Đảo Bahamas nhìn từ vệ tinh |
Bahamas nằm ở phía bắc quần đảo Tây Ấn (Caribbe), do gần 700 hòn đảo lớn nhỏ và gần 2.400 nham thạch san hô hợp thành, trong đó chỉ có 22 đảo có người sinh sống
Tổng dân số là 300.000 người.
Các đảo chính là đảo Andros, Biminis, Abaco và đảo mới Providence. Thủ đô là Nassau - thành phố lớn nhất của quốc đảo này. Quần đảo nằm ở trung tâm châu Mỹ, là nơi các tuyến đường phải đi từ bờ đông đại lục Bắc Mỹ và Tây Âu đến vịnh Mexico, vùng biển Jialebi và kênh đào Panama. Toàn bộ cửa ngõ khu vực Trung Mỹ có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng.
Quần đảo có khí hậu ôn hoà và ẩm. Nhiệt độ trung bình của mùa đông là 21°C, mùa hè là 27°C. Do hầu như không có sự thay đổi của bốn mùa nên Bahamas được gọi là đất nước mãi mãi tháng 6. Trên đảo quanh năm cây cối xanh tươi, hoa thơm trái ngọt như dứa, mãng cầu, lựu, vải, nho…
Ánh mặt trời chiếu rọi, bãi biển nên thơ, cảnh sắc tự nhiên quyến rũ. Vào mùa đông, các nước Mỹ, Canada… gió lạnh tràn vào, rét căm căm nên người dân thường đến đây tránh rét.
Vào hè, miền trung nước Mỹ khô nóng nên người dân lại kéo đến Bahamas nghỉ mát. Vì vậy, du lịch trở thành ngành phát triển nhất, là trụ cột kinh tế với 70% tổng sản phẩm quốc dân, thu hút 2/3 dân số tham gia.
Bahamas là vương quốc của các loài chim (hơn 200 loài), trong đó có hạc đỏ là loài quý hiếm và độc đáo. Loài chim này có bộ lông đỏ như lửa nên được gọi là Chim lửa trong nhiều truyền thuyết. Liên bang Bahamas có quy định rằng, máy bay không được bay thấp dưới 600 mét, cấm du khách đến gần hoặc quay phim để bảo vệ loài chim này. Du khách chỉ thấy hạc đỏ ở vườn bách thú, hoặc xem những tiêu bản ở viện bảo tàng. Đảo Yinagua không mở cửa cho du lịch.
Khu nghỉ mát trên đảo Bahamas |
Nassau nằm ở Đông Bắc đảo Providence, là cảng nước sâu tự nhiên hiếm có trong cả quần đảo Jialebi. Lương thực, sản phẩm công nghiệp và hàng hóa du lịch được nhập khẩu ở đây và vận chuyển ra ngoài đảo. Trên đảo có sân bay quốc tế, cách Miami (Mỹ) 30 phút bay.
Do Nassau có chế độ miễn thuế, khách nhập cảnh không cần đóng dấu thị thực nên hàng hóa ở đây khá rẻ, đầu tư và kinh doanh phát triển và Nassau trở thành một trong những trung tâm ngân hàng của khu vực. Trong thành phố có hơn 200 ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, là một trong những trung tâm tài chính của quốc tế. Tài chính là ngành lớn thứ hai ở Bahamas, sau ngành du lịch.
Phía Đông cảng Nassau có một công viên trên biển, du khách đến đây có thể được ngồi thuyền đáy pha lê, ngắm nhìn san hô với trăm nghìn dáng vẻ, rùa biển đáng yêu, đàn cá nhiệt đới với đủ màu sắc sặc sỡ và những sinh vật biển lạ mắt khác. Du khách có thể đeo bình dưỡng khí, chân vịt, theo hướng dẫn viên xuống đáy biển thăm dò, ngắm sinh vật lạ. Trong công viên còn trang bị máy bay nhỏ để du khách ngắm nhìn quần đảo từ trên cao.
Khí hậu Bahamas ấm và dễ chịu, và đây là nơi tuyệt vời để thưởng thức ánh mặt trời. Khí hậu nhiệt đới và đầy sức sống, nhưng nơi đây vẫn thường phải chịu các cơn bão lớn. Hãy đảm bảo rằng không có một cơn bão nào đang rập rình ngoài khơi khi tới đây. (trừ khi bạn muốn đối mặt với một cơn bão!) Khi đã tới nơi, bạn có thể chơi lướt sóng, đi xe đạp, bơi và tận hưởng mọi điều thiên nhiên đã hào phóng ban tặng hòn đảo!
Hòn đảo Abaco nằm ở phía đông có bãi biển Treasure Cay, Ocean Beach rất đẹp. Đảo cực đông nam là Inagua. Các hòn đảo nổi tiếng khác gồm đảo Conception, đảo Eleuthera, đảo Rum Cay,đảo Big Farmer's Cay, đảo Great Sayle Cay, đảo Ragged, đảo Crooked, đảo San Salvador,đảo Acklins,đảo Exuma và đảo Mayaguana. Nassau là thủ đô và thành phố lớn nhất nước, nằm tại New Providence. Quần đảo này có khí hậu cận nhiệt đới, được dòng Gulf Stream giữ ôn hoà. Hải đăng ở Hope Town do Anh xây từ năm 1860 là di tích đáng kể nhất.
Ở phía đông nam, quần đảo Caicos và quần đảo Turks, và ba dãy ngầm khác là Dãy Mouchoir, Dãy Silver, và Dãy Navidad, về mặt địa lý là sự tiếp tục của Bahamas, nhưng không phải là một phần của nước này Bahamas.
Ở phía đông nam, quần đảo Caicos và quần đảo Turks, và ba dãy ngầm khác là Dãy Mouchoir, Dãy Silver, và Dãy Navidad, về mặt địa lý là sự tiếp tục của Bahamas, nhưng không phải là một phần của nước này Bahamas.
Khí hậu Bahamas từ cận nhiệt đới tới nhiệt đới, và được dòng nước Gulf Stream giữ ôn hoà, đặc biệt vào mùa đông. Trái lại, vào mùa hè và mùa thu nó thường gây ra những cơn bão lớn đi qua hay gần hòn đảo. Bão Andrew đã tàn phá vùng phía bắc quần đảo năm 1992, và cơn Bão Floyd đã tàn phá hầu như toàn bộ quần đảo năm 1999. Bão Frances năm 2004 được cho là gây thiệt hại to lớn nhất trong lịch sử cho quần đảo này. Cũng trong năm 2004, vùng phía bắc Bahamas bị Bão Jeanne tràn qua tuy mức thiệt hại có nhỏ hơn. Năm 2005 các vùng phía bắc một lần nữa lại bị Bão Wilma tràn qua. Thủy triều và gió mạnh phá hủy nhà cửa, trường học, ngập tràn đảo khiến khoảng 1,000 mất nhà cửa. Họ bị kẹt không có thức ăn, nước uống và nhu yếu phẩm trong nhiều ngày, phải nhận trợ cấp từ chính phủ.
Bahamas là một quốc gia ổn định, phát triển với nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào du lịch và dịch vụ ngân hàng nước ngoài. Bahamas nói chung được coi là một trong những trung tâm tài chính nước ngoài hàng đầu.Chỉ riêng du lịch chiếm hơn 60% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trực tiếp hay gián tiếp sử dụng tới một nửa lượng lao động. Tăng trưởng du lịch vững chắc cộng với sự bùng nổ xây dựng các khách sạn, khu du lịch và dinh thự mới dẫn tới sự tăng trưởng GDP vững chắc trong những năm gần đây. Chế tạo và nông nghiệp chiếm khoảng mười phần trăm GDP và có mức độ tăng trưởng thấp, dù chính phủ đang có ý định khuyến khích phát triển các lĩnh vực này. Triển vọng phát triển tổng quan trong tương lai gần vẫn dựa nhiều vào nguồn thu từ du lịch, vốn phụ thuộc vào sự tăng trưởng tại Hoa Kỳ, nguồn khách chính của hòn đảo này.Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 7.6% năm 2006, từ mức 10.2% năm 2005, chủ yếu nhờ các dự án xây dựng và phát triển các khu du lịch trên khắp hòn đảo. Hại hai hòn đảo đông dân nhất tại Bahamas, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 10.9% xuống 6.6% tại New Providence, và từ 11% xuống còn 8.4% tại Grand Bahama. Ước tính tỷ lệ nghèo khổ năm 2004 là 9.3%. Ngoài ra, thu nhập trung bình hộ đã tăng lên $43,420 từ mức $38,894 năm 2005. Đồng dollar Bahamas và dollar Mỹ được trao đổi ở mức 1:1. Bahamas là sự pha trộn giữa ảnh hưởng Châu Phi và Châu Âu. Có lẽ phong cách âm nhạc nổi tiếng nhất của nước này là junkanoo. Bên cạnh Junkanoo, cách hình thức âm nhạc bản địa khác gồm rake and scrape, calypso, và một hình thức thánh ca độc nhất, được biết đến trên trường quốc tế thông qua âm nhạc hậu Joseph Spence. Các ban nhạc hành khúc đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, chơi trong những đám ma, đám cưới và các sự kiện nghi lễ khác.
Tại các hòn đảo kém phát triển - thường được gọi là "đảo gia đình" - các món đồ thủ công gồm cả các loại rổ rá làm từ lá cọ. Vật liệu này, thường được gọi là "rơm", cũng được dùng làm mũ và túi và trở thành đồ lưu niệm thông thường cho khách du lịch ngày nay.
Đua thuyền buồm là những sự kiện xã hội quan trọng tại nhiều hòn đảo. Chúng thường được tổ chức trong nhiều ngày với những chiếc thuyền kiểu truyền thống, cùng lúc các lễ hội trên bờ cũng được tổ chức.
Một số người định cư có những lễ hội gắn liền với truyền thống mùa vụ hay kỳ lũ trong vùng, như "Pineapple Fest" tại Gregory Town, Eleuthera hay "Crab Fest" tauh Andros. Các truyền thống đáng chú ý khác như kể chuyện hay thi Obeah.
Bahamas không có môn thể thao quốc gia thực sự. Dù các môn thể thao Anh như cricket, bóng đá và rugby vẫn được nhiều người ưa thích, ngày nay các ảnh hưởng từ Mỹ cũng mạnh mẽ với những môn thể thao đang được ưa chuộng như bóng rổ, bóng chày, bóng đá kiểu Mỹ. Có nhiều vận động viên điền kinh Bahamas đạt trình độ quốc tế. Bahamas đã đoạt huy chương vàng Olympic môn đua thuyền (Ngài Durwood Knowles và Cecile Cooke - 1964), điền kinh (Tonique Williams-Darling - 2004, và chạy tiếp sức nữ - 2000).Từ Fort Lauderdale bay qua Bahamas chỉ 1giờ, từ Nassau chỉ 12 phút
2. Aruba Bonbini, theo ngôn ngữ Papiamento có nghĩa là "chào mừng" hay "Welcome". Welcome to Aruba - đó là hàng chữ thấy được trên máy bay của Airlines Aruba và ở phi trường Queen Beatrix International Airport. Cách Miami có 2g30' bay. Tiếc là tôi chỉ ghé lại Aruba chỉ có 1 ngày 1 đêm tại khách sạn Boardwalk Boutique Hotel Aruba - Tel: 586-6654 Bakval #20, giữa Palm Beach & Malmok, để hối hả bay về Orlando, FL.Khách sạn Boardwalk nhỏ(1-bedroom 'casitas') có khu vườn và hồ tắm rất đẹp, cách Palm Beach chỉ có 150 yards. Aruba chỉ có 27 hotel, tập trung ở bờ biển phiá bắc.
Aruba là một hòn đảo dài 32 km/19.6 miles của Antilles nhỏ trong khu vực phiá Nam của biển Caribbean, cách 27 km về phía bắc Bán đảo Paraguaná, Bang Falcón, Venezuela. Nó nằm trong Vương quốc của Vương quốc Hà Lan, bao gồm phần châu Âu (Hà Lan) và phần châu Mỹ-Caribbean (Aruba và Netherlands Antilles). Không giống như phần lớn khu vực châu Mỹ-Caribbean, Aruba có khí hậu khô và đất đai khô cằn, nhiều xương rồng. Khí hậu này đã giúp ngành du lịch vì du khách đến đảo luôn có thể trông đợi thời tiết nắng ấm. Nó có diện tích là 193 km2/70 square miles và nằm bên ngoài vành đai bão tố.
Oranjestad là thủ phủ với các cơ quan chính phủ ở bờ biển phiá tây-nam, đúng là 1 thành phố kiểu Dutch với những ngôi nhà kiểu Wilheminastraat màu sắc rực rỡ với những mái nhà kiểu Aruban, nhiều galleries, sạp hàng thủ công mỹ nghệ Caiquetio, chợ cá.... Nếu đến Oranjestad vào dịp đầu năm, mùa hè hay lễ hội Bon Bini Festival mừng Nữ Hoàng Hoà Lan thì sẽ thấy Aruba rất vui và dễ thương. Oranjestad hầu như lúc nào cũng tấp nập du khách xen lẫn với cư dân bản địa, dân Spanish, Dutch, Arawak Indian.Papiamento là ngôn ngữ chính cùng với tiếng Anh, Spanish và Dutch.
-San Nicolas là thành phố lớn thứ 2 ở Aruba. Hầu hết cư dân là người Anh vì ở San Nicolas có nhà máy lọc dầu. Charlie's Bar là quán nổi tiếng nhất vì đây là nơi dân bơi lặn, du khách và dân địa phương bàn chuyện thời sự, thể thao. San Nicolas và Aruba còn mang dấu vết của thời thuộc địa ở khu cunucu(nông thôn?) hay trong Arikok National Park, có nhiều di tích (như bảo tàng Fort Zoutman, William III Tower hay kiến trúc Dutch ở Wilhelminastraat, nhà thờ Church of Santa Anna, cối xay gió De Olde Molen trong khu Mill Resort, Diane Keijzer),phòng tranh và cũng có casino nhưng có cây divi-divi mọc trên bãi cát dọc biển Caribbean là độc đáo nhất.Aruba chỉ có 100,000 dân nhưng họ có nền kinh tế ổn định và khá hơn về giáo dục, nhà ở, y tế. Oranjestad
Trong quốc ca của họ có câu "Grandeza di bo pueblo ta su gran cordialidad" có nghĩa là"The greatness of our people is their great cordiality".
Aruba cách bờ biển Venezuela có 15 miles nên leo lên núi Hooiberg (hay Mt.Haystack) cao 541 feet, nằm giữa đảo là có thể nhìn thấy Venezuela(Mt.Yamanota và Mt.Arikok cao 617 feet & 577 feet là 2 ngọn núi cao hơn).
Natural Bridge, bãi san hồ lớn nhất (cao 25 feet, dài 100 feet) và nổi tiếng nhất ở Aruba & Caribbean, đã sập vào sáng ngày 2-9-2005. Bây giờ chỉ còn vài Natural Bridge nhỏ hơn Natural Bridge đã sập rải rác quanh Aruba.
Boca Prins là bãi biển có nhiều đồi cát.Casibari và Ayo ở phiá bắc của núi Hooiberg, cũng là 1 điểm nổi tiếng nhất ở Aruba, cùng với Arikok National Park(có nhiều hình vẽ của người Arawak), cây divi-divi & kwihi, cùng với nhiều giống xương rồng, aloe, hoa rừng + chim nhiệt đới+ iguanas. Công viên quốc gia Arikok National Park này (chiếm 25% diện tích đảo) còn có những ngôi nhà Aruban "cunucu", "cas ditorta," làm bằng cỏ và bùn.
Aruba còn có hang động Fontein & Quadiriki. Ánh sáng mặt trời dọi vào hang động Quadirikiri có 2 gian sâu 100ft này tạo nên nhiều hình dáng kỳ lạ với hàng trăm con dơi. Vào hang động Fontein có nhiều hình vẽ của người Indian và Arawak.
Về miền quê(Cunucu) sẽ thấy thích y như về Phú Quốc hay Quy Nhơn với những rừng dừa, nhất là ở Daimari. Nhà nào cũng có hàng rào là dãy xương rồng. Savaneta là phố cổ nhất ở phiá đông của Aruba, từng là thủ phủ từ 1816. Bây giờ chỉ là làng đánh cá, có những ngôi nhà xưa nhất Aruba, như một "cas de torto" (nhà tranh vách đất)trên 150 năm.Balashi là lagoon ở miền đông-bắc cung cấp nước ngọt cho Aruba mà dân chúng gọi đùa là "Balashi Cocktail," từng là nơi khai thác vàng từ thế kỷ 19. Thực ra Balashi còn có beer Balashi, làm bằng lúa mạch. Vừa ngồi trong "Balashi Gardens", vừa nhậu bia Balashi lạnh mà ngắn nhìn phong cảnh đồng quê Aruba là tuyệt vời, y như đang ở dưới quê.
Bubali là khu bảo tồn chim với trên 80 loài, từ herons, egrets, coots, gulls, skimmers, terns, đến vịt trời.... Aruba còn có khu bảo tồn lừa với 60-80 con lừa, có nông trại nuôi đà điểu, nuôi bướm.
Có nhiều cồn cát ở khu bơi lặn Hudishibana.
Khu Lourdes Grotto do thầy tu tên "Erkamp" lập từ năm 1958 ở Seroe Pretoe (đồi đen) do câu chuyện đức Mẹ hiện ra ở Bernadette từ 150 năm trước, Bishop Holterman đã đến làm phép ở tượng đức Mẹ này(nặng 700 kilos, cần 8 thanh niên lực lưỡng khiên lên) và bà Maria Geerman đã góp công lớn vào việc xây dựng khu grotto. Hàng năm, vào ngày 11 tháng 2 (ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức/ Lady of Lourdes) thánh lễ cử hành trọng thể ngay tại St. Theresita Church ở San Nicolas rồi đi về grotto.
Aruba còn có nhà thờ Alto Vista (Chapel of Alto Vista), nhà thờ đầu tiên trên đảo Aruba, do Indians & Spanish xây theo kiểu Pilgrim's church(màu vàng) và là di tích nổi tiếng.
Viện khảo cổ Aruba ở Zoutmanstraat, Aruba Numismatic Museum ở Zuidstraat và Aruba Historical Museum ở Fort Zoutman/Willem III Tower gần Oranjestad, là những điểm mà bạn có thể ghé qua để hiểu thêm về Aruba.
No comments:
Post a Comment