Trong tương lai không xa, sự thay đổi khí hậu sẽ gây ra tác động khác nhau ở từng nước, từng khu vực. Khí hậu sẽ trở nên ấm áp ở những vùng gần Bắc cực như Siberia và Alaska, trong khi tại các nước Bắc Phi và ven đường xích đạo, khí hậu lại nóng nực đến mức khó ai có thể sống nổi.Năm 1992, Liên Hiệp Quốc đã soạn thảo hiệp định khung về thay đổi khí hậu, tạo nền tảng cho sự ra đời của Nghị định thư Kyoto năm 1997. Nghị định thư Kyoto chỉ yêu cầu các nước đã phát triển giảm lượng khí thải theo những chỉ tiêu ấn định. Mỹ và Úc đã vin vào đó để quyết định không phê chuẩn nghị định thư. Cho tới nay, các nước vẫn chưa thể nhất trí một văn bản khác phù hợp thay thế Nghị định thư Kyoto sẽ hết hạn vào năm 2012.
Riêng VN, tôi hy vọng các nhà lãnh đạo & khoa học cần quan tâm đúng mức tầm quan trọng của vấn đề thay đổi khí hậu, phải nghiên cứu và sớm đưa ra các biện pháp cần thiết để đối phó; đồng thời giáo dục người dân VN ý thức được cách đối phó hiệu quả hơn vấn đề thay đổi khí hậu. Nhiều nhà khoa học đã cảnh báo đồng bằng sông Mékong của VN sẽ bị biến mất nếu nước biển tiếp tục dâng cao - đây không phải là nói đùa ! VN sẽ làm gì với vấn đề thay đổi khí hậu?
Thay đổi khí hậu đe doạ nguồn cung cấp nước của hàng triệu người ở các nước nghèo, một nghiên cứu của Tearfund cảnh báo.
Những khu vực mà hiện mọi người đã phải di chuyển chỗ ở để tránh những thay đổi khí hậu quá mức, đó là:
Brazil, nơi 1/5 số người sinh ra ở khu vực đông bắc khô cằn phải dời nơi ở để tránh hạn hán.
Trung Quốc, nơi ba tỉnh đang chứng kiến sự lan rộng của sa mạc Gobi.
Nigeria, khoảng 2.000 km vuông trở thành sa mạc mỗi năm.
Một trong những nhà khoa học khí hậu hàng đầu của Anh, Sir John Houghton, nói mức độ trầm trọng của thay đổi khí hậu mới chỉ tới tai các nhà lãnh đạo thế giới ở “mức độ cường điệu” mà không ở mức độ hành động.
Theo Sir John, thiếu nước là đe doạ khí hậu lớn nhất ở các nước đang phát triển.
“Hạn hán nặng đang bao trùm khoảng 2% khu vực đất thế giới, và sẽ tăng tới 10% vào năm 2050” – ông nói.
Ấm nóng toàn cầu tăng số người tị nạn và bệnh tật.
Hôm thứ Năm 12/10/06, tại Bắc Kinh, một quan chức về môi trường của LHQ đã phát biểu: Chúng ta chưa làm hết mình để cải thiện tình trạng ấm nóng lên của Trái Đất, nếu để tình trạng này diễn ra không có sự can thiệp thì hậu quả của nó có thể là di dân do mất an toàn về địa lý.
Ông Achim Steiner, Giám đốc chương trình Môi trường LHQ cho rằng, “Gần đây các nước đã quan tâm nhiều hơn tới nghiên cứu khoa học và những thiết bị đo lường khí hậu, tuy vẫn chưa là đủ, nhưng thế đã là nhiều hơn so với hy vọng của chúng tôi vài năm trước đây”. Trong một cuộc phỏng vấn của hãng tin Reuters, ông này đã dự đoán khả năng tị nạn do khí hậu và nguy cơ chia cắt quốc gia do tình trạng khí hậu nóng ấm gây ra.
Các chuyên gia cho rằng hàng triệu người đang sinh sống ở những khu vực đông dân cư, và ở độ cao thấp so với mặt biển tại các nước đang phát triển như Bangladesh, Indonesia, Việt Nam và một số khu vực ở Trung Quốc có thể bị đe dọa phải di dời do mực nước biển dâng lên.
Cũng trả lời phỏng vấn của diễn đàn bảo vệ môi trường biển tại Bắc Kinh, ông Steiner tỏ ra lo lắng khi tại Nam Thái Bình Dương, điều này đang trở thành hiện thực tại một số hòn đảo nhỏ. Nếu xu hướng ấm lên của trái đất tiếp tục diễn biến như tại thời điểm này và thậm chí nhanh hơn nữa thì liệu tại những khu vực giáp biển, chúng ta có còn đất để trồng trọt vào cư trú, con người sẽ phải di cư ư. Chúng ta sẽ phải đương đầu với dịch bệnh lan truyền và thậm chí có thể nó sẽ gây ảnh hưởng tới thương mại quốc tế”.
Các quốc gia không gây ra tham gia cải thiện khí hậu – thì làm thế nào để họ làm việc với các quốc gia đang đầu tư vào việc giảm thải khí CO2, ông nói thêm, tham chiếu tới Carbon dioxide, nhân tố chính gây hiệu ứng nhà xanh sinh ra từ các phương tiện đi lại và từ các ống khói nhà máy công nghiệp.
Xung đột tiềm ẩn có thế sinh ra từ hiệu ứng nóng ấm toàn cầu đang là thực tế mà chúng ta có thể nhìn thấy được, nhà ngoại giao này nói khi nhận nhiệm vụ mới trong tháng 6 vừa qua.
VÍ DỤ: Một khu vực đặc biệt chịu ảnh hưởng của khí hậu thay đổi và nhiệt độ tăng chính là dải đá ngầm hình thành từ san hô, nguồn thủy sản quan trọng và tài nguyên du lịch quý báu đem lại lợi nhuận kinh tế khoảng 30tỷ USD hàng năm theo đánh giá của LHQ.
Từ cuối thập niên 90, khi nhiệt độ nước tăng cao bất thường giết chết khoảng 90% san hô ở 1 số khu vực, nay đang có tín hiệu phục hồi theo 1 báo cáo mới của LHQ ra ngày 12/10/06.
Nhưng sự hồi sinh này diễn ra sau cái gọi là bleaching episodes phụ thuộc vào mức độ nước sạch, và ở châu Á và Đông Phi có tới 90% nước thải thải trực tiếp vào sông và biển.
Nếu bạn muốn tìm hiểu về những hiện tượng khí hậu hoặc thậm chí về cả một hệ sinh thái mà chúng ta hầu như rất ít hiểu biết về chúng, thì đá ngầm san hô chính là căn cứ để chúng ta nghiên cứu, ông Steiner – cựu Chủ tịch World Conservation Union cho hay.
Các Bộ trưởng Bộ Tài nguyên của các quốc gia sẽ gặp nhau vào tháng 11 tới tại thủ đô Nairobi, Kenyan nhằm vạch ra chiến lược lâu dài cắt giảm khí hại gây hiện ứng nhà kính đã đề cập trong giai đoạn 1 của Hiệp đinh Kyoto về khí hậu sẽ tiến hành vào năm 2012.
Cuộc họp năm ngoái của Hiệp định Kyoto diễn ra tại thành phố Montreal, Canada không quy định hạn chót của tiến trình thương lượng nhưng một số đại biểu vẫn muốn có 1 lịch trình cắt giảm rõ ràng.
Nairobi sẽ trở thành “giấy quỳ” để thử nghiệm mức độ quan tâm tới khí hậu của các chính phủ. Các ý kiến về một hiện tượng gây tranh cãi này sẽ chấm dứt tại đây. Toàn thế giới phải thừa nhận rằng khí hậu thay đổi là điều đang mắt thấy tai nghe, và hiện tượng ấm nóng lên là có thật và chúng ta phải đối mặt với nó, quan chức người Đức gốc Braxin này phát biểu.
Chúng ta chỉ có thể giải quyết được vấn đề này khi cả cộng đồng quốc tế cùng chung sức.
Nghiên cứu gần đây cho thấy vào năm 2050, diện tích đất bị khô cằn trên toàn cầu sẽ tăng gấp năm lần so với hiện nay.
Báo cáo Feeling the Heat (Cảm nhận hơi nóng) của Tearfund thúc giục các nước giàu hãy nhanh chóng giúp đỡ các nước nghèo.
Dẫn chứng bằng nghiên cứu của Norman Myers tại Học viện Oxford, Tearfund cho rằng vào năm 2050 sẽ có 200 triệu người tị nạn khí hậu.
FAO: Nông dân và sự thay đổi khí hậu:
Alexander Mueller, trợ lý Tổng GĐ của FAO, khuyến khích các nhà làm chính sách quan tâm đến đàm phán Hiệp ước nông nghiệp liên quan đến thay đổi khí hậu thay cho Hiệp Ước Kyoto. Nói chuyện tại Hội nghị khung của Liên Hiệp Quốc về Thay đổi khí hậu (UNFCC) tại Liên Bang Đức, ông Mueller đã ghi nhận rằng trong khi nông nghiệp đóng góp vào vấn đề hiệu ứng nhà kính do thải khí độc, nông dân sẽ trở thành nạn nhân của thay đổi khí hậu này. Ông nói "cộng đồng ở nông thôn lệ thuộc vào nông nghiệp, nhất là ở các nước đang phát triển, sẽ đối mặt với sự mất mùa và thiệt hại trong chăn nuôi". Nông nghiệp có trách nhiệm về 14% hiệu ứng nhà kính và sử dụng đất không đúng góp phần 17%. Mueller nhấn mạnh đến vai trò của nông dân trong việc làm giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Do hiện tượng cô lập carbon (sequestration), sự bắt giữ hoặc tồn lưu dài hạn carbon trong đất, nông dân có thể làm giảm lượng carbon dioxide thải ra vào không khí, thúc đẩy sự hồi phục của đất và làm tăng năng suất cây trồng.
Thay đổi khí hậu dẫn đến ngập lụt và hạn hán trầm trọng hơnNgoài ra họ còn cho biết, một số nơi thuộc vùng Địa trung hải và nhiều bộ phận thuộc phía nam châu Phi, đông bắc Braxin và vùng miền Tây nước Mỹ có thể sẽ phải chịu cảnh thiếu nước.
Rajendra Pachauri nhà khoa học cao cấp phụ trách về khí hậu của Liên hiệp quốc đã phát biểu tại hội nghị rằng, sự gia tăng tần số và cường độ của những trận lụt và hạn hán có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng lương thực.
“Chúng ta có thể sẽ thấy một sự suy giảm ở sản lượng nông nghiệp”, Rajendra Pachauri cảnh báo. Ông còn là Chủ tịch Nhóm Cố vấn Liên Chính phủ về Thay đổi Khí hậu (IPCC), là tổ chức đã được trao Giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm ngoái cùng với nguyên Phó Tổng thống Mỹ, Al Gore.
Một báo cáo của IPCC trình bày tại hội nghị này đã chỉ ra rằng, sự suy giảm về số lượng và chất lượng nước sẽ dẫn đến những thiếu hụt nước uống và nước nông nghiệp. Hàng triệu người châu Phi có thể phải chịu ảnh hưởng bởi các vấn đề về nước vào năm 2020, nếu không có hành động kịp thời nhằm giảm nhẹ bớt sự thay đổi khí hậu, theo các chuyên gia cho biết.
Trong khi lượng mưa rào ở một số nơi rất có thể sẽ tăng lên, như vậy chính những vùng này sẽ phải đồng thời chịu ảnh hưởng bởi nạn hạn hán tột độ.
Theo các tác giả của báo cáo IPCC cho biết, vấn đề về nước sẽ là một trong những vấn đề chính của sự thay đổi khí hậu. Bởi vì sự thay đổi khí hậu diễn ra sẽ tác động đến các hệ sinh thái và tất cả mọi người trên hành tinh. Các nhà khoa học đã chỉ ra các vùng châu thổ của những con sông lớn ở châu Á, như sông Mêkông, là những nơi lụt lội sẽ là vấn đề đáng lo ngại ngày càng tăng.
“Những vùng như vậy sẽ dễ bị tổn hại hơn rất nhiều”, Kathleen Miller, một nhà khoa học thuộc Trung tâm Quốc gia về nghiên cứu Khí quyển của Mỹ phát biểu. Bà cũng cho biết, nước Mỹ có một khả năng cao là ở vùng miền Tây sẽ trở nên khô hạn hơn.
Con dao hai lưỡiMặc dù các nước công nghiệp và các nước đang phát triển dường như khó vượt qua bế tắc trên, sớm muộn gì lượng khí thải của hai bên cũng xấp xỉ nhau. Theo giới khoa học, đến năm 2050, các nước đang phát triển có thể xả ra lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều hơn cả các nước công nghiệp. Tháng 6- 2007, lần đầu tiên Trung Quốc đã vượt Mỹ về mức khí thải, trở thành nước xả nhiều khí thải nhất thế giới. Do vậy, các nước đang phát triển chẳng bao lâu nữa sẽ phải đối mặt thách thức tương tự như các nước công nghiệp.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vấn đề thay đổi khí hậu chẳng khác nào như con dao hai lưỡi. Là nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong vùng, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 8%. Song để có được tỷ lệ như vậy, cũng giống như các nước khác Việt Nam đã phải trả giá, chủ yếu là môi trường bị hủy hoại.
Sự việc này được tóm gọn trong câu nói của Giáo sư Shukla ở Học viện Quản lý Ấn Độ: “Thời tiết thay đổi bắt nguồn từ quá trình phát triển”. Tuy nhiên, phát triển lại là bước thiết yếu để có thể xây dựng nguồn vốn và khả năng kỹ thuật để đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu. Khó khăn ở đây là phải biết giải quyết hợp lý những nhu cầu có vẻ mâu thuẫn nhau giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Thích nghi hay bị nhấn chìmNhiều chuyên gia cho rằng các nhà hoạch định chính sách sẽ phải áp dụng những sách lược để vừa thích nghi, vừa giảm nhẹ các tác hại của thay đổi khí hậu. Hai biện pháp ấy cần được phôái hợp tốt với nhau. Ví dụ nếu sống trong khu vực bị nước biển tràn ngập do tác động của hiện tượng khí hậu ấm dần trên toàn cầu, người ta có thể di cư vào sâu trong đất liền để tránh lụt lội.
Đồng thời, cũng phải có biện pháp giảm nhẹ những tác động do thay đổi khí hậu để hiện tượng này không vượt quá khả năng thích nghi của con người. Các biện pháp có thể tập trung vào ổn định khối lượng CO2, nghĩa là giảm lượng khí thải. Qua đó, con người càng có thể đương đầu với vấn đề thay đổi khí hậu bằng khả năng tự thích nghi, áp dụng các biện pháp như tăng hiệu suất sử dụng năng lượng, thay thế nhiên liệu và sửa đổi cung cách sinh hoạt.Dưới mắt các nhà kinh tế, sự thay đổi của khí hậu thường được xem như một trong những rủi ro phải đối phó. Riêng với Việt Nam, nếu khí hậu trở nên ấm dần, những vấn nạn nghiêm trọng có thể xảy ra từ mực nước biển dâng cao, hạn hán cho tới dịch bệnh.
Giải pháp cho Việt Nam
Mực nước biển dâng cao được xem như hiểm họa lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt. Theo phúc trình của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam, Ai Cập và quần đảo Bahamas là những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất khi mực nước biển dâng cao. Nhân dân vùng duyên hải hay các vùng đồng bằng như châu thổ sông Mêkông có thể sẽ phải chịu nhiều hậu quả thảm khốc.
Rừng đước ngăn biển, chống xói mòn ở dọc duyên hải Việt Nam- Ảnh: DNSGCT
Một biện pháp thích nghi đã được áp dụng là trồng lại các khu rừng đước để chắn sóng biển. Chẳng hạn như tại Kiến Thụy (Hải Phòng) năm 2005, một cơn sóng biển dâng cao tới bốn mét đã giảm xuống còn có nửa mét sau khi tràn qua rừng đước vào đất liền. Vì vậy, công việc trước mắt của chính quyền địa phương là xúc tiến phục hồi rừng đước và ngưng bán đất duyên hải cho tư nhân. Thực tế đã xảy ra là nhiều khu rừng đước rộng lớn ở Việt Nam bị người dân địa phương chặt phá để lấy chỗ nuôi tôm.
Một cuộc nghiên cứu do Đại học Kyoto (Nhật Bản) và chi nhánh Oxfam ở Việt Nam thực hiện nhằm tìm hiểu tình trạng môi sinh tại tỉnh Ninh Thuận - một trong những vùng nóng nhất và hay bị hạn hán nhất ở Việt Nam - cho thấy nếu chính quyền biết áp dụng những biện pháp phù hợp, nhân dân địa phương có thể khắc phục những hậu quả nghiêm trọng nhất do thay đổi khí hậu gây ra.
Nghiên cứu trên kết luận: “Các biện pháp có thể được áp dụng theo nhiều phương diện khác nhau, từ tăng cường dự báo khí hậu, cải tiến công tác thủy lợi và trữ nước, triệt để áp dụng quy định tiết kiệm và phân phối nước đồng đều, bảo tồn đất đai cho đến tài trợ cũng như hướng dẫn chăn nuôi gia súc, dự trữ rơm rạ cho trâu bò, cải thiện hạt giống và trồng thêm các vụ mùa mới”.
Trách nhiệm đối với thế hệ mai sauThời tiết ấm dần còn dẫn tới một nguy cơ nữa tại Việt Nam là sự lây lan của các bệnh do muỗi gây ra, kể cả sốt rét và thương hàn. Tổ trức Y tế Thế giới ước tính hơn 150 ngàn người đã qua đời vào năm 2000 vì chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của hiện tượng khí hậu thay đổi. Số người thiệt mạng sẽ còn tăng cao hơn nữa một khi hiện tượng này trở thành yếu tố chính chi phối cuộc sống con người.
Nhờ có kinh nghiệm trong quá khứ, Việt Nam có lẽ sẽ đương đầu với mối đe dọa trên một cách hữu hiệu hơn so với các nước khác như Úc - nơi có khí hâïu tương đối ôn hòa và chưa quen đối phó với những dịch bệnh như vậy.
Đầu năm nay, khi cho ra mắt bản báo cáo mới nhất của Ủy ban Liên chính phủ đặc trách nghiên cứu hiện tượng thay đổi khí hậu, Giám đốc Chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc là Achim Steiner nói: “Nếu bạn là một đứa trẻ sinh ra ở châu Phi vào năm 2007, rất có thể đến tuổi 50, bạn sẽ phải đối phó với nhiều chứng bệnh mới hoặc những vụ hạn hán mới, thậm chí có thể sẽ phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn vì theo một số dự đoán, châu Phi có thể bị mất tới 30% nhà cửa vùng duyên hải do nước biển dâng cao”.
Đối với trẻ em sinh ra ở Việt Nam hôm nay, câu chuyện cũng tương tự như vậy. Với mực nước biển ngày càng dâng cao, một số khu vực sẽ trở thành đồng chua nước mặn và người dân địa phương có thể sẽ trở thành lớp người tỵ nạn mới vì môi trường sống bị hủy hoại. Là nơi đã phát sinh ra hàng triệu người tỵ nạn vì chiến tranh và nghèo đói trong cả một thế kỷ qua, Việt Nam không thể để viễn cảnh ấy trở thành hiện thực thêm một lần nữa.
Châu Á đối mặt với sự thay đổi khí hậu
Không khu vực nào trên thế giới bị đặt trước thách thức thay đổi khí hậu mạnh mẽ như châu Á hiện nay. Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Haruhiko Kuroda nhấn mạnh tại phiên khai mạc Tuần lễ năng lượng sạch do ADB chủ trì tại Manila (Philippines) hôm qua. Ông nói rằng châu Á cần năng lượng để duy trì sự phát triển nhanh và tiếp tục xóa đói giảm nghèo, nhưng việc sản xuất và tiêu thụ năng lượng cần phải hướng tới con đường bền vững hơn. Theo ông, trong 30 năm qua (tính đến năm 2003), mức tiêu thụ năng lượng ở châu Á tăng 230%, quá cao so với mức tăng trung bình của thế giới là 75%. Kết quả là từ mức sản xuất khí thải gây hiệu ứng nhà kính chưa tới 1/10 của thế giới, nay khí thải do châu Á tạo ra đã chiếm gần 1/4. Vì thế nhà lãnh đạo ADB nhấn mạnh ADB ủng hộ các hoạt động phát triển năng lượng tái sinh, hiệu năng của năng lượng (trong số này có sáng kiến hiệu năng năng lượng với các dự án cho năng lượng sạch trị giá tới 1 tỉ USD), làm giảm và thích nghi với sự thay đổi khí hậu.Các quốc gia ASEAN đã nhấn mạnh tới việc dùng kỹ thuật tiên tiến để đối phó với các thay đổi của bầu khí quyển trái đất. Đây là nội dung của bản thông báo về bầu khí quyển của trái đất được đúc kết nhân hội nghị cấp ngoại trưởng của các quốc gia Đông Nam Á. Chắc chắn không có một nước nào có liên hệ tới Nghị Định Thư Kyoto lại không đồng ý với nội dung này. Thế nhưng có một trong các vấn đề được các nền kinh tế đang nổi, Trung Quốc và Ấn Độ, thường nêu lên khá cao trong các nghị trình thảo luận. Đó là làm sao họ có thể kham nổi loại kỹ thuật được gọi là kỹ thuât "sạch", vừa giúp cho họ khuếch trương kỹ nghệ của mình, lại vừa ít tác hại đến môi trường.
Khối ASEAN không bàn chi tiết về vấn đề tài chính. Có lẽ các thông tin này sẽ được đưa ra sau trong cuộc họp dự kiến sẽ diễn ra vào tháng Mười Một. Tuy nhiên, cuộc họp này sẽ là diễn đàn thứ ba, nơi các quốc gia sẽ thảo luận về việc chuyển giao công nghệ. Đây đã là một yếu tố được trân trọng trong Nghị Định Thư Kyoto về thay đổi khí hậu.Các thảo luận về chủ đề này đã được đồng ý trong hội nghị thượng đỉnh gần đây của khối G8. Nay, các nước quan trọng trong vành đai Thái Bình Dương sẽ thảo luận nó. Nhiều nhà hoạt động vì môi trường thì họ quan ngại là các thảo luận này sẽ hướng sự chú ý ra khỏi chủ đề chính trong vấn đề thay đổi khí hậu, đó là đồng ý xa hơn về các mục tiêu nhằm theo đuổi Nghị Định Thư Kyoto. Các thảo luận về vấn đề này cũng sẽ được bắt đầu vào tháng Mười Một tới.Nhóm nghiên cứu liên chính phủ về sự thay đổi khí hậu (IPCC), do Tổ chức Khí tượng Quốc tế và Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc phối hợp thành lập, cảnh báo rằng tình trạng Trái Đất nóng lên có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng vào năm 2050, đặc biệt đối với khu vực châu Á với hơn 1 tỷ người có nguy cơ phải đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt, các khu vực duyên hải bị nhấn chìm trong nước, bệnh tả lây lan và thực phẩm tăng giá.
Theo một dự thảo báo cáo của IPCC, hiểm họa lớn nhất từ sự nóng lên của Trái Đất là thiếu nước sinh hoạt do nhiệt độ tăng và lượng mưa suy kiệt. Vào năm 2025, lượng nước trung bình cho một người ở Ấn Độ có thể giảm đi một nửa do các sông băng ở cao nguyên Tây Tạng và dãy Himalaya, hai nguồn nước quan trọng, bị tan chảy. Lượng nước nông nghiệp tại Bắc Trung Quốc trong tương lai sẽ chỉ bằng 70% hiện nay.
Bên cạnh đó, mực nước biển có thể tăng khoảng 40 cm vào cuối thế kỷ này khiến 13-94 triệu người châu Á sẽ phải chịu cảnh lụt lội. Nếu mực nước biển tăng 1m thì 4 triệu dân ở các thành phố của Nhật Bản có nguy cơ bị lụt lội.
Trái Đất nóng lên còn khiến các nhà máy thủy điện giảm sản lượng điện; chất lượng nước và sản lượng nông nghiệp giảm; các vùng duyên hải bị xói mòn. Ở khu vực Nam Á, sự thay đổi của các dòng hải lưu và sự tăng nhiệt độ của nước biển sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các khu nuôi trồng thủy sản và làm lan tràn các dịch bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết, tả.
IPCC cho rằng chỉ giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính không đủ để ngăn chặn các hậu quả của tình trạng Trái Đất nóng lên, mà còn cần phải tính đến các biện pháp khác như tăng cường ngăn chặn thiên tai và bảo vệ nguồn nước.
IPCC đã thành lập ba nhóm nghiên cứu về những ảnh hưởng của sự thay đổi khí hậu toàn cầu và dự kiến sẽ công bố một báo cáo chính thức về vấn đề này vào tháng 11/2007.Sự thiệt hại kinh tế cho khu vực Ðông Nam Á vì sự thay đổi khí hậu sẽ nghiêm trọng hơn những khu vực khác, nhất là gây trở ngại lớn cho việc sản xuất lúa gạo, một trong những loại mùa màng sản xuất lương thực quan trọng nhất trên thế giới, theo một bản phúc trình của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB).Bản phúc trình phổ biến hôm Thứ Hai ở Bangkok nói rằng tổng số thiệt hại về sản xuất nông nghiệp và các hậu quả tiêu cực khác đến từ sự biến đổi thời tiết sẽ tương đương với ít nhất 6.7% tổng sản lượng nội địa (GDP) của những nước sản xuất lương thực chính yếu của khu vực Ðông Nam Á vào cuối thế kỷ này, nhiều hơn gấp hai lần sự thiệt hại ước tính 2.6% của toàn thế giới.
ADB cũng ước lượng năng suất lúa gạo cũng giảm mất ít nhất 34% ở Indonesia và đến 75% ở Phi Luật Tân trong khi các nước xuất cảng gạo nhiều nhất thế giới như Thái Lan và Việt Nam sẽ giảm bớt.
Khu vực Ðông Nam Á cần phải đưa ra kế hoạch để đổi lại các sự giảm sút đó gồm cả sự đầu tư mới hầu duy trì năng suất sản xuất nông nghiệp, theo lời Zuzhong Zhuang, kinh tế gia của ADB.
Sự thiệt hại của vùng Ðông Nam Á có hậu quả chính đến từ địa lý khu vực. Vùng này bao gồm các quần đảo của Indonesia và các nước có đồng bằng thấp so với mực nước biển như Thái Lan và Việt Nam. Có đến 80% dân cư của khu vực và các hoạt động kinh tế nằm trong phạm vi 100 cây số kể từ bờ biển, theo sự nghiên cứu của ADB.Kinh tế Ðông Nam Á tùy thuộc phần lớn vào nông nghiệp và lâm sản, mà cả hai thứ này đều ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự biến đổi khí hậu.
Các nhà khoa học và kinh tế gia vẫn còn tranh cãi về hậu quả của khí thải sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Á Châu, nhưng một cách tổng quát họ đồng ý rằng sự thay đổi thời tiết sẽ rất bất định.
Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, trong khả năng và trách nhiệm riêng, tin rằng Thái Lan, Việt Nam và Indonesia sẽ có thời tiết khô hạn nhiều hơn trong những thập niên tới. Tuy nhiên, nó có thể đảo ngược vào thế kỷ sau.
Nhiệt độ trung bình ở những quốc gia vừa kể và Phi Luật Tân có thể tăng đến 4.8 độ bách phân (Celcius) vào năm 2100 khi so với nhiệt độ trung bình của thập niên 1990, và mực nước biển có thể lên cao hơn khoảng 70 cm. Những thay đổi này, đặc biệt là nhiệt độ nóng hơn và nhiều bão tố hơn, có thể phối hợp để cắt giảm sản lượng lúa gạo mà nói chung gây nhiều thiệt hại cho nông nghiệp, theo bản khảo cứu của ADB.
Trong các cuộc tranh luận về biến đổi khí hậu toàn cầu, khu vực Ðông Nam Á thường ít được chú trọng so với nhiều khu vực khác vì vùng này tương đối đóng góp ít khí thải tạo hậu quả thay đổi khí hậu, nhìn chung chỉ góp khoảng 12% trên tổng số. Nhưng khu vực lại là nơi sản xuất lúa gạo chính yếu và các loại nông sản khác cung cấp cho thị trường thế giới. Hậu quả tiêu cực này sẽ đẻ ra một chuỗi hậu quả dây chuyền và đẩy giá nông sản lên cao hơn.
Thật ra, bản phúc trình của ADB chỉ là những tin tức mới nhất trong hàng loạt cuộc khảo cứu về hậu quả của sự biến đổi khí hậu của Trái Ðất, ảnh hưởng tiêu cực về mặt sản xuất lương thực nói riêng. Tổ Chức Lương Nông Quốc Tế (FAO) của LHQ từng cảnh cáo rằng những nguy cơ thiếu hụt về lương thực của thế giới tăng cao hơn khi mà thất bại mùa màng do hậu quả của bão lụt và các sự thay đổi thời tiết, bên cạnh các sự thiệt hại do các loại sâu bệnh gây ra, gia tăng.
Một số chuyên viên tin rằng khu vực Ðông Nam Á vẫn còn cơ hội tăng sản xuất gạo và các loại nông sản khác, đặc biệt ở một số khu vực của Lào và Cam Bốt từ trước đến nay vẫn có năng suất thấp nếu họ được đầu tư về dẫn nước tưới và có các loại hạt giống tốt hơn.
Giá gạo trên thế giới giảm rất nhiều trong năm nay sau khi đã tăng vọt vào đầu năm ngoái, một phần vì một số quốc gia trong đó có Indonesia đã gia tăng sản xuất lúa gạo.
Tuy nhiên nhiều kinh tế gia cho rằng những thuận lợi về giá cả sẽ khó duy trì nếu không có đầu tư dài hạn tốn kém hàng tỉ đô la để canh tân hạ tầng các khu vực sản xuất nông nghiệp. Nhiều người còn lo giá thực phẩm có thể sẽ lên cao hơn khi mà cuộc suy thoái kinh tế trên thế giới đã vượt qua được. Vì khi đó, nhu cầu tiêu thụ sẽ gia tăng.
Smith Dharmasaroja, một chuyên viên khí tượng Thái Lan nói nông dân trồng lúa có thể phải tìm cách giảm thiểu thiệt hại vì biến đổi khí hậu bằng cách tăng cường khả năng tích trữ nước có được trong mùa mưa nhiều. Nhưng theo ông sự giảm sút năng suất lúa gạo là chắc chắn vì nhiệt độ trở nên nóng hơn trong Mùa Hè.
Tại Việt Nam, sự biến đổi khí hậu ngoài sự kiện tăng mực nước biển làm biến mất những vùng trồng lúa quan trọng ở phía Nam, lượng nước mưa ít đi có thể ảnh hưởng nhiều tới năng suất hai loại nông phẩm chính là lúa và cà phê. Ảnh hưởng xấu có thể nhìn thấy ngay từ năm 2020 tới đây chứ không cần phải đợi tới cuối thế kỷ mới thấy, theo phúc trình của ADB.
“Sản xuất lúa gạo của Việt Nam giảm đáng kể và mực nước biển lên cao hơn có thể làm ngập lụt hàng chục ngàn mẫu ruộng vào cuối thế kỷ.” ADB nói trong bản phúc trình. “Việt Nam có thể đối diện với tác động không thuận lợi đến từ sự biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.”
Việt Nam là nước xuất cảng nhiều gạo thứ nhì trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Năm ngoái, Việt Nam sản xuất 38.7 triệu tấn lúa và xuất cảng 4.65 triệu tấn gạo. Lượng gạo mà hai nước Việt Nam và Thái xuất cảng chiếm 50% thị phần gạo xuất cảng trên thế giới.
Gạo cũng là loại thực phẩm chính yếu trong các bữa ăn của 86 triệu người Việt Nam. Tuy sản xuất ra gạo để nuôi sống mọi người và nhà nước độc quyền xuất cảng kiếm lời, nông dân Việt Nam là thành phần nghèo khổ nhất, thiệt thòi nhất trong xã hội.
Cà phê là sản phẩm nông nghiệp quan trọng thứ nhì tại Việt Nam nhìn từ vị trí lợi nhuận đem về cho nhà nước từ xuất cảng nông sản. Việt Nam là nước sản xuất và xuất cảng cà phê thứ nhì thế giới sau Brazil.
“Khu vực Tây Nguyên sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều từ sự thiếu nước, hậu quả của biến đổi khí hậu.” Ông Ayumi Konishi, giám đốc văn phòng ADB tại Việt Nam nói trong cuộc họp báo ở Hà Nội.
Bản phúc trình của ADB không đi vào chi tiết của sản xuất cà phê nhưng nói lượng nước mưa giảm ở Việt Nam trong những thập niên tới và hơn 12 triệu người ở khu vực sản xuất cà phê sẽ bị ảnh hưởng.
Sản xuất cà phê cần rất nhiều nước tưới từ Tháng Hai đến Tháng Tư khi mùa khô vào đỉnh điểm ở Việt Nam. Thiếu nước sẽ ảnh hưởng tới khả năng đậu trái cũng như phẩm chất của trái cà phê. Mùa cà phê ở Việt Nam bắt đầu từ Tháng Mười 2008 đến Tháng Chín 2009 phỏng định năng suất khoảng 16 triệu bao, hay 13% của toàn sản lượng thế giới, theo Tổ Chức Cà Phê Quốc Tế.
Sự thay đổi khí hậu đe dọa các di sản văn hóa
Nước biển dâng cao, nhiệt độ đại dương tăng, lũ lụt và những thảm họa bắt nguồn từ hiệu ứng nhà kính của trái đất khác đang đe dọa các tài sản văn hóa của thế giới, theo khuyến cáo của tổ chức Chương trình Môi trường LHQ (UNEP).
Nghiên cứu của UNEP cho biết thềm san hô ở bờ biển Belize mà Charles Darwin từng mô tả vào năm 1842 là "bãi san hô tuyệt vời nhất ở Tây Ấn" đã bị "tẩy trắng" do nước biển nóng lên.
Những đền đài ở Alexandria, Ai Cập và những tài sản có từ thời tiền Inca ở Công viên quốc gia Huascara tại Peru bị xuống cấp nghiêm trọng vì nước đổ xuống từ những đỉnh núi Andes bị tan băng. Trong số này có một ngôi đền đuợc xây dựng từ năm 900 trước Công nguyên. Nhiều tòa nhà ca vũ kịch, sân khấu, bảo tàng và thư viện ở CH Séc, nơi lưu trữ 500.000 quyển sách và tài liệu xưa bị tàn phá bởi trận lụt ở châu Âu vào năm 2002...
Trưởng đại diện UNEP, ông Achim Steiner, kêu gọi thế giới lưu ý điều này để có những nỗ lực trước khi quá muộn. Đặc biệt là sự tổn thất về văn hóa sẽ làm các nước nghèo nghèo thêm. Theo ông, cần sử dụng thông tin tình báo và kiến thức khoa học để hỗ trợ quản lý những địa điểm văn hóa quan trọng.
Kỷ lục chưa từng có về sự thay đổi khí hậu trái đất
Một nghiên cứu về khí hậu trái đất đã mang lại những bất ngờ lớn chưa từng có: Hàm lượng CO2 trên toàn thế giới hiện nay cao hơn 27% so với mức kỷ lục trong vòng 650.000 năm qua.
Nghiên cứu được công bố trước khi diễn ra hội nghị quan trọng về hiện tượng trái đất nóng lên tại Montreal, Canada vào 28/11 tới.
Các nhà nghiên cứu chấu Âu đã nghiên cứu lõi băng (thuộc vùng Dôme C, miền đông Nam cực) được lấy ra bằng một mũi khoan rộng 10 cm, mang theo dấu tích đọng lại từ 650.000 năm trước, nằm sâu 3 km dưới bề mặt. Cuộc phân tích CO2 trong các bong bóng nhỏ xíu cho thấy chưa có thời điểm nào trong suốt khoảng thời gian này mà hàm lượng CO2 lên tới mức cao như ngày nay - 380 phần triệu. Vào thời kỳ tiền công nghiệp, hàm lượng CO2 chỉ là 278 phần triệu.
Lõi băng tại Dome C cũng bỏ xa kỷ lục trước đó vào 210.000 năm trước, được lấy tại khu vực Vostok ở Nam cực.
Qua đó, các nhà nghiên cứu rút ra kết luận: Con người đã có những tác động rất lớn tới khí hậu trái đất và khoảng thời gian mà con người thay đổi kết cấu của bầu khí quyển là vô cùng ngắn so với chu kỳ tuần hoàn tự nhiên của hệ khí hậu.
Ngoài ra, nhằm làm sáng tỏ các mối quan hệ giữa khí hậu và hiệu ứng nhà kính, các nhà khoa học vẫn đang thực hiện những nghiên cứu tiếp theo. Mục tiêu của chương trình Dôme C là tìm hiểu sự thay đổi khí hậu trong vòng 900.000 năm trở lại đây. Sau đó, khám phá tiếp các vùng xa xôi và lạnh giá hơn ở Nam Cực.
Các biện pháp chuẩn bị cho sự thay đổi khí hậu
Tổ chức Y tế Thế giới đã kêu gọi các nhà hoạch định chính sách châu Âu có những biện pháp tức thời để chuẩn bị cho hậu quả của sự thay đổi khí hậu đối với sức khoẻ.
Trong bài phát biểu tại thành phố Montreal (Canada), WHO cho biết những thay đổi khí hậu đã cho thấy những ảnh hưởng của nó.
Đợt nóng năm 2003 tại Tây Âu gây ra 35 nghìn cái chết là sự kiện thay đổi khí hậu có ảnh hưởng lớn nhất tới hệ thống y tế tại châu Âu.
Các dịch vụ y tế và xã hội, chẳng hạn như ở Pháp, đã không hề được chuẩn bị trước, đặc biệt là những ảnh hưởng đối với người già.
WHO cũng tìm hiểu các biểu hiện khác chứng tỏ sự ảnh hưởng của thay đổi khí hậu tới sức khoẻ con người.
Các bệnh truyền nhiễm đang lan tràn tới các phía Bắc nơi khí hậu trở nên ấm hơn, ví dụ như bệnh dị ứng da do côn trùng truyền nhiễm đã xuất hiện tại Thuỵ Điển và các vùng đồi núi của Cộng hoà Czech.
WHO cũng kết luận bệnh sốt rét vẫn chưa phải là mối đe doạ lớn nhất ở châu Âu.
Các bệnh dị ứng cũng là một mối quan tâm khác. Độ dài trung bình của mùa dị ứng tại châu Âu đã tăng thêm 10 - 11 ngày trong vòng 30 năm qua, thay đổi theo thời gian và mức độ của mùa phấn hoa.
WHO cho rằng các Chính phủ cần thay đổi cách tiếp cận bằng việc nắm thế chủ động hơn là phản ứng khi tình hình xảy ra. Họ cần thấy rõ trước các mối de doạ và bảo vệ người dân trước sự thay đổi của môi trường.
Nhìn nhận nỗ lực chống thay đổi khí hậu
ững nỗ lực tuyên truyền nâng cao nhận thức của thế giới về sự thay đổi khí hậu đã giúp đem lại giải Nobel hòa bình cho cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore và Ủy ban liên chính phủ về thay đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc (IPCC).
Trong thông báo phát trên nobelprize.com ngày 12-10, Ủy ban Nobel của Na Uy khen ngợi nỗ lực của ông Al Gore và IPCC trong việc đặt nền tảng cho những biện pháp cần thiết để đối phó với tình trạng thay đổi khí hậu do con người gây ra.
Những đóng góp của IPCC đã được thực hiện từ hơn hai thập niên trước. Thông qua các báo cáo khoa học mà ủy ban này công bố, IPCC đã tạo ra một sự đồng thuận rộng rãi về mối liên hệ giữa các hoạt động của con người với hiện tượng Trái đất ấm dần.
Nếu như trong thập niên 1980, “Trái đất ấm dần” chỉ là một giả thuyết thú vị thì đến những năm 1990 thực tế chứng minh nó đang diễn ra. Trong những năm gần đây, mối liên hệ ấy đã trở nên ngày càng rõ rệt và những hậu quả cũng rõ ràng hơn bao giờ hết.
Trong cuộc chiến ý thức hệ ấy, ông Al Gore nổi lên như một cá nhân có nhiều cống hiến. Từ lâu ông đã là một trong những chính trị gia tích cực tuyên truyền bảo vệ môi trường. Ông sớm nhận ra những thách thức về mặt khí hậu mà thế giới đang đối mặt. Sự cam kết mạnh mẽ của ông Al Gore, vốn được thể hiện trong các hoạt động chính trị, các bài diễn thuyết, phim ảnh và sách vở… đã góp phần đẩy mạnh cuộc chiến chống thay đổi khí hậu. Theo đánh giá của Ủy ban Nobel, ông Al Gore là cá nhân có nhiều cống hiến nhất cho việc mở rộng hiểu biết của toàn thế giới về các biện pháp cần thực hiện để khắc phục tình trạng hiện nay.
Với việc trao giải Nobel hòa bình cho IPCC và ông Al Gore, Ủy ban Nobel Na Uy đã thể hiện lập trường của mình trong việc đồng hành cùng họ vận động thế giới thực hiện những bước cần thiết để bảo vệ môi trường trong tương lai. “Cần hành động từ bây giờ trước khi sự thay đổi khí hậu vượt quá tầm kiểm soát của con người” - ủy ban này nhấn mạnh.
Trao giải Nobel hòa bình cho những người hoạt động vì môi trường cũng là một quyết định hợp lòng công chúng trong bối cảnh vấn đề khí hậu được đặc biệt quan tâm hiện nay. Nhận xét về giải thưởng này, Achim Steiner, người đứng đầu Chương trình Môi trường của LHQ, nói: “Hôm nay, Ủy ban Nobel của Na Uy đã làm rõ cuộc chiến chống thay đổi khí hậu là chính sách an ninh và hòa bình trọng tâm của thế kỷ 21”. Chủ tịch ủy ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso kêu gọi tất cả đối tác của EC xem giải thưởng này như một nguồn động viên trên con đường tìm kiếm những giải pháp nhanh chóng và quyết đoán về thách thức khí hậu.
Việc ông Al Gore đoạt giải Nobel càng làm nhiều người ủng hộ tăng sức ép mong muốn ông ứng cử giành ghế tổng thống Mỹ 2008. Tuy nhiên, những người quen biết ông Al Gore nói rằng ông không hứng thú với chuyện chạy đua quyền lực chính trị. “Lần cuối cùng tôi nói chuyện với (cựu) phó tổng thống, chúng tôi chỉ nói về chuyện dùng bóng đèn nào (để giảm hiệu ứng nhà kính), không phải chuyện chính trị” - Julia Payne, cựu cố vấn của ông Al Gore, cho biết.
Chống hiệu ứng nhà kính vẫn... mơ hồ
Ngày 29-9, phát biểu tại cuộc họp 16 nước thải khí nhà kính nhiều nhất thế giới, Tổng thống Mỹ George Bush đã có một bài phát biểu hàm ý mỗi nước phải tự đặt ra mục tiêu giảm khí thải nhà kính riêng và nói rõ "công cuộc chiến đấu chống lại sự thay đổi khí hậu không được ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Mỹ”.
Tại cuộc họp do chính Tổng thống Bush đề xướng, ông lần đầu tiên thừa nhận "vấn đề an ninh năng lượng và thay đổi khí hậu" là hai thách thức lớn của thời đại và cho biết cuộc họp này nhằm "thúc đẩy các cuộc đàm phán trong khuôn khổ nghị định thư của LHQ về sự thay đổi khí hậu". Tổng thống Mỹ cũng đề nghị tổ chức tiếp một cuộc họp thượng đỉnh vào mùa hè năm sau "để hoàn tất mục tiêu".
Tuy vậy, các hãng tin như Scientific American, BBC đều nhận định bài diễn văn được chờ đợi này đầy những nội dung "rất chung chung" vì trong đó tràn ngập lời kêu gọi như "các nước phải đề ra mục tiêu dài hạn", "nước Mỹ phải dẫn đầu thế giới trong việc cắt giảm khí CO2"... Bên cạnh đó còn có câu nói đáng ngờ rằng Mỹ có thể sẽ vẫn đứng ngoài lề nghị định thư Kyoto như "mỗi nước phải được quyền tự quyết các loại công cụ và phương tiện phù hợp nhằm đạt tới kết quả có lợi cho môi trường và đo đạc được".
10 năm tới sẽ có thảm họa khí hậu?
Tổ chức quốc tế theo dõi sự thay đổi khí hậu toàn cầu công bố bản báo cáo cảnh báo thế giới sẽ đứng trước thảm họa khí hậu sau 10 năm nữa.
Điều này là hiện thực nếu không có biện pháp giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tổ chức này cũng đề nghị Mỹ và Australia tham gia Nghị định thư Kyoto để cùng các nước khác tháo ngòi "quả bom sinh thái" làm khí hậu toàn cầu nóng dần lên.
Báo cáo cho biết lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính hiện đã xấp xỉ mức có thể làm cho nhiệt độ Trái Đất trong 10 năm tới tăng vượt ngưỡng 2 độ C, làm gia tăng những thay đổi khí hậu gây hạn hán, lụt lội, tăng mạnh nguy cơ thiếu nước sạch và có nhiều tác động bất lợi đối với sức khỏe con người.
Báo cáo kêu gọi các chính phủ đặt mục tiêu không để nhiệt độ Trái Đất trong 10 năm tới tăng quá 1,4 độ C vì sau cách mạng công nghiệp (1830) đến nay, nhiệt độ Trái Đất đã tăng 0,6 độ C.
Bản báo cáo còn đưa ra một số khuyến nghị nhằm hạn chế lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính khi Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực vào năm 2012 như thành lập nhóm G8 cùng với các nền kinh tế lớn khác, kể cả những nước đang phát triển; nhóm G8 và Tổ chức theo dõi khí hậu; các nước thành viên G8 cung cấp ít nhất 25% lượng điện tiêu thụ từ các nguồn năng lượng sạch bắt đầu từ năm 2025 và tổ chức thị trường trao đổi hạn ngạch khí thải như Liên minh châu Âu đang thực hiện.
Báo cáo của Tổ chức theo dõi khí hậu được đưa ra trong bối cảnh nghị định thư Kyoto sẽ có hiệu lực từ ngày 16/2/2005 trong khi Mỹ, nước có lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới, lại rút khỏi nghị định thư này từ năm 2001.
Nước mặn từ biển đang tràn ngược các dòng sông xâm nhập đồng bằng sông Cửu Long vào xa đến 70km. Các chuyên gia phải lựa chọn giải pháp nào để đối phó với tình trạng ngập mặn nội đồng mỗi năm một nghiêm trọng hơn?
Nguyên nhân
Mọi năm phải đến tháng 5 tháng 6 nước mặn từ biển Đông mới xâm nhập thật sâu vào các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm nay mới 20/1 dương lịch, Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam đã ghi nhận tình trạng nước biển vào sâu nội đồng 70km.
Tình trạng nghiêm trọng đang xảy ra ở các tỉnh gần biển như: Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang. Những nơi này nước biển có độ mặn từ 4 phần ngàn trở lên, đã xâm nhập sâu vào đất liền 30km. Theo các chuyên gia, cây lúa chỉ có thể thích nghi với độ mặn tối đa là 2 phần ngàn. Chuyện hạn và tình trạng mặn xâm nhập năm nào cũng xảy ra cho đồng bằng sông Cửu Long nhưng mức độ mỗi ngày một tăng lên. Bên cạnh những dự báo xa nước biển dâng vì biến đổi khí hậu, có những nguyên nhân đến từ con người như gia tăng sản xuất lúa bằng đê bao khép kín để chống lũ.
Nước lũ chảy hết ra biển không được tích lũy trên đồng ruộng theo hiện tượng tự nhiên, nên khi nước biển tràn ngược các dòng sông trong mùa khô, tình trạng ngập mặn trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi nêu câu hỏi này với GSTS Lê Sâm một chuyên gia về khoa học thủy lợi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và được ông giải thích:
“Hệ thống thủy lợi các vùng ven biển chưa hoàn chỉnh, lại xuống cấp và lỗi của từng vùng. Với tôm lúa đan xen, nhiều khi người ta phá cả đập để đem mặn vào nuôi tôm, vùng Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang chưa thật ổn định, tranh chấp nhau giữa người muốn nuôi tôm và người làm lúa. Tất nhiên khi be bờ lại thì nước mặn phải vào sâu hơn nhưng là xâm nhập những dòng chính.
Thực tế vừa qua, chương trình ngọt hóa hiệu quả rất lớn, thế rồi giai đoạn giá lúa xuống mà con tôm lên cao quá, dẫn tới chuyện không kiểm soát được, tranh chấp nhau ngọt mặn trên đồng ruộng. Đây là vấn đề tồn tại và tùy theo từng vùng tìm cách giải quyết thế nào cho hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Hình như Bạc Liêu vừa qua có đầu tư một số công trình ngăn mặn vì giá trị cân thóc lại lên cao. Ngọt hóa thì độ rủi ro rất nhiều so với nuôi tôm, nhưng hiện nay đây là một vấn đề xã hội.”
Theo Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam, hai tháng đầu năm 2010, tình trạng mặn xâm nhập ở đồng bằng sông Cửu Long cao hơn cùng kỳ năm ngoái, đến khoảng tháng 4 và tháng 5 là thời gian có độ mặn cao nhất của năm 2010.
Nếu chỉ nói tới nước mặn với độ mặn từ 4 phần ngàn trở lên là mức làm tổn hại cây trồng, dự báo nước mặn sẽ xâm nhập xa khoảng 45km vào nội đồng tính từ cửa sông. Hiện nay, huyện An Minh tỉnh Kiên Giang chịu ngập mặn nặng nề, khoảng 2.500 ha lúa đông xuân bị thiệt hại.
TS Phạm Văn Dư, Cục Phó Cục Trồng Trọt nhận định về tình trạng hạn và mặn xâm nhập vùng đồng bằng sông Cửu Long:
“Tình hình xâm nhập mặn trong những năm qua từng bước sớm hơn một ít và có khả năng lấn sâu vô hơn, năm nay tình hình xâm nhập và độ mặn như thế nào thì cũng đã có chuẩn bị trước. Trong vụ đông xuân, mặn thường xâm nhập trong khoảng tháng Giêng cho tới tháng Sáu, trong thời gian này bà con nông dân các vùng ven biển thường nuôi tôm nhiều hơn. Chúng tôi khuyến khích bà con phát triển hệ thống lúa-tôm, nếu thắng lợi vụ tôm, đến tháng Sáu có mưa xuống, nước ngọt về cây lúa sẽ phát triển tốt hơn và giảm nhẹ thiệt hại xâm nhập mặn. Ngoài ra chúng tôi có chương trình ô thủy lợi giữ nước ngọt lại, để cho bà con nông dân trong vùng ấy có thể phát triển lúa bền vững hơn.” Giải pháp
Đối với các tranh cãi của nông dân, người muốn nuôi tôm, người lại chỉ muốn trồng lúa gây ra mâu thuẫn quyền lợi, nhất là nông dân thường quan tâm tới cái lợi trước mắt. TS Phạm Văn Dư nhận định:
“Trước đây, nông dân vùng ven biển nuôi tôm sú lợi nhuận rất cao, trong thâm canh họ có thể nuôi liên tục cả năm. Tình trạng này gây ra ô nhiễm đất đai canh tác và gây nhiều bệnh hại cho con tôm, nông dân lâm vào cảnh nghèo túng.
Như thế không thể được, nên các nhà khoa học chúng tôi nghiên cứu là phải luân canh với cây lúa, chính bộ rễ cây lúa đã hấp thụ những chất…mà khi nuôi tôm thâm canh quảng canh sử dụng một lượng thức ăn rất nhiều, tôm không tiêu thụ hết nên một lượng thức ăn đọng lại một lớp 30cm-40cm dưới đáy ao hồ.
Sau đó chúng tôi phối hợp nghiên cứu với các Viện, Trường đặc biệt là Viện Đại Học Cần Thơ, thấy rằng hệ thống tôm-lúa là hệ thống bền vững nhất hiện nay mà bà con nông dân có thể phát triển và làm giàu được.”
TS Phạm Văn Dư bày tỏ hy vọng, giải pháp luân canh tôm-lúa nếu được thực hiện tốt trên 250 ngàn ha khu vực dễ nhiễm mặn, thì ít nhất mỗi năm sẽ gia tăng thêm 1 triệu tấn lúa cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. TS Phạm Văn Dư nhấn mạnh, nhà nước đang đầu tư rất lớn cho hệ thống thủy lợi, tuy rằng vẫn chưa thực sự hoàn hảo nhưng là hướng đúng đắn vì hàng năm sản lượng lúa thu hoạch của vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chứng tỏ điều này.
Đó là những giải pháp thích nghi với ngập mặn hiện nay, trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với vấn đề biến đổi khí hậu, mà các kịch bản dự báo đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập mặn một diện tích rất lớn vào cuối thế kỷ, TS Phạm Văn Dư nhấn mạnh đây là một chương trình quốc gia tổng thể lâu dài và bao gồm nhiều bộ ngành trong chính phủ. Nhiều cơ hạn hán kéo dài khiến mực nước sông Mêkông xuống thấp đến mức chưa từng thấy từ hai thập niên qua.
Tình trạng cạn kiệt này làm ảnh hưởng đến sự lưu thông của tàu thuyền trên con sông lớn này, là nguồn sống của trên 65 triệu cư dân sáu quốc gia nằm dọc ven bờ giòng Mêkong. Theo uỷ ban sông Mekông thì hịên tượng mực nước Mêkông xuống thấp là hậu quả của những trận mưa thưa thớt vào mùa khô năm 2009, chứ không do các đập nước mà Trung Quốc xây dựng trên thượng nguồn gây ra.
Hôm nay, các quan chức đại diện của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam hội họp tại Luang Prabang để thảo luận về các vấn đề liên quan đến sông Mêkông. Hai nước ven bờ sông này là Trung Quốc và Miến Điện, không là thành viên của uỷ ban sông Mêkông.
Việc mực nước sông Mêkông xuống thấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của hàng chục triệu người vì họ sẽ rơi vào tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước dùng cho canh tác và khiến các vùng đất nghèo khó trong khu vực bị khó khăn hơn.
Tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,1 độ C và mực nước biển dâng từ 2,5 - 3 cm trong vòng mỗi thập kỷ qua. Sự thay đổi chế độ mưa với lượng mưa tăng vào mùa mưa nhưng lại giảm vào mùa khô là nguyên nhân gây ra lũ lớn thường xuyên hơn và hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực trong cả nước.
Những biến đổi khí hậu đã và đang gây ra nhiều tác hại đối với sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cũng như các ngành công nghiệp như thuỷ điện, dầu khí, giao thông cảng biển. Đây là những kết quả nghiên cứu do Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường đưa ra trong lễ công bố Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của UNDP, sáng 28.11 tại Hà Nội.
Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Công Thành hoàn toàn nhất trí rằng, biến đổi khí hậu giờ đây không chỉ đơn thuần là vấn đề môi trường, mà còn là vấn đề về phát triển. Biến đổi khí hậu tác động nhiều đến các hoạt động kinh tế - xã hội của các nước. Mọi nỗ lực để phát triển xã hội loài người có nguy cơ bị hủy hoại do biến đổi khí hậu gây ra. Khẳng định những đóng góp tích cực của Việt Nam vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, ông Nguyễn Công Thành cũng cho biết, Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam, trên cơ sở đó sẽ xây dựng Chiến lược quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu.
Với chủ đề "Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách", Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của UNDP đã chỉ ra 5 nguy cơ của tình trạng biến đổi khí hậu đang gia tăng hiện nay, đối với sự phát triển của con người. Cụ thể là năng suất nông nghiệp đang bị giảm sút, các hệ sinh thái tan vỡ, nguy cơ thời tiết cực đoan, bệnh tật và tình trạng thiếu nước ngày càng gia tăng. Đáng chú ý là các nước đang phát triển, nước nghèo và người nghèo lại chính những đối tượng bị tổn thương nhiều nhất do biến đối khí hậu mang lại. Một kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ rủi ro do thiên tai gây ra đối với một số lượng người cụ thể ở các nước phát triển và con số tương ứng ở các nước đang phát triển, khác nhau tới 79 lần.
Báo cáo kêu gọi các quốc gia hãy hành động tích cực hơn để tránh biến đổi khí hậu nguy hiểm, giảm thiểu những tác động nguy hại do tình trạng này gây ra, cụ thể là giới hạn hiện tượng nóng lên của trái đất ở mức dưới 2 độ C (trong thế kỷ XXI); đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu.
Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu. Riêng năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra trên toàn quốc ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng.
73% dân số bị ảnh hưởng
Tại hội thảo liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận định: 73% dân số, chủ yếu là người nghèo (liên quan đến 6 lĩnh vực chính trong ngành NN&PTNT là: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản thuỷ lợi và phát triển nông), là đối tượng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất.
Hiện tượng El Nino đã gây ra hạn hán nghiêm trọng tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ với thiệt hại 312 triệu USD. Ở Trung Bộ, những năm có La Nina, số lượng trận lũ tăng 1,4 lần, hạn hán đông xuân thường xảy ra nghiêm trọng.
Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng liên tục phải đối phó với hạn hán gay gắt do mực nước sông Hồng liên tục xuống thấp đến mức lịch sử.
10 năm qua, nhiều đợt hạn hán đã hoành hành gây thiệt hại nặng nề đối với sản xuất nông lâm nghiệp. Trong khi đó, bão lũ lại liên tiếp xảy ra ở các địa phương khác.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng trong năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra ở 50 tỉnh thành phố trên cả nước ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. Cùng với đó là gần 440 người chết, mất tích; hàng trăm nghìn ha lúa bị hư hại; hàng chục nghìn công trình dân sinh, thủy lợi bị phá hủy; tình trạng thiếu đói xảy ra liên miên;...
Trận lụt lịch sử ở nước ta năm 1995 (Ảnh: Việt Hưng)
Bộ Tài nguyên - Môi trường chính thức thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%.
TS Nguyễn Hữu Ninh cảnh báo: Việt Nam có hai thành phố ven biển lớn nhất là Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu trong vòng 20-50 năm tới. Như những trận triều cường lịch sử ở TPHCM cuối năm qua, chủ yếu là do ảnh hưởng của nước biển dâng và gia tăng nhiệt độ toàn cầu.12% diện tích đất có nguy cơ biến mất
Theo kết quả nghiên cứu của thế giới, Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng tồi tệ nhất trước tình hình thay đổi và mực nước biển dâng.
Các nhà khoa học Australia cũng cho biết: Từ nay đến năm 2050, hiện tượng khí hậu ấm lên trên toàn thế giới cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
Theo báo cáo của uỷ ban Tham vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế : Nước ta sẽ xảy ra hiện tượng nước mưa bị axít hoá do lượng CO tăng dẫn đến sản lượng hải sản và lúa gạo giảm nghiêm trọng. Các đầm hồ trong đất liền bị nhiễm mặn sẽ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, nhiều loài có giá trị kinh tế hoặc ý nghĩa khoa học sẽ bị chết hoặc di cư.Biến đổi khí hậu cũng làm ảnh hưởng sâu sắc đến nguồn tài nguyên nước, dẫn đến ảnh hưởng dòng chảy, lưu lượng đỉnh lũ, độ bốc thoát hơi đều tăng khiến nguồn nước ngọt cũng giảm đi đáng kể.
Dự báo trong tương lai, khí hậu Việt Nam sẽ nóng lên, mùa đông ít đi, mưa phùn giảm đi rõ rệt ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
UNDP thông báo: mực nước biển chỉ cần tăng lên 1m thì Việt Nam sẽ tác động tiêu cực tới 5% đất đai; 11% tổng dân số; 7% nông nghiệp; giảm 10% GDP. Với dự lượng tăng 3m-5m có nghĩa là “thảm hoạ có thể xảy ra”. Chính vì vậy, Việt Nam cần thu thập và đầu tư có hiệu suất trong nghiên cứu để có thêm những thông tin chính xác hơn nhằm giảm rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra. Vấn đề này cũng cần sự hiểu biết sâu rộng ở các cấp lãnh đạo địa phương để cùng giải quyết vấn đề.Nóng lên toàn cầu là hiện tượng tăng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trong vài thập kỷ gần đây, diễn ra khắp mọi nơi và hâm nóng cả hành tinh, phá vỡ hệ sinh thái toàn cầu. Ngày càng có nhiều nhà khoa học tin rằng khí nhà kính bị giữ lại trong bầu khí quyển. Tấm màn dày đặc này đã làm tăng nhiệt độ trái đất. Nóng lên toàn cầu làm cho băng ở Bắc Cực và Nam Cực tan ra, khiến mực nước biển dâng lên cao nhấn chìm các khu vực ven biển và gây lụt lội khắp nơi; những sinh vật chỉ sống được ở vùng khí hậu lạnh sẽ đứng bên bờ vực tuyệt chủng; nhiệt độ tăng còn gây nên hạn hán và làm cạn kiệt nguồn nước ở các quốc gia vốn có lượng mưa trung bình ít ỏi.
Chúng ta có thể thấy rõ những hậu quả này trong những năm gần đây như hiện tượng băng tan nhanh ở Nam Cực và Greenland. Theo dự đoán của các nhà khí hậu học, việc các tảng băng này bị tan nhanh chóng ngoài mong đợi có thể làm cho mực nước biển tăng lên 5 mét. Bão nhiệt đới ở Châu Á và cuồng phong ở Châu Mỹ tàn phá dữ dội, lụt lội và hạn hán nghiêm trọng cùng một lúc ở Châu Á, nắng nóng kỷ lục ở Châu Âu khiến hàng vạn người chết. Ở Việt Nam, chúng ta cũng đối mặt với những thảm họa thiên nhiên chưa từng có. Bão Xangsane với cấp độ lớn vượt mọi ghi chép từng có, rét mướt bất thường kéo dài kỷ lục ở miền Bắc, hạn hán kéo dài hủy hoại ngành trồng trọt và điện lực v.v.
Kết quả dự báo của các nhà khoa học thế giới cho rằng, Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng. Nếu nhiệt độ trái đất tăng hơn 20C, các cơn bão và áp thấp nhiệt đới sẽ tăng nhanh về số lượng cũng như cường độ, khi đó Việt Nam ước tính có khoảng 22 triệu người (một phần năm dân số) sẽ mất nhà ở, 45% diện tích đất canh tác ở đồng bằng Sông Cửu Long bị đe dọa. Nếu mực nước biển dâng lên 1 mét, Việt Nam có khoảng 10,8% dân số bị đe dọa và 5% diện tích đất bị mất và giảm 10% GDP. Riêng đồng bằng Sông Cửu Long, diện tích đất ngập lụt lên đến 20.000 km2 và hơn 14 triệu dân cư chịu ảnh hưởng trực tiếp. Mức độ tác động này tăng lên hơn 3 lần nếu mực nước biển dâng lên 5 mét, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến 16% diện tích đất và 35% dân số quốc gia. Những dự báo về phạm vi mực nước biển dâng cao trong tương lai rất khác nhau, tuy nhiên theo công bố của quốc gia gần đây đã khẳng định mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao 1 mét vào năm 2100.
Chúng ta đã thấy dấu hiệu và viễn cảnh của những thay đổi to lớn diễn ra trên Trái Đất. Nhưng chúng ta thường phản ứng chậm chạp với những thứ diễn ra có vẻ từ từ, và thật khó để hình dung được những hậu quả trong tương lại mà hiện tượng nóng lên toàn cầu và nước biển dâng sẽ gây ra. Biến đổi khí hậu không chỉ tác động mang tính toàn cầu mà cách cư xử, lối sống của mỗi cá nhân cũng tác động tiêu cực hay tích cực đến khí hậu.
Thay đổi thói quen sử dụng tiết kiệm năng lượng hiệu quả: lựa chọn lắp đặt các thiết bị tiết kiệm điện, điều chỉnh sử dụng đồ điện máy lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, quạt điện, máy tính, máy giặt, lò vi sóng, ti vi, ấm đun nước.
Tiết kiệm điện năng, tiết kiệm năng lượng trong giao thông, vận tải, tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường
Tiết kiệm sử dụng nguồn nước
Nên mua các loại thực phẩm sản xuất tại địa phương và theo thời vụ kích thích phát triển kinh tế xã hội của địa phương, giảm đáng kể lượng khí nhà kính trong quá trình sản xuất và lưu thông.Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên 30C và mực nước biển dâng lên 1m vào năm 2100. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (năm 2007), Việt Nam là 1 trong 5 nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị ngập hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam bị ngập vĩnh viễn, đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ...
Những dự báo khắc nghiệt
Đầu năm nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), với 9 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Chương trình sẽ được thực hiện trên toàn quốc, trong 3 giai đoạn: từ năm 2009-2010 là giai đoạn khởi động; từ năm 2011-2015 là giai đoạn triển khai và sau năm 2015 là giai đoạn phát triển. Tổng vốn dự kiến từ năm 2009-2015 là 1.965 tỉ đồng. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, BĐKH đã làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng khốc liệt. Dự báo, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình có thể tăng thêm khoảng 30C và mực nước biển dâng cao thêm 1m. Mực nước biển sẽ dâng cao từ 15 - 90 cm vào năm 2070. Một điều dễ nhận thấy của BĐKH là nhiệt độ trái đất đang tăng lên.
Theo GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ (Trung tâm Khoa học công nghệ khí tượng thủy văn và môi trường), trong 70 năm qua, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng lên 0,70C và mực nước biển dâng cao thêm 20 cm. Nhiệt độ trung bình 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000), cao hơn 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960). Trong khi đó, các cơn bão có xu hướng dịch chuyển vào phía Nam và mùa bão cũng chuyển dần về cuối năm; nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan đã xuất hiện, gây hậu quả nặng nề về người và tài sản ở các địa phương trong cả nước.
Trong khoảng 25-30 năm trở lại đây, đã có khoảng 30 bệnh mới xuất hiện tại Việt Nam, một số bệnh cũ cũng đã xuất hiện trở lại do những biến đổi của khí hậu.
Theo nhận định chung của các nhà khoa học, khí hậu ngày càng biến đổi theo chiều hướng xấu hơn. Việt Nam được xác định là một trong những nước bị tác hại nặng nề của BĐKH. Với trên 80% diện tích mặt đất có độ cao thấp hơn 2,5m so với mặt nước biển, ĐBSCL được đánh giá là khu vực sẽ gánh chịu nhiều tác hại xấu do BĐKH. BĐKH đã gây ra nhiều thay đổi về mực nước và tình hình xâm nhập mặn.
Trong một nghiên cứu khác, một nhóm chuyên gia của ĐH Hoàng gia Thái Lan sử dụng phần mềm IPCC dự báo đến năm 2100 khí hậu sẽ càng khắc nghiệt hơn. Nhiệt độ không khí không phải chỉ tăng 30C mà sẽ tăng lên 4 - 50C , số ngày có nhiệt độ cao hơn 350C sẽ tăng lên đến 240 ngày/năm. Những đợt sóng nhiệt dâng cao có thể lên đến 400C, thậm chí là 450C. Vào mùa mưa, mực nước biển Đông sẽ cao hơn hiện nay khoảng 1m, mực nước lũ của ĐBSCL sẽ tăng thêm khoảng gần 2m so với mức lũ hiện nay.
Hậu quả của nước biển dâng cao không phải chỉ có ngập tĩnh. Các vùng ven bờ và cửa sông bị xâm thực làm cho cơ sở hạ tầng ven biển bị đe dọa lớn hơn. Bên cạnh đó chế độ thủy văn trên từng địa bàn sẽ có những thay đổi ảnh hưởng tới tình trạng xói lở, bồi lắng phù sa trên các hệ thống sông chính cũng thay đổi.
Đại họa với vựa lúa số 1
Nếu mực nước biển dâng cao như đã nêu, sẽ có khoảng 90% diện tích trồng lúa ĐBSCL bị ngập hoàn toàn (không sản xuất được), các tỉnh có tỷ lệ ngập cao theo thứ tự lần lượt là Bạc Liêu, Bến Tre, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh và Vĩnh Long. Theo nghiên cứu của Phân viện Khí tượng thủy văn và môi trường phía Nam, kết quả quan trắc tại các trạm ở ĐBSCL cho thấy: từ năm 1960 - 2000, lượng mưa có sự gia tăng khoảng 200 - 400 mm. Trong những năm cuối của giai đoạn này tại một số địa phương ở ĐBSCL như Cần Thơ, Phú Quốc lượng mưa đã đặc biệt tăng cao. Số cơn bão có ảnh hưởng đến ĐBSCL cũng tăng cao. Trong suốt 87 năm (1884 - 1970), chỉ có 0,75% số cơn bão và áp thấp nhiệt đới trên Thái Bình Dương có ảnh hưởng đến ĐBSCL. Nhưng con số này đã tăng lên tới 2,88% trong thời gian gần đây (1956 - 1997). Tình trạng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền càng phổ biến. Ông Lê Quang Minh, Sở TN-MT Cần Thơ cho biết, mùa khô 1998, nước mặn với độ mặn 4% đã tràn vào đất liền, có nơi vào sâu tới 45 km, 2/3 diện tích bán đảo Cà Mau bị nhiễm mặn, hơn 200 ngàn ha lúa hè thu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, 32% trong số đó bị mất trắng.
Gần 2 triệu cư dân lưu vực sông Hồng bị ảnh hưởng
Nước biển dâng 1m sẽ có 1.668 km2 đất thuộc đồng bằng sông Hồng bị ngập, 1.874.011 người bị ảnh hưởng. 2.983 km2 đất bị ngập. Một kịch bản khác chỉ ra rằng, nếu nước biển dâng 2m thì nước sẽ gây ngập 4.693 km2 đất và 5.589.629 người chịu ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau.
Tại vùng đồng bằng duyên hải Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, mực nước biển dâng sẽ thu hẹp diện tích rừng ngập mặn, tạo điều kiện xói lở bờ biển, gây khó khăn cho nghề cá do những thay đổi theo hướng xấu đi của phần lớn nguồn lợi thủy sản. Diện tích sinh sống của các khu dân cư ven biển bị thu hẹp, khả năng xói lở bờ biển tăng lên, trực tiếp đe dọa các công trình giao thông, xây dựng, công nghiệp và một số đô thị trên nhiều tuyến bờ biển.
170 ngàn người tại Đà Nẵng sẽ mất nhà trong 30 năm nữa!
Theo báo cáo tại hội thảo "TP Đà Nẵng và biến đổi khí hậu" được tổ chức vào hôm 20.2 vừa qua, trong 30 năm nữa, khi mực nước biển dâng 30 cm thì sẽ có 30.000 hộ với hơn 170.000 người ở 18 xã phường ven biển mất nhà ở. Cùng với nó là tình trạng nước biển dâng, triều cao làm ngập lụt ở đồng bằng sâu thêm, thời gian kéo dài hơn. Khi đó, số lượng nhà cửa vùng nông thôn bị ngập sẽ tăng lên 40.000 nhà, mức thiệt hại dự kiến sẽ gấp đôi lũ 1998.
Khi diễn biến khí hậu, gió bão ngày một mạnh hơn thì vùng bờ biển nam Liên Chiểu, bắc Thanh Khê và ven Sơn Trà, Hòa Hải sẽ nằm trong đích ngắm của hà bá. Hiện tại, dòng chảy sông Yên đang cạn kiệt, nên tình trạng mặn đã xâm nhập sâu đến đập An Trạch, đe dọa và làm trầm trọng thêm mức độ thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt. Ước tính, sẽ có hơn 700.000 người dân nội thành sẽ thiếu nước sinh hoạt khi khả năng thiếu nước trên nhánh sông Ái Nghĩa đang ngày một báo động. Đi kèm với điều này là thảm họa cho đời sống và phát triển của thành phố khi hàng ngàn cơ sở sản xuất, dịch vụ bị đình trệ sản xuất.
(Còn tiếp)
Tiến sĩ Lương Thị Vân (Trưởng khoa Địa lý - ĐH Quy Nhơn): Nhiều loài động thực vật sẽ bị tuyệt chủng
Đến nay, những dự báo và lo ngại của các nhà khoa học thế giới về sự BĐKH toàn cầu không còn là vấn đề phải tranh cãi. Có rất nhiều kết quả quan trắc đáng tin cậy về hiện tượng nhiệt độ trái đất đang nóng dần lên gần 10C so với hơn một thế kỷ qua. Thực tế cho thấy băng đã tan ở hai đầu cực, các lỗ thủng xuất hiện ở tầng ozon, mực nước biển dâng cao, khô hạn, cháy rừng, mưa acid, lũ lụt, sạt lở đất đá... diễn ra trên diện rộng với cường độ lớn và tần suất cao, ảnh hưởng và đe dọa trực tiếp đến sự phát triển, tồn tại của tất cả các cộng đồng và quốc gia trên thế giới. Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất do BĐKH (Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam và Nhật Bản).
Theo cảnh báo, nếu mực nước biển dâng cao 1m, Việt Nam sẽ mất hơn 65% diện tích rừng ngập mặn; đa dạng sinh học bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng và chất lượng, nhiều loài động thực vật sẽ bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng rất cao; 10% dân số sẽ bị mất nơi cư trú, dịch bệnh và các căn bệnh lạ, hiểm nghèo trong các cộng đồng dân cư sẽ xuất hiện không thể kiểm soát do nhịp sinh học bị thay đổi.Tại hội thảo Thông báo các kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (tổ chức tại Hà Nội ngày 9.9), PGS.TS Trần Thục, viện trưởng viện Khoa học khí tượng thuỷ văn và môi trường, tổ trưởng tổ soạn thảo kịch bản BĐKH, cho biết vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ ở nước ta có thể tăng 2,3oC so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999. Mức tăng nhiệt độ dao động từ 1,6 đến 2,8oC ở các vùng khí hậu khác nhau. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc và Bắc Trung bộ tăng nhanh hơn so với nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Nam. Tại mỗi vùng thì nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè.
Tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa ở tất cả các vùng khí hậu của nước ta đều tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô có xu hướng giảm, đặc biệt là ở các vùng khí hậu phía Nam. Tính chung cho cả nước, lượng mưa năm vào cuối thế kỷ 21 tăng khoảng 5% so với thời kỳ 1980 – 1999. Ở các vùng khí hậu phía Bắc mức tăng lượng mưa nhiều hơn so với các vùng khí hậu phía Nam. Vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm khoảng 30cm và đến cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm khoảng 75cm so với thời kỳ 1980 – 1999.
Do tính phức tạp của BĐKH và những hiểu biết chưa thật đầy đủ về BĐKH của Việt Nam cũng như thế giới, do đó chúng ta chọn kịch bản trung bình được đánh giá là hài hoà nhất. Kịch bản này sẽ được cập nhật và hoàn thiện vào các năm 2010 và 2015 theo kế hoạch đề ra.
Dựa trên các kịch bản nước biển dâng, bản đồ ngập đã được xây dựng, bước đầu là cho khu vực TP.HCM và khu vực ĐBSCL dựa trên các bản đồ địa hình tỷ lệ 1/2000 và 1/5000 đối với khu vực TP.HCM. Cụ thể với TP.HCM khi mực nước biển dâng 65cm, phạm vi ngập là 128km2 (6%); dâng 75cm, ngập 204km2; dâng 100cm, ngập 473km2 (23%).
Tuy nhiên, kịch bản hiện nay chưa chi tiết được tại những nơi như ĐBSCL, TP.HCM có bao nhiêu ngôi nhà, hộ dân, diện tích lúa, hoa màu... sẽ bị ngập chìm khi mực nước biển dâng lên 65cm hay 75cm. Kịch bản mới chỉ xác định được các số liệu như khi nước biển dâng lên 65cm thì phạm vi bị ngập khu vực TP.HCM là bao nhiêu kilômét vuông. Tương tự, khu vực ĐBSCL cũng mới chỉ xác định được khi nước biển dâng theo các mức 65cm, 75cm hoặc 100cm sẽ có bao nhiêu kilômét vuông bị ngập.
Viện Khoa học khí tượng thuỷ văn và môi trường được bộ Tài nguyên và môi trường giao cho đồng chủ trì cùng với công ty Giải pháp đô thị – nông thôn, phối hợp với các đơn vị liên Giải pháp đắp đê lớn bao quanh ĐBSCL được tính đến, nhưng lưu ý quy định của Ủy ban sông Mê Kông và điều kiện tài chính. Trong ảnh là một đoạn kè bao khu du lịch Nhà Mát, thị xã Bạc Liêu - Ảnh: T.T.Phong
Khi nước biển dâng, nông nghiệp sẽ là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Thanh Niên có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Đào Xuân Học về các giải pháp chống ngập và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.* Thưa Thứ trưởng, khi nước biển dâng 1m, một phần không nhỏ diện tích trồng lúa sẽ bị ngập, chúng ta phải làm gì để bảo đảm an ninh lương thực ?
- Các nhà khoa học chỉ ra rằng, khi nước biển dâng, tùy từng mức độ sẽ có những phần diện tích canh tác tương ứng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đồng bằng sông Hồng và đồng bằng duyên hải bị ngập, bị nhiễm mặn. ĐBSCL là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, theo tính toán sơ bộ, nước biển dâng 1m, lũ sẽ gây ngập 90% diện tích trong 4 tháng rưỡi - 5 tháng/năm, vào mùa kiệt nước mặn (nồng độ muối 4%0) xâm nhập trên 70% diện tích. Vì đây là những vựa lúa của cả nước nên chắc chắn khi đó, an ninh lương thực sẽ bị đe dọa.
Ngay từ bây giờ chúng ta phải bắt tay nghiên cứu đón đầu để có được các giống lúa chịu mặn, chịu ngập, chịu hạn cho năng suất cao…
Thứ trưởng Đào Xuân Học
Quan điểm của chúng tôi là nếu nước biển dâng ở mức 1m thì sẽ sử dụng giải pháp công trình để đảm bảo ĐBSCL vẫn sản xuất được 2 vụ lúa trong năm. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, chúng ta phải bắt tay nghiên cứu đón đầu để có được các giống lúa chịu mặn, chịu ngập, chịu hạn cho năng suất cao, đề phòng trường hợp các giải pháp công trình không phát huy hiệu quả và mực nước biển dâng quá cao. Tôi được biết, chúng ta đã có quỹ gien lúa chịu ngập, mỗi ngày có thể cao lên từ 15 - 20 cm nhưng năng suất còn thấp. Bây giờ, nhiệm vụ của các nhà khoa học là phải khôi phục giống lúa này và cải tạo để có giống lúa vừa chịu ngập tốt, vừa đảm bảo năng suất cao. Bên cạnh đó, cơ cấu lại cây trồng theo hướng tìm các loại cây trồng thích ứng với đất đai từng vùng và biến đổi khí hậu để đảm bảo an ninh lương thực là giải pháp mà chúng ta cũng phải tính đến.
* Chúng ta có tính đến việc đắp đê để ngăn nước biển dâng?
- Tuyến đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam đang được gia cố, nâng cấp nhưng rất tiếc là chưa tính đến yếu tố nước biển dâng. Bộ NN-PTNT đã trình Chính phủ đề án xây dựng và nâng cấp tuyến đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang, trong đó có tính toán đến tác động của nước biển dâng trong tương lai. Theo đó, "hệ thống phòng thủ" sẽ được bày binh bố trận như sau: rừng ngập mặn được trồng từ 500m - 1km tùy từng vị trí, tiếp đến là tuyến đê đất, hệ thống cống chống mặn xâm nhập, sau đê có một đoạn lưu không, rồi đến trục đường giao thông ven biển có cao trình đảm bảo...
Tại ĐBSCL, giải pháp kỹ thuật được áp dụng để đảm bảo cấy 2 vụ lúa khi nước biển dâng cao 1m còn nhắm tới mục tiêu bảo đảm an toàn cho nhân dân. Bộ NN-PTNT đang tiến hành xây dựng "Quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng". Trong đó, giải pháp đắp đê lớn bao quanh ĐBSCL cũng được tính đến. Về lý thuyết chúng ta có thể thực hiện được, nhưng cần phải lưu ý đến các quy định của Ủy ban sông Mê Kông và điều kiện tài chính của đất nước có cho phép hay không.
Bộ NN-PTNT trong nội dung tờ trình trình Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020 nhấn mạnh: "Đến năm 2070 mực nước biển có thể nâng cao 0,90m so với hiện nay; 0,5 triệu ha đất của đồng bằng sông Hồng và 1,5-2,6 triệu ha đất của ĐBSCL sẽ bị ngập bởi thủy triều nếu không có hệ thống công trình bảo vệ". (M.V)
Giải pháp thứ hai gọi nôm na là "sống chung với lũ". Đê được đắp như bờ bao theo từng ô, mùa lũ vẫn tháo cống để nước chảy vào những khu vực không có dân cư đã được quy hoạch trước đó. Tuy nhiên, nếu áp dụng giải pháp này, nước mặn sẽ xâm nhập, nên bài toán mới được đặt ra là chúng ta sẽ phải đi tìm nguồn cung cấp nước ngọt ở đâu. Đây mới chỉ là những tính toán sơ bộ ban đầu, cần phải cân nhắc kỹ các giải pháp rồi lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện có hiệu quả.
* Có cách nào để chống ngập cho các địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nước biển dâng, thưa Thứ trưởng?
- Theo tính toán, các địa phương như TP.HCM, Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long và Hải Phòng sẽ chịu ngập lớn do triều cường. Hiện tình trạng ngập ở các đô thị đang ngày càng nghiêm trọng. Trong đó, triều cường nhiều lần làm vỡ bờ bao khiến TP.HCM bị ngập trên diện rộng, mỗi khi có triều cường thì 50% diện tích TP Cần Thơ ngập nước. Bộ NN-PTNT thực hiện quy hoạch chống ngập cho TP.HCM và đã được Chính phủ phê duyệt. Theo đó, hệ thống đê và cống sẽ được thiết lập ngăn không cho triều cường xâm nhập, nước mưa sẽ được tích trữ trong hồ và kênh rạch đợi khi triều xuống sẽ tháo cho rút. Bên cạnh đó, giải pháp bơm vợi cũng sẽ được áp dụng tại một số nơi, đơn cử như khu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Tôi tin, dự án hoàn thành sẽ giải quyết triệt để ngập do lũ, triều cường và tạo nền thoát nước mưa cho thành phố.
Cách chống ngập cho các thành phố khác về cơ bản cũng là đắp đê, xây cống và quy hoạch tích trữ nước mưa nhưng sẽ được tính toán để áp dụng phù hợp với điều kiện, đặc điểm địa hình của từng nơi. Hiện chúng tôi đang thực hiện xây dựng quy hoạch chống ngập cho TP Cần Thơ trong khi TP Cà Mau cũng đã đặt hàng miệng với Bộ NN-PTNT về lập quy hoạch chống ngập.
* Xin cảm ơn ông!
Theo số liệu của Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam Bộ, những năm gần đây diện tích đất trồng lúa ở khu vực này đã có xu hướng suy giảm; năm 2000 diện tích trồng lúa của vùng trên 3,94 triệu ha, đến năm 2006 chỉ còn 3,77 triệu ha. Mặt khác, tính đa dạng sinh học ở những khu rừng ngập mặn ven biển; những mô hình nuôi, trồng thủy sản cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi nước biển dâng. (C.N)
Những cách ứng phó
ĐBSCL trước nay được xem là vùng sản xuất lương thực, thủy sản lớn nhất cả nước. Vùng canh tác lúa là vùng đất trũng ngập nước theo mùa mưa với cao trình thấp 0,5 - 1,5m so với mực nước biển. Vì vậy khi mực nước biển dâng cộng với việc bị nhiễm mặn, nếu không có giải pháp ngăn chặn thì sẽ không thể canh tác nông nghiệp.
Tổng kết kinh nghiệm từ nhiều nơi trên thế giới, GS-TSKH Nguyễn Ngọc Trân (nguyên Phó chủ nhiệm UB Đối ngoại của Quốc hội) cho rằng “có 3 cách ứng phó với nước biển dâng là: bảo vệ (chống đỡ hay đương đầu), thích nghi và rút lui về phía sau. Ông cho rằng, 3 cách này đều có thể áp dụng với các đối tượng là công trình kiên cố, sản xuất nông nghiệp, các hệ sinh thái và đặc biệt là hệ sinh thái đầm lầy”.
Chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây Nam Bộ thì cho rằng cần đánh giá chính xác những tác động của biến đổi khí hậu, mức nước biển dâng trong khu vực để có những giải pháp chiến lược. Từ đó quy hoạch tổng thể hệ thống đê biển, cửa sông. Đồng thời xây dựng quy hoạch tổng thể vành đai rừng ngập mặn ở các tỉnh ven biển ĐBSCL từ Long An đến Kiên Giang để đảm bảo an toàn phòng hộ chắn sóng và bảo vệ cân bằng môi trường.
Mặt khác, phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho các cấp chính quyền và ngành chức năng; đồng thời đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai. Tuyên truyền giúp mọi người nhận thức được những tác động của biến đổi khí hậu gây nên. Trong quy hoạch cần phân vùng thủy văn, thủy lực theo các phương án mực nước biển dâng để có những giải pháp thích hợp. Đó là viễn cảnh của TP.HCM năm 2050 theo hình dung của các chuyên gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại hội thảo “Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu và sự thích ứng tại TP.HCM: từ nghiên cứu đến hành động” do Sở Tài nguyên - môi trường tổ chức sáng 14-7.
Chưa có ai cầm ngọn cờ chống biến đổi khí hậu
Ông Đào Anh Kiệt, giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường TP.HCM, cho biết vấn đề biến đổi khí hậu đang trở thành mối quan tâm lớn của VN nói chung và chính quyền TP nói riêng. Song ông Kiệt thừa nhận: “Do vấn đề này có dính dáng đến nhiều sở ngành nên đến nay UBND TP cũng chưa xác định giao cho sở ngành nào cầm ngọn cờ làm đầu mối lo chuyện này”.
Ngập sâu và lâu hơn
TS Jeremy Carew-Ried, đồng tác giả công trình nghiên cứu về thích ứng với biến đổi khí hậu tại TP.HCM của ADB, cho rằng với vị trí trung tâm và là “thủ lĩnh” của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu của TP.HCM không chỉ có ý nghĩa với bản thân TP mà còn quyết định “sức khỏe” của cả khu vực. Lấy mốc năm 2050 và kịch bản biến đổi khí hậu làm mực nước biển tăng thêm 26cm, nhóm nghiên cứu đã dự báo những tác động có thể xảy đến với hạ tầng, kinh tế - xã hội.
Theo đó, đến năm 2050, hầu hết các quận huyện, phường xã của TP sẽ chịu nguy cơ ngập lụt, kể cả những nơi trước đó chưa bao giờ bị ngập. Cụ thể, có đến 177/322 phường xã với 123.152ha (chiếm 61% diện tích của TP) sẽ chịu ngập lụt thường xuyên. Con số này có thể lên đến 265 phường xã và 141.885ha (71% diện tích TP) nếu xảy ra bão. Đáng kể hơn là độ sâu ngập sẽ tăng từ 21-40% và thời gian ngập kéo dài thêm 12-22% so với hiện nay.
Và theo dự báo của nhóm nghiên cứu, nạn xâm nhập mặn dự báo sẽ lan sâu hơn, trầm trọng hơn vào năm 2050 kể cả trong mùa ngập lụt cũng như mùa khô hạn. Hậu quả là khả năng sử dụng nước sông, kênh rạch và nước ngầm ở phía nam TP phục vụ sinh hoạt, tưới tiêu cho nông nghiệp sẽ bị hạn chế. Chưa kể, khi đó nhiệt độ mặt biển ở biển Đông ấm hơn sẽ làm những cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào các tỉnh phía Nam thường xuyên hơn, cường độ mạnh hơn và khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến TP.HCM nhiều hơn.
Có thể mất 44,8 tỉ USD
Song song đó, do nhiều khu vực xung quanh, nhất là ĐBSCL, cũng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ngập lụt nên sẽ có một làn sóng di dân từ các tỉnh về TP.HCM với con số “phỏng đoán khiêm tốn” khoảng 2 triệu người. Khi ấy, tình trạng ngập lụt sẽ tác động đến 39% số hộ nghèo nếu có hệ thống đê bao và có thể lên đến 57% nếu không có hệ thống đê bao. Và theo nhóm nghiên cứu, dân nghèo sẽ phải chịu tác động của biến đổi khí hậu nhiều hơn các nhóm xã hội khác.
Trong khi đó, tình trạng ngập lụt cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất công nghiệp khi 50% các khu công nghiệp bị ngập và 20% bị cô lập gián tiếp do nằm cách vùng ngập không quá 1km. Khoảng 60% việc làm trong các ngành sản xuất có thể bị tác động do biến đổi khí hậu vào năm 2050. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính đối với diện tích đất bị ngập lụt thường xuyên năm 2050 khoảng 6,69-22,1 tỉ USD. Nếu tính thiệt hại GDP do ngập lụt thường xuyên, con số mất mát có thể lên tới 44,8 tỉ USD.
“Kịch bản hù dọa”
Theo PGS.TS Trần Thục - viện trưởng Viện Khoa học khí tượng, thủy văn và môi trường (Bộ Tài nguyên - môi trường), công trình của nhóm nghiên cứu của ADB rất có giá trị về mặt khoa học. Tuy nhiên, ông Thục cho rằng nhóm nghiên cứu đã đưa ra một “kịch bản hù dọa” quá trầm trọng.
Theo ông, không thể dự báo biến đổi khí hậu năm 2050 mà chỉ có thể xây dựng các kịch bản dựa trên tình hình kinh tế - xã hội, lượng phát thải khí nhà kính. “Điều kiện cực đoan ở đây được dùng là lũ thượng nguồn 100 năm xảy ra một lần là quá lớn rồi, nước dâng do bão 1% cộng với mưa 3%, cộng với triều cường nữa thì theo tôi, dù nước biển có dâng hay không thì cũng đã ngập rồi. Đưa ra một bản đồ ngập toàn TP trong điều kiện như thế này là quá hù dọa và không hiện thực” - ông Thục nói. Theo ông Thục, chỉ nên chọn kịch bản với mức tác động trung bình để gần thực tế hơn.
Ông Ayumi Konishi - giám đốc quốc gia ADB tại VN - nhìn nhận những nghiên cứu của ADB còn ở mức dự báo và cần được tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên để nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn như các cử tọa dự hội thảo đề xuất cần phải có một nguồn kinh phí khổng lồ.
Còn mơ hồ và xa?
TS Chế Đình Lý - phó viện trưởng Viện môi trường và tài nguyên ĐH Quốc gia TP.HCM - cho rằng những phác họa của nhóm nghiên cứu ADB chưa nêu bật được đặc thù của TP.HCM và của VN. “Tôi nghĩ công trình nghiên cứu nên đưa ra các chỉ thị, chỉ số đơn giản và dễ hiểu đối với các nhà lãnh đạo. Bởi vì đối với các nhà quản lý mà nói chuyện năm 2050 là mơ hồ và còn xa lắm” - ông Lý nhận xét. Theo ông, việc nghiên cứu cần chỉ ra được trong năm nay làm gì, năm tới làm gì để chính quyền TP có hành động cụ thể. Ông Lý đề nghị TP đưa nội dung biến đổi khí hậu vào chương trình giáo dục để trẻ em tiếp cận ngay từ bây giờ và đến năm 2050 khi khí hậu trở nên xấu thì trẻ em đã thành người lớn và có đủ kiến thức để thích ứng.Năm nay hiện tượng xảy ra rất bất thường, mực nước trên sông được ghi nhận thấp quá sức tưởng tượng, dòng sông trở nên yên tĩnh trong nỗi lo lắng. Dòng thủy lộ vốn ngược xuôi tấp nập bỗng trở thành trơ sỏi đá. Nông dân ven bờ, những người mà hoạt động nông vụ phụ thuộc nhiều vào nguồn nước của dòng sông cũng bỗng nên thẩn thờ với cái nhìn xa xăm nơi dòng nước đã cạn dần. Nỗi lo của họ bỗng dưng cùng chung với người ngược xuôi giang hồ sông nước. "Nếu vài ngày nữa không có nước thì tất cả vụ vúa đông xuân sẽ đi mất, chắc sẽ thất bát thôi” đó đây nghe tiếng thở dài của nông dân vùng soi bãi.
Dọc theo đường cong hình chữ S của Việt nam, nhiệt độ cao và sự giảm độ cao thủy văn của các dòng sông đang được cảnh báo sự hạn hán khắc nghiệt nhất trong hơn 100 năm qua. Ở độ cao 0.68 m, Hồng Hà đạt mức thủy văn thấp nhất theo so sánh số liệu thống kê kể từ năm 1902 đến nay. Hầu như chưa có trận mưa nào đáng kể từ tháng 9 năm ngoái đến nay, cháy rừng đã xảy ra trên diện rộng từ miền Tây Bắc và đang đe dọa những cánh rừng phía Nam. Nền nhiệt nâng cao trên toàn cõi miền Trung đã mở đường cho nạn sâu hại phá lúa, đe dọa hàng ngàn hectare lúa nước của miền duyên hải này.
Vùng chịu ảnh hưởng nặng nhất có lẽ là vùng Châu thổ sông Cửu Long. Mực nước an toàn đang giảm dần và có nguy cơ giảm thấp nhất trong 20 năm trở lại đây đang đe dọa sinh kế của hơn 10 trieeuj người, những nông dân châu thổ có sinh kế phụ thuộc hoàn toàn vào đồng áng, đánh cá và vận chuyển trên sông nước. Vấn đề lớn nhất ở đây vẫn chưa phải là nước mà là mặn. Trong suốt mùa khô, khi các con kênh dẫn nước từ các dòng sông mẹ cạn đi, nước biển thông qua hệ thống thủy triều tràn ngược vào đến hơn 30 km sâu trong đất liền. Việt nam đã thiết kế nhiều hệ thống cống, cửa nhằm ngăn ngừa tác động của thủy triều cũng như khống chế lũ lụt hàng năm. Những hệ thống này giúp cho người nông dân chủ động canh tác trong mùa mưa và nuôi tôm trong vùng nước lợ trong mùa khô. Kết quả của các biện pháp này đã nâng cao hiệu quả sử dụng đất và khẳng định năng suất lúa hàng năm, cải thiện đáng kể thu nhập của người dân địa phương vùng châu thổ kể từ đầu những năm 2000
Những tháng ngày bội thu có vẻ bị đe dọa nghiêm trọng. Trong suốt mùa hạn hán, nhiều nơi, nước mặn tràn vào đến khoảng 60 km sau trong đất liền. Hầu hết các trà lúa vụ đông xuân đang chờ ngày thu hái nhưng nước mặn đang cập kề đến cả những nơi mà trước kia chưa hề có đã đặt vụ hè thu trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Các cơ quan chức năng của ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang tăng cường gia cố hệ thống thủy lợi để ngăn chặn mặn hóa nhưng vẫn đối diện nhiều khó khăn.
Các dự án ở nội địa Trung Quốc phải chịu trách nhiệm phần nào về việc ngăn dòng chảy và tăng lượng nước bốc hơi, đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm giảm dòng chảy trên các con sông chính của Việt nam và các quốc gia lân bang. Trong thực tế, Việt nam đã và đang thúc đẩy các đàm phán phản đối việc xây dựng đập ngăn nước trên dòng Mê Kông, dòng sông lớn xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua 5 quốc gia trước khi đổ ra biển Đông. Theo Ủy ban sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây dựng 8 đập nước dọc theo sông Lan Thương, một tên khác của dòng Mê Kông trên phần lãnh thổ Trung Quốc. Các đập nước đã làm gia tăng đáng kể lượng trầm tích giữa dòng và tạo sự di cư phi tự nhiên của các loài thủy sản. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, bên cạnh những yếu tố tiêu cực đã thấy ở trên, các đập nước này cũng sẽ đóng góp trong việc điều chỉnh dòng chảy như tăng lượng nước trong mùa khô. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay, Trung Quốc cũng đang đối mặt với nạn hạn hán trầm trọng do sự thất thoát nước do các đập gây nên.
Hiện nay, ở miền Bắc Việt nam cũng vẫn đang nhộn nhịp với các dự án thủy điện. Mặc dù gần đây, chính phủ đã công bố rằng đủ nước từ các dự án thủy điện và thủy lợi cho nông dân vùng châu thồ Hồng Hà trồng lúa vụ Đông Xuân. Tuy nhiên, mức nước trong các hồ chứa ở miền Bắc đang ở mức thấp báo động. Các công ty thủy điện đang cảnh báo lượng nước có thể xuống thấp hơn. Nhu cầu năng lượng đang có nguy cơ tăng ngoài dự báo do nền nhiệt độ đang gia tăng nghiêm trọng. Mặc vù lượng nước trong thời gian qua có được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn nhu cầu hiện nay của địa phương, Ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu. Nền nhiệt tăng cao dẫn đến gia tăng lượng bốc hơi nước đã ảnh hưởng đến năng suất và canh tác lúa nước của nông Dân Vĩnh Phúc. Người dân đã áp dụng nhiều phương án giảm thiểu tiết kiệm nước nhưng vụ mùa năm nay tỉnh Vĩnh Phúc vẫn có nguy cơ đối diện với sự mất mùa.
Khủng hoảng do thiên hiện nay đã được gióng lên hồi chuông cảnh báo ở Việt nam. Nạn hạn hán đã được cảnh báo qua kết quả nghiên cứu hiệu ứng El Nino với nền nhiệt tăng bất thường và mùa đông khô hạn. Lúc này, theo truyền thống, Việt Namchuẩn bị cho các trận lụt và bão sắp tới với dự báo sẽ có sức tàn phá nghiêm trọng. Hạn hán sẽ là loại thiên tai tác động chậm rãi và lặng lẽ nhưng sẽ có ảnh hưởng lâu dài và sẽ gây ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế con người.
Bao giờ sẽ có mưa? Các nhà khí tượng đã dự báo rằng, ở miền Bắc, các cơn mưa sẽ về muộn vào cuối tháng 3 nhưng những miền khác của tổ quốc sẽ có thể được đón mưa đầu mùa vào tháng 8 hoặc cũng có thể trể hơn.
http://webcache.googleusercontent.co...&ct=clnk&gl=vn
vấn đề nước biển dâng cao có vẻ còn quá xa vời so với vấn nạn trước mắt: hạn hán.
bản đồ các vùng bị ảnh hưởng của Việt Nam nếu nước biển dâng
Chương trình "Ngày Sáng tạo Việt Nam năm 2010", với chủ đề "Biến đổi khí hậu" vừa được tổ chức tại Hà Nội. Ðây là chương trình do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức.
Chương trình "Ngày Sáng tạo Việt Nam năm 2010", với chủ đề "Biến đổi khí hậu" vừa được tổ chức tại Hà Nội. Ðây là chương trình do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức.
BĐKH đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam |
Theo Báo cáo phát triển năm 2010 của Ngân hàng Thế giới, biến đổi khí hậu (BĐKH) dự tính sẽ tác động lớn nhất lên các nước đang phát triển. Những tác động như gia tăng hạn hán, lũ lụt, bão và các đợt nóng... gây rủi ro lớn cho ngành nông nghiệp, thực phẩm và cung cấp nước, đe dọa và cản trở các nỗ lực xóa đói giảm nghèo.
Muốn giải quyết thách thức lớn này cần phải kết hợp giảm thiểu tác động BĐKH – để tránh những hậu quả ngoài tầm kiểm soát, và thích ứng với BĐKH – để xử lý các tác động không thể tránh khỏi và tập trung vào khía cạnh xã hội của nó.
Ứng phó với BĐKH được coi là một thách thức chủ yếu đối với tiến trình phát triển của Việt Nam. Những tác động do BĐKH ở Việt Nam là rất nghiêm trọng và là mối đe dọa sát sườn đối với việc hoàn thành mục tiêu giảm nghèo cũng như các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Các lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ biến đổi khí hậu ở Việt Nam là thủy lợi, an ninh lương thực, nông nghiệp, y tế; chủ yếu ở các khu vực đồng bằng thấp và các vùng duyên hải.
Muốn giải quyết thách thức lớn này cần phải kết hợp giảm thiểu tác động BĐKH – để tránh những hậu quả ngoài tầm kiểm soát, và thích ứng với BĐKH – để xử lý các tác động không thể tránh khỏi và tập trung vào khía cạnh xã hội của nó.
Ứng phó với BĐKH được coi là một thách thức chủ yếu đối với tiến trình phát triển của Việt Nam. Những tác động do BĐKH ở Việt Nam là rất nghiêm trọng và là mối đe dọa sát sườn đối với việc hoàn thành mục tiêu giảm nghèo cũng như các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Các lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ biến đổi khí hậu ở Việt Nam là thủy lợi, an ninh lương thực, nông nghiệp, y tế; chủ yếu ở các khu vực đồng bằng thấp và các vùng duyên hải.
Ngày Sáng tạo Việt Nam năm 2010 kêu gọi đề xuất về vấn đề "Ứng phó với biến đổi khí hậu" với các chủ đề phụ: Giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu, thích ứng với biến đổi khí hậu, các biện pháp cải tiến để hỗ trợ cho cả hai việc giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu...Ngày 16/9, tại TP.HCM, trong cuộc trao đổi với báo chí về vấn đề biến đổi khí hậu và đề xuất các giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu, ông Ralph Cantral, cố vấn cấp cao Văn phòng Quản lý biển và tài nguyên bờ biển - Cục Quản lý biển và khí quyển quốc gia Hoa Kỳ đã đưa ra 3 phương án ứng phó.
Người dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ phải di cư khi nước biển dâng lên....Ảnh Internet |
Theo ông Ralph Cantral, để ứng phó với biến đổi khí hậu: Thứ nhất cần tiến hành các biện pháp bảo vệ đất, nhất là đối với các vùng đất ven biển, bởi nếu có biến đổi khí hậu sẽ gây nên tình trạng đất quanh bờ biển bị xói mòn.
Thứ hai, các biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu như nâng kết cấu hoặc tạo ra các kết cấu có thể di chuyển được.
Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), TP. Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu (bao gồm Calcutta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thượng Hải, Quảng Châu của Trung Quốc, TP.HCM của VN, Bangkok của Thái Lan và Yangon của Myanmar). Kết quả thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, biến đổi khí hậu ở Việt Nam thực sự đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Trong vòng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình hàng năm tăng khoảng 0,7oC, mực nước biển dâng cao khoảng 20cm. |
Thứ ba, di dời dân ra khỏi vùng bị ảnh hưởng, đồng thời thực hiện việc tái định cư đối với các khu vực bị tác động của lũ lụt bằng cách di dân hoặc thôi vụ hoặc vĩnh viễn. Sau khi di dời, có thể tận dụng các vùng đất này làm đất nông nghiệp hoặc dùng vào các mục đích khác phù hợp hơn.
Tuy nhiên, theo ông Ralph Cantral, trong 3 phương án nêu trên, phương án thứ 3 có chi phí thực hiện thấp hơn cả.
Ngoài ra, trong 2 ngày làm việc tại Hà Nội, cố vấn cấp cao Văn phòng Quản lý biển và tài nguyên bờ biển - Cục Quản lý biển và khí quyển quốc gia Hoa Kỳ Ralph Cantral cũng đã có buổi làm việc với đại diện quốc hội Việt Nam.
Tại buổi làm việc nói trên, ông Ralph Cantral đã đưa ra những kinh nghiệm của Mỹ trong việc lập ra những văn bản pháp luật, quy chế cụ thể về biến đổi khí hậu.
Đồng thời, ông Ralph Cantral cho biết, ông cũng đã có một số đề xuất cụ thể với đại diện quốc hội Việt Nam về việc giải quyết ngập lụt cũng như bàn cụ thể về tiến trình đối phó với biến đối khí hậu với các chuyên gia Việt Nam.
Theo ông Ralph Cantral, các cơ quan Việt Nam hiện thiếu sự phối hợp đồng bộ trong việc nghiên cứu vấn đề biến đổi khí hậu cũng như đề xuất các giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, theo ông Ralph Cantral, trong 3 phương án nêu trên, phương án thứ 3 có chi phí thực hiện thấp hơn cả.
Ngoài ra, trong 2 ngày làm việc tại Hà Nội, cố vấn cấp cao Văn phòng Quản lý biển và tài nguyên bờ biển - Cục Quản lý biển và khí quyển quốc gia Hoa Kỳ Ralph Cantral cũng đã có buổi làm việc với đại diện quốc hội Việt Nam.
Tại buổi làm việc nói trên, ông Ralph Cantral đã đưa ra những kinh nghiệm của Mỹ trong việc lập ra những văn bản pháp luật, quy chế cụ thể về biến đổi khí hậu.
Đồng thời, ông Ralph Cantral cho biết, ông cũng đã có một số đề xuất cụ thể với đại diện quốc hội Việt Nam về việc giải quyết ngập lụt cũng như bàn cụ thể về tiến trình đối phó với biến đối khí hậu với các chuyên gia Việt Nam.
Theo ông Ralph Cantral, các cơ quan Việt Nam hiện thiếu sự phối hợp đồng bộ trong việc nghiên cứu vấn đề biến đổi khí hậu cũng như đề xuất các giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu.
Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều kế hoạch nghiên cứu nước cũng như tiến hành những chương trình giáo dục nâng kiến thức người dân để phòng chống bệnh dịch do việc biến đổi khí hậu gây nên. Khoa Diễm có bài viết tìm hiểu thêm chi tiết.
Khan hiếm nước sạch
Viện Nước quốc tế Stockholm (SIWI) ngày 19/3 cho biết mỗi năm trên thế giới có hơn 3,6 triệu người, trong đó có 1,5 triệu trẻ em, tử vong vì các bệnh tả, tiêu chảy, kiết lỵ, thương hàn... mà nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng nước bẩn. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh con số này vượt quá số người chết vì chiến tranh hoặc các thảm họa tự nhiên hàng năm và ông cũng cảnh báo rằng, nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm và sẽ càng khan hiếm hơn do biến đổi khí hậu.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng vừa công bố, nhiều bằng chứng khoa học cho thấy biến đổi khí hậu như nhiệt độ trái đất và mực nước biển tăng cùng các sự kiện thời tiết tiêu cực làm tăng sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm như tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trước tình hình khí hậu thay đổi và mực nước biển dâng. Nếu nước biển dâng lên một mét nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào đất liền. Trong khi Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, khi đó 22 triệu người Việt tương đương một phần năm dân số sẽ mất nhà ở, 12% số diện tích đất canh tác bị mất, sinh kế của hàng chục triệu người dân bị đe dọa.
Trong 2 ngày 4 và 5/11, 2009 cuộc Hội thảo Á - Âu mang tên “Chia sẻ kinh nghiệm ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu và các bệnh mới nổi” đã được Việt Nam và Hungari đồng tổ chức tại Hà Nội. Bộ trưởng Y tế Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Triệu cho biết, Bộ đã xây dựng kế hoạch tổng thể để giảm nhẹ các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sức khỏe người dân trong giai đoạn 2010-2015. Các hoạt động sẽ tập trung vào các khu vực dễ bị ảnh hưởng, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để giám sát, trong đó chú ý đến các bệnh dịch, các bệnh tái xuất hiện và mới nổi, xây dựng và nhân rộng mô hình cộng đồng ứng phó với biến đổi khi hậu cùng lúc, nâng cao nhận thức cho người dân về ảnh hưởng đến sức khỏe và nguy cơ phát sinh, phát triển các bệnh mới, triển khai các biện pháp phòng chống các bệnh truyền nhiễm lây lan.
Ông Triệu cũng cho biết, Việt Nam quyết tâm giải quyết các nguy cơ do biến đổi khí hậu gây ra và mong muốn được hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực phòng chống các bệnh dịch liên quan đến biến đổi khí hậu.
Theo lời của Tiến Sĩ Lâm Minh Triết, Viện Trưởng Viện Nước và Công Nghệ Môi Trường TPHCM, thì Việt Nam đang triển khai nhiều kế hoạch nghiên cứu để thích ứng với việc thay đổi khí hậu:
“Biến đổi khí hậu tác động đến rất nhiều thứ, mực nước biển dâng và hàng loạt các vấn đề, xâm nhập mặn, vấn đề nước dâng, ngập lụt, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường. Việt Nam hiện tại đang rất là khẩn trương để có những chương trình cùng với thế giới nguyên cứu những ảnh hưởng của khí hậu đối với tình hình của Việt Nam như thế nào.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất về biến đổi khí hậu trong nhiều năm tới nên bây giờ nhà nước Việt Nam cũng rất là khẩn trương để nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của khí hậu để đề xuất những giải pháp để thích ừng với biến đổi khí hậu nhằm giảm thiểu tác hại xấu nhất có thể trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Những hội nghị quốc tế tại Việt Nam, những chương trình hành động về biến đổi khí hậu. Hiện tại các địa phương có những chương trình rất là quan tâm đến ảnh hưởng đối với địa phương mình như thế nào và làm gì để chung sống hay thích nghi với biến đổi khí hậu đó.
Thí dụ như ở Ninh Thuận, họ đã đi sớm một bước là nghiên cứu các động cơ biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xã hội và cái sinh hoạt của người dân. Thậm chí bây giờ ở trường đại học những đề tài nghiên cứu sinh cũng rất là cập nhật với tình hình quốc tế, thí dụ như tình hình diễn biến chất lượng nước.”
Nâng cao ý thức người dân
Ngoài việc nghiên cứu về chất lượng nước thì Việt Nam cũng đang tiến hành những chương trình giáo dục người dân, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, về vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh chung để mọi người có một nền tảng tốt hơn về kiến thức căn bản trong việc phòng chống dịch bệnh và ý thức hơn trong việc giữ gìn sức khỏe qua những việc nhỏ họ có thể làm mỗi ngày.
Bác sĩ Đỗ Thị Hạ Kỳ, hiện đang làm việc tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định cho biết:
“Biến đổi khí hậu làm cho thiên tai nhiều hơn cho nên những dịch bệnh như tiêu chảy, nhiễm trùng tăng lên. Ví dụ như sau khi xảy ra đông đất ở Tứ Xuyên hoặc là những vụ thiên tai gần đây thì sau khi chuyện đó xảy ra thì người ta thấy các mầm bệnh nó lây lan nhiều. Còn ví dụ như ở Việt Nam hiện tại thì đang ở cái mùa phát hiện đang có dịch tả, TPHCM có hai ba ca dịch tả rồi nhưng nó chưa phải là dịch bệnh rõ, nó chỉ mới bắt đầu xuất hiện thôi.
Dịch bệnh đang tăng lên vì tỷ lệ ô nhiễm thay đổi rồi biến ra các thực phẩm biến đổi gien, sức đề kháng con người yếu xuống cho nên các bệnh như bệnh lao, bệnh nhiễm trùng, bệnh về vấn đề hô hấp tăng lên. Phòng ngừa là quan trọng nhất, phòng ngừa bằng cách giáo dục người dân thay đổi lối sống, ở nước ngoài thì môi trường sạch sẽ lắm nhưng chứ ở Việt Nam thì môi trường không được sạch cho nên phải hướng dẫn người ta cách giữ vệ sinh chung và thứ hai nữa là giữ vệ sinh cá nhân.
Có nghĩa là giống tự mình bảo vệ, cái đó gọi là phòng ngừa chủ động, còn đối với một số bệnh có khả năng chủng ngừa thì nên đi chủng ngừa sớm. Ví dụ như vệ sinh cá nhân thì nó đưa vào trong trường học. Nó không có những chiến dịch rầm rộ nhưng nó có những đợt về văn minh đường phố, có nghĩa là về khạt nhổ, về xã rát, xử lý rát, xây dựng nếp sống văn minh. Còn về việc diệt mầm bệnh, những cái bệnh nhiễm trùng như bệnh sốt rét thì hiện tại hiếm lắm nhưng sốt xuất huyết thì người ta đi diệt muỗi, diệt lăng quăng, người ta có đội phòng chống dịch.”
Việt Nam đang cố gắng để bắt tay với thế giới, một mặt nghiên cứu những tác động của việc biến đổi khí hậu, mặt khác nâng cao kiến thức người dân để phòng chống những dịch bệnh do những biến đổi này gây ra. Vấn đề còn lại là chính sách truyền thông và giáo dục quần chúng của nhà nước nhằm nâng cao kiến thức của người dân để họ cộng tác và gắn bó với chương trình, khi ấy may ra mọi nỗ lực của nhà nước mới có cơ may đạt được kết quả.
Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều kế hoạch nghiên cứu nước cũng như tiến hành những chương trình giáo dục nâng kiến thức người dân để phòng chống bệnh dịch do việc biến đổi khí hậu gây nên. Khoa Diễm có bài viết tìm hiểu thêm chi tiết. Hiện tượng nóng lên toàn cầu, thời tiết bất thường, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đối với Việt Nam. Phóng viên nước ngoài đã ghi lại những hình ảnh người dân vùng châu thổ sông Mekong và TP. Hồ Chí Minh tìm cách thích nghi với hiện tượng biến đổi khí hậu.
1.TP.HCM là thành phố lớn nhất VN. Vị trí thấp của thành phố so với mực nước biển khiến nó dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu - mực nước biển dâng cao và thời tiết khắc nghiệt. Tình hình cũng tương tự ở đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL).
2. Rừng đước Cần Giờ bảo vệ đồng bằng sông Cửu Long. Cách TP.HCM 40 km, hàng triệu cây đước tạo ra một hàng rào ngăn nước biển dâng.
3. Rộng hơn 75.000 ha, rừng đước Cần Giờ còn giúp ngăn chặn lở đất, xói mòn, và đóng vai trò như một "lá phổi xanh" - khu rừng hấp thụ khí CO2 từ bầu không khí và giữ CO2 trong hệ rễ của cây.
4- Một số khu vực khác ở ĐB SCL thiếu sự bảo vệ của rừng đước. Những khu vực này dễ bị tổn thương trước nguy cơ mực nước biển dâng và tình trạng ngập mặn. Các con đê biển đã được xây dựng lên để chống lại sự xâm nhập của nước mặn
5. ĐB SCL sản xuất phần lớn lượng ngũ cốc của cả nước và 90% lượng ngũ cốc xuất khẩu. Người nông dân đã bắt đầu thay đổi vụ mùa và trồng nhiều loại lúa mới để thích nghi với tình trạng thời tiết thay đổi.
6. Chị Trần Thị Hồng ở làng Long Đình cho biết việc trồng lúa đang ngày càng trở nên khó khăn hơn. "Người xưa có câu dự báo được thời tiết thì sẽ đoán được sản lượng vụ mùa. Nhưng giờ thì rất khó dự đoán bất cứ điều gì".
7. Nhiều người dân chống lại những đợt nước dâng đột ngột bằng cách xây nhà sàn.
8. Nhà cửa, mồ mả dễ bị nước lũ tấn công. Theo truyền thống, các ngôi mộ thường được xây trên những mô đất cao, nhưng những ngôi mộ giữa đồng khó có thể "sống sót" sau mỗi trận lũ lụt sâu.
9. Nếu đỉnh lũ tiếp tục dâng cao, ngày càng nhiều người sẽ phải thích ứng với cuộc sống trên mặt nước. Ở TP. Cần Thơ, chợ nổi trên sông đã hoạt động trong nhiều năm.
10. Người dân mua bán, trao đổi trên các con thuyền nhỏ. Khu chợ này bán những sản vật tươi sống của các cộng đồng sống dọc con sông. Họ thường chèo thuyền, do đó chi phí môi trường của chuyến hành trình từ cánh đồng đến bàn ăn là rất nhỏ .
No comments:
Post a Comment