Đây là di tích của kinh đô nhà Thương (Ân), Trung Quốc. Ân Khư nằm tại trung tâm của tỉnh Hà Nam, trên địa điểm của thành phố An Dương ngày nay. Ân được cho là kinh đô cuối cùng của nhà Thương (1600 TCN - 1046 TCN), và là trung tâm văn hóa và tâm linh của thời kỳ cuối nhà Thương, do có nhiều ngôi mộ được phát hiện và khai quật ở Ân Khư, với vài ngôi có độ sâu hơn 18 m.những ngôi mộ nổi tiếng nhất là mộ của Phụ Hảo, vợ của vị vua thứ 12 của nhà Thương là Vũ Đinh. Ngôi mộ này được phát hiện và giữ nguyên trạng. Ngôi mộ này có 6 bộ xương chó; ít nhất 16 bộ xương người bên cạnh xương của Phụ Hảo; hơn 440 hiện vật bằng đồng; gần 600 miếng ngọc, đá và xương được chạm khắc, và khoảng 7000 đồng tiền của thời đó - tiền vỏ sò.
Ân Khư còn nổi tiếng do phát hiện xương và mai rùa và các chữ khắc trên đó (gọi là giáp cốt văn), mà người ta cho rằng đây là khởi nguồn của chữ Hán và văn viết chữ Hán. Người ta đã sưu tập được hơn 160.000 mảnh giáp cốt, và hơn 1.000 hiện vật bằng đồng xanh. Trên đó các học giả tổng kết được khoảng 4.500 đơn tự và đọc hiểu được khoảng 3.000, trong đó có 1.500 chữ được các học giả nhất trí về ngữ nghĩa. Nội dung của các mảnh giáp cốt đó viết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đời nhà Thương, xác nhận các sử liệu ghi chép trong các sách sử cổ nói chung là chính xác.
Lư Sơn
Hay còn gọi là Lô Sơn là một dãy núi nằm ở phía nam thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, gần hồ Bà Dương. Lư Sơn có 99 ngọn núi, trong đó đỉnh cao nhất là Dahanyang với độ cao 1474 m trên mực nước biển. Núi này là một điểm du lịch quan trọng của Trung Quốc.
Đây là nơi đến được du khách nội địa Trung Quốc ưa thích. Tại đây, trên vách núi có thể nhìn thấy những sự dịch chuyển vỉa rất đặc biệt từ kỷ Băng hà. Phong cảnh vùng này rất đẹp với các đỉnh núi, thung lũng, hẻm núi, khe núi, kiến tạo đá, hang động, và thác nước. Khu vực này cũng có một số đền thờ Đạo giáo, chùa Phật giáo, cũng như nhiều di tích Khổng giáo.
Năm 1982, Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn Lư Sơn là khu danh lam thắng cảnh trọng điểm của quốc gia. Công viên quốc gia này trải dài trên diện tích 500 km² đến lưu vực Hồ Bà Dương.
Năm 1996, Công viên Quốc gia Lư Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Năm 2004, công viên được UNESCO công nhận là vườn địa chất (Công viên Địa chất Quốc gia Lư Sơn kỷ Băng Hà ) và được đưa vào danh sách hệ thống các vườn địa chất quốc tế (Hệ thống này có cả thảy 48 vườn, 18 ở Trung Quốc).
Núi Lư Sơn nổi tiếng đẹp đã là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Trung Quốc. Điển hình là bài thơ "Lô Sơn" (hay Lư Sơn) của Tô Đông Pha, nhà thơ đời Tống:
Lô Sơn
Lô sơn yên tỏa Chiết giang triều
Vị đáo sanh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn yên tỏa Chiết giang triều.
Lời dịch của Trúc Thiên:
Lô Sơn
Khói tỏa Lô Sơn, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến đó luốn mơ màng
Đến rồi, hóa cũng không gì lạ
Khói toả Lô Sơn, sóng Chiết Giang.
Cố Cung
Cố Cung trước đây gọi là Tử Cấm Thành, nằm ngay giữa trung tâm thành phố Bắc Kinh trước đây (Tọa độ: 39°54′56″N, 116°23′27″E), là cung điện của các triều đại nhà Minh và nhà Thanh Trung Quốc. Viện bảo tàng nằm trong Cố Cung được gọi là Viện bảo tàng Cố Cung. Diện tích Tử Cấm Thành là 720.000 m², gồm 800 cung và 8.886 phòng. Do đó, UNESCO đã xếp Cố Cung vào loại quần thể cổ bằng gỗ lớn nhất thế giới và được công nhận là Di sản thế giới tại Trung Quốc vào năm 1987 với tên gọi là Cung điện triều Minh và triều Thanh tại Bắc Kinh và Thẩm Dương (Tiếng Anh: Imperial Palace of the Ming and Qing Dynasties in Beijing and Shenyang). Khu Tử Cấm Thành tọa lạc chính Nam của Quảng trường Thiên An Môn. Có thể đi vào Cố Cung qua Thiên An Môn. Tử Cấm Thành được Hoàng Thành bao bọc xung quanh.
Cung điện Potala
Cung điện Potala nằm ở Lhasa, Khu Tự trị Tây Tạng, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã là nơi ở của Đạt-lại Lạt-ma (Dalai Lama) cho đến Dalai Lama thứ 14 chạy qua Dharamsala, Ấn Độ sau một cuộc cuộc khởi nghĩa thất bại vào năm 1959. Ngày nay, Cung điện Potala là một viện bảo tàng ở Trung Quốc. Đây là một địa điểm thu hút du khách tham quan nổi tiếng và đã được UNESCO công nhận là một di sản thế giới, và đã được chương trình truyền hình Mỹ Good Morning America và báo USA Today gọi là "Bảy kỳ quan mới".
Cung Potala bắt đầu được xây dựng năm 1645 thời kỳ Đạt-lại Lạt-ma thứ 5. Phải mất hơn 50 năm mới hình thành quy mô công trình như hiện nay.
Cung Potala gồm 3 bộ phận: Khu cung thành phía trước núi, khu cung thất trên đỉnh núi và khu hồ phía sau núi.
Khu cung thành có 3 cửa Đông, Nam, Tây và 2 gác lầu. Trong thành có các cơ quan quản lý phục vụ cung như viện in kinh, nơi ở của các quan viên, tăng ni và có cả nhà giam, chồng ngựa. Leo lên con đường bằng đá rộng rãi là tới khu cung thất. Khu này là một quần thể kiến trúc lớn mà chủ thể của nó là Bạch Cung và Hồng Cung. Bạch Cung là cung thất chuyên phục vụ cho sinh hoạt chính trị và tôn giáo của Đạt-lai Lạt-ma. Hồng Cung là quần thể kiến trúc mang tính chất tôn giáo gồm các điện Phật có linh tháp đặt thi thể các Đạt-lai Lạt-ma đã mất và một số sảnh điện khác.
Di Hoà Viên
Di Hoà Viên là một cung điện được xây dựng từ thời nhà Thanh, nằm cách Bắc Kinh 15 km về hướng tây bắc. Di Hoà Viên (nghĩa đen là "vườn nuôi dưỡng sự ôn hoà") đến nay vẫn còn được bảo tồn tốt. Nơi đây nổi tiếng về nghệ thuật hoa viên truyền thống của Trung Quốc.Viên có lịch sử tồn tại trên 800 năm với nhiều tên gọi khác nhau. Đầu đời nhà Tấn, một cung điện tên là Kim Sơn Cung đã được xây dựng tại nơi mà ngày nay là Di Hoà Viên. Năm 1750, vua Càn Long xây Thanh Y Viên tại khu vực này để mừng sinh nhật mẹ ông. Năm 1860, trong Chiến tranh Nha Phiến, liên quân Anh - Pháp bắn phá khiến Thanh Y Viên bị hư hại nặng. 28 năm sau, Từ Hi Thái Hậu lấy ngân quỹ vốn dùng để hiện đại hoá hải quân ra trùng tu hoa viên trong vòng 10 năm và đặt tên là Di Hoà Viên. Năm 1900, trong loạn Quyền Phỉ, liên quân 8 nước lại phá hoại hoa viên lần nữa. Khi Từ Hi hồi cung tại Bắc Kinh năm 1903, bà cho đại trùng tu hoa viên.
Hai cảnh nổi bật ở Di Hoà Viên là Vạn Thọ Sơn và hồ Côn Minh. Hoa viên rộng 294 mẫu, trong đó diện tích hồ chiếm 220 mẫu. Vườn chia làm ba khu vực: khu hành chính (chủ yếu là Nhân Thọ Điện - nơi Từ Hi tiếp các quan lại và giải quyết quốc sự), khu nghỉ ngơi (gồm các điện và vườn hoa) và khu phong cảnh.
Hang đá Long Môn
Hay Long Môn động, phiên âm Hán-Việt Long Môn thạch quật tọa lạc cách thành phố Lạc Dương 12 km về phía nam, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Các hang động này, chủ yếu mô tả các chủ đề về Phật giáo, được chạm khắc rải rác dọc theo hai núi Xiangshan (về phía đông) và Long Môn sơn (về phía tây). Sông Y Hà chảy theo hướng bắc giữa chúng. Vì lý do này, khu vực này thường được gọi là Y Khuyết (Cổng của sông Y). Từ phía bắc đến phía nam, khoảng cách có hang đá là 1 km. Cùng với hang Mạc Cao và Hang đá Vân Cương, hang đá Long Môn là một trong 3 địa điểm điêu khắc cổ đại nổi tiếng nhất ở Trung Quốc.
Đỉnh Long Môn nhìn từ phía cầu Mãn Thủy ở phía đông nam. Tháng 5 năm 2004.
Theo Viện nghiên cứu hang động Long Môn, có 2.345 hang động và hốc, 2.800 câu khắc, 43 chùa và hơn 100.000 tượng Phật tại đây. 30% hang có niên đại từ thời Bắc Ngụy, 60% từ thời nhà Đường, và số hang thuộc các triều đại khác nhỏ hơn 10%.
Thời Chiến Quốc, tướng Bạch Khởi của Tần đã từng đánh bại liên minh của Hàn và Ngụy tại nơi này.
Việc xây dựng các hang đá này bắt đầu vào năm 493.
Khu vực này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới tháng 11/2000
Khổng Miếu, Khổng Phủ, Khổng Lâm
Miếu thờ và nghĩa tranggia tộc họ Khổng tại Khúc Phụ |
Nằm tại thành phố Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, đây là quê hương của người sáng lập Nho giáo Khổng Tử. Năm 1994, UNESCO đã đưa quần thể di tích này vào danh mục "Di sản văn hóa thế giới".
Năm 478 TCN, sau khi Khổng Tử mất được một năm, Lỗ Ai Công đã hạ lệnh thờ cúng Khổng Tử và cho tu sửa nhà ở của ông để thành miếu thờ. Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang đã đến nước Lỗ cúng lễ Khổng Tử theo đại lễ. Đây cũng là điểm khởi đầu cho các bậc đế vương đến cúng tế Khổng Tử. Vua Ung Chính nhà Thanh đích thân đôn đốc việc tu sửa để hình thành quy mô như ngày nay.
Khổng Miếu nằm trong khuôn viên hình chữ nhật, chiều dài Nam Bắc 1300m, tổng diện tích 133.000m². Toàn bộ có 9 dãy kiến trúc liền kề với sân vườn, xếp hàng dọc trên một trục chính Nam Bắc , hai bên trục đối xứng nhau, mặt chính của miếu là hướng Nam.
Tòa cửa thứ nhất của Khổng Miếu là Linh Tinh Môn cao 10,3m rộng 13m được xây dựng thời Minh Vĩnh Lạc. Cửa này xây để cúng sao Thiên Điền trên trời, đều này thể hiện việc các Hoàng đế thời xưa cúng tế Khổng Tử như cúng tế trời, tôn thánh như tôn thiên. Hai bên cửa Linh Tinh đặt hai tấm bia đá lớn đề hàng chữ "quan viên hãy xuống ngựa". Phía sau cửa thứ 5 của Khổng Miếu là một tòa lầu cao làm bằng gỗ gọi là Khuê Văn Các, xây dựng thời Tống Thiên Hỷ (Khuê là sao Khuê chủ quản sự hưng vong của văn chương dân gian). Khuê Văn Các cao 23,35m rộng 30m, ba tầng mái cong.
Kiến trúc chủ thể của Khổng Miếu là Đại Thành điện, nơi các Hoàng đế đến thờ cúng Khổng Tử. Đại Thành điện xây thừ thời nhà Tống nhưng đến thời Ung Chính mới được trùng tu thành quy mô lớn.
Khu lịch sử Macao
Khu lịch sử Macao ở trên Bán đảo Macao, bao gồm các địa điểm đại diện cho di sản văn hóa độc đáo của Macao. Năm 2005 nhóm các địa điểm này được UNESCO công nhận là di sản thế giới thứ 31 ở Trung Quốc
Vạn Lý Trường Thành
Đây là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, trong đó nổi tiếng nhất là phần tường thành do Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220 TCN và 200 TCN, nằm ở phía bắc xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh, và hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
Bức thành trải dài 6,352 km (3,948 dặm Anh), từ Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn Châu, tới Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Một tường thành có tính chất phòng thủ biên giới phía bắc được xây dựng và duy trì bởi nhiều triều đại trong nhiều khoảng thời gian trong lịch sử Trung Quốc. Mục đích chính của nó là bảo vệ người Trung Quốc khỏi sự di cư của người Mông Cổ và người Thổ Nhĩ Kỳ.
Đoạn tường thành chính đầu tiên được xây dựng dưới thời cai trị của Tần Thuỷ Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần với thời gian tồn tại ngắn ngủi. Bức tường này không được xây dựng bởi nỗ lực của một nhóm mà là việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây dựng ở thời Chiến Quốc, vào nhau. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau. Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ còn ít phần của nó còn sót lại - các bức ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài.
Triều đình bắt người dân phải làm việc để đắp thành, và các công nhân luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái đất." Có lẽ khoảng một triệu công nhân đã chết khi xây dựng bức tường thành.
Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tuỳ, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh, bị ăn mòn bởi gió và nước mưa.
Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640. Trong một đoạn trong kinh Koran, các nhà địa lý Ả Rập cũng liên hệ Alexander đại đế với việc xây dựng tường thành. Bức tường này được xây với tầm vóc to lớn bằng những vật liệu tốt (đá cứng được dùng ở các bề mặt và ở trên đỉnh thành) hơn so với trước đó. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được.
Vạn Lý Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan, gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500km cuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan, nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để cảnh báo có xâm lược.
Năm 1644, người Mãn Kokes vượt qua bức tường thành bằng cách thuyết phục một vị tướng quan trọng là Ngô Tam Quế mở cửa những cánh cổng Sơn Hải Quan để cho người Mãn Châu vượt qua. Truyền thuyết kể rằng quân Mãn Châu mất ba ngày mới vượt hết qua đèo. Sau khi người Mãn Châu chinh phục Trung Quốc, bức tường thành không còn giá trị chiến lược nữa, đa phần bởi vì người Mãn Châu đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ ra xa phía bắc, còn xa hơn cả triều Trung Quốc trước đó. Xem thêm ở nhà Thanh (Mãn Châu).
Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn cực kỳ nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua pháo kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không hề có giá trị trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh.
Các cửa quan-cửa ải dọc Vạn Lý Trường Thành
Sơn Hải Quan: cửa ải đầu tiên của Trường Thành, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành, phía nam của dãy núi Yên Sơn, phía bắc của Biển Bột Hải, do tướng Từ Đạt nhà Minh xây dựng. Tên Sơn Hải quan cũng là do đứng ở nơi đây có thể ngắm được, quan sát được toàn cảnh núi non và biển cả hùng vỹ, với non xanh nước biếc, đồi núi và biển cả soi bóng. Cửa ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan" dài 5,9 m, rộng 1,6 m. Chiều cao của chữ là 1,45 m, rộng 1,09 m do Tiêu Hiển, tiến sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng của Nhà Minh viết.
Gia Dụ Quan: còn gọi là Hoà Bình Quan, là cửa quan nằm ở khởi điểm phía tây của Trường Thành, trên địa bàn thành phố Gia Dụ Quan, tỉnh Cam Túc, xây dựng vào năm thứ 5 Hồng Vũ 1372.
Nương Tử Quan: còn gọi là Vi Trạch Quan, thuộc địa bàn huyện Bình Định, tỉnh Sơn Tây. Địa thế hiểm trở, núi non trùng điệp, dễ phòng khó công nên được mệnh danh là "Tam tấn môn hộ". Hồi đầu nhà Đường, công chúa Bình Dương, con gái thứ 3 của Lý Uyên từng dẫn vài vạn tướng sĩ canh giữ tại đây. Công chúa Bình Dương võ nghệ cao cường, đạo quân của công chúa được gọi là "nương tử quân". Bởi vậy mọi người đổi tên cửa ải này thành Nương Tử Quan. Đến nay trên cánh cửa đông môn thành trì Nương Tử Quan còn có 5 chữ "Trực thuộc Nương tử Quan".
Ngọc Môn Quan: ở Tiểu Phương Bàn Thành phía tây Huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Tên Ngọc Môn Quan là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hoà Điền, Tân Cương thời cổ đều phải đi qua cửa ải này.
Biển Đầu Quan: cửa ải thuộc huyện Biển Đầu, tỉnh Sơn Tây, một vùng đất không bằng phẳng, phía đông cao, phía tây thấp, nên mọi người mới gọi là Biển Đầu Quan.
Nhạn Môn Quan: nằm trên một thung lũng ở huyện Đại, tỉnh Sơn Tây, có khí thế hoành tráng, hai bên là vách núi dựng đứng, chỉ những con nhạn, con én mới bay qua được mà chỉ bay dọc theo thung lũng qua phía trước cửa ải, bởi vậy mọi người mới gọi là Nhạn Môn Quan.
Cư Dung Quan: ở núi Tử Kinh, huyện Dị, tỉnh Hà Bắc.
Bức tường thành được bổ sung những điểm đóng quân bảo vệ, để những người lính bảo vệ có thế rút lui nếu quân địch quá đông.
Mỗi tháp chỉ có một lối lên duy nhất và các cửa vào cũng như đường lên rất hẹp làm cho những kẻ tấn công dễ bị rối loạn.
Các trại lính và các trung tâm hành chính nằm ở những khoảng cách lớn.
Bức tường thành trở thành Di sản thế giới của UNESCO năm 1987.
Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng và Tượng binh mã Tần Thủy Hoàng
Nằm ở phía Bắc núi Ly Sơn thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc), cách Tây An 50 km về phía Đông.
Bên trên mộ bao bọc bởi một lớp đất đắp nổi cao 76 m, từ Nam đến Bắc dài 350 m, từ Tây sang Đông rộng 354 m. Trên mặt đất chung quanh lăng còn có hai lớp tường thành, diện tích thành bên ngoài là 2 km² có cửa. Giữa hai lớp thành có các giác lâu, cung tẩm, chùa chiền, nhà ở... Bên dưới mặt đất là địa cung hình chữ nhật, dài 460 m từ Nam sang Bắc, rộng 392 m từ Tây sang Đông, bốn phía có tường bao bọc. Tường bao cao 27 m, dày 4 m, bốn phía đều có cửa. Tổng diện tích địa cung là 18 vạn m².
Từ trên xuống dưới có ba tầng: trên cùng là ngoại cung, tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung. Diện tích tẩm cung khoảng 2 vạn m². Trong tẩm cung phát hiện nồng độ thủy ngân cao hơn mức bình thường 280 lần. Ngoài địa cung, gần khu vực có lớp đất bao bọc bên trên phát hiện thấy 300 đường hầm bồi táng (chôn kèm theo xác) với trên 5 vạn cổ vật quan trọng. Bộ Sử kí của sử gia thời Tây Hán - Tư Mã Thiên - thuật lại việc xây lăng mộ Tần Thủy Hoàng như sau: "Khi Thủy Hoàng mới lên ngôi đã sai đào núi Ly Sơn. Đến khi thôn tính được thiên hạ thì dời 70 vạn người trong thiên hạ đến xây lăng mộ, đào ba con suối, ở dưới đổ đồng và đưa quách vào. Đem những đồ quý báu của các cung, của trăm quan xuống cất đầy ở dưới. Lại sai thợ làm máy bắn tên hễ có ai đào đến gần thì bắn ra. Sai lấy thủy ngân làm một trăm con sông, Trường Giang, Hoàng Hà và biển lớn. Các máy móc làm cho nước sông và biển chảy vào nhau. Ở trên có đủ thiên văn, ở dưới có đủ địa lý, lấy đầu cá nhân ngư để thắp đuốc, trù tính thế nào để cháy lâu không tắt."
Sau khi chôn cất xong, có người nói: "Những người thợ làm máy và cất giấu đều biết chỗ cất giấu, thế nào họ cũng tiết lộ việc lớn". Cho nên sau khi cất giấu xong, Tần Nhị Thế (con trai Tần Thủy Hoàng) sai đóng đường hầm đi đến huyệt và cửa ngoài hầm. Những người thợ và người cất giấu không làm sao thoát ra được. Rồi sai trồng cây, trồng cỏ lên trên ngụy trang thành cái núi.
Năm 1974, một phần hầm mộ được khai quật. Đầu tiên là đường hầm Binh mã dũng số 1. Các nhà khảo cổ ước lượng có đến 8000 tượng đất sét gồm có quan văn, quan võ, binh lính và ngựa. Năm 1994 tiếp tục khai quật đường hầm số 2. Đây được coi là "tinh hoa trong tinh hoa" của Binh mã dũng, chứa đựng trận thế kị binh và các cung thủ với các tư thế bắn tạo hình phong phú, tính nghệ thuật cao.
Tuy nhiên việc khai quật lăng mộ gặp rất nhiều khó khăn: vượt qua lớp thủy ngân bao bọc (nồng độ cực kỳ lớn), phải di chuyển một khối lượng đất khổng lồ, mực nước ngầm dưới lòng đất khá cao. Quan trọng nhất là việc bảo quản các văn vật được đào lên. Các tượng binh mã khi vừa đào lên thì có màu sắc riêng biệt, sau thời gian đều bị phai nhạt hết. Vì vậy bảo quản bằng phương pháp "đông khô" để tránh nứt, vỡ, phai màu. Hiện vật đào lên được đưa ngay vào hầm lạnh -40 độ C để tạo lớp băng mỏng bao bọc, sau đó bảo quản lâu dài trong kho chứa. Trước khi khai quật không quên dựng một nhà bảo quản khổng lồ bao toàn bộ khu lăng mộ. Vì vậy muốn khai quật toàn bộ khu lăng mộ thì phải tốn hàng trăm triệu đôla Mỹ. Cuộc khai quật thường tiến hành trong nhiều năm. Những hiện vật phát hiện được là những tư liệu quý về lịch sử Trung Quốc cổ đại.
Đội quân đất nung hay Tượng binh mã Tần Thủy Hoàng
Đây là một quần thể tượng người, ngựa bằng đất nung gần Lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Đội quân đất nung được phát hiện năm 1974 gần thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, tây bắc Trung Quốc.
Đội quân đất nung được chôn theo Tần Thủy Hoàng của nhà Tần, trong thời gian 210-209 trước Công nguyên.
Đội quân đất nung được phát hiện tháng 3 năm 1974 khi một người nông dân đào giếng ở phía đông núi Lệ Sơn.
Kể từ khi được phát hiện ra năm 1974, việc khai quật khảo cổ vẫn được tiến hành trong thời gian qua. Việc khai quật kéo dài do binh mã bằng đất nung rất dễ vỡ và việc bảo vệ những bức tượng này rất khó khăn (bị phong hóa, bị vi khuẩn phá hoại...). Những tượng binh mã được nặn từ đất sét, nung trong lò ở nhiệt độ thấp, sau khi nung xong được phết một lớp sơn lên bên ngoài để tăng độ bền. Khuôn mặt, kích cỡ, màu sơn theo các nhà khảo cổ không có tượng nào giống nhau, sống động như đội quân thật.
Cho đến nay đã có 8.099 pho tượng đã được khai quật ra khỏi lòng đất. Các bức tượng người có lính bộ binh, cung thủ, các tướng lĩnh trong tư thế đứng thẳng hoặc cúi mình cầm cung, kích, giáo, mác, gươm bọc đồng... đây là những vũ khí được sử dụng ở Trung Hoa thời đó. Ngoài tượng binh mã, tượng xe ngựa có kích cỡ và tinh xảo như thật cũng được phát hiện trong khu tượng binh mã. Quần thể tượng được đặt trong 3 hầm mộ riêng biệt, hầm mộ thứ 4 là hầm trống. Người ta cho rằng, hầm mộ thứ nhất có pho tượng 6000 binh mã, là đội quân chủ lực của Tần Thủy Hoàng. Hầm mộ thứ nhất nằm mặt Tây của Lăng mộ. Hầm mộ thứ hai chứa khoảng pho 1400 tượng kỵ binh và bộ binh đi cùng xe ngựa, đây được xem là đội cảnh binh, trên diện tích 19.659 m². Hầm mộ thứ ba là đội chỉ huy các cấp khác nhau và một xe tứ mã trên diện tích 1524 m² có 68 pho tượng.
Thành cổ Bình Dao
Thành cổ Bình Dao nằm ở miền Trung tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, cách thành phố Thái Nguyên hơn 90km. Thành cổ này nổi tiếng với những bức tường thành cổ và đường phố cổ. Đây là thành cổ lịch sử cấp quốc gia, được xây dựng từ thời Tây Chu dưới thời Chu Tuyên Vương (827-782TCN), đến thời Minh Hồng Vũ được trùng tu lại, bọc gạch toàn bộ, và đến thời Khang Hy lại xây dựng thêm các lầu thành khiến tòa thành càng thêm hoành tráng. Thời kỳ Minh, Thanh ở đây kinh tế rất phồn thịnh , thương nghiệp phát triển, đặc biệt là lĩnh vực tiền tệ, ngân phiếu ở đây có thể trao đổi với bên ngoài, nơi khai sinh ra ngành ngân hàng Trung Quốc. Đây là thành cổ từ thời Minh, Thanh được bảo tồn hoàn chỉnh nhất. Năm 1997, thành cổ Bình Dao được UNESCO công nhận là "Di sản Văn hóa Thế giới".
Thành cổ Bình Dao được thiết kế theo hình thức linh quy (rùa thiêng) với ý nghĩa trường sinh bất lão, vững như bàn thạch. Thành trổ 6 cửa, cửa Nam nhô ra, 2 bên cửa đào 2 giếng nước tượng trưng cho 2 mắt con rùa. Cửa thứ 6 cong sang Đông như đuôi rùa quẫy sang hướng Đông. Bốn cửa phía Đông và Tây thì có 3 cửa cong về phía trước, chỉ có cửa Đông hướng chính diện sang hướng Đông. Có thể đó là cách để buộc rùa vào lộc đài tháp của chùa Từ Tướng cách Đông Bắc thành 10km không cho rùa chạy.
Thành cổ có hình vuông, chu vi dài 6157,5m. Thân tường đắp bằng đất thô, ngoài bọc gạch. Tường thành cao 10m, đỉnh thành dày 3-6m, chân thành dày 9-12m. Trên thành cứ cách 50m thì xây một tháp canh, 4 góc thành mỗi góc xây một gác lầu. Phía trên tường thành xẻ 300 cửa và xây 72 tháp canh nhỏ tượng trưng cho 72 hiền nhân của Khổng Tử.
Diện tích trong thành là 2250km², các đường phố trong thành bố trí theo hình chữ 士. Đường phố theo hướng Nam Bắc chính là trục giữa của thành cổ, cửa Bắc hơi lệch sang hướng Tây. Trong bố cục kiến trúc của thành thể hiện sắc thái kiến trúc nhà ở truyền thống của dân tộc Hán. Cửa hiên xây dựng men theo phố, đại bộ phận nhà ở theo hình thức tứ hợp viện, xây gạch lợp ngói và kết cấu gỗ.
Trong thành cổ Bình Dao có một kiến trúc đứng sừng sững giữa thành khiến khách tham quan đặc biệt chú ý, đó là Thị Lầu. Thị Lầu hình vuông trên diện tích 133,4m² cao 18,5m lợp ngói lưu li vàng lục, 4 bề có hành lang xung quanh, mỗi góc có 3 cây cột. Toàn bộ lầu chia làm 3 tầng, lên trên nhỏ dần, càng tạo hình dáng của lầu cao thanh thoát. Dưới chân lầu về hướng Đông Nam có một giếng nước, tương truyền nước trong giếng như màu vàng kim nên Thị Lầu còn có tên khác là "Kim Tỉnh Lầu".
Thành cổ Bình Dao trong quá khứ đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế Trung Hoa. Bởi tỉnh Sơn Tây lại là một trong những trung tâm thương mại ra đời sớm nhất ở Trung Quốc. Vào những năm giữa thế kỷ 18 là thời điểm hoạt động thương mại của Sơn Tây sôi nổi và sầm uất nhất. Vào thời gian đó, chỉ riêng thành cổ Bình Dao đã có 18 chợ bán sỉ hoạt động nhộn nhịp trong nội thành. Trên con đường Nanda nay đổi tên thành đường Minh-Thanh là nơi ra đời những ngân hàng đầu tiên của nhà nước Trung Hoa. Đặc biệt những ngân hàng này chính là những ngân hàng đầu tiên sử dụng "séc" thay tiền giấy, đã giúp cho các thương gia đi lại buôn bán không phải mang theo những nén bạc nặng nề trong người.
Thiên Đàn hay Đàn thờ Trời
Đây là một quần thể các tòa nhà ở nội thành Đông Nam Bắc Kinh, tại quận Xuanwu. Việc xây dựng quần thể Thiên Đàn bắt đầu năm 1420, và sau đó là nơi mà các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh thực hiện các nghi lễ tế trời - nghi lễ quan trọng nhất trong năm. Quần thể được xây trên diện tích 2,73 km² của khuôn viên, bao gồm 3 tổ hợp công trình, bố cục chặt chẽ theo các đòi hỏi của triết học:
Viên Khâu Đàm, bệ thờ chính. Đây là đài rỗng hình tròn, gồm ba tầng bằng đá hoa cương có lan can, nơi hoàng đế làm lễ tế trời;
Hoàng Khung Vũ, là một điện nhỏ một tầng hình tròn, nằm ở phía Bắc Viên Khâu, là nơi đặt các bài vị tế trời vào những ngày không phải dịp tế lễ. Xung quanh Hoàng Cung Vũ có một bức tường cao 6 m quây thành hình tròn có đường kính 32.5 m, đây là bức tường hồi âm nổi tiếng mà đứng một đầu tường có thể nghe rõ tiếng nói ở đầu tường bên kia.
Điện Kỳ Niên. tòa điện lớn hình tròn có ba tầng mái, được xây trên ba tầng của đài đá hoa cương, là nơi hoàng đế đến cầu vào mùa hè cho mùa màng tươi tốt.
Thời Trung Hoa cổ đại, các hoàng đế Trung Hoa được xem như Thiên Tử - con Trời, người thay mặt Trời cai trị thiên hạ. Việc cúng tế Trời được coi là cực kỳ quan trọng. Khu đền này được xây dựng để dành cho các nghi lễ này, trong đó các lời cầu khấn chủ yếu là để cho thiên hạ thái bình, mưa thuận gió hòa.
Ngày Đông chí hàng năm, hoàng đế và toàn bộ đoàn tùy tùng đi qua thành phố để đến đóng trại bên trong khu Thiên Đàn, mặc những bộ trang phục đặc biệt và ăn chay; tại đó hoàng đế sẽ đích thân cử hành lễ tế Trời cho mùa màng bội thu. Nghi lễ phải được hoàn tất một cách hoàn hảo; người ta tin rằng chỉ một sơ xuất nhỏ nhất cũng có thể là một điềm xấu cho toàn bộ quốc gia trong năm tới.
Thiên Đàn là đàn lớn nhất trong 4 đàn ở Bắc Kinh. Các đàn còn lại là: Nhật Đàn ở phía đông, Địa Đàn ở phía bắc, và Nguyệt Đàn ở phía tây.
Theo Tân Hoa Xã, vào đầu năm 2005, Thiên Đàn được trải một cuộc trang hoàng bề mặt với chi phí 47 triệu Nhân dân tệ (5,9 triệu đô la Mỹ) để chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh mùa hè năm 2008. Việc sửa sang này hoàn tất ngày 1/5/2006.
Năm 1998, Thiên Đàn được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Tị Thử Sơn Trang cùng ngoại bát miếu
Theo nghĩa đen là "trang trại trên núi để tránh nóng". Đây là một lâm viên danh tiếng của đế vương hiện tồn, toạ lạc ở huyện Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Nguyên tên của nó là Nhiệt Hà Hành Cung, còn người đời hay gọi là Thừa Đức Ly Cung (hành cung hay ly cung là cung điện dành cho vua nghỉ ngơi khi xuất du). Sơn Trang được xây dựng từ năm 1703 đến 1792, trải dài ba đời vua Khang Hi, Ung Chính, Càn Long. Diện tích gấp đôi Di Hoà Viên và gấp tám lần công viên Bắc Hải. Sơn Trang gồm hai bộ phận lớn: khu cung điện và khu vườn cảnh. Khu cung điện bao gồm bốn kiến trúc có phong cách cổ phác và điển nhã: Chính Cung, Đông Cung, Tùng Hạc Trai, và Vạn Hác Tùng Phong. Khu vườn cảnh bao gồm hồ, núi, đất bằng. Sơn Trang có nhiều lâu đài điện các, am, miếu, chùa, đạo quán...
Sơn Trang còn là nơi vua cùng quan lại hội ý việc nước, nên có thể gọi là một trung tâm chính trị thứ hai. Quần thể kiến trúc tôn giáo trong Sơn Trang qui tụ các giòng nghệ thuật kiến trúc của các dân tộc Mãn, Hán, Mông, Tạng rất đặc sắc. Năm 1994, Tổ chức Văn hoá Khoa học Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã liệt Tị Thử Sơn Trang vào danh sách di sản văn hoá của thế giới.
Tượng khắc đá Đại Túc
Tượng khắc đá Đại Túc thuộc huyện Đại Túc thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc, cách trung tâm thành phố 163km. Tượng bắt đầu được khắc vào cuối nhà Đường, trải qua 5 triều đại, cực thịnh nhất vào đời Lưỡng Tống (nhà Bắc Tống và nhà Nam Tống). Đây là kho tàng nghệ thuật hang đá của Trung Quốc với hơn 5 vạn pho tượng được chạm khắc bằng đá, phân bố ở hơn 40 địa điểm thuộc huyện Đại Túc, trong đó chủ yếu là các pho tượng của đạo Phật, sau đó là Đạo giáo và Nho giáo, và tượng một số ít nhân vật lịch sử.
Tượng khắc Đại Túc chủ yếu tập trung trên núi Bảo Đỉnh và vách núi Bắc Sơn, quy mô lớn và nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, hình thức cũng vô cùng phong phú. Đây là quần thể tượng khắc có sự kết hợp của lực học, quang học, nội dung tạo hình và thế núi, thể hiện rất rõ nghệ thuật tạc tượng Phật người Trung Quốc. Với đặc trưng "Người hóa thần, thần hóa người", năm 1999, tượng khắc đá Đại Túc được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới.
Tượng đá chạm khắc trên núi Bảo Đỉnh nằm cách huyện Đại Túc 15km về phía Đông Bắc, được bắt đầu khắc vào năm thứ 6 Thuần Hy (Tống Hiếu Tông đời Nam Tống (1179). Đây là một trong những vùng đất linh thiêng của Phật giáo, dân gian có câu: "Thượng triều Nga Mi, hạ triều Bảo Đỉnh". Tượng khắc đá ở đây với trung tâm là vịnh Đại Phật, ngoài ra có:
Phía Đông có vịnh Tiểu Phật, tháp nghiêng, núi Long Đầu, núi Thù Thủy, dốc Hoàng Giác
Phía Nam có Cao Quan âm
Phía Tây có núi Quảng Đại, dốc Tùng Lâm, vách Phật tổ
Phía Bắc có Long Đàm, Phật đối mặt.
Tất cả gồm 13 cảnh quan trong đó Vịnh Đại Phật là thắng cảnh lớn nhất, có giá trị nghệ thuật cao nhất và được bảo tồn hoàn chỉnh nhất trong quần thể tượng khắc này.
Vịnh Đại Phật là một vách núi cong hình vó ngựa , dài khoảng 500m, rộng 15-30m với hơn 1 vạn pho tượng lớn nhỏ và tấm bia ghi lại lịch sử tạc tượng trên núi Bảo Đỉnh và lịch sử hình thành Phật giáo. Các pho tượng ở đây đều được chạm khắc trên vách núi với diện tích chạm khắc 3600m². Nghệ thuật chạm khắc ở đây rất tinh xảo, đề tài phản ánh trong các bức phù điêu rất phong phú, bố cục chặt chẽ, địa thế hoành tráng, cấu tứ nghệ thuật độc đáo mang đậm bản sắc Phật giáo.
Khu thắng cảnh Vũ Di Sơn
Nằm cách thành phố Vũ Di Sơn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc 15km về phía Nam. Dãy núi này được mệnh danh là dãy núi đẹp nhất vùng Đông Nam Trung Quốc, "Phúc Kiến đệ nhất sơn", năm 1999 phần núi thuộc Phúc Kiến được UNESCO liệt vào danh sách Di sản thiên nhiên thế giới và Di sản văn hóa thế giới. Vũ Di là một trong những di sản văn hóa có diện tích lớn nhất Trung Quốc hiện nay với tổng diện tích 999,75km², trong đó diện tích khu thắng cảnh trung tâm là 635,75km². Vũ Di sơn bao gồm khu thắng cảnh núi, khu bảo tồn thiên nhiên và khu di chỉ thành Hán cổ.
Núi Vũ Di hoàn toàn không có dấu tích xây dựng của con người, tất cả đều do thiên nhiên ban tặng. Khu thắng cảnh núi Vũ Di dài 60km, nổi tiếng bởi địa thế của vùng đất Đan Hạ, xung quanh bao bọc bởi núi và nước, có nhiều đỉnh núi có hình thù kỳ quái, được gọi là "Tam tam, lục lục". "Tam tam" nghĩa là 3x3=9, chín khe suối nước trong xanh. 6x6=36, 36 đỉnh núi cao chọc trời. Trong đó, nổi tiếng nhất là đỉnh Đại Vương, đỉnh Ngọc Nữ và đỉnh Thiên Du... Thế núi đa dạng và phong phú.
Vườn Viên lâm Cổ điểm Tô Châu
Nhắc đến kiến trúc truyền thống của Trung Quốc, thì không thể không đề cập tới vườn Viên lâm Tô Châu. Trung Quốc có câu tục ngữ "Trời Có Thiên Đàng, Đất Có Tô Hàng". Sở dĩ dùng Tô Châu so với Thiên Đàng, là vì xưa nay Tô Châu nổi tiếng có nhiều vườn viên lâm thanh nhã.
Nghệ thuật làm vườn Trung Quốc có nguồn gốc lịch sử sâu xa với nền nghệ thuật văn học và hội họa của Trung Quốc, nhất là sự ảnh hưởng của nền văn học cổ điển c
ũng như hội họa sơn thủy truyền thống Trung Quốc. Trong quá trình phát triển, vườn Viên lâm Trung Quốc đã từng bước hình thành 2 hệ thống lớn: Viên lâm Hoàng gia và Viên lâm Tư gia. Viên lâm Hoàng gia tập trung ở vùng Bắc Kinh, còn Viên lâm Tư gia thì tiêu biểu là Tô Châu. Do sự khác biệt về địa vị chính trị, kinh tế và văn hóa cũng như điều kiện địa lý và thiên nhiên, nên 2 hệ thống này có độ chênh lệch rõ nét về quy mô, bố cục, phong cách, mầu sắc… ưu thế của Viên lâm Hoàng gia là hùng vĩ, nghiêm chỉnh và đường hoàng, chẳng hạn như Di Hòa Viên của Bắc Kinh, Sơn trang Nghỉ mát Thừa Đức của Hà Bắc…; còn đặc điểm của Viên lâm Tô Châu là sắc xảo, tự do, tinh tế và hòa nhã. Do Viên lâm Tô Châu càng lưu ý sự thống nhất hài hòa giữa văn hóa và nghệ thuật, nên thời cuối phát triển của Viên lâm Hoàng gia cũng đã hấp thụ nhiều thủ pháp của Viên lâm Tư gia về quan niệm nghệ thuật, tư tưởng sáng tác, kỹ xảo kiến trúc và nội dung nhân văn.
Tại sao Tô Châu có thể trở thành xứ sử được phát triển nhất của Viên lâm Tư gia Trung Quốc? Hóa ra, Tô Châu nằm ở vùng châu thổ sông Trường Giang rất trù phú của Trung Quốc, nơi đây khí hậu dễ chịu, giao thông thuận tiện, ngay từ thời cổ đã là vùng có thương nghiệp và văn hóa phát triển nhất, cho đến nay tơ tằm và dệt thêu của nơi này vẫn nổi tiếng thế giới.
Lịch sử của vườn Viên lâm Cổ điển Tô Châu có thể tìm nguồn đến Viên Hựu của Chúa Ngô thời kỳ Xuân Thu vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, Viên lâm Tư gia sớm nhất được ghi chép là Bích Cương Viên của nhà Đông Tấn vào thế kỷ thứ 4.
Thời nhà Minh và nhà Thanh (tức từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20) là giai đoạn phát triển cực thịnh của nền kinh tế và văn hóa phong kiến Tổ Châu, Tô Châu trở thành vùng sầm uất nhất của Trung Quốc. Nghệ thuật làm vườn chín chắn, đã xuất hiện nhiều nhà nghệ thuật viên lâm, khiến hoạt động làm vườn đạt tới một đỉnh cao. Tô Châu lúc đó có hơn 200 vườn viên lâm, hiện nay chỉ còn giữ lại được vài chục vườn, trong đó 4 vườn viên lâm cổ điển: Chuyết Chính viên, Lưu Viên, Võng Sư Viên và Hoàn Tú Sơn Trang với loại hình kiến trúc đầy đủ và được bảo tồn hoàn chỉnh, đã phô diễn một cách hệ thống và toàn diện nội dung trong các mặt bố cục, kết cấu, tạo hình, phong cách, mầu sắc cũng như tu bổ, gia cụ, bày đặt v.v. của nghệ thuật kiến trúc viên lâm thời cổ Tô Châu, đã phản ánh văn minh cư trú cao của vùng Giang Nam Trung Quốc trong thời kỳ này, đã thể hiện thành tựu nghệ thuật cũng như trình độ khoa học kỹ thuật kiến trúc thành thị thời đó. Chính vì vậy, năm 1997, 4 vườn viên lâm này đã được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Thế giới.
Vườn Viên lâm Tô Châu có diện tích chiếm đất nhỏ, áp dụng thủ pháp nghệ thuật không câu nệ và biến đổi khôn lường, với tình tứ hoa chim nước non Trung Hoa, đã tô điểm núi giả, cây xanh, sắp xếp đình đài lầu các cũng như đầm hồ cầu nhỏ trong một không gian có hạn, và để lại cho con người một hiệu quả nghệ thuật nhìn nhỏ thấy lớn. Với lịch sử tiếp diễn hơn 2000 năm, vườn Viên lâm Cổ điểm Tô Châu đã có một vị thế và giá trị lịch sử độc đáo trên lịch sử làm vườn của thế giới.
Thành cổ Lệ Giang, thành phố nước trên cao nguyên
Thành cổ Lệ Giang đã kết hợp khéo léo vị trí kinh tế, chiến lược quan trọng với địa thế hiểm trở, đã bảo tồn chân thật, hoàn mỹ và tái hiện bộ mặt chất phác cổ xưa. Trải qua sự biến động của nhiều triều đại, trải qua bao thăng trầm, đã nổi tiếng xa gần bởi đã hội tụ đặc sắc văn hóa của nhiều dân tộc. Lệ Giang còn có hệ thống cấp nước cổ xưa, hệ thống này chi chít ngang dọc, tinh xảo độc đáo, đến nay vẫn phát huy tác dụng của nó.
Trong hệ thống sông Ngọc trong thành cổ Lệ Giang có xây 354 chiếc cầu, mật độ trung bình là 93 cầu trên mỗi ki-lô-mét vuông. Hình dáng và cấu tạo của cầu có nhiều loại, tương đối nổi tiếng có các cầu Toả Thuý, cầu Đại Thạch, cầu Vạn Thiên, cầu Cửa Nam, cầu Yên Ngựa, cầu Nhân Thọ, đều được xây dựng vào thời nhà Minh, nhà Thanh (thế kỷ 14 đến 19 sau công nguyên). Trong đó đặc sắc nhất là cầu Đại Thạch cách phố Tứ Phương 100 mét về phía đông.
Lầu Ngũ Phượng trong chùa Phúc Quốc của thành cổ xây vào năm 29 thời Vạn Lịch nhà Minh (năm 1601 sau công nguyên), lầu cao 20 mét. Vì hình dáng và cấu tạo của kiến trúc giống năm con phượng bay đến, nên có tên "lầu Ngũ Phượng", trần nhà lầu có nhiều đồ án xinh đẹp. Lầu Ngũ Phượng mang phong cách nghệ thuật kiến trúc của các dân tộc Hán, Tạng, Na-xi… là một mẫu mực quý hiếm và điển hình trong kiến trúc cổ xưa Trung Quốc.
Cụm kiến trúc cư dân Bạch Sa nằm ở nơi cách thành cổ 8 ki-lô-mét về phía bắc, nơi đây từng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của khu vực Lệ Giang thời nhà Tống (thế kỷ 10 đến 14 sau công nguyên). Cụm kiến trúc dân cư Bạch Sa phân bố dọc theo trục bắc nam, ở giữa là một quảng trường hình thang, một dòng nước suối được dẫn từ hướng bắc vào quảng trường, có bốn ngõ phố từ quảng trường đi ra bốn phía, rất đặc sắc. Việc hình thành và phát triển cụm kiến trúc Bạch Sa đã đặt nền móng cho bố cục thành cổ Lệ Giang sau này .
Cụm kiến trúc dân cư Thúc Hà nằm ở nơi cách thành cổ Lệ Giang 4 ki-lô-mét về phía tây bắc, là một chợ nhỏ xung quanh thành cổ Lệ Giang, trong cụm kiến trục có nhiều nhà cửa của dân, hình dáng và cấu tạo giống như phố Tứ Phương của thành cổ Lệ Giang. Sông Thanh Long chảy xuyên qua giữa cụm kiến trúc, trên sông có cầu Thanh Long xây vào thời nhà Minh (năm 1368 đến năm 1644 sau công nguyên), cầu Thanh Long là cầu đá dài nhất ở Lệ Giang.
Thành cổ Lệ Giang có lịch sử lâu đời, chất phác, cổ xưa và tự nhiên. Bố cục thành phố xen lẫn đều đặn, vừa có đặc điểm của vùng miền núi, lại có dáng dấp của miền quê sông nước. Cư dân Lệ Giang vừa dung hoà tinh hoa của các dân tộc Hán, Bạch, Di, Tạng, lại có phong cách độc đáo của dân tộc Na-xi, là di sản quan trọng hiếm có để nghiên cứu lịch sử kiến trục, lịch sử văn hóa Trung Quốc. Thành cổ Lệ Giang bao hàm nền văn hóa truyền thống dân tộc phong phú, đã tập trung thể hiện sự thịnh vượng và phát triển của dân tộc Na-xi, là tư liệu lịch sử quan trọng nghiên cứu sự phát triển văn hóa nhân loại .
Thái Sơn Trung Quốc
Thái Sơn nằm trên địa bàn tỉnh Sơn Đông miền đông Trung Quốc từ xưa đến nay được tôn là "Hoa hạ thần sơn". Năm 1987 được công nhận là di sản thế giới. Hội đồng di sản thế giới đánh giá về Thái Sơn rằng: "luôn là đối tượng triều bái của các đế vương trong 2 nghìn năm qua, các kiệt tác nhân văn trong núi hội nhập một cách hoàn mỹ và hài hoà với cảnh quan thiên nhiên. Thái Sơn luôn là dòng suối nguồn về tinh thần của các nhà nghệ thuật và học giả Trung Quốc, là biểu tượng của nền văn minh và tín ngưỡng của Trung Quốc cổ đại".
Thái Sơn nằm ở vùng miền trung tỉnh Sơn Đông, vắt qua hai thành phố là Thái An và Tế Nam. Ở Trung Quốc có một truyền thuyết tươi đẹp về Thái Sơn. Kể rằng: mọi vật trong trời đất đều là do một người gọi là Bàn Cổ tạo ra, sau khi Bàn Cổ qua đời, đầu, thân và tứ chi biến thành 5 ngọn núi lớn, đó tức là "ngũ nhạc" <5> nổi tiếng ở Trung Quốc. Thái Sơn nằm ở phía đông chính là đầu của Bàn Cổ hóa thành, bởi vậy Thái Sơn được gọi là "đông nhạc" là đứng đầu trong "ngũ nhạc".
Phong cảnh của Thái Sơn nổi tiếng bởi hoành tráng. Thế núi trùng điệp, hình dạng đồ sộ được tô điểm bởi những cây tùng cổ thụ và sự biến hóa khôn lường của những áng mây khiến cho Than Sơn đậm nét tương đẹp trong hoành tráng, thần kỳ trong tĩnh mịch, là sự hội tụ của những danh thắng nước non ở Trung Quốc. Đứng trên đỉnh núi Thái Sơn ngắm cảnh mặt trời mọc luồn qua tâng mây là một cảnh quan nổi tiếng mang tính tiêu chí của Thái Sơn, biết bao du khách chỉ vì muốn được tận mắt chiêm ngưỡng cảnh quan kỳ diệu này mà đã phải leo lên Thái Sơn từ nửa đêm.
Thái Sơn có ý vị biểu tượng của chính quyền hết sức độc đáo, có hơn 3 nghìn năm lịch sử tiếp nhận sự tế lễ của các đế vương thuộc các triêu đại. Với sự cầu kỳ trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, Thái Sơn nằm ở phía cực đông Trung Quốc, phía đông là nơi mặt trời mọc, Thái Sơn chính là nơi cát tường phát sinh của muôn vật, bởi vậy được coi là biểu tượng của Trời và hoá thân của Thần.
Để chứng minh quyền thống trị của mình là do Trời ban cho, đế vương các triều đại đều tới tấp lên đỉnh Thái Sơn gần với Thiên đình để tế lễ thông báo với trời đất, đó chính là những đại lễ phong thiền Thái Sơn. Các hoạt động tế lễ phong thiền này đã diễn ra hàng nghìn năm tại Thái Sơn và xuyên suốt trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Thái Sơn vì có các đế vương phong thiền mà được nâng lên tới tầm cao thần thánh như hoàng đế, đồng thời cũng được cho là biểu tượng của sự ổn định, củng cố chính quyền, đất nước thịnh vượng và dân tộc đoàn kết, bởi vậy mới có cách nói "Thái Sơn an, bốn biển đều yên".
Thơ khắc trên núi |
Cùng với việc phong thiền, các triều đại thời cổ còn không ngừng xây dựng chùa chiền, tạc tượng thần, khắc chữ đề từ trên núi Thái Sơn. Các văn nhân mạc khách ngưỡng mộ Thái Sơn và tới tấp đến đây du ngoạn, để lại những bài viết và thư pháp bất hủ.
Nội đàm văn hoá lịch sử lâu đời và phong phú đã hoa nhập vào trong phong cảnh thiên nhiên hoành tráng của Thái Sơn, hình thành cảnh quan Thái Sơn độc đáo đan xen giữa thiên nhiên với con người. Sự đẹp này không chỉ hiếm có ở Trung Quốc mà cũng rất hiếm thấy trên thế giới.
Sau khi đến khảo sát tại Thái Sơn tháng 5-1987, ông Lu-cát, chuyên gia Hiệp hội di sản thiên nhiên của Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc đã dành cho Thái Sơn sự đánh giá rất cao. Ông nói "Di sản thế giới có đặt sắc khác nhau, phải chăng là thiên nhiên, phải chăng là văn hoá, rất hiếm cả hai giá trị này ở trong cùng một khu bảo tồn, nhưng Thái Sơn là di sản có cả hai giá trị đó. Điều này nói lên Trung Quốc đã cống hiến một di sản đặc biệt có một không hai".
Năm 1988, Thái Sơn đã được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc công nhận là "di sản đứng đầu trong số 9 di sản tổng hợp của thế giới".
Di chỉ người vượn Bắc Kinh Chu Khẩu Điếm
Tìm tòi những mẩu chuyển trong thời mông muôi của con người luôn là một trong những hứng thú của con người thời hiện đại. Hơn 70 năm trước, sự phát hiện của các nhà khoa học tại Chu Khẩu Điếm Bắc Kinh đã làm chấn động thế giới.
Di chỉ người vượn Bắc Kinh Chu Khẩu Điếm nằm ở núi Long Cốt cách Bắc Kinh 48 km về phía tây nam. Đây là nới giáp ranh giữa đồng băng và đồi núi, trên núi có rất nhiều hang động lớn nhỏ. Trong đó có một hang dài khoảng 140m chạy theo hướng đông tây được gọi là "Hang người vượn". Năm 1921, nhà khoa học Thụy Điển An-tơ lần đầu tiên phát hiện di chỉ người cổ đại tại hang này, bởi vậy hang này mới được các nhà khảo cổ học gọi là "địa điểm thứ nhất Chu Khẩu Điếm". Năm 1929, nhà khảo cổ học Trung Quốc Bùi Văn Trung đã khai quật được hộp sọ đầu tiên của "người vượn Bắc Kinh" tại đây, làm chấn động thế giới. Đáng tiếc là do cuộc chiến tranh chống Nhật, hộp sọ của "người vượn Bắc Kinh" bị thất lạc và đến nay vẫn chưa tìm thấy.
Tại điểm thứ nhất ở Chu Khẩu Điếm phát hiện vết tích của lửa đã đưa lịch sử biết dùng lửa của con người về trước thêm mấy trăm nghìn năm. Tại đây phát hiện 5 tầng tro, và vết tích của 3 đống tro cũng như rất nhiều xương các loại sau khi thiêu đốt, tầng tro dày nhất tới 6 mét. Những di chỉ này chứng tỏ "người vượn Bắc kinh" không những biết dùng lửa mà còn biết giữ mồi lửa.
Trong di chỉ này còn phát hiện rất nhiều đồ đá các loại, nguyên liệu đều đến từ nơi gần di chỉ, phần lớn các đồ đá có kích cỡ nhỏ, thuộc nhiều chủng loại, đồ đá thuộc thời kỳ sớm nhất tương đối thô, các thứ dùng đề chặt, đập chiếm vị trí quan trọng. Thời kỳ giữa thì những dụng cụ này có kích cỡ tương đối nhỏ, các đồ sắc nhọn phát triển nhanh. Thời kỳ cuối thì có kích cỡ cà nhỏ hơn, Dùi đá là một đồ đá đặc trưng của thời kỳ này. Việc này nói lên "Người vượn Bắc Kinh" đã biết lựa chọn đá, chế tác đá và dùng nó làm vũ khí hoặc công cụ sản xuất nguyên thủy để cải tạo mình trong khi đấu tranh với thiên nhiên, chứng tỏ họ đã biết sử dụng công cụ trong lao động, đây là sự phân biệt cơ bản giữa Vượn và Người.
Các đồ vật được khai quật chứng minh người vượn Bắc Kinh đã sinh sống tại khu vực Chu Khẩu Điếm vào khoảng thời gian cách đây từ 700 nghìn đến 200 nghìn năm về trước, họ chủ yếu là hái lượn, săn bắn để sinh sống. Người Bắc Kinh thuộc người nguyên thủy nằm giữa thời kỳ từ Vượn cổ tiến hóa thành người có trí tuệ, phát hiện nay có giá trị cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu sinh học, lịch sử học và lịch sử phát triển của loài người.
Di chỉ "người Bắc Kinh" Chu Khẩu Điếm được công nhận là di sản thế giới vào tháng 12-1987. Hội đồng di sản thế giới đánh giá rằng: di chỉ Chu Khẩu Điếm không những là một bằng chứng lịch sử hiếm có về xã hội nhân loại trên lục địa Châu Á trong thời viễn cổ mà còn chứng minh tiến trình tiến hoá của con người, là một kho báu văn hóa viên cổ của nhân loại.
Hoàng Sơn
Hoàng Sơn ở tỉnh An Huy miền đông Trung Quốc xưa nay được cho là ngọn núi kỳ vĩ nhất ở Trung Quốc. Năm 1990, Hoàng Sơn được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Trung Quốc có câu ngạn ngữ nói rằng: Ngũ nhạc qui lai bất khán sơn. Hoàng Sơn qui lai bất khán nhạc. Ý nói trước khi đi Hoàng Sơn, những ai đã từng đi du ngoạn 5 ngọn núi nổi tiếng nhất ở Trung Quốc là Thái Sơn-Đông Nhạc, Hoa Sơn-Tây nhạc, Sùng Sơn-Trung nhạc, Hằng Sơn-Nam Nhạc và Hoành Sơn-bắc nhạc thì không cần phải đi du ngoạn bất cứ ngọn núi trong thiên hạ làm gì nữa; Thế nhưng nếu lại đi du ngoạn Hoàng Sơn trước thì 5 ngọn núi kia chả cần đi làm gì nữa. Qua đó có thể thấy được sự độc đáo và hoành tráng của Hoàng Sơn.
Hoàng Sơn nằm trong khu phong cảnh Hoàng Sơn ở vùng trung nam Trung Quốc, rộn khoảng 1200 km2. Do núi cao vực thẳm, khí hậu ở khu vực Hoàng Sơn biến đổi theo chiều thẳng góc, hình hành nhiều mây và dương mù, độ ẩm cao, mưa nhiều, tạo điều kiện cho sự hình thành tính đa dạng sinh học.
Có thể khái quát rằng Hoàng Sơn đã hội tụ mọi cảnh đẹp của các ngọn nũi nổi tiếng ở Trung Quốc, trong đó 4 cảnh quan được mọi người thán phục nhất là "Thông kỳ, đá quái, biển mây và suối nước nóng".
Loại cây nhiều nhất ở Hoàng Sơn là thông và tùng, những cây có trên trăm tuổi lên tới hàng hạn, hình dáng muôn vẻ của những cây tùng cây thông đã tạo nên cảnh quan độc đáo của Hoàng Sơn, được mệnh danh là một tuyệt tác của Hoàng Sơn. Những cây thông, cây tùng mọc trên các vách đá, thể hiện lên sức sống mãnh liệt. Có một cây tùng rất đặc biệt được coi là biểu tượng của Hoàng Sơn. Cây tùng này mọc trên ngọn núi Ngọc Nữ cao ngất, cảnh thông toả bỏng xum xuê và nghiêng về phía trước, trông chẳng khác nào như tư thế của một người đang mời chào khách, bởi vậy mới được gọi là "Cây tùng đón khách".
Ngoài cảnh quan thiên nhiên, Hoàng Sơn còn mang đậm nét văn hoá, có biết bao các nhà văn hào, họa sĩ trong lịch sử đã bị Hoàng Sơn cuốn hút, và để lại rất nhiều những tác phẩm của mình tại đây. Chỉ riêng về thơ ca, hiện có thể tra tìm được hơn 20 nghìn bài. Các nhà thờ nổi tiếng thời cổ Trung Quốc như Lý Bạch, Giả Đảo, Phạm Thành Đại, Thạch Đào...đều có những bài thơ ngợi ca Hoàng Sơn, nhưng mẩu truyện dân gian về Hoàng Sơn lại càng không thể kể hết.
Về mặt nghệ thuật, Trung Quốc có trường phái tranh Hoàng Sơn. Trường phái này đã thể hiện về sự tuấn mỹ của Hoàng Sơn bằng bút pháp truyền thống, chiếm vị thế nhất định trong họa đàn Trung Quốc. Ngoài ra, tương truyền thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là hoàng đế Hiên Viên từng tu hành tại đây, cuối cùng đắc đạo và lên thiên đàng. Hiện nay còn để lại rất nhiều mẩu truyện về việc này như ngọn núi Hiên Viên, ngọn Phù Khưu...cũng chính vì vậy mà Hoàng Sơn chiếm vị thế rất quan trọng trong lịch sử đạo giáo Trung Quốc.
Do cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và mang đậm bản sắc văn hoá, nên năm 1990 Hoàng Sơn được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên và di sản văn hoá thế giới. Hội đồng di sản thế giới đánh giá về Hoàng Sơn rằng: Hoàng Sơn có uy tín rộng rãi trong lịch sử văn học nghệ thuật Trung Quốc, đối với du khách, nhà thơ, họa sĩ, nhà nhiếp ảnh từ 5 châu 4 bể mà nói thì Hoàng Sơn có sức hấp dẫn vĩnh hằng.
Hang Vân Cương
Từ cuối thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 6, Phật giáo rất thịnh hành tại Trung Quốc, triều đình và dân gian đều dấy lên làn sóng chạm hình tượng Phật. Hang Vân Cương của thành phố Đại Đồng tỉnh Sơn Tây thuộc miền bắc Trung Quốc là di sản văn hóa quý hiếm được bảo tồn trong thời kỳ này, Hang Vân Cương đã đại diện cho trình độ cao nhất của nghệ thuật hang động Trung Quốc vào thời kỳ này.
No comments:
Post a Comment