Friday, January 6, 2012

Tản mạn về… Saigon(1)

Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam

Có nhiều nơi ở miền Nam chắc Bạn đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó…riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc; nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình. Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác – để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
Phần 1
Tên do địa hình, địa thế

Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”
Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Luơng đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?
Truông
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Phá
là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh ThừaThiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.
Bàu
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.
Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Trảng
chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng Bom, Trảng Táo.
Đồng
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hoá đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hoá một cách tài tình.
Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn
Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần Thơ
không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa.Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Một số địa danh khác
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”,là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hoá của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
Phần 3
Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau;
- Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
- Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
- Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi tằm).
Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thuỷ đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán…chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cũ ở nơi đó để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Hồ Đình Vũ
Người Sài Gòn ăn Tết không cầu kỳ bằng người Hà Nội, mâm cỗ đón xuân cũng đơn giản và không nhiều món như ở Huế… Sài Gòn ăn Tết bằng bánh tét. Nhà nào rộng rãi, đông người thì 27 Tết đã thấy lục đục sửa soạn nồi nấu bánh, trước là để cúng ông bà, sau biếu hàng xóm láng giềng.
Nhà ít người hoặc bận rộn suốt ngày thì tranh thủ ghé chợ hay siêu thị mua về vài ba cặp để ăn dần trong ba ngày Tết. Bánh tét có rất nhiều loại, nào là bánh tét nhân mặn, nhân ngọt và có cả bánh tét chay. Nếu so với bánh tét chay không nhân, chỉ có đậu đen, dừa nạo trộn với nếp hay bánh tét ngọt có nhân làm bằng đậu xanh xào đường hoặc nhân chuối thì đòn bánh tét mặn được chế biến công phu hơn nhiều.
Người ta trải gạo nếp trên lá chuối, rải lớp đỗ xanh lên, rồi mới đặt một miếng thịt mỡ to gần bằng ngón chân cái chạy dài suốt đòn bánh như một sợi bấc, xong cuộn tròn lại, buộc lạt thật chặt rồi đem nấu. Nhiều nhà cầu kỳ còn trộn thêm tôm khô, lạp xưởng, trứng vịt vào gạo nếp để gói bánh hoặc băm nhuyễn lá dứa, vắt lấy nước, trộn vào nếp để bánh có màu xanh và hương thơm dịu.
Khi bóc ra, khoanh bánh tròn trịa nằm gọn trong đĩa, nhân đậu xanh chín vàng ươm, miếng thịt heo đỏ hồng tươm cả mỡ trông rất đẹp mắt. Món này mà ăn kèm với dưa giá, kiệu chua hoặc củ cải ngâm nước mắm thì ngon tuyệt. Trong ba ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị mâm cơm cúng ông bà để tỏ lòng thành kính. Ngoài những món không thể thiếu như tô canh khổ qua nhồi thịt, dĩa thịt kho tàu hay các loại chả giò, lạp xưởng, nem chua… mâm cỗ ngày Tết còn có một con gà luộc sẵn để đãi khách quý. Người Sài Gòn ăn gà không chặt theo miếng mà thích xé phay.
Gà luộc xé miếng trộn với hoa chuối hoặc bắp cải tươi thái mỏng, thêm rau răm, lá chanh cùng một ít gia vị như hành, ớt, tỏi, dấm và chút nước mắm ngon không gì bằng. Còn để mời khách lai rai, chủ nhà lúc nào cũng chuẩn bị sẵn vài ba món nhắm đã được chế biến sẵn như cá cơm kho khô, thịt bò sấy, mực tẩm hoặc tôm khô… khi cần là dọn lên dùng ngay mà đỡ công nấu nướng lích kích.
Sang ngày mồng bốn, muốn cho đỡ ngán vì thịt mỡ, người Sài Gòn thường nấu một nồi cháo cá ám để thay đổi khẩu vị. Nồi cháo đúng hương vị ngày Tết phải được nấu với cá lóc và thịt ba rọi. Khi ăn, chủ nhà vớt cá ra, gỡ lấy nạc cá bày lên đĩa cùng với từng lát thịt ba rọi, ăn chung với rau ghém, cải cú, cần nước, chuối cây xắt mỏng, bông súng non hay đọt vừng… Gắp một đũa vừa thịt vừa cá vừa rau, chấm vào chén nước mắm nhĩ dầm ớt đỏ lừ rồi đưa lên miệng, chưa ăn, chỉ ngửi thôi cũng đã thấy thèm. (Theo SGGP )
Ăn Tết chủ yếu là ngày nào?
Câu hỏi làm cho nhiều người ngạc nhiên, vì ai cũng đã từng ăn nhiều cái Tết. Theo nhà văn Sơn Nam ăn Tết cơ bản vẫn là cúng vái tổ tiên. Không bàn thờ ông bà thì không ra ngày Tết được. Nhiều gia đình nghèo, nhà cửa chật hẹp nhưng vẫn cố gắng tìm cái bàn nhỏ, đặt lên bàn cái chén, cái ly làm nơi cắm hương, thêm vài cái đĩa đựng bánh, đựng trái cây. Nếu cuộc sống gia đình ổn định, họ lo lau chùi lương hương, chân đèn, tranh thờ, hình của người quá cố. Ðể cúng vái, lễ vật tối thiểu là phải có đủ 4 món gọi là “hương đăng hoa quả”, tức phải có nhang, đèn, bông tươi và trái cây (không dùng đồ nhựa). Về thức ăn cần thiết phải có bánh chưng, bánh dày, tưởng nhớ đến vua Hùng mới lập quốc. Ở Nam bộ, bánh tét cũng mang chất lượng tương tự. Phải có chút rượu cúng ông bà, thêm những món chế biến như thịt heo, dưa giá, củ kiệu (không nên cúng bia, cá mòi hộp vì tổ tiên chưa có dịp thưởng thức). Bánh mứt cho trẻ con, trà để tiếp khách.
(ảnh minh họa internet)
Xưa kia, điều đáng lo nhất trong gia đình là may quần áo cho trẻ, trước Tết một tháng là cha mẹ ra chợ mua vải, dẫn con đến thợ nhờ đo may dùm. Nay ngày 30 tháp chạp, chỉ việc ra sạp chợ lựa lúc nào cũng có vì hàng đã may sẵn.
Lễ đưa ông táo về trời ngày nay chỉ còn tượng trưng. Theo truyền thuyết Táo quân về trời có nhiệm vụ báo cáo tình hình làm ăn sinh sống trong gia đình mà mình cư ngụ. Phương tiệnTáo đi là “cò bay, ngựa chạy” một loại giấy hàng mã bày bán ngày 20 Tết ở chợ.
Trọng tâm ngày tết
Ngày 30 (tháng thiếu là ngày 29) là ngày quan trọng diễn ra buổi lễ khá cảm động. Chủ nhà cúng mâm cơm đơn sơ, thỉnh ông bà khuất mặt về với con cháu. Sẽ rất buồn khi ngày này trong gia đình vắng mặt vài người như con phải đi làm ăn xa chưa về kịp, hoặc báo cáo lý do không về, lại nhớ ông bà, cha mẹ lớn tuổi vừa mới mất trong năm. Buổi chiều, rửa hoặc quét nhà cho sạch lần cuối cùng vì ngày hôm sau, mùng 1 kiêng cữ không quét nữa vì cho rằng ngày đầu năm quét nhà không khác gì đưa của cải ra đường. Ðón giao thừa là nghi thức quan trọng, thường cử hành ngoài sân, trên bàn thờ Thông Thiên, dành cho vị quan nhỏ, gọi là Thiên quan (có dán chữ “thiên quan tứ phước”), cúng vái vị quan này ban phước cho gia đình. Nhiều người không biết cho rằng đây là bàn thờ trời. Trời là đấng tối cao, chẳng lẽ thờ trên cái bàn sơ sài quá nhỏ, lại chịu mưa nắng(?)
Cúng giao thừa, chủ nhà phải mặc áo quần tươm tất, tay cầm nén nhang rồi ra giữa sân, hoặc trước cửa cái (nếu nhà không có sân), đến bàn thờ Thông Thiên nhìn trời cao mà khấn, xin trời và đất ban phúc cho gia đình mình, đất nước mình. Ðiều quan trọng là cái tâm của người khấn vái, nếu có lòng thành thì cảm thấy như mình có trách nhiệm với gia đình.Tục hái lộc đêm giao thừa ngày nay vẫn còn. Người đi chùa đầu năm được hái những nhánh, chồi non của cây gọi là lộc. Chữ này đồng âm với tài lộc, nguồn lợi do cơ hội bất ngờ bỗng dưng đưa đến. Ngày nay, chẳng có đình chùa nào có đủ lộc non để cho hàng ngàn người đến hái, nên chùa thường đặt mua lộc ở các chợ hoa (chồi cây phát tài) để sẳn tại bàn trước cửa chùa để khách đến thỉnh, cứ tùy hỷ cúng chút tiền, ít nhiều cũng được. Mấy năm gần đây có người bày ra cây nhang thật to có hình rồng phụng hoặc chữ Hán: Phước Lộc Thọ khách đến cúng chùa mang nhang ấy đến thắp, sau đó lấy cây nhang khác đang cháy trên bàn thờ, rước đưa về nhà xem đó là lửa thiêng sẽ được ấm nhà, ấm cửa.
Trước đây, người ta thường chưng bày bá hoa, bá quả, tức trăm hoa, trăm quả.Thật ra chỉ cần một dĩa trái cây và một bình hoa tượng trưng, tùy theo giàu nghèo mà dĩa trái cây, bình hoa to hay nhỏ. Dân miền Tây thích chưng bày 4 loại trái cây bình dân như mảng cầu đu đủ trái dừa, trái xoài gợi ý cầu vừa đủ xài” đó là cách chơi chữ. Họ không có trái chín tốt thì tìm trái non hoặc lá mà thay thế, có nhà chưng một chùm sung, cầu mong được sung túc.
Trưa mùng 1 có thể xem như hết tết
Sáng mùng l, có thể thức dậy lúc nào tùy ý vì đêm qua đã thức trò chuyện với mọi người trong nhà hoặc xem ti vi đón giao thừa. Sáng nấu nước pha trà chờ đãi khách.Thời xưa, đầu năm kiêng cữ đón tiếp người có tên xấu do quan niệm đó là điềm gở có thể xui cả năm, vì vậy ngày đầu năm ít có người đến nhà bạn bè, chỉ đến nhà bà con thân quyến thăm hỏi chúc Tết. Ðến trưa mùng l có thể xem như hết Tết, tiệm buôn có thể bày ra khai trương bán lấy ngày, quán ăn, rạp hát, nhà xe lại hoạt động mạnh vì là cơ hội kiếm thêm tiền.
Thời xưa, người dân làm việc quanh năm không có ngày nghỉ, ngoài việc ngoài đồng, khi ở nhà còn phải sửa lại nông cụ, vay nợ, đi tìm giống mới thậm chí còn phải đuổi chuột. Quan chức làm việc cho đến khi có lệnh vua mới nghỉ Tết, tức khoảng sau rằm tháng chạp mới lau ấn xếp đặt ngay ngắn trong hộp cất để rồi qua Tết (ngày mùng 7 tháng giêng )hạ nêu mới cử hành lễ khai ấn, bắt đầu giải quyết đơn từ. Những ngày dài trong Tết, chính quyền chỉ giải quyết những vụ quan trọng, ngoài ra hoàn toàn nghỉ việc, kiện cáo đánh lộn trong xóm không được chú ý. Bởi vậy, ngày xưa cha mẹ dạy con ngày Tết ra đường phải cố nhịn đề phòng trộm cắp vì việc xảy ra không ai xử. Ngày nay, làm việc theo dương lịch, tuần nghỉ 2 ngày, vị chi một năm nghỉ hơn trăm ngày chưa nói đến ngày kỷ mệm, tức đã nghỉ hơn 3 tháng!
Do vậy để tiết kiệm thời gian, nghỉ Tết càng ở mức tối thiểu là phải, còn ăn ngon, mặc đẹp thì trong năm thiếu gì dịp tiệc tùng, liên hoan, lễ cưới. Các món ăn ngày Tết đã có quanh năm, nếu có sẵn tiền muốn ăn bao giờ chẳng được! ăn Tết, là dịp để nhìn lại công việc năm cũ, chuẩn bị tinh thần tìm ra sáng kiến để gia đình,đơn vị có kế hoạch mới làm ăn tốt hơn, không được dậm chân tại chỗ. (SN)
Sự tích hoa mai vàng
Ngày xửa… Ngày xưa… Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói:
- Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất.
Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi: - Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không?
- Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:
- Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây!
Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời…
Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo:
- Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!
Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay:
- Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.
Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ… Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo:
- Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.
Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già:
- Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.
Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:
- Cháu thấy con quái có sợ không?
- Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.
Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:
- Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?
Cô gái nhỏ liền đáp:
- Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!
Người cha nói:
- Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.
- Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.
- Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.
Cô gái nhỏ liền thưa:
- Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay.
Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:
- Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?
Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:
- Con rất thích màu vàng!
Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị:
- Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa…
Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:
- Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.
Ông Táo liền hiện ra nói:
- Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về…
Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha:
- Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi.
Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.
Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:
- Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.
- Cha cứ yên tâm.
Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ.
Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:
- Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại…
Ông Táo đá núi liền hứa:
- Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu…
Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay:
- Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.
Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con:
- Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày.
Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi:
- Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được?
- Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.
- Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!
- Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!
- Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!
Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Chị ơi!
Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má.
Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi… Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi… Năm nào cũng thế.
Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong.

Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước.
Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm. (ST)

Một chút tình Xuân ủ má hồng

Áo dài duyên dáng lụa Hà Đông

Ngỡ là hoa nở trên môi thắm

Tưởng ánh sao trời giữa mắt trong

(Thu Hà)






Model: Trang


Sai Gon Skyline
Góp xuân – echip11
Quận 1 Panorama – longtu
Mockieu – Sài Gòn Bên Kia Sông
SG đẹp lắm 1 – còmnhom
Dấu xưa – huyquantic – Đào Sĩ Huy
SG Đẹp Lắm – maycatang
Góc chụp: Q.Thủ Thiêm, gần bến phà, thời gian chụp: 18h15
Tòa nhà VINCOM CENTER (sân thượng) nhìn về phía Nam, thời gian chụp: 18:04
Tòa nhà BFT (tầng 45) nhìn về phía Tây Nam, thời gian chụp: 18:30
Cầu Thủ Thiêm nhìn về Tây Nam, thời gian chụp: 18:08
Chân tháp BFT, thời gian chụp: 17:41
Tầng 13 Diamond Plz, chụp tòa nhà sailing Tower, thời gian chụp: 17:41
Trên cầu Thủ Thiêm

Một số địa điểm vui chơi, chụp ảnh đẹp ở Sài Gòn như khu du lịch Bình Quới, khu du lịch Nam Phương, khu du lịch Cần Giờ, công viên Đầm Sen, Khu du lịch Suối Tiên,…
Một số địa điểm khác:
1.Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 65 Lý Tự Trọng, Quận 1, TP.HCM
2.Nhà Thờ Đức Bà
Địa chỉ: Quảng trường Công xã Paris, Quận 1,TP.HCM
3.Thảo Cầm Viên
Địa chỉ: 2B Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1,TP.HCM
4.Công viên văn hoá Ðầm Sen
Địa chỉ: Số 3 đường Hòa Bình,Quận 11,TP.HCM
5.Khu du lịch Suối Tiên
Địa chỉ: Xa lộ Hà Nội, Ấp Tân Nhơn, Phường Tân Phú, Quận 9,TP.HCM
6.Khu du lịch Kỳ Hoà
Ðịa chỉ: 12 Đường 3/2, Quận 10,TP.HCM
7.Khu du lịch Văn Thánh
Địa chỉ: 48/10 Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh,TP.HCM
8.Khu du lịch Suối Mơ
Địa chỉ: Phường Long Bình, Quận 9 ,TP.HCM
9.Khu du lịch Văn hoá các dân tộc thiểu số Củ Chi
Địa chỉ: Xã Nhuận Đức, Huyện Củ Chi,TP.HCM
10.Khu du lịch Bình Quới 1
Địa chỉ: 1147, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Q.Bình Thạnh, TP HCM
11.Khu du lịch Bình Quới 2
Địa chỉ : Cuối đường Bình Quới, P. 28, Bình Thạnh, TP. HCM
12.Khu đô thị Phú Mỹ Hưng: nằm dọc đại lộ Nguyễn Văn Linh , quận 7, TP.HCM với những địa điểm nổi tiếng là đẹp và có nhiều người tới chụp ảnh. Bạn và gia đình sẽ có những bức hình kỉ niệm thật đẹp, rất thiên nhiên nữa đấy. Đặc biệt cảnh ở đây rộng và xanh nên bạn có khung hình rất thoáng và các mẫu nhí nhà mình tha hồ làm dáng nữa.
Những địa điểm đáng tới của Phú Mỹ Hưng là: Cầu Ông lớn, Khu cỏ lau Trung Sơn , công viên ở Nam Sài Gòn, đồi cỏ thấp và con đường Hàn Quốc. Các địa điểm này rất nổi tiếng nên đến đây bạn chỉ hỏi thăm là ai cũng biết và chỉ tận tình cho bạn .
Đặc biệt Cầu Ánh Sao vừa mới khai trương gần đây, thu hút rất nhiều bạn trẻ dạo chơi mỗi cuối tuần, nhất là buổi tối.











Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, từ thời khai hoang lập ấp những cư dân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ đã biết gói bánh tét bằng gạo lúa nổi để cúng tạ ơn trời đất, tạ ơn ông bà tổ tiên.
Ngày nay, mặc dù thị trường bánh mứt Tết phong phú nhưng đối với người dân vùng đất phương Nam đòn bánh tét là thứ không thể thiếu được trong những ngày Tết cổ truyền. Với người dân Nam Bộ, bánh tét tượng trưng cho sự ấm no từ đời này qua đời khác.
Bánh tét vốn khá quen thuộc với người dân miền Nam, thế nhưng cách làm bánh tét thì không phải nơi nào cũng giống nhau. Nếu ở Sài Gòn bánh tét chỉ thuần túy dùng gạo nếp và đậu xanh thì xuống đến miền Tây bánh tét trở nên “đa sắc” hơn với bánh tét ngũ sắc, bánh tét lá dứa, bánh tét gấc, ra đảo Phú Quốc thì có bánh tét mật cật… Và góp phần vào sự phong phú đa dạng của bánh tét miền đất Nam bộ, người Cần Thơ có một loại bánh tét rất nổi tiếng là bánh tét lá cẩm.
Bánh tét lá cẩm là một loại bánh vừa thơm ngon vừa thẩm mỹ, đặc biệt dành riêng cho các ngày lễ hội quan trọng. Những người dân trong nước hay những du khách Việt kiều, họ thích ăn bánh tét Nam Bộ có lẽ vì một điều đơn giản là “tự nhiên, vừa ăn”. Có nhiều nhận xét rất chân tình của một vài người thích ăn bánh tét Nam Bộ “bánh tét của họ ngon ở miếng đầu thôi còn bánh tét của Nam Bộ “vừa ăn” từ da bánh đến nhưn bánh nên có thể ăn lai rai “từ hăm đến ra mùng” hết rồi vẫn thấy thèm hoài!”
Muốn có một đòn bánh tét lá cẩm ngon, người gói bánh phải mất nhiều giai đoạn công phu: “Trước hết, phải chọn được loại nếp mù u dẻo tròn, lá cẩm hái về rửa sạch rồi nấu lấy nước. Trước khi gói, nếp phải vo sạch, để ráo, sau đó đem xào với nước cốt dừa, dằn thêm tí muối, sau đó tiếp tục xào nếp với nước lá cẩm. Nhưn dành cho loại bánh tét lá cẩm này cũng hết sức phong phú, có thể là nhưn chuối, nhưn đậu xanh, nhưn thịt, nhưn mỡ, giò heo bắc thảo, trứng, đậu phộng, nắm đông cô… Phần nhưn luôn tùy theo yêu cầu của khách mà mình làm. Cũng có cả bánh tét nhưn chay!”
Thông thường phải mất từ 4-5 tiếng để nấu một nồi bánh tét, muốn bánh tét “ăn lâu” khi gói phải buộc thật chặt. Khi bánh chín, cắt ra một khoanh sẽ thấy sự phối màu thật đẹp mắt: bên trong khoanh bánh màu tím thẫm là một chút màu vàng của đậu, màu trắng của mỡ, màu hồng của thịt nạc, màu đỏ cam của tròng đỏ trứng vịt muối. Trung bình một đòn bánh tét lá cẩm có thể để trong năm ngày đến một tuần, nếu muốn để lâu hơn thì phải cất vào ngăn đá tủ lạnh, khi ăn đem ra “hấp lại” bánh tét vẫn ngon như mới nấu.
Bánh tét lá cẩm không chỉ dùng để đãi khách những ngày đầu năm đậm đà hương vị quê hương mà có thể mang tặng những người thân quen một cặp bánh tét lá cẩm có màu tím thủy chung với ý chúc một năm mới tràn đầy hạnh phúc và thịnh vượng.
Bánh Tét rất nhiều cách làm, tùy theo miền, nếu làm bánh mặn thì có nhân đậu xanh, thịt mỡ. Nếu làm bánh ngọt thì có chuối xiêm, nước dừa, và đậu trắng.

Nguyên liệu:
Phần vỏ bánh:

  • 2 kg nếp dẻo (không lộn gạo)
  • 800 gr dừa khô
  • 2 muỗng cafê muối
  • 3 xấp lá chuối hột
  • 1 bó dây lạt
  • 1 bó lá cẩm
Phần nhân bánh:
  • 600gr đậu xanh cà
  • 200gr mỡ thịt
  • 5 tép hành lá
  • 5 muỗng cafê mỡ nước
  • ½ muỗng cafê muối

1/ Nhân bánh:

- Dừa khô vắt lấy 2 chén nước cots và 4 chén nước giảo.
- Đậu xanh ngâm nở, đãi vỏ, nấu chín với nước giảo dừa, rồi đánh cho nhuyễn.
- Hành lá xắt nhuyễn.
- Mỡ thịt trần qua nước sôi, xắt sợi dài 10cm, vuông 1cm
- Bắt chảo lên bếp, chế vào 5 muỗng mỡ nước, mỡ vừa nóng cho hành lá vào, tiếp đến cho đậu xanh, muối vào, tất cả trộn đều khoảng 5 phút, nhắc xuống chia làm 30 phần

Nắn 1 phần đậu xanh mỏng ra cho sợi mỡ vào giữa bao kín mỡ

Cánh thực hiện:

2/ Xào nếp:
- Lá cẩm nhặt lấy lá, rửa sạch, cho 2 chén nước lã vào, bắc lên bếp nấu đến khi còn khoảng 1 chén, lọc lấy nước lá cẩm, bỏ xác lá.
- Bắc chảo lên bếp, chế vào 1 chén nước lá cẩm và 2 chén nước cốt dừa nấu cạn bớt 1/3, còn lại khoảng 2 chén, cho nếp và 1,5 muỗng muối vào xào đến khi nếp ráo hơi có nhựa, nhắc xuống, chia làm 30 phần bằng số lượng nhân

3/ Gói bánh:
- Lá chuối xé hình vuông 25cm, lá bọc ngoài.
- Lá nhỏ khoảng 15cm đặt phía trong.
- Lá bịt đầu cắt ngang 5cm, chiều dài 15cm.
- Tất cả đem phơi héo hoặc trụng qua nước sôi, lau sạch cắt bớt sống lá.
- Trải lá ngoài, lá phía trong đặt mặt phải đặt ngược chiều với lá ngoài.
- Cho nếp vào, dàn mỏng ra đều 4 cạnh, sau đó đặt nhân vào giữa


Gấp 2 mí lá ngoài lại với nhau, cuốn tròn, dùng dây lạt cột ở giữa

Tiếp đến bẻ 1đầu lá dằn xuống cho dẽ nếp, dùng kéo cắt bớt lá dư. Gấp đầu lá thành hình vuông, đặt hai miếng lá bịt đầu chéo nhau

Dùng dây lạt buộc lại cho chặt, đầu còn lại làm tương tự

Tiếp tục dùng dây lạt buộc giống đầu đòn bánh – tức buộc 2 đầu chéo nhau theo chiều dọc đòn bánh để giữ cho lá 2 đầu không bung ra

Dùng dây lạt buộc từ 6 đến 8 vòng ngang hay còn gọi là nứt bánh

Phần dây nứt bánh còn thừa xoắn cho dây cuộn lại

4/ Nấu bánh: Bắt nước thật sôi, xếp bánh vào hấp, đun lửa sôi liên tục, không đứt quãng. Đun khoảng 5 giờ cho bánh chín.

5/ Yêu cầu thành phẩm:


- Bánh gói đều tay, nếp dẽ chặt, nhân phải ngay giữa
- Bánh có vị béo, mặn, ngọt vừa ăn .
Dạo phố phường Sài Gòn bạn bỗng cảm thấy khát khô cổ họng. Đừng lo, có rất nhiều thức uống “ngon, bổ, rẻ, mát” đang chờ bạn.
Xứ sở nhiệt đới này có vô vàn những loại trái cây giải khát khiến con người và cả tâm hồn bạn dịu mát trước cái nắng oi ả của phố phường.
Quán giải khát vỉa hè đặc trưng của người Sài Gòn
Quán nước vỉa hè không chỉ đơn thuần là giải khát mà còn là nơi người ta tìm đến để chuyện trò vui vẻ, không bị cái không gian chi phối như ngồi trong nhà hàng, người ta cứ thế tự nhiên với nhau, bao nhiêu vui buồn cuộc sống cũng theo tiếng xe ngoài phố trôi tuột đi.
Hầu như quán nước vỉa hè nào đã bán nước sâm rồi thì chắc chắn sẽ bán kèm nước rau đắng và Atiso, 3 món giải khát này giống như bạn đồng hành không thể thiếu của một quán nước giải nhiệt. Dường như trên đường phố Sài Gòn, đâu đâu cũng có thể bắt gặp những xe nước như thế này.
Mà nước sâm, rau đắng cũng ít khi đặt chân vào các quán nước sang trọng. Người ta vẫn là thích dừng lại bên đường, uống một cốc nước giải nhiệt tức thì, cho mình vài phút thảnh thơi ngắn ngủi xua đi mệt nhọc của công việc và thời tiết rồi lại phút chốc hòa vào dòng người hối hả.
1. Thơm mát nước dừa
Nước dừa Sài Gòn được bán phổ biến trên những chiếc xe rong ruổi đường dài, hoặc nơi góc đường, quán vắng…Muốn uống nước dừa, chỉ cần chịu khó chờ chốc lát, bạn cũng có thể thấy xe nước dừa đẩy ngang qua nhà. Tuy nhiên, chỉ uống nước dừa trong quả thôi mà bỏ đi phần cơm dừa xem như đã bỏ phí mất một món ngon. Bởi vậy, nhiều người Sài Gòn thích uống nước dừa pha sẵn, có cơm dừa hòa trong ly nước dừa mát lạnh.

Sài Gòn có 1 góc đường chuyên bán nước dừa pha sẵn này. Chỉ là 1 đoạn nhỏ cuối đường Pastuer đã có đến 5,6 xe nước dừa pha. Đây là con đường nước dừa nổi tiếng nhất Sài Gòn.
Hàng nước dừa chỉ là 1 xe bán nước lưu động đứng sát mặt đường, phía trong vỉa hè để nhiều chiếc ghế con con cho khách ngồi. Vỉa hè ở góc đường này tương đối rộng và thoáng mát, rất thích hợp để ngồi ngắm cảnh dòng xe hối hả. Dù là giữa trưa hay chiều muộn đều tấp nập khách đến đi. Mặt hàng bán chạy nhất ở đây là dừa tắc (dừa pha với nước quất) và dừa thơm (dừa trộn mứt thơm). Cả hai loại đều có 1 điểm chung là ngọt lịm và mát lạnh. Giá một ly nước dừa rất rẻ, chỉ 5.000 đồng là có thể có một ly lớn đầy cơm dừa.
Dừa tắc là ly nước dừa pha sẵn, bỏ thêm một muỗng mứt tắc ngọt lịm. Vị ngọt của mứt tan trong vị ngọt thanh của nước dừa lại dậy lên mùi thơm của vỏ tắc thanh tao. Dừa thơm cũng giống như dừa tắc, chỉ là một muỗng mứt thơm ngọt đến gắt cổ dung hòa với vị ngọt của nước dừa lại thành một mỹ vị vừa miệng.

Việc pha chế hai món này tương đối đơn giản, lấy nước dừa nguyên chất trong trái dừa trộn lẫn với cơm dừa thái nhỏ rồi bỏ đá viên vào là có ngay 1 món giải khát dân dã. Chủ hàng không đợi khách đến mới pha từng ly mà pha chung trong một bình lớn, giữ lạnh. Vì vậy bất cứ lúc nào khách đến cũng luôn có sẵn 1 ly nước dừa mát lạnh.
Uống ly nước dừa, nghe cái mát lạnh chảy tràn trong khoang miệng, chảy cả vào lòng xua đi cơn nóng của Sài Gòn khói bụi.
2. Khỏe khoắn nước sâm
Nếu như nước dừa với vị thơm của trái tắc, bùi bùi của miếng cùi non làm ta cảm thấy no bụng, thì nước sâm là một thứ “tăng lực” vừa rẻ, vừa bổ.

Nước sâm bán ven đường được nấu từ thành phần chính là mía lau, rau bắp, rễ tranh, hoàn toàn không có nhân sâm như tên gọi của loại thức uống này.
Mía lau có tác dụng thanh nhiệt, làm cho hết khát. Rễ tranh và râu bắp có tính lợi tiểu, dùng hỗ trợ mía lau để thanh nhiệt, đồng thời đẩy nhiệt ra khỏi cơ thể qua đường tiểu tiện. Đi xe trên đường vào giữa trưa nắng nóng, ghé uống 1 ly “sâm lạnh” thấy sảng khoái tươi tỉnh hẳn ra.
3. Thanh mát Atiso
Bên canh nước dừa, nước sâm, nước atiso cũng là một trong những món giải khát ưa chuộng của người Sài Gòn.
Atiso là một loại nước nước giải khát tiêu nhiệt rất tốt. Atiso có tính đắng, hậu hơi ngọt, rễ và bông atiso có giá trị dinh dưỡng cao.
Thông thường những quán vỉa hè dung rễ atiso để nấu nên giá thành rất rẻ, chỉ 5.000đ đã có một ly Atiso mát lạnh uống ngay hoặc mang đi.
4. Tốt như nước đắng
Đúng như tên gọi của loại thức uống, nước đắng rất đắng. Nhưng cái đắng ở đây rất có lợi cho sức khỏe mà lại chẳng đắt tiền. Uống nước đắng không phải dễ dàng cho những ai chỉ hảo ngọt, nhưng khi đã uống được rồi thì lại đâm ghiền, bởi tác dụng thanh nhiệt và giải độc, mát gan của nó.
Cầm ly nước đắng đen nâu sóng sánh như màu thuốc bắc, người mới tập tành le lưỡi nhắm mắt uống một hơi, chưa kịp nhận biết gì trong đấy đã được người bán đưa ngay cho ly nước sâm uống cái ực, để trung hoà vị giác. Người đã xem nước đắng là món khoái khẩu thì nhấm nháp từ từ nhưng vẫn uống ly nước sâm sau đó. Nếu không thể nếm được vị đắng nào thì nên gọi một ly nước pha gồm một ít nước đắng pha nhiều nước sâm, uống cũng rất ngon và mát.

5. Thơm mát nước mía
Sẽ thật là thiếu sót nếu không liệt kê nước mía vào danh sách những món giải khát vỉa hè ở Sài Gòn. Một ly nước mía ép nguyên chất thơm thơm mùi tắc lại nhẫn nhẫn vị đắng của vỏ tắc hòa tan trong cái lạnh của đá viên thật là một món giải khát tuyệt vời.
Từ các bạn trẻ tuổi teen đến người trưởng thành đi làm đều cùng ngay bên một chiếc bàn nhỏ, dưới tàn cây lộng gió mà rôm rả những câu chuyện trong ngày.
Thật khó để có thể đưa ra kết luận là hàng nước giải khát nào là ngon nhất ở Sài Gòn, chỉ xin mách bạn hai địa chỉ nước sâm, rau đắng, atiso được nhiều người ưa chuộng nằm ở góc đường Đinh Tiên Hoàng giao với Điện Biên Phủ, Q.3. Hai cửa hàng nước giải khát này mở ra đã hơn mười năm, mỗi ngày đều mở cửa đều đặn từ sáng đến đêm và luôn luôn có những cô áo vàng, áo cam phục vụ nhiệt tình, thân thiện. Khách đến đây có thể ngồi uống trên vỉa hè hoặc là đứng uống ngay bên cạnh đường.
Dù biết là có gây cản trở giao thông chút ít, nhưng du khách vẫn không thể cưỡng lại vị ngọt mát của 3 loại nước thanh nhiệt này.
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1 sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.

Nội ô Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao, nghe cũng vui tai:
Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ: Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi trên đường Cách mạng Tháng Tám nối liền đường Trường-Chinh lên Tây Ninh, vọt thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay: Giếng Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng Cầu Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch Bà Bướm có tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà Tàng, Bà Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp… cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.

Chiếc cầu Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa.
Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
Bà Ký là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu… Chắc là còn nhiều “bà” nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
Ở Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường 100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 – 1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác. Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe chừng chuyện này không thuyết phục mấy.

Hai là Ông Thượng.
Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ 19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát bội.
Ba là Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là giồng)có lẽ là của ông chăng?
Bốn là Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ (còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến các hàng thịt chó nằm trên đường Cách mạng Tháng Tám treo lủng lẳng cả chục con thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là Lăng Ông (dân thường gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Lăng Ông là di tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện. Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch, cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè, rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu. Có cầu Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông Thìn, cầu Ông Tiều…Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến ba cây số.
Quả tình, gắn với tên ông thì còn nhiều lắm, nhưng xin tạm dừng ở đây.
Nguyễn Trí Đức
Thủ Dầu Một là thị xã tỉnh Bình Dương, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 20 km về phía bắc. Trước 1975, thị xã thuộc quận Châu Thành. Hiện thị xã Thủ Dầu Một là thị xã có số dân đông nhất và phát triển nhất Việt Nam.

Nguồn gốc tên gọi
Có hai giả thuyết:
1. Trong thế kỷ 17-18, vùng Bình Dương-Lái Thiêu là nơi định cư của nhiều dân triều Minh chạy trốn triều Thanh, phần đông làm nghề gốm, ít học vấn. Họ gọi vùng đất nầy là Thụ Dầu Mục hoặc Thú Dầu Mục, vì vùng này có mọc nhiều cây có tên địa phương là Thù du mộc (茱萸木). Dân Bình Dương gọi hai loài thực vật, một cây ngắn ngày là bụp giấm (Hibiscuss abdarffa) và cây thầu dầu (Ricinus communis) bằng cùng một tên là cây Thù du. Đây là nguyên nhân có từ Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương.
2. Có giải thích khác là nơi có cây Dầu Một, là “cây dầu đứng một mình ở đầu con đường”. Không hợp cách đặt tên của miền Nam. Trường hợp này sẽ gọi là: ngã ba, ngã tư Cây Dầu, nếu có đất gò thì gọi Gò Dầu.

Địa lý, dân số

  • Thị xã nằm bên tả ngạn sông Sài Gòn. Phía Đông giáp các huyện Tân Uyên và Thuận An, phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh, Nam giáp huyện Thuận An, Bắc giáp huyện Bến Cát và Tân Uyên.
  • Diện tích: 118,812 km²
  • Dân số: 211.068 người (8/2009)

Kinh tế

Có địa hình đồng bằng thích hợp với việc trồng lúa, cây ăn quả, mía, sắn; chăn nuôi các loại gia súc như lợn, .
Thủ Dầu Một nguyên cũng nổi tiếng sản xuất hàng sơn mài gốm sứ, mây tre đan.
Ngoài ra: cơ khí lắp ráp, vật liệu xây dựng, hóa chất, cơ điện, may mặc, sản xuất đường mía, chế biến thực phẩm;
Khu liên hợp công nghiệp, dịch vụ, đô thị 4.200 ha đang được xây dựng.

Hành chính

Thủ Dầu Một gồm 14 đơn vị hành chính, đó là các phường (Phú Cường, Hiệp Thành, Chánh Nghĩa, Phú Thọ, Phú Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Định Hòa, Hiệp An, Hòa Phú, Phú Tân) và 3 xã (Tân An, Chánh Mỹ, Tương Bình Hiệp). Thị xã này đang có đề án nâng cấp lên thành phố.

Di tích và danh thắng

  • Chùa bà Thiên Hậu, hội vào rằm tháng riêng âm lịch
  • Khu Đại Nam thế giới du lịch
  • Chợ Thủ Dầu Một
  • Chùa Hội Khánh
  • Chùa Ông
  • Làng sơn mài Tương Bình Hiệp
  • Làng nghề gốm sứ
  • Nhà tù Phú Lợi
  • Nhà cổ tại chợ Thủ Dầu Một

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Đêm rằm mười sáu trăng treo
    Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu (Ca dao)
    Năm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.
    Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
    Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!
    Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
    Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.
    Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
    Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!
    Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
    Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?
    Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
    Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
    Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
    Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
    Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
    Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
    Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
    Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.
    Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
    Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.
    Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
    Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.
    ***
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trái. Lái Thiêu xưa là nơi hò hẹn của người Sài Gòn. Lái Thiêu là nơi người Sài Gòn cuối tuần đi đổi gió.
    Lái Thiêu giờ đây ngày nào cũng phải đón khách, và đang chịu sự hủy hoại môi trường!
    Lái Thiêu của người Sài Gòn xưa giờ đây phải chăng chỉ còn là kỹ niệm để nhớ để thương? Tiếc thay!
    Tác giả: Nam Sơn Trần Văn Chi

    Lái Thiêu với người Sài Gòn xưa

    Đêm rằm mười sáu trăng treo
    Anh đóng giường lèo, cưới vợ Lái Thiêu (Ca dao)
    Năm xưa, có bao chàng trai người Minh Hương bỏ tiền ra mua cho được chiếc giường lèo (giường bằng gổ, có chạm trỗ) với ước mong cưới được những cô con gái Việt hương sắc ở Lái Thiêu ? Không ai biết. Có điều tôi biết chắc là người Sài Gòn xưa mong cuối tuần đi Lái Thiêu đổi gió và ăn trái cây, nhứt là cứ độ từ tháng 5 đến tháng 8, là mùa trái cây ở Lái Thiêu chín rộ.
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Đất Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung Phần với đồng bằng sông Cửu Long nên thế đất bằng phẳng hơi dốc, có độ cao trung bình 20-25m so với mặt biển, rất thích hợp với các loại cây công nghiệp và cây ăn trái. Và Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trải rộng trên diện tích 1,250 ha.
    Thuở trước, Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Đến tháng 12 năm 1899 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Đến tháng 10 năm 1956 tỉnh Bình Dương được thành lập, bao gồm tỉnh Thủ Dầu Một và một phần tỉnh Bình Long, có 5 quận, tỉnh lỵ là Phú Cường. Người Bình Dương trong lịch sử của mình đã làm nên di sản văn hóa miệt vườn “đặc trưng miền Đông” và làng nghề truyền thống điêu khắc gỗ, đồ gốm và tranh sơn mài, tiếng tăm vang lừng cả nước cho tới ngày nay.
    Lái Thiêu cách Sài Gòn khoảng 20 km, thuở xưa là nơi nghỉ cuối tuần tuyệt diệu “dành riêng” cho người Sài Gòn. Lái Thiêu còn nổi tiếng là điểm hò hẹn của các lứa tuổi… Lái Thiệu tuyệt vời như thế nhưng hồi đó đâu phải người Sài Gòn nào cũng biết thưởng thức Lái Thiêu đâu!
    Qua khỏi cầu Bình Triệu, theo Quốc lộ 13 đi khoảng 20 phút chúng ta sẽ đi vào Lái Thiêu, một vùng đất vườn cây xanh tốt, mát lạnh (trung bình 26 độ, mùa tết 24 độ C), không khí trong lành. Vào trong làng, sâu vào là những nhà vườn, nơi đây có sông có rạch đưa nước len lỏi vào từng góc vườn, có những con đường đất đỏ quanh co theo các lùm cây rợp bóng trái trĩu trên đầu…
    Người Sài Gòn đến Lái Thiêu một phần vì tiếng đồn “Sầu riêng Lái Thiêu”.
    Quả không sai! Nói đến Lái Thiêu không thể không nhắc cái tên “Sầu riêng Lái Thiêu”. Trái sầu riêng ở đây được liệt vào hàng ngon, bổ nhứt và đắt giá nhứt. Sầu riêng trồng được ở Lục Tỉnh nhưng trái không ngon bằng sầu riêng trồng ở Lái Thiêu.
    Người Pháp gọi trái sầu riêng là Durian, hay Durion. Người Việt mình gọi là sầu riêng, và phải chăng tiếng “sầu riêng” do ta đọc trại từ tiếng “Djoerian” của người Malaysia mà ra chăng? Trái sầu riêng không giống trái mít như có người lầm tưởng!
    Cây sầu riêng có tên khoa học là Durio Zibethinus, hay Durio Capparis thuộc họ thảo mộc Malvacées hay Bombacacerae, cùng họ với cây gòn- gạo, cây bông vải. Bổ tách trái sầu riêng ra, bên trong có nhiều múi như trái gòn, trái bông vải.
    Cây sầu riêng nguyên thủy mọc ở rừng Malaysia, người ở đây gọi là cây Djoerian. Người Tàu sang Malaysia buôn bán, họ mang hột về trồng tại Ấn Độ, Thái Lan, Cambodia. Đến khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, có một số cố đạo truyền giáo Gia Tô theo vô xứ Lái Thiêu, và những nhà truyền giáo nầy đã mang nhiều giống cây trái lạ từ các xứ khác vào đây, trong đó có cây sầu riêng.Người Lái Thiêu kể lại, vào năm 1890 có cố đạo người Pháp tên là Cernot đem hột sầu riêng từ xứ Nam Dương về trồng ở họ đạo Tân Quy. Có lẽ đây là cây sầu riêng đầu tiên của Lái Thiêu?
    Cây sầu riêng cao lớn tới 20m. Lá hình bầu hơi dài, hoa mọc ở nhánh, trái to, vỏ có gai rất nhọn. Trái cho nhiều múi, mỗi múi có từ 1 đến 5 hột như hột mít. Hột có bao bọc một lớp cơm mềm, màu trắng vàng óng như màu mỡ gà, giống như múi mít mật, mít ráo.
    Sầu riêng chín có mùi rất đặc biệt, gọi là mùi sầu riêng. Mùi xuất phát từ lớp cơm sầu riêng, bay xuyên qua vỏ tỏa ra ngoài. Mùi sầu riêng mạnh hơn mùi mít, người thích thì khen là thơm, ai không ưa thì cho là mùi “khó chịu”. Nói gì thì nói là hễ đã “chịu ăn” sầu riêng rồi thì thấy nó ngon-bùi-béo-thơm và ghiền luôn …
    Cây sầu riêng trổ bông ba đợt trong một năm, cho 60 đến 90 trái. Từ khi trổ bông đến khi trái đậu là 20 đến 25 ngày, và từ ngày trổ bông đến ngày kết trái và chín là 5 tháng. Mùa sầu riêng từ tháng 5 đến tháng 9 dương lịch. Sầu riêng khi “chín mùi” thì tự nhiên ban đêm rụng xuống gốc. Chủ vườn không ai để trái chín mùi cả, mà cắt sầu riêng trước khi chín, nhiều khi trái đem đi bán hãy còn xanh là vậy.
    Mua sầu riêng phải là “người chuyên môn” mới biết trái sầu riêng nào ngon. Sầu riêng chín già bao giờ cũng ngon hơn trái non đem “dú ép” cho chín giả. Trái già nhìn vỏ có màu vàng đậm, gai nở cách xa nhau, gay to và đều. Trái vỏ còn xanh thì phần nhiều ruột chưa chín hết, cơm mỏng và không mềm. Cho nên khi mua,có người đòi người bán khoét một lỗ – gọi là thử: coi màu sắc, coi cơm cứng hay mềm, nếm ngọt lạt … Vây mà nhiều lúc vẫn bị lầm!
    Có người cho rằng sầu riêng ăn rất bổ, giúp nhuận tràng, ăn vô thấy hết mệt nhọc.Những người mà da khô hay nứt nẻ, có gai, nhất là phụ nữ, ăn nhiều sầu riêng sẽ làm cho da nhẵn mịn. Ngày xưa phụ nữ ở Malaysia thường lấy cơm của trái sầu riêng và mỡ của trái bơ làm thuốc xoa bóp cho da trở nên mịn, đẹp, chắc và bóng mịn.
    Măng cụt Lái Thiêu cũng là trái cây níu kéo người Sài Gòn.
    Măng cụt loại trái cây được xem là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới, trái có hình dáng đẹp dễ thương và chứa nhiều chất bổ dưỡng. Trái măng cụt chín có màu tím sẫm nhìn bắt mắt, bổ ra bên trong màu trắng tinh gợi cảm, hương thơm dịu mát quyến rủ, và bạn có thể ăn no mà không sợ đầy bụng.
    Măng cụt Lái Thiêu trồng theo kỷ thuật cách 6-7m/cây theo hình vuông, tàn cây không được giáp nhau nên phải tỉa cành sau mỗi vụ thu hoạch. Măng cụt được trồng từ hột cũng có đặc tính giống như cây mẹ, độ 8 – 10 tuổi mới cho trái. Cây măng cụt trổ bông thay lá vào tháng 2, tháng 3. Mùa trái chín từ tháng 5 đến tháng 7.
    Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì măng cụt (Garania Mangostana Linn) là 1 trong 10 “siêu trái cây”, vì măng cụt là sự kết hợp hoàn hảo về nhiều mặt như:hương vị thơm ngon đặc sắc, hình dáng và màu sắc đẹp mắt, giàu dưỡng chất, có khả năng chống oxy hóa và giúp cơ thể chống lại được nhiều bệnh tật. Vỏ măng cụt được xắt lát, sấy khô, rồi nghiền thành bột trị bệnh kiết lỵ.
    Măng cụt không chỉ có ở Lái Thiêu miền Đông, mà còn được trồng vùng Lục Tỉnh như Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, và trong đó Bến Tre măng cụt trồng xen trong vườn dừa lão. Hiện nay toàn tỉnh Bến Tre có khoảng 4,500 ha đất trồng măng cụt, chiếm 77% diện tích cả nước vì ở Bến Tre cây măng cụt phát triển rất tốt.
    Giai thoại kể rằng vào đầu thế kỷ 17, Lái Thiêu bấy giờ còn là một vùng đất hoang với bạt ngàn rừng rậm. Trong số những người Minh Hương đầu tiên đến lập nghiệp ở Lái Thiêu, có gia đình của một người đàn ông họ Lục làm nghề gốm. Con trai của ông là Lục Thành Tài đã đem lòng yêu một cô gái người Việt, nhà ở bên kia sông Rạch Tra. Hàng ngày, cô gái thường chèo ghe, chở mắm, khô đến bán cho lò gốm.Gia đình hai bên biết được, đều ngăn cấm nhưng hai người vẫn quyết tâm tìm đến nhau. Cuối cùng, mối tình của họ đã phải kết thúc bằng hai cái chết bi thương.Sau đó, trên mộ hai người mọc lên một loài cây lạ, trái của nó có vỏ ngoài xù xì, gai góc nhưng bên trong thì thơm ngon đến lạ lùng. Người dân địa phương đã đặt tên cây là sầu riêng để tưởng nhớ tới mối tình chung thuỷ của đôi trai gái và Lái Thiêu cũng nổi danh về trái cây từ đó.
    Cây sầu riêng cao trên 20m, trái nặng từ 2 – 5kg, khi chín tự rụng xuống. Điều kỳ lạ là trái sầu riêng chỉ rụng vào ban đêm nên không hề có trường hợp rơi vào đầu người. Người cho đó là do sự linh nghiệm của chàng trai Minh Hương và cô gái Lái Thiêu.
    ***
    Đất Bình Dương – Thủ Dầu Một ra đời cùng lúc với lịch sử hình thành Sài Gòn – Đồng Nai, thuở Nguyễn Hữu Cảnh “mang gươm đi mở cõi”. Lái Thiêu là một trong 5 quận thuộc tỉnh Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây trái. Lái Thiêu xưa là nơi hò hẹn của người Sài Gòn. Lái Thiêu là nơi người Sài Gòn cuối tuần đi đổi gió.
    Lái Thiêu giờ đây ngày nào cũng phải đón khách, và đang chịu sự hủy hoại môi trường!
    Lái Thiêu của người Sài Gòn xưa giờ đây phải chăng chỉ còn là kỹ niệm để nhớ để thương? Tiếc thay!
    Tác giả: Nam Sơn Trần Văn Chi










1 comment: