí hậu sa mạc. Nhưng miền cực bắc Ấn, nơi bắt đầu của dãy Himalaya , lại có những đỉnh núi tuyết vĩnh cửu. Đây là bang Himachal Pradesh, từ cổ đại đã có những tuyến đường buôn bán sang Tây Tạng, sang Trung Á và lên vùng Kashmir ở Tây bắc Ấn.
Shimla trở thành thủ đô mùa hè của Ấn Độ từ năm 1864. Trước đó, nơi này được người Anh phát hiện ra vào năm 1819, rồi họ lên đây xây dựng những cơ sở nghỉ mát. Những nhà thờ, những tòa nhà và văn phòng ở Shimla vẫn còn giữ được không khí phương Tây từ thời Anh cai trị. Shimla cách thủ đô New Delhi 380 km, là điểm du lịch và tránh nóng hấp dẫn với nhiều người.
Cũng ở bang Himachal, nhiều du khách còn tìm đến Dharamsala, nơi có chính phủ lưu vong Tây Tạng và trụ sở của Đức Dalai Lama. Giữa không khí mát lành của núi rừng Himalaya, ta sẽ gặp sắc áo nâu đỏ của các nhà sư Tây Tạng, và có thể nghe Dalai Lama nói chuyện bằng một thứ tiếng Anh ấm áp và hấp dẫn. Để đến Dharmasala, từ Shimla phải đi thêm 9 giờ đồng hồ nữa bằng xe khách, hoặc đi thẳng từ New Delhi , khoảng 12 giờ xe (520 km).
Jammu và Kashmir, vùng núi cao mát mẻ quanh năm, nhưng vẫn luôn xảy ra tranh chấp giữa ấn Độ và Pakistan, là nơi chịu nhiều cuộc khủng bố của các lực lượng khác nhau. Lượng du khách cuối những năm 1980 là 800.000 khách nội địa và 80.000 người nước ngoài/năm, đến nay chỉ còn xấp xỉ 3000 khách nước ngoài/năm. Du khách nước ngoài nếu có nhu cầu đến đây, nên tham khảo trước các cơ quan chức năng hoặc các hãng du lịch, bởi vì thỉnh thoảng chính phủ lại ban hành lệnh hạn chế du lịch khi tình hình căng thẳng trở lại.
Đây là vùng núi tuyệt đẹp và khí hậu tuyệt vời. Thời gian đẹp nhất đi thăm Kashmir (thủ đô mùa hè) là từ tháng 4 đến tháng 10, Jammu (thủ đô mùa đông) từ tháng 10 đến tháng 3, Ladakh (tiểu Tây Tạng) từ tháng 5 đến tháng 10. Đa dạng về văn hóa và tôn giáo, phía đông Ladakh chủ yếu là người theo đạo Phật, phía tây Ladakh chủ yếu là đạo Hồi, còn vùng Zanskar lại có nhiều Phật tử.
Nếu đã đến đây, người ta không thể quên những khu nhà nổi trên mặt hồ Dal (Dal Lake) ở Srinagar, không gian trong trẻo và thanh bình đến mức khó ai còn nhớ rằng đây là một vùng an ninh không ổn định. Những chiếc thuyền chở đầy hoa, những thuyền khác chở rau xanh, nhu yếu phẩm lướt nhẹ trên mặt hồ, ghé vào bán hàng cho du khách trên nhà nổi. Thêm nữa, ta có thể tham gia đi bộ leo núi, trượt tuyết hoặc những khóa học yoga, nghe giảng kinh trong các thiền viện.
Kolkata, trung tâm văn hóa Ấn Độ
Tên cũ là Calcutta, từ năm 2000 lấy lại một cái tên cổ là Kolkata, thành phố này mới chỉ được thực dân Anh xây dựng khoảng 300 năm và đã là thủ đô của ấn Độ cho đến đầu thế kỷ XX.
Ấn tượng ban đầu với nhiều người, đây là thành phố cũ kỹ, long lở, cảnh nghèo phô bày khắp nơi, những cuộc đình công triền miên, những vụ tắc đường thường xuyên trong ngày... Đảng Cộng sản Ấn Độ (Mácxít) nắm quyền lãnh đạo bang Tây Bengal hàng chục năm qua, trong khi có những khó khăn về quản lý đô thị thì lại có cải thiện đáng kể ở vùng nông thôn. Kolkata từ rất lâu đã được coi là trung tâm văn hóa của Ấn Độ, tâm hồn Ấn Độ, với nhiều triết gia, nhà văn, nghệ sĩ, nhân sĩ như đại thi hào Rabindranath Tagore, ông hoàng điện ảnh Satyajit Ray, Mẹ Teresa... Ở Kolkata, nên đi thăm những nơi còn in dấu tích của những nhân vật này, đặc biệt là Nhà Tưởng niệm Tagore (Tagore House), nơi Tagore ra đời, nay đã thành bảo tàng và Đại học Rabindra Bharati. Cách thành phố khoảng 160 km là Shantiniketan, một trường học Tagore sáng lập từ năm 1901, nay vẫn được duy trì, đồng thời là bảo tàng mỹ thuật.
Dấu tích của một thành phố thời các vị quân vương thuộc Anh vẫn còn nhiều trong thành phố: tòa nhà Tưởng niệm Victoria (Victoria Memorial), những nhà thờ, những khu nhà cổ... Là một thành phố Ấn Độ, Kolkata cũng có nhiều đền thờ Hindu giáo và Hồi giáo bề thế.
Lấy Kolkata là trung tâm, người ta có thể từ đây đi thăm các bang miền đông bắc, lên những cao nguyên và những vùng nghỉ mát trên núi cao. Một chuyến xe khách 12 giờ đồng hồ đưa ta đến Darjeeling , vùng nghỉ mát của thực dân Anh ngày trước, nay còn nhiều tòa nhà do Anh xây dựng. Thuở xa xưa, đây là nơi có thiền viện Phật giáo Dorje Ling. Đây cũng là vùng trồng chè ngon nổi tiếng thế giới. Đặc biệt ở Darjeeling , du khách có thể ngắm cảnh núi rừng từ cửa sổ một chuyến tàu đồ chơi chạy bằng hơi nước (toy train).
Từ Kolkata, đi về phía nam, men theo bờ biển vịnh Bengal, khoảng 10 giờ xe lửa, đến thị trấn Puri, từ đây đi thêm 35 km nữa, sẽ tới đền thờ Mặt Trời đồ sộ (Konark Temple). Xây dựng dưới thời vua Narasimha năm 1255, ngôi đền được thiết kế giống như một cỗ xe trên 24 bánh xe bằng đá khổng lồ, chạm khắc tinh xảo. Cỗ xe do bảy con ngựa tâm linh kéo, biểu tượng cho sức mạnh và sự liên tục của mặt trời. Ngay ở cửa đền có hai con sư tử hung dữ, trên đó là voi, trên vòi voi là con người. Cả ba hình tượng này là thế chân kiềng làm nhiệm vụ canh gác cửa đền.
Ngôi đền trải rộng trên khu đất 12 mẫu Anh. Ngay lối vào là Natyamandap, diễn tả 128 điệu múa Ấn Độ bằng điêu khắc trên đá. Lễ hội Mặt Trời hàng năm diễn ra vào khoảng tháng giêng - tháng hai. Lễ hội đền Konark thì vào đầu tháng 12, âm nhạc và múa cổ điển Odissi được biểu diễn ngoài trời, ngay trước ngôi đền đèn đuốc sáng rực.
Trong đền có pho tượng Thần Mặt Trời Surya, tạo tác từ Ashtadhatu (8 khối kim loại). Tuy nhiên do thời gian hủy hoại, năm 1903, thị trưởng Bengal đã phải cho chống đỡ ở bên trong đền để khỏi sụt lún.
24 bánh xe khổng lồ của cỗ xe biểu trưng cho sự phân chia thời gian. Mỗi bánh xe tượng trưng cho nửa tháng trong năm, có 8 nan hoa mô tả 8 thời đoạn của một ngày. Khoảng 22.000 bức phù điêu trên đá, trong đó có cả cảnh huê tình nam nữ, cảnh chiến tranh, buôn bán, săn bắn, trò chơi trẻ thơ, những công việc hàng ngày, những điệu múa thần bí...
Mumbai, trung tâm kinh tế và thương mại
Mumbai ( Bombay ) là trung tâm kinh tế và thương mại của Ấn Độ, trung tâm điện ảnh tiếng Hindi và là một trong những cơ sở lớn nhất sản xuất phần mềm của đất nước. Còn là trung tâm công nghiệp lớn nhất, Mumbai phát triển từ ngành dệt cho đến công nghiệp hóa dầu. Giống như những thành phố lớn khác ở Ấn Độ, đây là nơi phô bày sự tương phản, từ những khu nhà giàu xa xỉ nhất cho đến những khu ổ chuột bạt ngàn nghèo đói bậc nhất ở Châu Á.
Ở Mumbai, nên đi thăm Ấn Môn (Gateway of India), một Khải Hoàn Môn bên bờ vịnh biển; đảo Elephanta có những ngôi đền Hindu trong hang đá, nhiều tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp; tuyến đường Marine Drive bên vịnh biển; Vườn Treo (trên đồi Malabar). Cũng trên đồi Malabar còn có Tháp Yên Lặng là nơi thiên táng của người theo đạo thờ Lửa, nhưng người lạ không được phép lên đây. Mumbai là thành phố hiện đại, nhưng cũng có rất nhiều đền thờ của đạo Hindu, đạo Hồi, đạo Jain... mà du khách nên thăm viếng.
Từ New Delhi, chuyến bay xuống Mumbai mất khoảng gần hai giờ đồng hồ.
Goa, thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha
Từ Mumbai, có thể đi ô tô, tàu hỏa hoặc máy bay xuống Goa , quãng đường khoảng trên dưới 10 giờ đồng hồ đi tàu hỏa. Người Bồ bắt đầu đến Goa từ 1510 để kiểm soát tuyến đường vận chuyển gia vị từ phương đông về Châu Âu. Tiếp đó, các nhà truyền giáo dòng Tên do thánh Francis Xavier dẫn đầu đến đây vào năm 1542. Ấn Độ giành độc lập từ tay thực dân Anh năm 1947, nhưng phải 14 năm sau, năm 1961 người Bồ Đào Nha mới chịu là thực dân cuối cùng rời khỏi Ấn Độ. Sau gần 50 năm thoát khỏi sự thống trị của Bồ Đào Nha, ảnh hưởng hơn 400 năm của văn hóa Bồ vẫn còn rất mạnh ở Goa. Phụ nữ mặc váy vẫn nhiều hơn là mặc sari cổ truyền Ấn Độ. Những bài ca điệu múa đầy màu sắc Bồ Đào Nha. ảnh hưởng này còn in dấu trong nhiều mặt đời sống, trong ẩm thực... Đến Goa , người ta thường tham gia vào những lễ hội tiệc tùng thường xuyên của dân địa phương. Điểm tham quan chính là những pháo đài cổ trên bờ biển, những nhà thờ Thiên Chúa giáo kiến trúc đa dạng. Nên vào thăm nhà thờ Thánh Francis ( Church of St. Francis of Assisi ), và nhà thờ Basilica of Bom Jesus nổi tiếng thế giới, nơi có lăng St Francis Xavier, một lăng mộ ba tầng bằng cẩm thạch, và một cái tiểu bằng bạc giữ một phần di hài của vị thánh.
Ở Goa còn có nhiều bãi biển đẹp và nên tham gia một chuyến đi chơi biển bằng tàu, xem cá heo và câu cá trên biển.
Bangalore, Thung lũng Silicon của Ấn Độ
Bangalore là một trong những thành phố tiên tiến nhất của Ấn Độ, cách Delhi 2 giờ 30 phút bay và cách Mumbai 1 giờ 30 phút. Có thể đi xe khách từ Chennai, cách 331 km. Hàng thập kỷ nay, Bangalore được coi là trung tâm khoa học kỹ thuật, là Thung lũng Silicon của Ấn Độ, chiếm quá nửa sản lượng phần mềm xuất khẩu toàn Ấn. Trong thành phố có rất nhiều công viên kỹ thuật, nhiều công ty đa quốc gia, các cửa hàng, quán bar, tiệm ăn hiện đại. Lối sống của dân chúng cũng Âu hóa, khác với hầu hết các vùng trên đất Ấn. Trai gái ở đây có thể nắm tay nhau đi trên đường - hình ảnh hiếm thấy ở những thành phố khác.
Bang Karnataka rất phong phú về văn hóa và tôn giáo: những tác phẩm kiến trúc ấn tượng của đền thờ đạo Hồi, những công trình đạo Jain, nhà thờ Thiên Chúa giáo, đặc biệt là đền thờ Hindu. Những bãi biển sạch tinh và những đồn điền trên núi cũng là điểm đến hấp dẫn. Karnataka sản xuất cà phê, gia vị, cau và 60% sản lượng lụa của Ấn Độ.
Mysore "thành phố hương thơm" cách Bangalore khoảng bốn giờ xe khách. Đây là thành phố của lụa, gỗ đàn hương, hoa nhài, hương trầm... Trong không gian lúc nào cũng lơ lửng mùi thơm như có lễ hội. Cho đến ngày Ấn Độ độc lập, đây là nơi đóng đô của các vị tiểu vương. Vì vậy một trong những điểm nên đến thăm là Lâu đài Tiểu vương (Maharaja's Palace), kiến trúc, điêu khắc, cùng những tác phẩm nghệ thuật lưu giữ ở đó đều tuyệt mỹ.
Từ Mysore, nên dành ít nhất một ngày tham gia tour đi thăm khu đền Belur và Halebid (cách ba giờ xe hơi). Nghệ thuật điêu khắc ở hai khu đền này lên đến đỉnh cao, chỉ có hai nơi có thể sánh được là khu đền Khajuraho và Đền Mặt Trời Konark. Toàn bộ đời sống con người, muông thú, đời sống vua chúa, thần linh... được thể hiện trong điêu khắc đá trên khắp bề mặt đền. Nó cũng gây cảm tưởng chất liệu đá xanh trong tay nghệ nhân thời xưa chỉ giống như một thứ chất dẻo mà thôi.
Tour tham quan này còn bao gồm ngôi đền ở Sravana Belagola, nơi có pho tượng giáo sĩ đạo Jain thuộc phái "áo trời". Đây là pho tượng giáo sĩ lõa thể, cao 18 mét, pho tượng đá nguyên khối cao nhất thế giới. Tượng dựng trên đỉnh núi cao khoảng 200m, cho nên từ rất xa du khách đã có thể nhìn thấy. Muốn lên đến nơi thì phải leo 614 bậc đá cao và dốc.
Chuyện xưa kể lại rằng thời đó có hai vị hoàng tử cùng tranh giành một ngai vàng do vua cha để lại. Cuối cùng Bahubali là hoàng tử em đ• chiến thắng. Nhưng ngay lập tức chàng bị dằn vặt khi thấy người anh, Bharat, bị xiềng trong ngục tối. Bahubali ăn năn sám hối rồi trả lại ngai vàng cho Bharat, lui vào rừng sâu sống cuộc đời khổ hạnh của một giáo sĩ đạo Jain. Đức vua anh đ• cho dựng tượng Bahubali trên đỉnh núi này vào năm 981.
Lễ hội được tổ chức tại đền 12 năm một lần. Lễ hội năm 1993 và 2005 có đến hàng trăm nghìn người hành hương và du khách nước ngoài đổ về đây. Khán đài được dựng ngay đằng sau pho tượng, dành cho quan khách của chính quyền bang và các vị chức sắc trong đạo. Đến giờ làm lễ, pho tượng được tắm trong sữa dội từ trên đầu xuống, cùng với nước dừa, bơ tinh khiết, hạnh nhân, chà là, tiền xu bằng vàng, bột gỗ đàn hương, hàng tấn cánh hoa hồng... tức là những gì thanh khiết và quý giá theo quan niệm của tín đồ đạo Jain.
Tamil Nadu, cái nôi của văn hóa Dravidian
Bang Tamil Nadu được coi là cái nôi của văn hóa Dravidian. Thành phố Chennai (tên cũ là Madras , mới đổi tên từ năm 1997) là thủ phủ của cái nôi này. Cách xa New Delhi một chuyến bay 2 giờ 30 phút, đến Chennai, ta như đến với một nước Ấn Độ khác. Chennai là nơi sinh ra và nuôi dưỡng những nhà tư tưởng, những nghệ sĩ và nghệ nhân của một dòng văn hóa đặc trưng miền nam Ấn. Đây là vùng nói tiếng Tamil và là trung tâm sản xuất phim truyện tiếng Tamil. Là thành phố lớn thứ tư ở Ấn Độ, có nhiều trung tâm giáo dục lớn, có truyền thống về báo chí và xuất bản, Chennai cũng là một nơi châm ngòi cho những cuộc tranh luận công khai và nghiêm túc.
Phía nam vịnh Bengal , ven bờ Ấn Độ Dương, Chennai hơn 2000 năm qua đã thu hút những nhà đi biển và thương nhân buôn gia vị và vải vóc. Người Bồ Đào Nha đến đây vào thế kỷ XVI, tiếp đó là người Hà Lan. Năm 1639, Công ty Đông Ấn của Anh xây dựng cơ sở của họ tại một làng chài ở đây. Thế kỷ XVIII và XIX, Anh và Pháp tranh giành quyền thống trị trong khu vực, cho đến 1756, Pháp phải rút về vùng Pondicherry, ở gần đó.
Tại Chennai, ta sẽ đi thăm những nhà thờ Thiên Chúa giáo, những ngôi đền Hindu kiến trúc đặc trưng của miền nam ấn, trung tâm làm phim tiếng Tamil, các trường đại học có uy tín, có thể tham dự những lớp học yoga và trung tâm ca múa nhạc phương nam...
Khu đền trên bờ biển mang tên Mahabalipuram (Mamallapuram) cách Chennai 50 km. Đã đến Chennai, người ta không thể bỏ qua khu đền nổi tiếng về kiến trúc và điêu khắc này. Cả một quần thể những ngôi đền rải rác trên bãi biển cần thăm thú cho kỹ: Đền Bãi biển ( Shore Temple ) xây dựng từ thế kỷ VII. Một bức điêu khắc trên phiến đá lớn mang tên Arjuna hành xác (Arjuna's Penance), dài 30 mét rộng 12 mét, miêu tả cảnh khai sơn lập địa và cảnh sông Hằng linh thiêng đang đổ nước xuống. Ngôi đền Ganesh Ratha thờ thần đầu voi Ganesha. Đền Trimurti Cave Temple thờ tam vị tối cao của Hindu giáo. Một cụm năm ngôi đền gọi là Five Rathas, đặt theo tên năm anh em Pandava trong sử thi Mahabharata, ngôi đền thứ sáu trong quần thể này mang tên Draupadi, vợ chung của năm anh em.
Tirupati và Tirumala: là thị trấn cách Chennai khoảng năm giờ đi tàu hỏa hoặc xe khách. Đền thờ thần Venkateswara, một trong những hiện thân của thần Vishnu, là ngôi đền đông đúc nhất trên thế giới, vượt cả Rome, Mecca và Jerusalem về số người hành hương trong một năm. Bất cứ thời điểm nào trong ngày cũng có khoảng 5.000 người xếp hàng vào đền. Lượng khách mỗi ngày lên đến 100.000 người. Mọi lời cầu khấn trước tượng thần trong chính điện đều trở thành hiện thực, người ta đồn đại thế.
Thần Venkateswara trong tranh tượng thường có băng che mắt, nếu không thì cái nhìn của thần sẽ thiêu cháy cả trần gian. Những tràng hoa quàng kín trên cổ thần, thõng xuống đến tận chân. Tất cả các cửa hàng, khách sạn, tiệm ăn ở đây đều có tranh tượng thần. Ngày đêm khói hương nghi ngút.
Đền có đội ngũ giáo sĩ, trợ tế, khu vực trường học (có cả cấp đại học) với nhiều giáo sư tiến sĩ, khu vực y tế, phát chẩn lương thực và thuốc men cho người hành hương, bộ phận cung cấp điện nước và nhà nghỉ... Toàn bộ biên chế của đền là 18.000 người. Tổng thu nhập của đền khoảng 330 triệu USD/năm. Phần lớn thu nhập được đầu tư trở lại để xây dựng hệ thống phòng chờ, nhà nghỉ, đường sá, lương thực thực phẩm.
Người hành hương có thể xếp hàng đi vòng quanh khu vực đền, có khi phải mất 12 giờ đồng hồ mới vào được chính điện, chầm chậm di chuyển qua trước tượng thần và cầu nguyện, không được đứng lại. Nếu mua một cái vé ưu tiên khoảng 1 USD thì được đưa đi tắt qua một số phòng, mất khoảng 2-4 giờ đồng hồ. Trên đường di chuyển, khách đi qua rất nhiều phòng chờ, có hệ thống TV băng đĩa hình phục vụ suốt ngày đêm. Những cặp vợ chồng mới cưới hoặc đính hôn có thể đóng góp từ 500 đến 1000 rupee (12 đến 24 USD), được đưa 5-7 người thân vào làm lễ.
Sau khi ra khỏi chính điện, người hành hương được phát một bát cháo phúc, một ít bánh ngọt laddu. Giờ ăn trưa và ăn tối sẽ được phát đồ ăn do nhiều xe chở đến. Người hành hương tin rằng nếu cạo trọc đầu trước khi vào đền (giũ bỏ trần tục ở bên ngoài) thì sẽ may mắn hơn. Gặp một gia đình hoặc một người cạo trọc đầu ở vùng này, ta có thể hiểu họ mới hành hương tới đền Tirumala. Chỉ riêng số tiền bán tóc của đền đã lên đến 1 triệu USD/năm. Ấn Độ (tiếng Hindi: भारत गणराज्य Bharat; tên cổ: Thiên Trúc (天竺), Quyên Độc (身毒)) là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini và đạo Sikh. Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi, người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần: phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này cách nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ.
Taj Mahal, AgraJaipur
Ấn Độ có một di sản văn hóa phong phú và đặc trưng duy nhất, và họ luôn tìm cách giữ gìn những truyền thống của mình trong suốt thời kỳ lịch sử trong khi vẫn hấp thu các phong tục, truyền thống và tư tưởng từ phía cả những kẻ xâm lược và những người dân nhập cư. Nhiều hoạt động văn hoá, ngôn ngữ, phong tục và các công trình là những ví dụ cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó. Những công trình nổi tiếng như Taj Mahal và các công trình kiến trúc có ảnh hưởng Hồi giáo là di sản từ triều đại Mughal. Chúng là kết quả của một truyền thống hợp nhất mọi yếu tố từ mọi phần của quốc gia.HampiKhajurahoAjanta and Ellora cavesFatehpur Sikri
Delhi
Mahakaleshwar temple at Ujjain
Amritsar
Bodhgaya
Bangalore BangaloreHaridwar (the Gateway to God)
Âm nhạc Ấn Độ được thể hiện ở rất nhiều hình thức. Hai hình thức chính của âm nhạc cổ điển là Carnatic từ Nam Ấn, và Hindustani từ Bắc Ấn. Các hình thức phổ thông của âm nhạc cũng rất phổ biến, nổi tiếng nhất là âm nhạc Filmi. Ngoài ra còn có nhiều truyền thống khác nhau về âm nhạc dân gian từ mỗi nơi trên đất nước. Có nhiều hình thức nhảy múa cổ điển hiện diện, gồm Bharatanatyam, Kathakali, Kathak và Manipuri. Chúng thường ở hình thức tường thuật và lẫn với những yếu tố sùng đạo và tinh thần. Truyền thống văn học sớm nhất Ấn Độ là hình thức truyền miệng, và sau này mới ở hình thức ghi chép. Đa số chúng là các tác phẩm linh thiêng như (kinh) Vedas và các sử thi Mahabharata và Ramayana. Văn học Sangam từ Tamil Nadu thể hiện một trong những truyền thống lâu đời nhất Ấn Độ. Đã có nhiều nhà văn Ấn Độ hiện đại nổi tiếng, cả với các tác phẩm bằng tiếng Ấn Độ và tiếng Anh. Nhà văn Ấn Độ duy nhất đoạt giải Nobel văn học là nhà văn dùng tiếng Bengal Rabindranath Tagore. Ấn Độ cũng là nước sản xuất ra số lượng phim hàng năm cao nhất thế giới. Vùng sản xuất chính nằm tại Mumbai, cho ra lò hầu như tất cả phim thương mại Ấn Độ, thường được gọi là "Bollywood". Cũng có một số lượng lớn tác phẩm điện ảnh sử dụng tiếng Kannada, tiếng Malayalam, tiếng Tamil, tiếng Telugu và tiếng Bengal.
Các hoạt động tôn giáo theo nhiều đức tin khác nhau là một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Giáo dục được coi trọng bởi mọi thành viên ở mọi giai cấp. Các giá trị gia đình truyền thống Ấn Độ đã phát triển để đạt tới một hệ thống gia đình hạt nhân, bởi vì những hạn chế về kinh tế xã hội của hệ thống gia đình liên kết truyền thống cũ. Tôn giáo ở Ấn Độ là một vấn đề công cộng, với nhiều hoạt động đã trở thành phô trương tráng lệ và cùng với nó là sự sút giảm các giá trị tinh thần.
Ẩm thực Ấn Độ rất đa dạng, về thành phần, hương vị và cách chế biến khác biệt theo từng vùng. Gạo và bột mì là hai thực phẩm chính của nước này. Ấn Độ nổi tiếng về số lượng các món chay và không chay. Thực phẩm nhiều gia vị và đồ ngọt rất phổ biến ở Ấn Độ. Trang phục truyền thống tại Ấn Độ khác biệt rát lớn theo từng vùng về màu sắc và kiểu dáng, và phụ thuộc trên nhiều yếu tố, bao gồm cả khí hậu. Các kiểu trang phục dân dã gồm sari truyền thống cho phụ nữ và truyền thống cho nam giới.
Môn thể thao được ưa chuộng nhất Ấn Độ là hockey trên cỏ, dù cricket hiện trên thực tế là một môn thể thao quốc gia, đặc biệt phía đông bắc, bóng đá là môn thể thao dân dã nhất và được theo dõi đông đảo. Những năm gần đây tennis cũng trở nên phổ biến ở Ấn Độ. Ấn Độ cũng nổi tiếng về cờ vua, với những kỳ thủ ở tầm vóc quốc tế như Vishwanathan Anand. Các môn thể thao truyền thống địa phương như kabaddi và gilli-danda, được thi đấu ở hầu hết mọi nơi trong nước.
Đúng như câu khẩu hiệu quảng bá du lịch hiện tại - Incredible India Ấn Độ có nhiều điểm du lịch hấp dẫn - từ các công trình kiến trúc tuyệt vời đến những cánh rừng cây cối xanh tươi, và tất cả đều có thể khiến du khách ngỡ ngàng
Chính nền văn hóa đậm đà, lịch sử lâu dài, những phong tục độc đáo đã tạo nên sự đa dạng của Ấn Độ, làm cho đất nước này thực sự trở thành một trong những trải nghiệm tuyệt vời nhất trên thế giới đối với bất kỳ du khách nào.
Không chỉ nổi tiếng bởi âm nhạc, những điệu múa cùng những triết lý và tôn giáo cổ đại, đất nước rộng lớn này còn có vô số các hội chợ, lễ hội, những bài thánh ca và các màn biểu diễn ghi dấu đậm nét cuộc sống hàng ngày phát triển qua nhiều thế kỉ, và giờ đây lại được pha trộn với những ảnh hưởng từ bên ngoài.
Các di sản
Ấn Độ có 22 di sản văn hóa thế giới và 5 di sản tự nhiên thế giới. Trong số đó, nổi tiếng nhất là đền Taj Mahal ở Agra, quần thể di tích Qutub Minar ở Delhi, hang Ajanta và Ellora ở Maharashtra, đền Mahabodhi ở Gaya (Bihar) và đường tàu qua núi Darjeeling ở Tây Bengal và dãy Nilgiris ở Tamil Nadu.
Khắp Ấn Độ có nhiều ngọn đồi, có thể kể đến những ngọn đồi ở dãy Himalaya, ở phía Đông, phía Tây Ghats và ngay cả miền Trung Ấn Độ. Đây là những nơi người ta tìm đến để trốn cái nắng nóng mùa hè.
Mỗi năm có hàng ngàn khách du lịch đến Ấn Độ để được tắm nắng ở một trong những bãi biển đẹp nhất thế giới. Ấn Độ có những vụng và phá lặng nước, vịnh và động bao quanh bằng đá dung nham, các cửa biển đầy cá, những bờ biển có bãi cát vàng mịn và những cây cọ.
Bờ phía Tây của biển Ả Rập và bờ biển phía Đông trên vịnh Bengal mở ra trước mắt du khách những khung cảnh hết sức ấn tượng. Các bờ biển của Ấn Độ có nhiều đặc sản biển, các spa nghỉ dưỡng, các môn thể thao dưới nước cùng nhiều địa điểm hấp dẫn cho một kỳ nghỉ.
Là quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới và là sự tiếp nối các triều đại thống trị suốt dọc chiều dài và chiều rộng đất nước, Ấn Độ có rất nhiều ví dụ tiêu biểu về các kiến trúc cung điện. Các cung điện của Rajasthan và miền Trung Ấn Độ là những công trình nổi tiếng nhất. Mỗi cung điện có một truyền thuyết và chất chứa sức quyến rũ riêng biệt.
Tôn giáo và triết học là một phần trung tâm trong cuộc sống hàng ngày của người dân Ấn Độ nói chung. Nhiều điểm du lịch ở Ấn Độ mang đậm chất tôn giáo và tâm linh, đặc biệt là vào các dịp lễ hội cầu may.
Các thành phố thiêng - các điểm dừng trong cuộc hành hương xuyên đất nước của đạo Hindu, các tu viện phật giáo, các nhà thờ nổi tiếng, các ngôi đền Gurudwara và các nhà thờ Hồi giáo tôn nghiêm là sự kết hợp của kiến trúc tôn giáo và kiến trúc thế tục.
Ấn Độ đang nhanh chóng nổi lên như là một điểm du lịch chữa bệnh toàn cầu. Ngày càng có nhiều du khách muốn được chăm sóc sức khỏe theo phương pháp cổ đại Ayurveda, chữa trị tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe, trung tâm chữa bệnh công nghệ cao, spa và yoga.
Du lịch mạo hiểm Được trời phú những đỉnh núi bao phủ tuyết trắng, thung lũng xinh đẹp, dòng sông uốn khúc, khu rừng rậm với giới động thực vật phong phú, đường bờ biển dài và quang cảnh mặt trăng huyền ảo, Ấn Độ có nhiều tiềm năng về du lịch mạo hiểm như đi bè mảng và chèo xuồng gỗ, câu cá thể thao, đi bộ đường dài và leo núi, bay lượn tự do và nhảy dù từ máy bay, săn voi và lạc đà, trượt tuyết, nhảy bungee và lái xe đường trường.
Với những trung tâm hội thảo đẳng cấp thế giới, các sân bay tầm cỡ quốc tế cùng với lòng mến khách nổi tiếng thế giới của người dân Ấn Độ, quốc gia đa tôn giáo này nổi lên là một điểm đến tuyệt vời để tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm... trọn gói.
Người ta nói rằng một đời người cũng không đủ để thăm thú hết một nửa đất nước Ấn Độ. Điều hấp dẫn du khách không chỉ là những phong cảnh đẹp mà còn là sự mến khách nồng hậu và lối sống Ấn Độ đầy đa dạng.
Mumbai trước đây được gọi là Bombay, là thủ phủ của bang Maharashtra, là thành phố đông dân nhất Ấn Độ, và theo một số cách tính toán là thành phố đông dân nhất thế giới với một dân số ước tính khoảng 13 triệu người (thời điểm năm 2006) Mumbai tọa lạc trên đảo Salsette, ngoài bờ tây của Maharashtra. Cùng với các ngoại ô xung quanh, nó tạo thành một vùng đô thị đông dân thứ 6 thế giới với dân số khoảng 20 triệu người. Vị trí này của Mumbai ước tính có thể nhảy lên thứ 4 thế giới năm 2015 do tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 2,2%. Thành phố này có một bến cảng sâu tự nhiên và cảng này đã phục vụ hơn một nửa lượng khách đường thủy và một số lượng đáng kể hàng hóa thông qua.
Mumbai là thủ đô thương mại và giải trí của Ấn Độ, là nơi có nhiều tổ chức tài chính quan trọng, như Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI), Sở giao dịch Chứng khoán Bombay (BSE), Sở Giao dịch Chứng khoán Quốc gia Ấn Độ (NSE) và là nơi đóng trụ sở của nhiều công ty Ấn Độ. Mumbai đã thu hút người nhập cư từ khắp nơi trên đất nước Ấn Độ do thành phố này có nhiều cơ hội kinh doanh và mức sống, khá cao khiến cho thành phố là một “nồi lẩu thập cẩm” của nhiều cộng đồng dân cư và các nền văn hóa. Thành phố là nơi trụ sở ngành điện ảnh và truyền hình tiếng Hindi , được biết đến với tên gọi Bollywood. Mumbai cũng là một trong những thành phố hiếm hoi có một vườn quốc gia, Vườn quốc gia Sanjay Gandhi, nằm trong địa phận của thành phố.
Sân vận động BrabourneTên gọi Mumbai là một eponym, về mặt từ nguyên lấy từ từ Mumba hoặc Maha-Amba— tên của vị nữ thần Hindu Mumbadevi, và Aai — mẹ của Marathi.Tên trước đây Bombay có nguồn gốc từ thế kỷ 16 khi người Bồ Đào Nha đến khu vực này và gọi khu vực này với nhiều tên gọi khác nhau mà cuối cùng được chốt lại với cách viết Bombaim, hiện vẫn đang được sử dụng phổ biến trong tiếng Bồ Đào Nha. Sau khi Anh giành được quyền kiểm soát vào thế kỷ 17, tên gọi này được Anh hóa thành Bombay, dù thành phố này được biết đến với tên gọi Mumbai hay Mambai cho đến tên Marathi đối những người nói tiếng Gujarati, và tên gọi Bambai trong tiếng Hindi, Urdu, và Ba Tư. Tên gọi vẫn được chính thức đổi thành Mumbai năm 1995, nhưng tên cũ vẫn đang được người dân thành phố và nhiều thể chế nổi tiếng sử dụng rộng rãi.
Một sự giải thích rộng rãi nguồn gốc tên gọi bằng tiếng Anh truyền thống Bombay cho rằng từ này xuất phát từ tên bằng tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là vịnh tốt.[6] Điều này dựa trên thực tế là bom trong tiếng Bồ Đào Nha là tốt còn từ tiếng Anh vịnh tương tự như từ tiếng Bồ Đào Nha baía (bahia trong cách viết cũ). Tuy nhiên, tiếng Bồ Đào Nha thì vịnh tốt phải viết là bahia boa chứ không phải viết sai ngữ pháp thành bom bahia.
Các nguồn khác có một nguồn gốc xuất xứ của toponym tiếng Bồ Đào Nha Bombaim. Dicionário Onomástico Etimológico da Língua Portuguesa ("Từ điển Tên riêng và Từ nguyên học") của José Pedro Machado cho rằng có lẽ tên gọi tiếng Bồ Đào Nha đầu tiên về vùng đất này từ năm 1516, là Benamajambu hay Tena-Maiambu, chỉ ra rằng "maiambu"' dường như chỉ Mumba-Devi, vị nữ thần Hindu sau khi nơi này được đặt tên bằng tiếng Marathi (Mumbai). Trong cùng thế kỷ, cách viết này đã biến thành Mombayn (1525) và sau đó là Mombaim (1563). Cách viết cuối cùng Bombaim xuất hiện cuối thế kỷ 16, như đã được ghi chép bởi Gaspar Correia trong tác phẩm của mình Lendas da Índia ("Các huyền thoại Ấn Độ"). J.P. Machado dường như bác bỏ giả thuyết "Bom Bahia", xác nhận rằng các ghi chép của Bồ Đào Nha đề cập sự hiện diện của một vịnh ở nơi này đã dẫn đến việc người Anh cho rằng danh từ (bahia, "bay") là một phần không thể tách rời của tên đất theo tiếng Bồ Đào Nha, do đó tên gọi Bombay trong tiếng Anh phỏng theo tiếng Bồ Đào Nha.ban đầu là một quần đảo bao gồm bảy hòn đảo. Các hiện vật được tìm thấy gần Kandivali, ở phía Bắc Mumbai cho thấy các đảo này đã có người ở từ Thời kỳ Đồ Đá.[12] Các chứng cứ bằng tài liệu ghi chép được về sự sinh sống của loài người ở đây có niên đại đến năm 250 trước Công nguyên, khi nó được biết đến với tên Heptanesia (Ptolemy) (tiếng Hy Lạp cổ: Một cụm 7 hòn đảo). Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đảo này đã tạo thành một phần của Đế quốc Maurya, do một hoàng đế theo Phật giáo trị vì, Aşoka. Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên, việc kiểm soát Mumbai đã bị tranh chấp giữa các phó vương phía Tây (Western Satraps) Indo-Scythianvà Satavahanas. Những người cai trị Hindu của triều đại Silhara sau đó đã cai trị các đảo này cho đến năm 1343, khi vương quốc Gujarat đã thôn tín họ. Một trong những dinh tự cổ nhất của quần đảo này là Các động Elephanta và quần thể đền Walkeshwar có niên đại trong thời kỳ này. Năm 1534, người Bồ Đào Nha đã chiếm các đảo từ Bahadur Shah của Gujarat. Họ đã nhượng cho Charles II của Anh năm 1661, làm của hồi môn cho Catherine de Braganza. Những hòn đảo này sau đó lại được cho Cồng ty Đông Ấn thuộc Anh thuê năm 1668 với giá thuê 10 £10 mỗi năm. Công ty này thấy bến cảng nước sâu này bên bờ biển phía Đông của các hòn đảo là nơi lý tưởng để xây cảng đầu tiên của họ ở tiểu lục địa Ấn Độ. Dân số đã tăng lên nhanh chóng từ 10.000 năm 1661, lên 60.000 năm 1675; Năm 1687, Công ty Đông Ấn Anh đã chuyển trụ sở của mình từ Surat đến Bombay. Thành phố này cuối cùng đã trở thành thủ phủ hành chính của Quận Bombay.
Từ năm 1817 trở về sau, thành phố đã được tạo lại hình dáng với các dự án xây dựng dân dụng với mục đích sáp nhập tất cả các hòn đảo ở quần đảo vào một khối đơn nhất. Dự án với tên gọi Hornby Vellard, đã được hoàn thành năm 1845, và dẫn đến tổng diện tích của khu vực phình ra đến 438 km². Năm 1853, tuyến đường sắt hành khách đầu tiên đã được thiết lập, nối Bombay với thị xã Thane. Trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), thành phố này đã trở thành thị trường mua bán bông chính của thế giới, dẫn đến một sự bùng nổ kinh tế và kết quả là tăng tầm vóc của thành phố. Việc khai trương Kênh đào Suez năm 1869 đã chuyển Bombay thành một trong những hải cảng lớn nhất thế giới bên bờ Biển Ả Rập.
Trong 30 năm sau, thành phố đã phát triển thành một trung tâm đô thị lớn, được thúc đẩy bởi một sự cải thiện hạ tầng cơ sở và việc xây dựng nhiều định chế của thành phố. Dân số của thành phố đã lên đến 1 triệu người năm 1906, khiến nó trở thành thành phố lớn thứ hai Ấn Độ, sau Calcutta. Là thủ phủ của Quận Bombay, thành phố này là cơ sở chính của Phong trào Độc lập Ấn Độ, với Phong trào Trả lại Ấn Độ do Mahatma Gandhi kêu gọi năm 1942 là sự kiện rubric nhất. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập năm 1947, thành phố đã trở thành thủ phủ của Bang Bombay. Năm 1950 thành phố mở rộng ranh giới ra như ranh giới hiện nay bằng cách sáp nhập các khu vực của các hòn đảo Salsette nằm ở phía Bắc.
Sau năm 1955, khi Bang Bombay được tổ chức lại theo ranh giới ngôn ngữ của các bang Maharashtra và Gujarat, đã có một yêu cầu rằng thành phố phải được thiết lập thành một bang-thành phố tự trị. Tuy nhiên, phong trào Samyukta Maharashtra đã phản đối yêu cầu này và khăng khăng đòi Bombay/Mumbai được công bố là thủ phủ của Maharashtra. Theo những cuộc tuần hành phản đối mà đã có 105 người bị cảnh sát bắn chết, bang Maharashtra đã được thành lập với Bombay là thủ phủ vào ngày 1 tháng 5 năm 1960.
Cuối thập niên 1970, Bombay trải qua một thời kỳ bùng nổ về xây dựng và một luồng dân di cư đáng kể và Bombay đã vượt qua Kolkata để trở thành thành phố đông dân nhất Ân Độ. Điều này đã dẫn đến việc tạo ra Shiv Sena, một đơn vị chính trị bảo vệ quyền của những 'con trai của đất' năm 1966. Các công trình cổ của thành phố đã bị phá tan tành trong năm 1992/93, sau một cuộc bạo lọan phe phái gây ra tổn thất lơn về sinh mạng và tài sản. Một vài tháng sau, ngày 12 tháng 3 năm 1993, các vụ đánh bom đồng lọat vào các công trình nổi bật của thành phố bởi thế giới ngầm Mumbai đã giết chết khoảng 300 người. Năm 1995, thành phố đã được chính quyền Maharashtra của đảng Shiv Sena đổi tên thành Mumbai , với mục đích duy trì chính sách đổi tên các thể chế thời thuộc địa theo các tên gọi lịch sử địa phương. Đã có các vụ đánh bom nhằm vào các xe bus vận chuyển công cộng trong vài năm qua. Năm 2006, Mumbai cũng là một địa điểm của một vụ khủng bố lớn trong đó hơn 200 người bị giết chết khi nhiều quả bom đã phát nổ hầu như đồng thời ở Tuyến tàu hỏa Ngoại ô Mumbai.
Không chỉ nổi tiếng bởi âm nhạc, những điệu múa cùng những triết lý và tôn giáo cổ đại, đất nước rộng lớn này còn có vô số các hội chợ, lễ hội, những bài thánh ca và các màn biểu diễn ghi dấu đậm nét cuộc sống hàng ngày phát triển qua nhiều thế kỉ, và giờ đây lại được pha trộn với những ảnh hưởng từ bên ngoài.
Các di sản
Ấn Độ có 22 di sản văn hóa thế giới và 5 di sản tự nhiên thế giới. Trong số đó, nổi tiếng nhất là đền Taj Mahal ở Agra, quần thể di tích Qutub Minar ở Delhi, hang Ajanta và Ellora ở Maharashtra, đền Mahabodhi ở Gaya (Bihar) và đường tàu qua núi Darjeeling ở Tây Bengal và dãy Nilgiris ở Tamil Nadu.
Ngôi đền Taj Mahal nổi tiếng
Các điểm nghỉ mátKhắp Ấn Độ có nhiều ngọn đồi, có thể kể đến những ngọn đồi ở dãy Himalaya, ở phía Đông, phía Tây Ghats và ngay cả miền Trung Ấn Độ. Đây là những nơi người ta tìm đến để trốn cái nắng nóng mùa hè.
Những ngọn núi phía Tây Ghats xanh tươi
Các bãi biểnMỗi năm có hàng ngàn khách du lịch đến Ấn Độ để được tắm nắng ở một trong những bãi biển đẹp nhất thế giới. Ấn Độ có những vụng và phá lặng nước, vịnh và động bao quanh bằng đá dung nham, các cửa biển đầy cá, những bờ biển có bãi cát vàng mịn và những cây cọ.
Bờ phía Tây của biển Ả Rập và bờ biển phía Đông trên vịnh Bengal mở ra trước mắt du khách những khung cảnh hết sức ấn tượng. Các bờ biển của Ấn Độ có nhiều đặc sản biển, các spa nghỉ dưỡng, các môn thể thao dưới nước cùng nhiều địa điểm hấp dẫn cho một kỳ nghỉ.
Vịnh Bengal huyền ảo
Các cung điệnLà quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới và là sự tiếp nối các triều đại thống trị suốt dọc chiều dài và chiều rộng đất nước, Ấn Độ có rất nhiều ví dụ tiêu biểu về các kiến trúc cung điện. Các cung điện của Rajasthan và miền Trung Ấn Độ là những công trình nổi tiếng nhất. Mỗi cung điện có một truyền thuyết và chất chứa sức quyến rũ riêng biệt.
Cung điện Rajasthan Jaipur Jal Mahal lung linh soi bóng nước
Những cuộc hành hươngTôn giáo và triết học là một phần trung tâm trong cuộc sống hàng ngày của người dân Ấn Độ nói chung. Nhiều điểm du lịch ở Ấn Độ mang đậm chất tôn giáo và tâm linh, đặc biệt là vào các dịp lễ hội cầu may.
Các thành phố thiêng - các điểm dừng trong cuộc hành hương xuyên đất nước của đạo Hindu, các tu viện phật giáo, các nhà thờ nổi tiếng, các ngôi đền Gurudwara và các nhà thờ Hồi giáo tôn nghiêm là sự kết hợp của kiến trúc tôn giáo và kiến trúc thế tục.
Đền Gurudwara - điểm đến hành hương của du khách khắp nơi
Du lịch chữa bệnhẤn Độ đang nhanh chóng nổi lên như là một điểm du lịch chữa bệnh toàn cầu. Ngày càng có nhiều du khách muốn được chăm sóc sức khỏe theo phương pháp cổ đại Ayurveda, chữa trị tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe, trung tâm chữa bệnh công nghệ cao, spa và yoga.
Thư giãn bằng liệu pháp Ayurveda
Du lịch mạo hiểm Được trời phú những đỉnh núi bao phủ tuyết trắng, thung lũng xinh đẹp, dòng sông uốn khúc, khu rừng rậm với giới động thực vật phong phú, đường bờ biển dài và quang cảnh mặt trăng huyền ảo, Ấn Độ có nhiều tiềm năng về du lịch mạo hiểm như đi bè mảng và chèo xuồng gỗ, câu cá thể thao, đi bộ đường dài và leo núi, bay lượn tự do và nhảy dù từ máy bay, săn voi và lạc đà, trượt tuyết, nhảy bungee và lái xe đường trường.
Đường lên hang động Ajanta
Loại hình du lịch mớiVới những trung tâm hội thảo đẳng cấp thế giới, các sân bay tầm cỡ quốc tế cùng với lòng mến khách nổi tiếng thế giới của người dân Ấn Độ, quốc gia đa tôn giáo này nổi lên là một điểm đến tuyệt vời để tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm... trọn gói.
Người ta nói rằng một đời người cũng không đủ để thăm thú hết một nửa đất nước Ấn Độ. Điều hấp dẫn du khách không chỉ là những phong cảnh đẹp mà còn là sự mến khách nồng hậu và lối sống Ấn Độ đầy đa dạng.
Vẻ đẹp hiện đại của đất nước Ấn Độ
“Người Ấn Độ tin rằng việc sẻ chia hạnh phúc, niềm vui và cư xử thân thiện với du khách là một truyền thống đáng tự hào đã có từ lâu. Vẻ đẹp của Ấn Độ có thể ví như một vườn hoa nhiều màu sắc và hình dạng mà tất cả đều chứa đựng những đặc tính riêng, góp phần tạo nên sự hài hòa và vẻ đẹp của cả khu vườn mang tên Ấn Độ”, phát biểu của đại sứ quán Ấn Độ tại Trung Quốc.Mumbai là thủ đô thương mại và giải trí của Ấn Độ, là nơi có nhiều tổ chức tài chính quan trọng, như Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI), Sở giao dịch Chứng khoán Bombay (BSE), Sở Giao dịch Chứng khoán Quốc gia Ấn Độ (NSE) và là nơi đóng trụ sở của nhiều công ty Ấn Độ. Mumbai đã thu hút người nhập cư từ khắp nơi trên đất nước Ấn Độ do thành phố này có nhiều cơ hội kinh doanh và mức sống, khá cao khiến cho thành phố là một “nồi lẩu thập cẩm” của nhiều cộng đồng dân cư và các nền văn hóa. Thành phố là nơi trụ sở ngành điện ảnh và truyền hình tiếng Hindi , được biết đến với tên gọi Bollywood. Mumbai cũng là một trong những thành phố hiếm hoi có một vườn quốc gia, Vườn quốc gia Sanjay Gandhi, nằm trong địa phận của thành phố.
Sân vận động BrabourneTên gọi Mumbai là một eponym, về mặt từ nguyên lấy từ từ Mumba hoặc Maha-Amba— tên của vị nữ thần Hindu Mumbadevi, và Aai — mẹ của Marathi.Tên trước đây Bombay có nguồn gốc từ thế kỷ 16 khi người Bồ Đào Nha đến khu vực này và gọi khu vực này với nhiều tên gọi khác nhau mà cuối cùng được chốt lại với cách viết Bombaim, hiện vẫn đang được sử dụng phổ biến trong tiếng Bồ Đào Nha. Sau khi Anh giành được quyền kiểm soát vào thế kỷ 17, tên gọi này được Anh hóa thành Bombay, dù thành phố này được biết đến với tên gọi Mumbai hay Mambai cho đến tên Marathi đối những người nói tiếng Gujarati, và tên gọi Bambai trong tiếng Hindi, Urdu, và Ba Tư. Tên gọi vẫn được chính thức đổi thành Mumbai năm 1995, nhưng tên cũ vẫn đang được người dân thành phố và nhiều thể chế nổi tiếng sử dụng rộng rãi.
Một sự giải thích rộng rãi nguồn gốc tên gọi bằng tiếng Anh truyền thống Bombay cho rằng từ này xuất phát từ tên bằng tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là vịnh tốt.[6] Điều này dựa trên thực tế là bom trong tiếng Bồ Đào Nha là tốt còn từ tiếng Anh vịnh tương tự như từ tiếng Bồ Đào Nha baía (bahia trong cách viết cũ). Tuy nhiên, tiếng Bồ Đào Nha thì vịnh tốt phải viết là bahia boa chứ không phải viết sai ngữ pháp thành bom bahia.
Các nguồn khác có một nguồn gốc xuất xứ của toponym tiếng Bồ Đào Nha Bombaim. Dicionário Onomástico Etimológico da Língua Portuguesa ("Từ điển Tên riêng và Từ nguyên học") của José Pedro Machado cho rằng có lẽ tên gọi tiếng Bồ Đào Nha đầu tiên về vùng đất này từ năm 1516, là Benamajambu hay Tena-Maiambu, chỉ ra rằng "maiambu"' dường như chỉ Mumba-Devi, vị nữ thần Hindu sau khi nơi này được đặt tên bằng tiếng Marathi (Mumbai). Trong cùng thế kỷ, cách viết này đã biến thành Mombayn (1525) và sau đó là Mombaim (1563). Cách viết cuối cùng Bombaim xuất hiện cuối thế kỷ 16, như đã được ghi chép bởi Gaspar Correia trong tác phẩm của mình Lendas da Índia ("Các huyền thoại Ấn Độ"). J.P. Machado dường như bác bỏ giả thuyết "Bom Bahia", xác nhận rằng các ghi chép của Bồ Đào Nha đề cập sự hiện diện của một vịnh ở nơi này đã dẫn đến việc người Anh cho rằng danh từ (bahia, "bay") là một phần không thể tách rời của tên đất theo tiếng Bồ Đào Nha, do đó tên gọi Bombay trong tiếng Anh phỏng theo tiếng Bồ Đào Nha.ban đầu là một quần đảo bao gồm bảy hòn đảo. Các hiện vật được tìm thấy gần Kandivali, ở phía Bắc Mumbai cho thấy các đảo này đã có người ở từ Thời kỳ Đồ Đá.[12] Các chứng cứ bằng tài liệu ghi chép được về sự sinh sống của loài người ở đây có niên đại đến năm 250 trước Công nguyên, khi nó được biết đến với tên Heptanesia (Ptolemy) (tiếng Hy Lạp cổ: Một cụm 7 hòn đảo). Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, các đảo này đã tạo thành một phần của Đế quốc Maurya, do một hoàng đế theo Phật giáo trị vì, Aşoka. Trong những thế kỷ đầu sau Công nguyên, việc kiểm soát Mumbai đã bị tranh chấp giữa các phó vương phía Tây (Western Satraps) Indo-Scythianvà Satavahanas. Những người cai trị Hindu của triều đại Silhara sau đó đã cai trị các đảo này cho đến năm 1343, khi vương quốc Gujarat đã thôn tín họ. Một trong những dinh tự cổ nhất của quần đảo này là Các động Elephanta và quần thể đền Walkeshwar có niên đại trong thời kỳ này. Năm 1534, người Bồ Đào Nha đã chiếm các đảo từ Bahadur Shah của Gujarat. Họ đã nhượng cho Charles II của Anh năm 1661, làm của hồi môn cho Catherine de Braganza. Những hòn đảo này sau đó lại được cho Cồng ty Đông Ấn thuộc Anh thuê năm 1668 với giá thuê 10 £10 mỗi năm. Công ty này thấy bến cảng nước sâu này bên bờ biển phía Đông của các hòn đảo là nơi lý tưởng để xây cảng đầu tiên của họ ở tiểu lục địa Ấn Độ. Dân số đã tăng lên nhanh chóng từ 10.000 năm 1661, lên 60.000 năm 1675; Năm 1687, Công ty Đông Ấn Anh đã chuyển trụ sở của mình từ Surat đến Bombay. Thành phố này cuối cùng đã trở thành thủ phủ hành chính của Quận Bombay.
Từ năm 1817 trở về sau, thành phố đã được tạo lại hình dáng với các dự án xây dựng dân dụng với mục đích sáp nhập tất cả các hòn đảo ở quần đảo vào một khối đơn nhất. Dự án với tên gọi Hornby Vellard, đã được hoàn thành năm 1845, và dẫn đến tổng diện tích của khu vực phình ra đến 438 km². Năm 1853, tuyến đường sắt hành khách đầu tiên đã được thiết lập, nối Bombay với thị xã Thane. Trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), thành phố này đã trở thành thị trường mua bán bông chính của thế giới, dẫn đến một sự bùng nổ kinh tế và kết quả là tăng tầm vóc của thành phố. Việc khai trương Kênh đào Suez năm 1869 đã chuyển Bombay thành một trong những hải cảng lớn nhất thế giới bên bờ Biển Ả Rập.
Sau năm 1955, khi Bang Bombay được tổ chức lại theo ranh giới ngôn ngữ của các bang Maharashtra và Gujarat, đã có một yêu cầu rằng thành phố phải được thiết lập thành một bang-thành phố tự trị. Tuy nhiên, phong trào Samyukta Maharashtra đã phản đối yêu cầu này và khăng khăng đòi Bombay/Mumbai được công bố là thủ phủ của Maharashtra. Theo những cuộc tuần hành phản đối mà đã có 105 người bị cảnh sát bắn chết, bang Maharashtra đã được thành lập với Bombay là thủ phủ vào ngày 1 tháng 5 năm 1960.
Cuối thập niên 1970, Bombay trải qua một thời kỳ bùng nổ về xây dựng và một luồng dân di cư đáng kể và Bombay đã vượt qua Kolkata để trở thành thành phố đông dân nhất Ân Độ. Điều này đã dẫn đến việc tạo ra Shiv Sena, một đơn vị chính trị bảo vệ quyền của những 'con trai của đất' năm 1966. Các công trình cổ của thành phố đã bị phá tan tành trong năm 1992/93, sau một cuộc bạo lọan phe phái gây ra tổn thất lơn về sinh mạng và tài sản. Một vài tháng sau, ngày 12 tháng 3 năm 1993, các vụ đánh bom đồng lọat vào các công trình nổi bật của thành phố bởi thế giới ngầm Mumbai đã giết chết khoảng 300 người. Năm 1995, thành phố đã được chính quyền Maharashtra của đảng Shiv Sena đổi tên thành Mumbai , với mục đích duy trì chính sách đổi tên các thể chế thời thuộc địa theo các tên gọi lịch sử địa phương. Đã có các vụ đánh bom nhằm vào các xe bus vận chuyển công cộng trong vài năm qua. Năm 2006, Mumbai cũng là một địa điểm của một vụ khủng bố lớn trong đó hơn 200 người bị giết chết khi nhiều quả bom đã phát nổ hầu như đồng thời ở Tuyến tàu hỏa Ngoại ô Mumbai.
Ấn Độ cũng được biết tới là một đất nước của các lễ hội. Vì là quốc gia đa tôn giáo, Ấn Độ có các lễ hội rất đa dạng, nhiều lễ hội dành cho mọi thành phần xã hội. Các lễ hội nổi tiếng và có nhiều người tham gia nhất gồm các lễ hội Hindu tại Diwali, Holi, Pongal và Dussehra và lễ hội của người Hồi giáo tại Eid.
Một số lễ hội được tổ chức ở đa phần đất nước; tuy nhiên, chúng được gọi theo những cái tên khác nhau tùy theo vùng hay có thể được tổ chức dưới hình thức khác biệt. Mọi lễ hội đều được chào mừng theo một kiểu duy nhất.
Ấn Độ là nước đông dân thứ hai trên thế giới với ước tính khoảng 1,19 tỷ người năm 2006. Hầu hết 70% dân số sống tại các vùng nông thôn. Vùng thành thị đông dân nhất là Mumbai, Kolkata, Delhi, Chennai và Bangalore. Những nỗ lực nhằm loại trừ tình trạng mù chữ đã đạt được những thành công đầu tiên. Năm 1947 tỷ lệ mù chữ tại Ấn Độ là 11%*. Ngày nay, 65,1% dân số của nó (53,4% phụ nữ, 75,3% nam giới) có thể đọc và viết. Tình trạng nạo thai để lựa chọn giới tính và giết trẻ sơ sinh vẫn tồn tại ở các vùng nông thôn. Tỷ lệ giới tính quốc gia là 933 phụ nữ trên 1000 nam giới. Độ tuổi trung bình là 24,66, và tỷ lệ tăng dân số là 22,32 trẻ trên 1.000.
Dù 80,5% dân số theo Hindu giáo, Ấn Độ cũng là đất nước có số lượng tín đồ Hồi giáo đứng thứ ba thế giới (13,4%). Các nhóm tôn giáo khác gồm Thiên chúa giáo (2,3%), đạo Sikh (1,84%), Phật giáo (0,76%), Đạo Jai-na (0,40%), Do Thái giáo, Hỏa giáo và Bahá'í.
Số lượng ngôn ngữ mẹ đẻ tại Ấn Độ được ước lượng lên tới 1.652[5]. Đa số những ngôn ngữ đó xuất phát từ hai nhóm ngôn ngữ chính: Ấn-Aryan (được sử dụng bởi 74% dân số) và Dravidian (được 24% sử dụng); 2% còn lại dựa trên các nhóm Nam Á và Tạng-Miến. Tiếng Hindi và tiếng Anh được dùng làm ngôn ngữ chính thức của chính phủ, và trong giáo dục cao học. 21 ngôn ngữ khác cũng được coi là chính thức.
Kinh tế Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới nếu tính theo sức mua ngang giá, với GDP tính theo đôla Mỹ đạt 3.63 nghìn tỷ. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái với USD, nó là nền kinh tế lớn thứ mười hai thế giới với GDP tính theo đôla Mỹ đạt 775 tỷ (2005). Ấn Độ là nền kinh tế phát triển nhanh thứ hai thế giới, với tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 8.1% ở cuối quý đầu tiên năm 2005–2006. Tuy nhiên, dân số khổng lồ của Ấn Độ khiến thu nhập trên đầu người đứng ở mức $3.400 và được xếp vào hạng nước đang phát triển.
Trong đa phần lịch sử độc lập của mình Ấn Độ luôn có khuynh hướng tiếp cận chủ nghĩa xã hội, với quản lý chặt chẽ của chính phủ trên lĩnh vực tư nhân, thương mại nước ngoài, và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đầu thập kỷ 1990, Ấn Độ đã dần mở cửa thị trường thông qua các biện pháp cải cách kinh tế bằng cách giảm bớt quản lý chính phủ trên thương mại nước ngoài và đầu tư. Tư nhân hoá các nghành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và mở cửa một số lĩnh vực cho các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài dần xuất hiện trong những cuộc tranh luận chính trị.
Ấn Độ có một lực lượng lao động 496.4 triệu người trong số đó nông nghiệp chiếm 60%, công nghiệp 17%, và dịch vụ 23%. Nông nghiệp Ấn Độ sản xuất ra gạo, lúa mì, hạt dầu, cốt tông, sợi đay, chè, mía, khoai tây; gia súc, trâu, cừu, dê, gia cầm và cá. Các ngành công nghiệp chính gồm dệt may, hóa chất, chế biến thực phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi măng, mỏ, dầu khí và cơ khí[2].
Gần đây, Ấn Độ cũng đã lợi dụng được số lượng đông đảo dân số có trình độ học vấn cao, thành thạo tiếng Anh để trở thành một vị trí quan trọng về dịch vụ thuê làm bên ngoài (outsourcing), tư vấn khách hàng (customer service) và hỗ trợ kỹ thuật của các công ty toàn cầu. Nó cũng là một nước xuất khẩu hàng đầu về nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực dịch vụ phần mềm, tài chính và chế tạo phần mềm. Đối tác thương mại quan trọng nhất của Ấn Độ là Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Nepal, tên chính thức theo Hiến pháp là Cộng hòa dân chủ liên bang Nepal (trước kia gọi là Vương quốc Nepal ) (tiếng Nepal: नेपाल [neˈpaːl] ) là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại vùng Himalaya ở Nam Á có phần chồng gối với Đông Á, giáp biên giới với Tây Tạng của Trung Quốc ở phía bắc và Ấn Độ ở phía nam, đông và tây. Chỉ trong một diện tích lãnh thổ nhỏ, Nepal lại sở một sự đa dạng địa hình đáng kinh ngạc, từ Terai ẩm ở phía nam tới Himalaya cao ngất ở phía bắc. Nepal có tám trong số mười đỉnh núi cao nhất thế giới, gồm Đỉnh Everest, nằm gần biên giới Trung Quốc. Nước này nổi tiếng về du lịch, dã ngoại, đi bộ đường dài, cắm trại, xe đạp đổ đèo, các vườn quốc gia, những khu rừng, đồng cỏ, đi bè trên sông, câu cá thể thao và nhiều chùa chiền cũng như những địa điểm thờ cúng đẹp đẽ. Kathmandu là thủ đô và thành phố lớn nhất nước. Các thành phố lớn khác gồm Pokhara, Biratnagar, Lalitpur (Patan), Bhaktapur, Birendranagar, Bharatpur, Nepal, Siddhartanagar (Bhairahawa), Birganj (Birgunj), Butwal, Janakpur, Nepalganj (Nepalgunj), Hetauda, Dharan, Damak, Dhangadhi và Mahendranagar. Nguồn gốc cái tên Nepal xuất xứ từ Nepal Bhasa, là ngôn ngữ Newars và xuất hiện bởi thực tế Thung lũng Kathmandu từng thường được gọi là Napa, thuật ngữ hiện vẫn được sử dụng bởi người Newars. Một số người cho rằng cái tên cũng có nguồn gốc từ một vị hiền triết thời cổ sống trong vùng.
Sau một lịch sử lâu dài và đa dạng, trong đó vùng này đã tan rã và liên kết lại dưới nhiều vị vua chuyên chế, Nepal trở thành một nền quân chủ lập hiến năm 1990. Tuy nhiên, hoàng gia vẫn giữ lại nhiều quyền lực quan trọng. Điều này dẫn tới tình trạng bất ổn ngày càng tăng, cả tại nghị viện và, từ năm 1996, ở nhiều vùng rộng lớn trong nước, nơi chính phủ phải chiến đấu với lực lượng nổi dậy Maoist. Những người Maoists, ly khai với các đảng chính trị lớn, đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích chống lại cả chế độ quân chủ và những đảng chính trị lớn. Họ đã tìm cách lật đổ những định chế phong kiến, gồm cả chế độ quân chủ, và thiết lập một nhà nước Maoist. Việc này đã dẫn tới một cuộc Nội chiến Nepal làm thiệt mạng hơn 15.000 người. Trong nỗ lực dẹp yên cuộc nổi dậy, nhà vua đã đóng cửa nghị viện và sa thải vị thủ tướng được bầu Sher Bahadur Deuba bởi Nghị viện Nepal (Dân chủ) năm 2002 và bắt đầu cai trị qua các thủ tướng do ông trực tiếp chỉ định. Sau đó ông đơn phương tuyên bố tình trạng khẩn cấp đầu năm 2005, và nắm tất cả quyền hành pháp. Sau phong trào dân chủ năm 2006, nhà vua đã đồng ý trao lại quyền lực cho nhân dân và tái lập Hạ viện đã bị giải tán ngày 24 tháng 4 năm 2006. Sử dụng quyền lực mới đạt được, ngày 18 tháng 5 năm 2006, Hạ viện mới tái lập đơn phương thông qua một đề nghị cắt giảm quyền lực của nhà vua và tuyên bố Nepal là một quốc gia thế tục. Tới tháng 9 năm 2006, một hiến pháp quốc gia được sửa đổi toàn bộ đang được dự kiến xuất hiện trong tương lai gần. Tổng thống Nepal đầu tiên, Ram Baran Yadav, đã tuyên thệ vào ngày 23 tháng 7, 2008.
Nepal gần giống hình thang, 800 kilômét (500 mi) chiều dài và 200 kilômét (125 dặm) chiều rộng, với diện tích 147.181 kilômét vuông (56.827 sq mi). Nepal thường được chia thành ba vùng địa văn học: vùng Núi, Đồi, và Vùng Terai. Những dải sinh thái học này chạy theo chiều đông tây và bị cắt đôi bởi những hệ thống sông chính của Nepal. Nepal có diện tích tương đương với bang Arkansas Hoa Kỳ.
Đồng bằng Madhesi giáp biên giới với Ấn Độ là một phần của mép bắc của Những đồng bằng Indo-Hằng. Chúng đã hình thành và được nuôi dưỡng bởi ba dòng sông lớn: sông Kosi, Narayani (Sông Gandak của Ấn Độ), và Karnali. Vùng này có khí hậu nóng và ẩm.
Vùng Đồi (Pahad) tiếp giáp với các dãy núi và có độ cao từ 1.000 tới 4.000 mét (3.300–13.125 ft). Hai dải núi thấp, Mahabharat Lekh và Shiwalik Range (cũng được gọi là Dải Churia) chiếm ưu thế tại vùng này. Dải đồi gồm Thung lũng Kathmandu, vùng màu mỡ và đô thị hóa nhất nước. Không giống như cá thung lũng, ở độ cao trên 2.500 mét (8.200 ft) dân cư rất thưa thớt.
Vùng núi là nơi có nhiều điểm cao nhất thế giới. Nơi cao nhất, Đỉnh Everest (Sagarmatha trong tiếng Nepal) ở 8.850 mét (29.035 ft) nằm ở biên giới với Trung Quốc. Bảy trong số mười bốn đỉnh núi cao nhất nằm tại Nepal: Lhotse, Makalu, Cho Oyu, Kanchanjanga (Kanchenjunga), Dhaulagiri, Annapurna, Manaslu. Tình trạng mất rừng là vấn đề chính tại tất cả các vùng, gây xói mòn và xuống cấp hệ sinh thái.
Nepal có năm vùng khí hậu, chủ yếu tùy theo độ cao. Các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới ở dưới độ cao 1.200 mét (3.940 ft), vùng ôn hòa 1.200 tới 2.400 mét (3.900–7.875 ft), vùng lạnh 2.400 tới 3.600 mét (7.875–11.800 ft), vùng cận cực 3.600 tới 4.400 mét (11.800–14.400 ft), và vùng cực trên 4.400 mét (14.400 ft). Nepal có năm mùa: mùa hè, gió mùa, mùa thu, mùa đông và mùa xuân. Dãy Himalaya ngă gió lạnh từ Trung Á trong mùa đông và hình thành nên biên giới phía bắc của vùng gió mùa.
Dù Nepal không có biên giới chung với Bangladesh, hai nước này chỉ bị ngăn cách bởi một dải đất hẹp khoảng 21 kilômét (13 mi), được gọi là Cổ gà. Nhiều nỗ lực đang được tiến hành nhằm biến nơi đây thành một vùng thương mại tự do.
Nằm ở Rặng Himalaya Vĩ đại phần phía bắc Nepal, Núi Everest là đỉnh núi cao nhất thế giới. Về kỹ thuật, chỏm đông nam phía Nepal dễ trèo hơn, vì thế đa số người trèo núi tìm cách chinh phục đỉnh Everest từ phía Nepal. Rặng núi Annapurna cũng nằm tại Nepal.Nông nghiệp là phương tiện mưu sinh của 76% dân số và chiếm khoảng 39% Tổng sản phẩm quốc nội; dịch vụ chiếm 41%, và công nghiệp 22%. Hai phần ba địa hình nhiều đồi núi ở phía bắc đất nước khiến việc xây dựng đường xá và các cơ sở hạ tầng khác gặp nhiều khó khăn và đắt đỏ. Tới năm 2003, chỉ có khoảng 8.500 km đường trải nhựa và một tuyến đường sắt dài 59 km ở phía nam. Hàng không ở tình trạng phát triển cao hơn, với 48 sân bay, mười trong số chúng có đường băng trải nhựa. Có chưa tới một máy điện thoại trên 19 dân; các đường dây viễn thông phát triển không đều chủ yếu tập trung tại các thành phố và thủ phủ quận; điện thoại di động ở tình trạng chấp nhận được tại hầu hết đất nước với số lượng người dùng đang gia tăng và giá cả hợp lý. Có khoảng thuê bao 175.000 Internet năm 2005, nhưng sau khi "tình trạng khẩn cấp" được áp dụng, tình trạng ngưng dịch vụ đã xảy ra thường xuyên. Tình trạng này đã được khắc phục sau một giai đoạn lộn xộn ngắn khi những cuộc xuống đường lần hai của nhân dân tước đoạt quyền lực tuyệt đối của quốc vương diễn ra.
Vị trí nằm kín trong lục địa và tình trạng lạc hậu về kỹ thuật cùng cuộc nội chiến kéo dài cũng đã ngăn cản khả năng phát triển toàn bộ nền kinh tế Nepal. Đất nước này nhận được viện trợ nước ngoài từ Ấn Độ, Nhật Bản, Anh Quốc, Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Trung Quốc, Thụy Sĩ, và các nước vùng Scandinavian. Ngân sách chính phủ khoảng 1.153 tỷ dollar Mỹ, với mức chi tiêu 1.789 tỷ dollar Mỹ (Năm tài chính 05/06). Tỷ lệ lạm phát đã giảm xuống còn 2.9% sau một giai đoạn lạm phát cao trong thập niên 1990. Đồng Rupee Nepal đã được gắn chặt tỷ giá với đồng Rupee Ấn Độ ở mức 1.6 trong nhiều năm. Vì các biện pháp nới lỏng kiểm soát tỷ giá đầu thập niên 1990, thị trường trao đổi ngoại tệ đen đã hoàn toàn biến mất. Một thỏa thuận kinh tế từ lâu đã trở thành xương sống cho mối quan hệ thân thiện với Ấn Độ.
Bình đẳng thu nhập trong nhân dân Nepal ở mức trung bình tương đương nhiều nước phát triển và đang phát triển khác: 10% số hộ giàu nhất chiếm 39.1% tài sản quốc gia và 10% số hộ nghèo nhất chỉ chiếm 2.6%.
Nguồn nhân lực Nepal khoảng 10 triệu người và đang gặp phải vấn đề thiếu lao động có tay nghề. Nông nghiệp sử dụng 81% nguồn nhân lực, dịch vụ 16% và chế tạo/công nghiệp thủ công 3%. Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu tập trung tại vùng Terrai giáp biên giới với Ấn Độ— gồm gạo, ngô, bột mì, mía, cây lấy rễ, sữa và thịt trâu nước. Các ngành công nghiệp chủ yếu là chế biến sản phẩm nông nghiệp, gồm đay, mía, thuốc lá, và ngũ cốc. Phong cảnh hùng vĩ và bí ẩn, nền văn hóa đẹp đẽ của Nepal chính là tiềm năng du lịch to lớn, nhưng tăng trưởng trong lĩnh vực này đã gặp trở ngại bởi tình trạng chính trị bất ổn gần đây. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm chiếm gần một nửa số dân cư ở tuổi lao động. Vì thế nhiều người Nepal đã phải tới Ấn Độ tìm việc làm, các quốc gia Vùng Vịnh và Malaysia hiện cũng là những thị trường mới. Tình trạng nghèo đói gay gắt.[14] Nepal nhận mỗi năm 50 triệu dollar từ các binh lính người Gurkha phục vụ trong Quân đội Ấn Độ và Quân đội Anh, họ được đánh giá cao về khả năng và lòng dũng cảm. Tổng số tiền gửi về nước đạt khoảng 1 tỷ dollar, gồm cả từ các quốc gia Vùng Vịnh và Malaysia, tổng số người Nepal làm việc ở nước ngoài khoảng 700.000.
GDP năm 2005 của Nepal được ước tính chỉ khoảng hơn 39 tỷ dollar (đã tính theo Sức mua tương đương), là nền kinh tế đứng hàng thứ 83 trên thế gới. Thu nhập trên đầu người khoảng 1.402 dollar, xếp hạng 163. Các mặt hàng xuất khẩu của Nepal chủ yếu là thảm, quần áo, đồ da, sản phẩm đay và ngũ cốc, tổng trị giá 822 triệu dollar. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm vàng, máy móc và thiết bị, các sản phẩm dầu mỏ và phân bón, giá trị tổng cộng 2 tỷ dollar. Ấn Độ (53.7%), Hoa Kỳ (17.4%), và Đức (7.1%) là những đối tác xuất khẩu chủ yếu. Các đối tác nhập khẩu của Nepal gồm Ấn Độ (47.5%), Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (11.2%), Trung Quốc (10.7%), Ả Rập Saudi (4.9%), và Singapore (4%).
Nepal, Kathmandu - Pashupatinath" title="Left click to visit related sites, or right-click to save picture." border="0" width="360" height="270">Văn hóa Nepal tương đồng với những nền văn hóa lân cận là Tây Tạng và Ấn Độ, về trang phục, ngôn ngữ, và thực phẩm. Một bữa ăn điển hình Nepal là dal-bhat - dal hấp với gạo, rau và các gia vị. Món này được dùng hai lần mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi tối. Giữa hai bữa chính đó là các món ăn nhanh như chiura (gạo giã) và chè. Thịt, trứng và cá được coi là bữa tiệc. Tại vùng núi món ăn chủ lực gồm bột mì, ngô, kê và khoai tây. Các loại đồ uống chế tạo từ kê được gọi là Tongba và các loại rượu chế biến từ ngũ cốc khác rất phổ biến, gồm chhaang và rakshi chưng cất.
Văn học dân gian truyền thống Nepal còn có ảnh hưởng mạnh trong xã hội và các câu chuyện của nó được thể hiện nhiều trong nhảy múa và âm nhạc. Văn hóa của các nhóm sắc tộc khác nhau phong phú theo cách riêng biệt. Văn hóa Newari là văn hóa truyền thống và có bản sắc riêng nhất của Kathmandu. Đa số các lễ hội trong nước xuất phát từ văn hóa Newari. Cộng đồng Newar có những món ẩm thực của riêng mình và người Newar nỏi tiếng về các buổi nhảy múa mặt nạ tái hiện câu chuyện về các vị thần và những anh hùng. Âm nhạc chủ yếu dựa trên bộ gõ, thỉnh thoảng có sử dụng sáo hay kèn cổ. Sarangi, một loại nhạc cụ bốn dây cũng thường được sử dụng bởi những người hát rong.
Các phong cách âm nhạc dân gian gồm nhiều loại nhạc pop, tôn giáo và dân gian, cùng nhiều kiểu khác. Một nhạc sĩ nhạc pop Nepal gần đây là Pradip Neupane, hiện sống gần London. Từ thập niên sáu mươi, nhạc rock Nepal hay nhạc rock, được hát theo kiểu Nepal đã trở nên phổ biến trong giới trẻ. Một thể loại nhạc khác cũng đang nhanh chóng phổ biến là nhạc rap Nepal và reggae Nepal đang phát triển mạnh với ngành công nghiệp âm nhạc. Tại Nepal cũng có nhiều ban nhạc heavy metal. Các thể loại âm nhạc từ Tây Tạng và Ấn Độ có ảnh hưởng mạnh trên âm nhạc truyền thống Nepal. Phụ nữ, thậm chí với cả với nhạc sĩ, dường như ít tham gia trình diễn âm nhạc hơn nam giới, ngoại trừ trong những dịp đặc biệt như các các buổi lễ toàn phụ nữ truyền thống.
Bóng đá là môn thể thao được nhiều người ưa chuộng nhất, tiếp theo là cricket và kabaddi. Liên đoàn Bóng đá Tưởng niệm các Liệt sĩ là giải bóng đá quốc gia.
Vô tuyến truyền hình chỉ bắt đầu xuất hiện tại Nepal trong thập niên 1980. Hiện tại có sáu kênh truyền hình: Nepal Television - kênh truyền hình quốc gia; NTV 2 Metro - một kênh thành phố do chính phủ sở hữu; và bốn kênh tư nhân - Kantipur Television, Hình Channel, Channel Nepal và Nepal 1. Cũng có nhiều kênh truyền hình khác, chủ yếu là những kênh từ Ấn Độ, có thể được thu qua chảo vệ tinh, dù tình trạng thiếu điện khiến việc này khá khó khăn. Đài phát thanh được phủ sóng toàn vương quốc, tới năm 2002, có mười hai trạm phát sóng, và vào năm 2006-07 số lượng này tăng lên tới trên 56 trạm. Đa số chúng là những đài phát trên sóng FM, vì thế có tầm hoạt động khá hạn chế tại đất nước nhiều đồi núi này. Tuy vậy, một số ít đài FM như Kantipur FM, Image FM có tầm phủ sóng rộng nhờ những trạm tiếp sóng.
Năm Nepal Bikram Samwat bắt đầu vào giữa tháng 4 và được chia thành mười hai tháng. Thứ bay là ngày nghỉ chính thức trong tuần. Các ngày lễ chính gồm Quốc Khánh (ngày sinh của đức vua quá cố Tribhuvan) 28 tháng 12, Prithvi Jayanti, (11 tháng 1), và Ngày Liệt sĩ (18 tháng 2) và nhiều lễ hội Hindu và Phật giáo như Teej, Dashai vào mùa thu, và Tihar cuối thu.
Đa số các cuộc hôn nhân là do sắp đặt, ly dị khá hiếm thấy. Đa thê bị pháp luật ngăn cấp; các bộ tộc khá biệt lập ở phía bắc, như Dolpo có tục đa phu. Nepal có rất nhiều lễ hội truyền thống, như nwaran (lễ rửa tội cho trẻ em), và Pasni, ngày đứa trẻ lần đầu ăn cơm, và bratabandha (lễ ăn năn) và gupha đánh dấu tuổi trưởng thành cho trẻ em. Trong văn hóa Newari, bel bibaha, các bé gái sắp trưởng thành được "gả" cho cho cây bel, để đảm bảo rằng cô bé sẽ trở nên mắn đẻ.
Đa số các ngôi nhà ở vùng nông thôn Nepal được làm bằng khung tre với vách bằng bùn trộn phân bò. Những ngôi nhà đó mát vào mùa hè và ấm vào mùa đông. Những ngôi nhà ở trên cao thường được làm bằng gỗ cây.
Cho tới năm 1990, Nepal là một quốc gia quân chủ chuyên chế dưới quyền lực hành pháp của nhà vua. Đối mặt với phong trào nhân dân chống chế độ quân chủ chuyên chế, Vua Birendra, năm 1990, đã đồng ý nhiều biện pháp cải cách chính trị rộng lớn bằng cách tạo lập một chế độ quân chủ nghị viện với nhà vua là nguyên thủ quốc gia và một thủ tướng là lãnh đạo chính phủ.
Hệ thống lập pháp Nepal theo kiểu lưỡng viện gồm một Hạ viện và một Hội đồng Quốc gia. Hạ viện gồm 205 thành viên được nhân dân bầu cử trực tiếp. Hội đồng Quốc gia có 60 thành viên, mười người do nhà vua chỉ định, ba nhăm người do Hạ viện bầu và mười lăm người còn lại do một hội đồng bầu cử gồm lãnh đạo các làng và thị trấn bầu. Cơ quan lập pháp có nhiệm kỳ năm năm, nhưng có thể bị nhà vua giải tán trước nhiệm kỳ. Tất cả các công dân Nepal từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử.
Nhánh lập pháp gồm nhà Vua và Hội đồng Bộ trưởng (Nội các). Lãnh đạo của liên minh hay đảng chiếm đa số ghế trong cuộc bầu cử được chỉ định làm Thủ tướng. Nội các được nhà vua chỉ định theo sự đề xuất của Thủ tướng. Các chính phủ tại thường không ổn định; không chính phủ nào tồn tại quá hai năm kể từ năm 1991, hoặc tan rã do bất ổn nội bộ hoặc bị hoàng gia giải tán.
Phong trào tháng 4 năm 2006 dường như đã mang lại sự thay đổi cho quốc gia. Nhà Vua chuyên chế bị buộc phải từ bỏ quyền lực. Hạ viện đã bị giải tán trước kia hoạt động trở lại. Hạ viện đã thành lập một chính phủ và thành công trong việc đối thoại với phe phiến loạn Maoist. Một hiến pháp lâm thời được tuyên bố và một Hạ viện lâm thời được thành lập với cả các thành viên Maoist. Số lượng ghế trong hạ viện cũng được tăng lên thành 330. Quá trình hòa bình tại Nepal đã có bước tiến đáng kinh ngạc tháng 4 năm 2007, khi Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) gia nhập chính phủ lâm thời Nepal.
Quân đội Nepal gồm Không quân Nepal và Lực lượng Cảnh sát Nepal. Ngày 19 tháng 5 năm 2006 Hạ viện đơn phương thông qua một đề xuất đổi tên Quân đội Hoàng gia Nepal (RNA) thành “Quân đội Nepal”. Việc tham gia quân đội là tự nguyện và tuổi tối thiểu để được chấp nhận là 18. Năm Nepal chi tiêu 99.2 triệu dollar (2004) cho quân đội— 1.5% GDP. Quân đội Nepal có 90.000 binh sĩ, họ tham gia vào cuộc nội chiến chống lại những người nổi dậy Maoist.
Nepal có quan hệ thân thiết với cả hai nước láng giềng là Ấn Độ và Trung Quốc. Theo một hiệp ước được ký kết từ lâu, các công dân Ấn Độ và Nepal có thể đi lại từ nước này sang nước kia không cần hộ chiếu hay visa. Công dân Nepal có thể làm việc tại Ấn Độ mà không gặp hạn chế pháp luật nào. Dù Nepal và Ấn Độ có quan hệ thân thiết, đôi lúc Nepal không hoàn toàn ủng hộ nước này trong những vấn đề Quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ. Ấn Độ coi Nepal là một phần trong vùng ảnh hưởng của họ, và quan ngại với viện trợ từ phía Trung Quốc. Năm 2005, sau khi Vua Gyanendra lên nối ngôi, quan hệ của Nepal với Ấn Độ, Hoa Kỳ và Anh Quốc đã xấu đi. Ba nước này đều đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ sự đàn áp phong trào tự do nhân dân tại Nepal. Trung Quốc chủ yếu tìm cách hợp tác với Nepal về vấn đề độc lập của Tây Tạng, gồm cả một điều luật của Nepal cho phép hàng nghìn người tị nạn Tây Tạng sống tự do trong lãnh thổ của họ và có khaỏng 2.000 tới 3.000 người Tây Tạng tìm cách bỏ trốn qua Nepal mỗi năm.
Bên ngoài Châu Á, Nepal có quan hệ đặc biệt thân thiết với Đức, và có mối quan hệ quân sự lịch sử với Anh Quốc qua Lữ đoàn Gurkhas, một đơn vị thiện chiến trong quân đội Anh gồm toàn binh sĩ Nepal.
Tour hành hương và tham quan các thánh địa phật tích tại xứ Ấn và Nepal sẽ đưa chúng ta về vùng đất linh thiêng, huyền bí, vùng đất của Phật với những nét cong cong của những mái chùa và đền đài. Tham gia chuyến đi này, du khách sẽ có những trải nghiệm vô cùng thú vị.
Những nơi các Phật tử thường viếng nhất là Lambini (Lâm Tỳ Ni, cũng viết là Lumbini), Bodgaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Sarnath (vườn Lộc Uyển), Kushinagar (Câu Thi Na). Có lẽ bạn nên viếng cả bốn địa danh trên cộng với đền Taj Mahal, một biểu tượng văn hóa của Ấn Độ. Tuy cũng có một chút thử thách là lúc phải đi ô tô, lúc đi xe lửa và đôi khi có những đoạn ngắn phải đi bộ.
Ở Ấn Độ, các tuyến đường quốc lộ khá tốt, nhưng đường nội bộ trong các bang thì không được tốt cho lắm. Ô tô chạy tuyến đường dài thì hiện đại, còn xe chạy tuyến gần thì rất cũ kỹ và nhồi nhét – thậm chí khách bám cả trên thành và ngồi trên mui, chỉ nhìn thôi cũng đã toát mồ hôi hột!
Tất nhiên khách đi tour trọn gói thì có xe riêng, còn bạn đi tự túc và nhất là muốn đến cả những vùng hẻo lánh, nên phải chuẩn bị tinh thần là sẽ có lúc phải lên mấy chiếc xe như thế!
Ở Ấn Độ, đi xe lửa có lẽ thú vị hơn, vì xe chạy êm, khách ngủ phòng lạnh (giường hai tầng trong một khoang nhiều giường), giá rẻ, an toàn và nhất là có nhiều du khách quốc tế cùng đi nên rất vui. Từ Dehli đi bốn địa danh kể trên trong nước Ấn Độ đều có đường xe lửa, nhưng đi qua Lambini thì phải đi ô tô.
Peace Pagoda ở Lambini (Lâm Tỳ Ni). |
Tôi đã từng đi tàu đêm từ Varanasi đến Agra, được ngủ ngon vào buổi tối và được ngắm cảnh làng quê Ấn Độ vào buổi sáng, nên tôi rất thích.
Giá cả ở Ấn Độ khá rẻ, nếu chi tiêu tiết kiệm thì chỉ cần chi khoảng 10 đô la Mỹ cho việc ăn, uống mỗi ngày; khách sạn nhỏ ở các bang giá khoảng 10 đến 15 đô la Mỹ/ngày, nhưng ở thủ đô Dehli thì phải 20 đến 30 đô la; vé tham quan phổ biến từ 2 - 4 đô la/khách. Theo tôi chuyến đi tự túc của bạn trong khoảng hai tuần thì có chi phí mặt đất khoảng 800 đô la Mỹ.
Về an ninh ở Ấn Độ không đến nỗi phải quá lo ngại, dù tất nhiên cũng có những người hành nghề… móc túi (mà nước nào chả có chuyện này, bạn nhỉ!). Theo tôi, bạn nên sử dụng thẻ tín dụng, còn tiền mặt có thể để trong các túi khác nhau hoặc bỏ vào bóp cùng với hộ chiếu đeo trước bụng.
Bạn cũng nên biết là, người Ấn Độ rất thích được bo (tips), vì vậy bạn cần chuẩn bị sẵn một ít tiền lẻ (loại 1 - 2 đô la hoặc nhỏ hơn) để bo cho người phục vụ nhé.
Bhaktapur
Patan
Swayambhunath
Boudhanath stupa
Pashupatinath
Kathmandu durbar square
Thời điểm thuận lợi nhất để du lịch Nepal là từ tháng 11 đến tháng 3, vì sau thời gian đó xứ sở này hay mưa to, gió lớn, mây mù dày đặc. Nepal có tới 35 sân bay, rất tiện lợi để đến mọi địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, hiện từ TP Hồ Chí Minh chưa có đường bay trực tiếp đến Thủ đô Kathmandu mà phải quá cảnh một trong hai nơi là Bangkok (Thái Lan) hoặc New Delhi (Ấn Độ). Quá cảnh sang New Delhi (Ấn Độ) thì giá vé đắt hơn. Visa có thể lấy ngay tại các sân bay ở Nepal (60 ngày với giá 30 USD). Văn hóa Nepal, trang phục, ngôn ngữ và thực phẩm, tương đồng với những nền văn hóa lân cận là Tây Tạng và Ấn Độ. Một bữa ăn điển hình Nepal là dal-bhat - cơm trộn với rau và các gia vị. Món này được dùng hai lần mỗi ngày, một vào buổi sáng và một vào buổi tối. Giữa hai bữa chính đó là các món ăn nhanh như chiura (gạo giã) và chè. Thịt, trứng và cá được coi là bữa tiệc. Tại vùng núi, món ăn chủ lực gồm bột mì, ngô, kê và khoai tây. Các loại đồ uống chế biến từ kê được gọi là Tongba và các loại rượu chế biến từ ngũ cốc rất phổ biến. Ở Nepal không có án tử hình. Giết một con bò cái thì được xem như có tội ngang như giết chết một con người vậy, tức có thể bị ngồi tù từ sáu đến bảy năm. Người Nepal kiêng không ăn thịt bò vì thờ bò như Ấn Độ, không nuôi heo vì cũng chịu ảnh hưởng Hồi giáo. Họ ăn bốc, không dùng đũa. Bảy ngày trong tuần thì chỉ có hai ngày thứ ba và thứ năm là ngày tốt để làm lụng, còn những ngày còn lại đều coi như kiêng kỵ, mỗi ngày chịu sự chế ngự của một vị thần. Ở Nepal vẫn còn tục tảo hôn. Gia đình Nepal chỉ thích sinh con trai, vì con gái khi lấy chồng phải đem nhiều của cải hồi môn về nhà chồng. |
- Đi Ấn Độ, nên mua gì về làm quà? (Hoài Sơn - Hà Nội; Lê Thị Tâm An - Huế).
- Người Ấn rất khéo tay nên họ làm ra khá nhiều đồ thủ công mỹ nghệ dễ thương. Bạn có thể mua tượng voi hay các vị thần làm bằng chất liệu gỗ, đất nung hoặc bằng đồng. Các loại túi vải, túi được dệt bằng chỉ hay sợi vỏ cây, nón (két) làm từ vải mềm, áo thun đều là những thứ có hoa văn lạ, đẹp mắt dễ làm quà cho trẻ em, phụ nữ. Ngoài ra, bạn đừng quên mua ít gói bột cari chính hiệu về tặng các bà nội trợ nấu món thịt gà nhé.
- Lâu nay tôi vẫn nghĩ rằng Ấn Độ là quê hương của Phật giáo, nhưng gần đây có người nói rằng người dân Ấn không mộ đạo Phật lắm, xin giải thích giúp việc này.
- Đạo Phật phát sinh từ Ấn Độ rồi phát triển thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng phần lớn người Ấn theo đạo Hindu (hay còn gọi là Ấn Độ giáo, Bà La Môn giáo). Thống kê cho thấy hiện nay khoảng 70% dân số Ấn Độ là tín đồ đạo Hindu, 20% theo đạo Hồi và các tôn giáo khác, còn lại chỉ chừng 10% theo đạo Phật.
Về mặt tâm lý, tín đồ của đạo nào thì mới thấy các di tích liên quan đến đạo đó linh thiêng. Do đó cũng không khó hiểu khi những phật tử đến Bồ Đề Đạo Tràng, quì lạy Đức Phật hết sức thành kính, nhưng mấy ông bạn Ấn đứng bên cạnh lại hết sức tỉnh queo, đơn giản vì họ theo đạo khác.
Ở đây cũng xin nói thêm, người Ấn thường dùng từ Buddhist temple - đền thờ Phật, để chỉ chùa, và quản lý Bồ Đề Đạo Tràng là một cơ quan nhà nước của bang Bihar, chứ không phải Giáo hội Phật giáo Ấn Độ. Tuy nhiên điều đó cũng không ngăn được hàng triệu tín đồ Phật Giáo đến quốc gia này hàng năm.
- Tôi nghe nói nhiều về đền Taj Mahal, xin vui lòng giới thiệu đôi nét về ngôi đền này?
- Đền Taj Mahal thuộc cố đô Agra, cách thủ đô Dehli hơn 200km về phía nam. Đền do hoàng đế Shah Jahan của nước Môgôn (Mughal) cổ xây dựng từ năm 1632 đến năm 1648; trong một khu vườn lớn có kích thước 320m x 300m. Tương truyền công trình đã sử dụng khoảng 20.000 thợ thủ công lành nghề trong vương quốc và các quốc gia lân cận.
Toàn bộ di tích này có nhiều kiến trúc bằng đá như cổng, nhà thờ Hồi giáo, hồ nước, đường đi, vườn cây… nhưng tất cả chỉ để tôn vinh cho kiến trúc chính đó chính là đền do nhà vua xây dựng cho hoàng hậu Mumtaz Mahal, người đã từ trần sau khi sinh người con thứ 14.
Đền Taj Mahal. |
Đền Taj Mahal là một phức hợp kiến trúc bằng đá với bốn mặt được thiết kế đối xứng và bốn góc là bốn ngọn tháp cao hơn 40 mét giống hệt nhau. Vì vậy nhìn từ bốn hướng, người ta không phân biệt được đâu là mặt nam, bắc, đông, tây của đền. Bên trong đền là mộ của đức vua và hoàng hậu nằm sát nhau, được che bởi bức bình phong bằng đá chạm trổ rất công phu.
Điểm nổi bật nhất của kiến trúc này là mái vòm cao 35 mét bằng đá cẩm thạch trắng có hình dáng giống như một nhà thờ Hồi giáo (quốc đạo của vương quốc Môgôn). Nhìn tổng thể Taj Mahal đẹp như một tuyệt tác bằng đá trắng nên người ta không có cảm giác đây là nơi yên nghỉ của người quá cố.
Đến Ấn Độ, hầu như ai cũng mơ ước được một lần đến Taj Mahal để được tận tay sờ vào tác phẩm lừng danh bằng đá và chụp hình trước hồ nước nơi ngôi đền soi bóng hàng trăm năm nay. Lượng khách đến đây nhiều đến mức làm cho ban quản lý di tích sợ các tảng đá trong đền sẽ bị bào mòn bởi dấu chân (trần) và khói bụi xe ô tô! Vì vậy, tất cả các loại xe có động cơ bắt buộc phải đậu cách xa đền 2km rồi đi xe điện vào. Còn khách khi bước lên đền đều được phát cho những bọc ni lông mềm để xỏ chân vào.
Ngày thứ nhất, xe đón quý khách tại điểm hẹn, đưa ra sân bay Nội Bài, đáp chuyến bay quá cảnh tại Bangkok để đến New Delhi. Xe đón đoàn về nhận phòng khách sạn, ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn.
Ngày thứ hai, sau bữa sáng tại khách sạn, xe đưa bạn tham quan thành phố New Delhi. Khách sẽ được thăm cổng Ấn Độ, một kiến trúc cao 42m ngay tại trung tâm của thủ đô New Delhi để tưởng nhớ những người anh hùng đã hy sinh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đoàn tiếp tục tham quan khu vực hành chính của thủ đô New Delhi với kiến trúc trung tâm là tòa nhà quốc hội. Buổi chiều, đoàn tiếp tục tham quan Đền Sen và tháp Qutab, công trình kiến trúc tiêu biểu cho sự hùng mạnh của vương triều Mughal. Sau đó, đoàn trả phòng khách sạn, ra ga đón chuyến tàu lúc 19h50 đi Gorakhpur và nghỉ đêm trên tàu.
Ngày thứ ba, đoàn đến Gorakhpur. Đoàn tham quan thành phố Gorakhpur, thăm vườn Thiêng, đền thờ của người Việt tại Ấn Độ. Sau đó tiếp tục hành trình đến Sravasti (Thành Xá Vệ) (175km)-Sravasti là một trung tâm Phật giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã lát vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng tịnh xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Nơi đây được các Phật tử tôn sùng vì 2540 năm trước, Đức Phật đã thi triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa, dọc đường ngắm cảnh đường quê Ấn Độ.Sau khi ăn trưa tại nhà hàng, đoàn khởi hành đi Lâm Bini.
Ngày thứ tư, sau bữa sáng tại khách sạn, xe đưa quý khách tham quan toàn cảnh thành phố Lâm Bini với đền Mahabodi, Rambhar Stupa, Mat Kuan. Sau khi ăn trưa tại nhà hàng, xe tiếp tục hành trình đến Kushnigar. Buổi tối, đoàn nhận phòng và ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn.
Ngày thứ năm, sau khi ăn sáng tại khách sạn, đoàn đi thăm viếng Thánh địa Đệ Tứ Đại Động Tâm, thành Kushinaga là nơi xưa kia đã chứng kiến Đức Phật trải qua những ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Ngoài ra, du khách còn được thăm quan Đền Bát Đại Niết Bàn, nơi thờ tượng đại phật nhập niết bàn và Đại Tháp Rambhar, nơi ghi dấu kim thân Đức Phật được hỏa thiêu. Đoàn tiếp tục hành trình đi Vaishali, xưa kia là lãnh thổ của tiểu quốc Lichavi, thể chế cộng hòa đầu tiên trên thế giới với cuộc bầu cử lựa chọn những đại biêu phật giáo vào những vị trí đặt biệt. Sau khi ăn trưa, đoàn thăm viếng các thánh tích như chùa Kiều Đàm Di, ngôi chùa Ni đầu tiên của giáo hội phật giáo Việt nam tại Ấn Độ, Tháp Xá Lợi Phật là một trong tám tháp xá lợi đầu tiên sau sự kiện Đức Phật nhập diệt và hỏa thiêu, Trụ Đá vua Ashoka là nơi ghi dấu sự kiện thành lập ni đoàn đầu tiên của giáo hội phật giáo. Tiếp tục cuộc hành trình đến Rajgir, sau đó đoàn về nhận phòng khách sạn và nghỉ ngơi.
Ngày thứ sáu, sau khi ăn sáng tại khách sạn, xe khởi hành đưa quý khách thăm quan thành phố Rajgir xưa kia là kinh thành Vương Xá nơi Đức Phật thường đi khất thực. Quý khách sẽ ngồi cáp treo tham quan tháp Hòa Bình và chùa Nhật Bản trên ngọn Bảo Sơn, đỉnh núi Linh Thức là nơi từng diễn ra Linh Sơn hội chư thượng phật. Sau cùng, đoàn ghé thăm Đại Học Phật Giáo Nalanda. Tiếp tục cuộc hành trình đến thành phố Bodhgaya sau bữa trưa. Đoàn nhận phòng khách sạn và nghỉ ngơi.
Ngày thứ bảy, sau khi ăn sáng tại khách sạn, đoàn tiếp tục tham quan và viếng các phật tích tại Bohgaya với bức tượng Đại Phật cao 25m và vãn cảnh chùa của các nước Thái Lan, Nhật bản, Tây Tạng để tìm hiểu thêm về các kiểu kiến trúc đặc trưng của đền chùa ở từng quốc gia. Đoàn vào viếng Việt Nam Phật Quốc Tự và Đệ Nhị Đại Động Tâm Bồ Đề Đạo Tràng, Đền Đại Giác, Cội Bồ Đề Linh Thiêng. Sau khi ăn trưa tại nhà hàng, đoàn tiếp tục cuộc hành trình đến Varanasi, sau đó ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn
Ngày thứ tám, buổi sáng sớm, quý khách xuôi thuyền ngắm bình minh trên dòng sông Hằng, dòng nước được xem như dòng sữa mẹ linh thiêng của mọi người dân và mọi tôn giáo trên đất nước Ấn Độ. Ngoài ra, quý vị sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những cánh đẹp huyền bí nhất tại Naranasi như bến nước Varanasi bên bờ sông Hằng. Đây là một trong những điểm hành hương không thể thiếu tại Varanasi, nơi mà các tín đồ ấn giáo thường tập trung để cầu nguyện và tẩy ô uế trần tục. Sau đó, đoàn tự do mua sắm cho đến khi ra ga đáp chuyến tầu đêm đi Agra. Đoàn ăn tối và nghỉ đêm trên tàu.
Ngày thứ 9, đoàn đến Agra vào buổi sáng. Xe đón đoàn tham quan toàn cảnh thành phố với những cảnh đẹp nổi tiếng thế giới như đền Tajmahal, một kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới, một biểu tượng của tình yêu bất diệt do vua Sha Jhehan xây dựng để dành tặng người vợ yêu của mình là hoàng hậu Muhtag. Công trình này được ví như bài thơ tình tuyệt đẹp khắc trên đá. Sau đó, đoàn tiếp tục thăm pháo đài Agra, nơi đá sa thạch đỏ và cẩm thạch trắng đã được các nghệ nhân kết hợp một cách hài hòa thành một công trình vĩ đại.
Agra - thành phố nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc của hoàng triều Mughal.
Pháo đài Agra: được xây dựng trong thời kỳ của 3 hoàng đế vĩ đại dưới triều đại Mughal. Sự pha trộn hài hòa giữa kiến trúc Hindu và kiến trúc Trung Á tạo nên sức hấp dẫn cho quần thể pháp đài.
Đền Taj Mahal (đóng cửa vào thứ 6 hằng tuần) - Đệ Nhất thắng cảnh Ấn Độ được công nhận là kỳ quan Thế Giới vào tháng 7 năm 2007 và được xây dựng bởi Hoàng Đế Mughal Shahiehan dành cho Hoàng Hậu Mumtaj Mahal và đây cũng là nơi biểu tượng cho tình yêu bất diệt. Trải qua 22 năm xây dựng, công trình đã được hoàn thành với 20.000 nhân công..
Đền Taj Mahal (đóng cửa vào thứ 6 hằng tuần) - Đệ Nhất thắng cảnh Ấn Độ được công nhận là kỳ quan Thế Giới vào tháng 7 năm 2007 và được xây dựng bởi Hoàng Đế Mughal Shahiehan dành cho Hoàng Hậu Mumtaj Mahal và đây cũng là nơi biểu tượng cho tình yêu bất diệt. Trải qua 22 năm xây dựng, công trình đã được hoàn thành với 20.000 nhân công..
Sau khi ăn trưa tại nhà hàng địa phương, xe đón đoàn quay trở lại thủ đô New Delhi. Đến New Delhi vào buổi chiều, đoàn đi mua sắm tại đại lộ Janpath, một trong những trung tâm mua sắm nổi tiếng tại thủ đô New Delhi. Sau khi ăn tối, xe đưa quý khách ra sân bay đáp chuyến bay đi Bangkok và nghỉ đêm trên máy bay.
Ngày cuối cùng, đoàn kết thúc hành trình và hạ cánh tại sân bay quốc tế Nội Bài. Xe đón đoàn về nội thành, kết thúc chương trình du lịch lý thú.
Mình đã đi Ấn Độ và không tìm thấy lý do gì để di DU LỊCH bạn ạ
- Chán, mất lịch sự. Bẩn, rất bẩn.
- Về thức ăn thì lưu ý là gia vị của họ rất mạnh, mặc dù đồ ăn cũng không đến nỗi quá tệ nhưng lần nào ăn xong em cũng bị đau bụng. Chắc do dạ dày của mình không quen. Mùi CURRY rất khủng khiếp, đi du lịch thì cứ xác định là ăn thịt gà dài dài nhé. Thịt bò còn dễ kiếm chứ thịt lợn thì thôi rồi hiếm. Đi vào tiện pizza thì biển rất to "No pork, no beef" . Tháng 10-12 là mùa hoa quả, được cái hoa quả của Ấn Độ ăn rất ngon và rất rất rẻ.
- Chèn ép khách du lịch và khách du lịch thì thường bị charge giá trên trời. VD đi thăm viện bảo tàng, dân bản địa chỉ mất 5Rs nhưng khách nước ngoài là từ 50-100 Rs
- Dịch vụ du lịch rất kém. Xe bus ở Ấn thì phải dùng phép so sánh là kinh hãi gấp 100 lần xe bus VN. Chưa kể nóng nực !Điều kiện sinh hoạt ở Ấn (kể cả New Delhi) đúng là tệ.
- Shopping ở Ấn rẻ, đồ mỹ nghệ rất đẹp và tinh xảo tuy nhiên quần áo thì không phong phú vì hầu hết họ ko mặc giống mình. Chưa kể nóng nực
Nói thêm là chuẩn bị tâm lý vững vàng nhé, ở đấy lừa đảo, móc túi và cướp giật như ranh ấy
Thủ tục giấy tờ gì mà làm ở bển thì rất khó khăn và chậm chạp.
Người Ấn Độ có câu cửa miệng là "5 minutes" nhưng nó có nghĩa là bác sẽ phải chờ 1 tiếng, 2 tiếng thậm chí là 3-4 tiếng hoặc lâu hơn.
- Chán, mất lịch sự. Bẩn, rất bẩn.
- Về thức ăn thì lưu ý là gia vị của họ rất mạnh, mặc dù đồ ăn cũng không đến nỗi quá tệ nhưng lần nào ăn xong em cũng bị đau bụng. Chắc do dạ dày của mình không quen. Mùi CURRY rất khủng khiếp, đi du lịch thì cứ xác định là ăn thịt gà dài dài nhé. Thịt bò còn dễ kiếm chứ thịt lợn thì thôi rồi hiếm. Đi vào tiện pizza thì biển rất to "No pork, no beef" . Tháng 10-12 là mùa hoa quả, được cái hoa quả của Ấn Độ ăn rất ngon và rất rất rẻ.
- Chèn ép khách du lịch và khách du lịch thì thường bị charge giá trên trời. VD đi thăm viện bảo tàng, dân bản địa chỉ mất 5Rs nhưng khách nước ngoài là từ 50-100 Rs
- Dịch vụ du lịch rất kém. Xe bus ở Ấn thì phải dùng phép so sánh là kinh hãi gấp 100 lần xe bus VN. Chưa kể nóng nực !Điều kiện sinh hoạt ở Ấn (kể cả New Delhi) đúng là tệ.
- Shopping ở Ấn rẻ, đồ mỹ nghệ rất đẹp và tinh xảo tuy nhiên quần áo thì không phong phú vì hầu hết họ ko mặc giống mình. Chưa kể nóng nực
Nói thêm là chuẩn bị tâm lý vững vàng nhé, ở đấy lừa đảo, móc túi và cướp giật như ranh ấy
Thủ tục giấy tờ gì mà làm ở bển thì rất khó khăn và chậm chạp.
Người Ấn Độ có câu cửa miệng là "5 minutes" nhưng nó có nghĩa là bác sẽ phải chờ 1 tiếng, 2 tiếng thậm chí là 3-4 tiếng hoặc lâu hơn.
Gorakhpur
Từ 2:30am chúng tôi đã phải thức dậy để kịp lên xe lửa tại Old Delhi Station chuyến 4am nhưng xe lửa tại Ấn không bao giờ khởi hành đúng giờ, y hệt VN(!). Xe lửa tại Ấn là phương tiện giao thông rất được dân Ấn ưa thích vì giá rẻ, nếu không mua vé trước thì đừng hòng chen chân, chưa kể tràn lên nóc toa chứ đừng nói đến việc tìm 1 chổ ngồi ở lối đi hay hành lang! Du khách (ở Ấn dưới 6 tháng) có thể mua vé trước ở quầy vé International Office, cho vé nằm(Sleeper) hay hạng 2 (Second Sitting Class), với giá rẻ, cho dù rất ồn, dơ và bừa bãi!
Chúng tôi đến Jaipur vào giữa trưa, trễ gần 2g so với dự kiến nên ai nấy hối hả chạy đến điểm hẹn bằng 2 xe xích lô(rickshaws). Hình như dân ở Ấn thích trả giá nên mua bán hay bất kỳ dịch vụ nào cũng phải trả giá, y như VN & TQ; kể cả khách sạn nên cuối cùng chúng tôi ngủ đêm ở 1khách sạn với giá Rs. 200 (khoảng $4.5 USD). Xin nhắc bạn 1 điều quan trọng:khách sạn sẽ không cho check-in nếu bạn không nhớ passport no., visa no., date of issue, date of arrival, etc...; thậm chí có khách sạn đòi copy passport & visa vì lý do an ninh ! Bởi vậy chúng tôi đã phải mất gần 2g để làm xong thủ tục check-in!
Đến Jaipur khoảng 2pm. Trả Rs. 100 ($2.2USD) để xe xích lô chở đi Jantar Mantar, Hawa Mahal, Monkey Temple... quả là quá rẻ! Sướng hơn TQ là dân Ấn nói tiếng Anh rất sõi và ít "chém" hơn nhưng đi đâu cũng phải coi chừng ...móc túi !
Ghé Amber Fort - thắng cảnh đẹp nhất ở Rajasthan!
Chỉ có 1 ngày rưỡi ở Jaipur nên chúng tôi phải hối hả chạy đi cho hết các nơi muốn chụp hình.
Vài hang động tuyệt mỹ:
hang Ellora
hang Ajanta:
Thứ nhất: QUAN TRỌNG:cần chú ý rằng: Ấn Độ là 1 đất nước khá phức tạp và đa màu sắc văn hóa cũng như tôn giáo, con người ở đây khá... conservative và đôi khi hơi.. kiêu căng 1 chút, rất nhiều người ko biết gì đến các nền văn hóa khác mà chỉ coi nền văn hóa của mình là số 1, và số người ko biết Việt Nam là cái gì và ở chỗ nào cũng kha khá . Đất nước đông đúc, còn khá nghèo, đang trong giai đoạn xây dựng khắp nơi nên rất bụi bặm và lộn xộn. Tuy nhiên, Ấn Độ là 1 nơi đáng đến thăm trong cuộc đời !
Thứ hai: về visa sang Ấn: charged dân Mỹ mắc hơn dân VN nhưng thủ tục khá đơn giản, chỉ mất nhiều nhất là 3 ngày làm việc và thủ tục cũng đơn giản nên ko cần lo lắng, chỉ cần bản fax hoặc email trực tiếp đến sứ quán: pptvisaindia@fpt.vn. Thế là xong! Tốt nhất là giao cho Cty du lịch & bán vé máy bay lo hết cho khoẻ.
Thứ ba: cần chuẩn bị những gì khi sang Ấn:
1. Chuẩn bị tinh thần là ở đây người ta ko ăn thịt bò thịt heo; khá nhiều người ăn chay (gọi là veggie), và nếu ko ăn chay (non-veg) thì cũng chỉ ăn đến thịt gà hoặc cá là cùng, thỉnh thoảng cũng có... thịt cừu. Ngoài ra ở đây họ ăn ít rau xanh nhưng bù lại có hoa quả bán đầy ngoài chợ, khá rẻ. Món ăn ngon nhất thì có cà ri gà với nhiều loại càri + gia vị khác nhau.
2. Dân Ấn nói tiếng Anh khá hơn cho dù hơi khó hiểu 1 tí.
3. Đồ đạc: nói chung cũng ko cần lo lắng quá vì ở đây cái gì cũng có và cũng rẻ như (hoặc hơn) ở VN, tuy nhiên tránh mua sắm quá tay. Chú ý: mùa đông ở Delhi cũng khá lạnh (5-10 độ) nên chú ý mang theo áo rét.
4. Tiền nong: ở đây cũng dùng tiền mặt như mình, họ dùng đồng Rupee (Rs) tỉ giá là khoảng 40-48 Rs ăn 1 USD, nên mang theo khoảng 1000 để đi du lịch cho thoải mái.. Cái đáng làm nhất ở Ấn chính là đi du lịch, khu du lịch sạch hơn các khu khác.
5. Giấy tờ: chuẩn bị sẵn khoảng 1 chục bản copy hộ chiếu và visa (rất cần thiết!) và 1 bản scan hộ chiếu, visa lưu trong email và USB; chuẩn bị thêm khoảng 1 chục cái ảnh chân dung (cũng vô cùng cần thiết), và luôn luôn mang theo bút viết.
6. Nghiên cứu nhà cửa (dành cho intern ở Delhi): bởi vì trainee house của cả 2 LC ở Delhi (DU và IIT) đều do 1 tay broker Delhi Stay lo liệu, các em nên liên lạc với họ từ lúc ở nhà, thông báo cho họ trước, nghiên cứu giá cả và loại nhà vì tụi AIESEC Delhi khá vô trách nhiệm, thường xuyên “quên” inform Delhi Stay rằng hôm nay có intern mới đến (!)
Thứ tư: sang đến nơi
1. Tại sân bay: Đầu tiên là đổi tiền, mặc dù đổi tiền ở sân bay hơi đắt nhưng nên đổi luôn khoảng $200, bời vì sẽ mua sim card để có thề gọi liên lạc (nếu cần). Mua sim card sẽ mất khoảng 2 cái ảnh chân dung. Sau đó, đi thẳng đến quầy pre-paid taxi, đưa địa chỉ nhà trọ cho họ rồi đi thẳng về nhà trọ.
2. Nhà cửa: khu Lajpat Nagar ở phía Nam Delhi là khu tập trung rất nhiều nhà trọ.
3. Phương tiện đi lại: chủ yếu là auto rickshaw cũng tương đối thoải mái. Delhi rất rộng, gấp khoảng 2, 3 lần Hà Nội 1 + Hà Nội 2 (:-D) và auto rickshaw này là phương tiện đi lại chủ yếu.
Best wishes from India !
Kumbhalgarh Fort
No comments:
Post a Comment