- Christ Church
- Saint Andrew
- Saint George
- Saint James
- Saint John
- Saint Joseph
- Saint Lucy
- Saint Michael
- Saint Peter
- Saint Philip
- Saint Thomas
Sân bay: 1 (2006) Sân bay có bãi đáp: 1 đường băng dài 3.047 m (2006) Đường bộ: Tổng cộng: 1.600 km Có trải nhựa: 1.600 km (2004)Mặc dù các thông số địa lý của Barbados không có những đặc điểm nổi bật, nhưng vùng đảo này có "ma lực" hấp dẫn cực kỳ mạnh mẽ với du khách khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những người yêu nắng, gió, cát của biển và bộ môn lướt sóng.
Những con sóng to nhất của đảo Barbados với tên thường gọi là Soup Bowl, sự thử thách đầy khiêu khích cho những tay lướt sóng chuyên nghiệp nhất |
Bathsheba là thành phố chính nằm ở phía đông Barbados |
Bãi biển trước khu resort Casuarina |
Các học viên của Zed's Surfing Adventures, một trong những trường dạy lướt sóng lớn nhất của đảo. Nhận học viên mỗi ngày, đủ trình độ |
Mushroom Rock (đá hình nấm) ở Bathsheba |
Ngoài những bãi biển luôn mời gọi với làn nước biển trong xanh biếc, bờ cát trắng mịn màng mềm mại quyến rũ các quý ông, quý bà ngả lưng tắm nắng, những món hải sản kích thích vị giác ngất ngây, tô điểm sự đa dạng cho thú vui của du khách không gì hấp dẫn bằng những con sóng hoàn hảo khiến mọi người, từ những cô cậu bé lẫm chẫm đến những chàng trai cô gái sung mãn, đều muốn một lần thử sức mình với ván trượt.
Ngắm biển Barbados trong ánh hoàng hôn |
Những con sóng hoàn hảo cho môn lướt ván |
Nếu là người mới lần đầu làm quen với bộ môn thể thao này thì không đâu thích hợp bằng những con sóng nhẹ nhàng ở bãi biển phía đông. Và nếu những con sóng phía đông này không còn đủ sức chinh phục những ai đã thành thạo, hãy yên tâm, những con sóng xuôi theo dòng chảy về bên dưới thành phố sẽ cho bạn những thử thách mạo hiểm đầy bất ngờ và thú vị. Người dân bản địa vì thế luôn lặp đi lặp lại rằng điều khiến Barbados trở nên độc nhất vô nhị vì ở đây luôn có một con sóng cho mỗi người.
Tất cả mọi người dù là ai đều có thể lướt sóng ở Barbados. Không biết lướt sóng thì chỉ cần một tấm ván, bạn có ngay một thầy dạy riêng. Lướt sóng một mình buồn ư, có ngay một hội lướt ván cùng bạn để so tài. Muốn biết ai đó có phải là dân Barbados chỉ cần hỏi “Có biết lướt sóng không” là có thể xác định được ngay, dù đó là một cậu bé 7 tuổi hay một người 70.
Và cũng không nơi đâu trên thế giới có nhiều dịch vụ liên quan đến bộ môn dưới nước này như ở Barbados: đám cưới trên sóng, festival lướt sóng, và thậm chí cả… cắm trại trên những con sóng nữa - một hình thức dã ngoại đặc biệt chỉ có ở Barbados.
Điều tạo nên một Barbados đầy "ma lực" quyến rũ là có sóng đủ "size" cho mọi người |
Ở đây, lướt ván không chỉ là một môn nghệ thuật dành cho phái mạnh |
Rặng đá ngầm với hình thù kỳ quái, phía xa là những bậc thềm dốc mang tính đặc thù của địa hình biển Barbados |
Hằng năm Barbados thu hút khoảng nửa triệu lượt khách đến du ngoạn. Với ưu điểm địa lý đa dạng như thế, du lịch đến Barbados nghĩa là vừa vẫy vùng sóng biển thỏa thích, vừa khám phá đời sống hoang dã của quần thể động thực vật nơi đây, vừa chiêm ngưỡng các cảnh đẹp của những rặng san hô khổng lồ, những hang động bí hiểm mang nhiều truyền thuyết…
Tàu Oasis Of The Seas chở hơn 50 người Việt Nam đã cặp bến Nassau thuộc xứ Bahamas. Bahamas là một nước gồm nhiều đảo, nổi tiếng nhất là Grand Bahamas và Nassau. Thật ra Nassau là một thành phố thuộc đảo New Providence vùng Bahamas, nhưng nhiều người cứ gọi tổng quát đảo này là đảo Nassau Bahamas cho dễ.
Đảo Nassau Bahamas là đảo nổi tiếng nhất, đông dân nhất, và được du khách đến thăm viếng nhiều nhất trong vùng Bahamas. Tổng cộng dân số vùng Bahamas là 330,000 người. Riêng đảo Nassau chứa gần 80% dân số này, khoảng hơn 260,000 người.
Vùng đảo Bahamas có một lịch sử lâu đời. Dân bản xứ sống ở đây từ thế kỷ thứ năm sau thiên chúa. Phần lớn dần này đến từ đảo Cuba gần đó. Ngày nầy dân bản xứ gần như biến mất không còn nữa. Những năm bị đô hộ và sống nô lệ gần như tiêu diệt dân này.
Christopher Columbus trên đường đến tân thế giới, đã đặt chân tới vùng này. Thấy vùng biển xung quanh Bahamas cạn nên ông đặt vùng đất này là “baja mar”, vùng biển cạn. Sau nầy vùng đảo này được đọc trại lại là Bahamas.
Vùng đảo Bahamas ngày trước được các tên cướp biển chọn làm quê hương. Sau này người Tây Ban Nha chiếm đảo này. Năm 1647 một nhóm người Anh đã đến đây định cư, và năm 1717 vùng đảo nầy chánh thức trở thành thuộc địa của Anh.
Năm 1964 Bahamas trở thành vùng đất tự trị. Năm 1973 Bahamas độc lập hoàn toàn, và gia nhập khối Commonwealth của Anh.
Nassau là thủ đô của xứ Bahamas. Ðây là một nước có nhiều đảo dài dài từ Miami xuống phía Ðông Nam. Riêng thủ phủ Nassau này có hai đảo lớn là đảo New Providence và đảo Paradise.
Bahamas được coi như là nơi mà Christopher Columbus đặt chân lên Châu Mỹ đầu tiên năm 1492. Ðó là đảo San Salvador ở phía Ðông Nam đất nước này.
Hồi thế kỷ 17-18, nơi đây là sào huyệt của bọn hải tặc. Nổi tiếng nhứt trong những hải tặc là tên Blackbeard. Muốn được yên ổn, nơi đây chịu sự bảo hộ của người Anh từ năm 1718. Sau chiến tranh giành độc lập của Mỹ nơi đây bị Mỹ đóng quân.
Năm 1782-1783 Bahamas dưới sự kiểm soát của người Tây Ban Nha.
Ðến năm 1783 thì đảo được trả lại cho Anh Quốc.
Nô lệ được giải phóng trên hòn đảo từ năm 1834.
Từ năm 1967 đất nước này được tự trị và hoàn toàn độc lập năm 1973.
Cư dân Bahamas chỉ có hơn 307,000 người. Họ sống chủ yếu với các dịch vụ du lịch, ngoài ra họ còn có ngành ngân hàng, dầu hỏa và sản xuất dược phẩm. Ða số dân trên đảo là người da đen. Lợi tức bình quân hàng năm tính trên đầu người là 27,000 đô la.
Chúng tôi có cả ngày để vui chơi trên đảo nên từ tốn ăn sáng rồi mới rời tàu lúc 9 giờ sáng. Nhiều người đã mua vé tua phụ của hãng tàu nên đã rời tàu đi chơi từ sớm. Chúng tôi không mua tua phụ của hãng tàu vì thấy hơi mắc. Tôi dự tính là khi xuống bến tàu có tua gì thì mua tua nấy, nếu không thì chỉ chơi quanh quẩn gần bến tàu cũng được. Lên đến trạm tiếp đón đã thấy nhiều tay cò đang rủ rê chúng tôi đi qua đảo Paradise bằng phà hay bằng taxi. Ði phà thì chỉ tốn 3 đô la một người. Còn đi taxi thì tốn 4 đô la một người. Chúng tôi chọn cách sau. Tay cò kêu chúng tôi ra ngoài chờ. Sau khi có đủ 6 người thì xe mới chạy. Từ đây qua đảo không xa lắm chừng 3 km mà thôi. Một chuyến taxi như vậy kiếm được 24 đô la thì cũng khá quá. Nhưng chắc anh tài xế phải trả tiền cho mấy tay bắt mối phía trong. Từ hải cảng, xe chạy qua khu dân cư hơi nghèo. Nhà cửa hình như hơi thiếu săn sóc. Không thấy có nhiều dân cư ở đây cho thấy đảo cũng ít dân. Từ Nassau qua đảo Paradise xe chạy phải qua một chiếc cầu khá cao. Từ trên cầu nhìn về phía hải cảng Nassau cũng khá đẹp. Nhưng đảo Paradise mà chúng tôi sắp đến mới là nơi lý tưởng. Bên đó những người giàu có ở trong những biệt thự ẩn mình sau những bức tường hay vườn cây. Bác tài hỏi chúng tôi đi thẳng xuống biển hay ghé khách sạn Atlantic. Chúng tôi chọn cách sau để tham quan cho biết. (Nếu bạn mua tua trên du thuyền để thăm viếng nơi đây thì giá là 80 đô la một người, kể cả việc vào tham quan một bồn cá ở bên trong). Chúng tôi tự đi chơi nên tiết kiệm rất nhiều. Dĩ nhiên cũng có chút chệch choạc, lúng túng, lạc đường... nhưng không đáng kể và có phần thú vị vì mình được phiêu du tùy ý.
Khách sạn và sòng bài Atlantic to lớn như một khách sạn sang trọng ở Las Vegas là nơi tổ chức Hoa Hậu Hoàn Vũ (Miss Universe) vào ngày 23 Tháng Tám 2009 vừa qua. Sau khi chụp vài tấm hình ở bến du thuyền với phong cảnh thật đẹp, chúng tôi vào trong casino. Ở đó có rất nhiều máy đánh bạc nhưng buổi sáng không có mấy người chơi. Chúng tôi chỉ tìm đường để ra bãi biển mà thôi nhưng đi lạc ra phía sau khách sạn nơi có một khu vườn thật rộng lớn được trồng tỉa cây cảnh, thác nước giả. Nơi đó có hồ nước lớn, có cầu bắc ngang. Phong cảnh thật đẹp. Tiếc rằng người ta đòi phải mua vé khoảng 35 đô la mới cho vào chơi và xem bồn cá trong đó. Tôi đã xem nhiều bồn cá rồi nên không mê mà chỉ hỏi đường để ra bãi biển công cộng.
Chúng tôi vòng trở qua lối khác. Bây giờ chúng tôi đi dọc một hành lang nơi mà hai bên là những cửa hàng bán những loại hàng cao cấp mắc tiền như Gucci, Versasi... Trang trí khu bán hàng này rất đẹp nhưng còn sớm nên không có mấy khách hàng. Buôn bán ở đây hôm nay còn ế ẩm lắm.
Bây giờ chúng tôi phải ra khỏi khách sạn và đi theo một con đường về phía Bắc. Ðó là đường Casino. Ði đã gần 1 km mà không thấy biển ở đâu. May thay, có một ông taxi biết chúng tôi đi lố rồi nên chỉ cho chúng tôi ngõ hẻm để đi tắt ra biển. Từ đây ra biển chỉ có 200 mét mà thôi nhưng vì khuất sau những nhà cửa, rừng cây nên chúng tôi mới đi quá lố như vậy.
Cabbage Beach-Bahamas
Ra tới biển phía Bắc đảo Paradise, chúng tôi thấy nơi đây đẹp quá. Phía trên cao là một rừng dương rủ lá lòa xòa. Phía dưới là bãi cát dài và mịn. Du khách tắm biển không nhiều, chỉ vài trăm người mà thôi. Mấy tay cò tiến lại hỏi chúng tôi có cần mướn ghế hay dù không thì chúng tôi chưa quyết định. Bởi vì tôi tìm hoài mà không thấy nơi tắm nước ngọt. Còn bà xã tôi thì thấy sóng biển lớn quá nên sợ. Thật vậy, nơi đây đối diện thẳng với đại dương nên sóng lớn quá. Chiều cao mỗi con sóng chắc cũng hơn 1 mét. Sóng lớn như vậy mà chắc biển cũng sâu nên chỉ có vài ba người tắm biển mà thôi. Ðứng chơi hóng gió một hồi, chúng tôi quyết định đi trở lại Nassau để tắm vì biển bên đó sóng êm hơn ít nguy hiểm hơn.
Vừa đi ngược ra đường lớn thì có ngay một chiếc taxi trờ tới. Chúng tôi lên xe và xe cũng chạy liền. Từ đây về bến cảng chỉ 15 phút mà thôi nên chúng tôi về tới nơi cũng còn sớm. Ông tài xế xin 10 đô la cho hai người. Tuy mắc hơn chuyến ra nhưng thấy giá cũng phải chăng nên chúng tôi trả liền, không thắc mắc.
Tòa nhà Quốc Hội
Từ bến tàu, bạn đi chỉ cần đi vài bước là tới Rawson Square. Bên kia đường là tòa nhà Quốc Hội Bahamas. Tòa nhà này nhỏ, sơn màu hồng. Phía trước có tượng Nữ Hoàng Victoria. Vài chiếc xe ngựa chở du khách đi tham quan thành phố chạy ngang qua làm cho phong cảnh cũng khá xinh đẹp. Phía tay phải là con đường chính của thành phố với những ngân hàng, khách sạn, tiệm quán. Phía sau là một tòa nhà to lớn chắc của ông thống đốc hòn đảo này. Một công viên phía trước tòa nhà có nhiều cây to bóng mát. Vài người già đang ngồi chơi trên các băng đá. Họ có vẻ thảnh thơi, nhàn nhã.
Chợ Straw
Trở ra con đường trước bến tàu, chúng tôi đi về phía Tây. Dọc đường là những tiệm bán đồ lưu niệm như các hàng thủ công nghệ, đồ điêu khắc trên gỗ, bưu thiệp, áo thun, sò ốc, đồ thủy tinh, quần áo tắm biển... Giá cả hàng hóa cũng vừa túi tiền, không mắc không rẻ. Chất lượng của hàng cũng vừa phải chớ không tốt lắm. Ðồ chợ trời mà. Ðặc biệt ở Bahamas có bán xì gà Cuba. Tôi không hút xì gà nên không thiết tha về món hàng đặc biệt này. Tuy nhiên nếu bạn biết hút thì chỉ được hút trên đảo hay trên tàu. Hiện giờ tuy sự quan hệ giữa Mỹ và Cuba có khá hơn nhưng lịnh cấm vận xì gà cũng còn hiệu lực và du khách hoàn toàn không được đem món hàng này vào Mỹ.
Bên phía tay phải của con đường là bến phà đi đảo Paradise. Ở đó cũng là bến tàu đáy bằng thủy tinh để du khách có thể coi cá hay san hô.
Chúng tôi đi về hướng này với ý định tìm bãi biển British Colonial để tắm ai dè phải đi vòng xa quá, mà lại sợ rằng đó là bãi biển tư nhân mình vô không được nên đành thối lui trở về tàu.
Một chút rắc rối khi trở về tàu
Cũng khá trưa rồi, nên chúng tôi tính trở về tàu ăn trưa rồi sẽ ra chơi tiếp. Khi ra cổng di trú, ông cảnh sát hỏi giấy tờ. Chúng tôi đưa thẻ tàu S&S thì ổng lại hỏi thêm là có thẻ căn cước có hình hay không. Mấy hôm trước đi lên đảo hay xuống tàu thì chỉ cần thẻ S&S, hôm nay thờ ơ nên cũng chỉ đem một thẻ duy nhứt mà thôi. Ðó là tại vì mình không để ý chớ hôm mới lên tàu người ta có dặn rồi. Xuống đảo là phải có giấy tùy thân. Giấy phải có hình mới được. Bằng lái xe cũng được, không cần passport. Tôi không đem giấy tờ theo nên bị ông cảnh sát rầy vài câu. Ổng nói kỳ sau là phải đem giấy có hình rồi cũng cho qua (chớ giữ chúng tôi lại làm gì). Nói vậy thôi chớ cũng hơi run. Ðây là kinh nghiệm đáng nhớ. Mỗi khi xuống đảo chơi thì nhớ đem thẻ căn cước có hình.
Cũng vì chuyện rắc rối này nên chúng tôi... giận Bahamas. Ðáng lẽ chúng tôi sẽ tiếp tục xuống chơi trên đảo vào buổi chiều thì “xù” luôn mà chỉ ở trên tàu và lên lầu 9 tắm hồ chơi cho vui mà thôi.
Ðang lúc ngồi trong spa thì mây đen kéo tới. Một cơn mưa rào khá lớn đổ xuống. Chúng tôi cũng ngồi chơi ngoài mưa luôn. Mấy chục năm rồi không có cái thú tắm mưa. Hôm nay mới có dịp nhớ lại những kỷ niệm xưa khi ngồi giữa trời đón nhận những giọt mưa nhiệt đới. Ðây cũng là một điều khá thú vị.
Thì giờ còn ít nên tối nay chúng tôi cũng không đi ăn tối ở nhà hàng mà chỉ ăn buffet cho nhanh rồi tiếp tục vui chơi trên lầu 9. Tới gần 9 giờ thì đi coi show ca vũ nhạc một lần nữa.
Show Nightclub Express
Show này do những ca sĩ và vũ công chuyên nghiệp trên tàu trình diễn. Nội dung có khác nhưng cách trình diễn cũng tương tự show Formidable đã biểu diễn hôm thứ tư nên coi cũng hay nhưng không bằng show hôm trước.
Vãn hát thì cũng gần 10 giờ. Lúc này có show kể chuyện vui “bậy bạ” cho người lớn ở phía sau tàu nhưng tôi không đi xem mà về phòng chuẩn bị thu dọn chiến trường, đồ đạc để ngày mai xuống tàu. Tôi cũng không quên mở tủ sắt (safety box) ra và lấy tiền bạc giấy tờ quan trọng rồi để tủ sắt mở cho người khách sau dễ tiếp tục sử dụng.
Lúc nửa đêm cũng có tiệc bánh ngọt trên lầu 9 nhưng tôi ngủ quên nên đã không tham dự được. Ði chơi trên tàu này việc ăn uống rất nhiều, ăn hoài riết rồi ngán và nhớ đồ ăn Việt.
Thủ tục rời tàu
Sáng hôm sau là ngày cuối cùng của chuyến đi, tôi dậy sớm lúc 7 giờ. Tối qua, người ta đã nhét vào khe cửa một tờ hóa đơn về những dịch vụ mà mình đã sử dụng trên tàu cộng thêm mỗi người 50 đô la tiền típ cho nhân viên (10 đô la một ngày cho một người). Nếu thấy đúng thì khỏi thắc mắc. Tiền sẽ tính vào thẻ tín dụng của mình. Nếu sai thì có thể khiếu nại liền. Hóa đơn của tôi không có gì sai vì mình không ăn xài nhiều lắm.
Làm vệ sinh cá nhân xong, tôi lên lầu 9 nhìn ra thì thấy tàu đã cặp bến Miami. Chúng tôi ăn sáng lần cuối trên tàu một cách từ tốn vì chuyến bay sẽ vào buổi chiều nên không vội vàng gì.
Chúng tôi cũng không có hành lý nhiều nên việc xuống tàu cũng dễ dàng mà không cần sự giúp đỡ của nhân viên trên tàu. Lúc 8 giờ sáng chúng tôi từ giã tàu Carnival với mong muốn sẽ trở lại trong một chuyến du hành khác vào sang năm.
Thủ tục vào nước Mỹ từ tàu du lịch cũng dễ. Ông cảnh sát di trú chỉ thâu tờ khai, sau đó nhìn hình để coi mặt mình có đúng như trong hình hay không rồi cho qua. Họ không cần dò hành lý coi có gì lạ hay không.
Chúng tôi có mua thêm vé chuyển tiếp (transfer) từ bến tàu về phi trường với giá 16 đô la một người nên phải xếp hàng theo tuyến để lên xe buýt. Mua thêm vé chuyển tiếp cho an tâm chớ thật ra đi taxi có thể nhanh hơn mà không tốn kém hơn bao nhiêu. Nếu bạn đi với gia đình đông người thì đừng nên đi theo xe buýt mà hãy đi taxi. Năm người mà cùng đi taxi thì tính ra sẽ rẻ hơn rất nhiều mà còn nhanh nữa. Taxi ở bến cảng hàng hà sa số, không lo thiếu.
Quang cảnh khu chợ bán đồ lưu niệm ngay bến tàu
Quang cảnh các bài biển ở Nassau (lấy từ Internet)
British Virgin Islands
Quần đảo Cayman
Haiti
Ví trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Haiti được chia thành 10 tỉnh (department). Các tỉnh được chia như danh sách dưới đây, với tỉnh lỵ trong ngoặc đơn.
Tỉnh của Haiti
- Artibonite (Gonaïves)
- Centre (Hinche)
- Grand'Anse (Jérémie)
- Nippes (Miragoâne)
- Nord (Cap-Haïtien)
- Nord-Est (Fort-Liberté)
- Nord-Ouest (Port-de-Paix)
- Ouest (Port-au-Prince)
- Sud-Est (Jacmel)
- Sud (Les Cayes)
Tiền thuộc địa và giai đoạn thực dân Tây Ban Nha
Đảo Hispaniola, trong đó Haiti chiếm một phần ba phía tây, là một trong những hòn đảo Caribê có thổ dân Taíno - một nhánh của của bộ tộc Nam Mỹ Arawak. Tên Taino cho toàn bộ đảo đã là Kiskeya. Người ta cho ràng người Taínos gọi phía tây hòn đảo là là Ayiti, có nghĩa là "đất miền núi", và một phần của Ayiti họ gọi là Bohio, nghĩa là "làng giàu". Trong xã hội Taino ở quần đảo Caribê, các đơn vị lớn nhất của tổ chức chính trị đã được lãnh đạo bởi một Cacique, vì vậy thuật ngữ 'caciquedom' (tù trưởng)(caciquat trong tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha là cacicazgo) cho các xã hội có tổ chức Taino, mà thường được gọi là "thủ lĩnh". Trước khi Christopher Columbus đến đây, đảo Hispaniola được chia cho các năm lãnh thổ của tù trưởng đã hình thành lâu dài: Marien, Xaragua, Maguana, Higuey, và Magua. Haiti ngày nay bao trùm gần như tất cả các lãnh thổ của hai lãnh thổ đầu tiên trong số này.
Aristide tái đắc cử năm 2000. Nhiệm kỳ thứ hai của ông đã được đánh dấu bằngcác cáo buộc tham nhũng. Năm 2004, một cuộc đảo chính bán quân sự đã lật đổ Aristide lần thứ hai. (Xem cuộc nổi dậy Haiti năm 2004) Aristide đã được Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đưa đi khỏi nhà trong vụ mà ông mô tả là một vụ bắt cóc, và một thời gian ngắn ông được chính phủ Cộng hòa Nam Phi giữ (Mỹ quyết định đưa ông đến đó). Aristide được thả và sống lưu vong ở Nam Phi.
Boniface Alexandre tạm thời nắm quyền. Trong tháng 2 năm 2006, sau cuộc bầu cử đánh dấu bởi sự không chắc chắn và các cuộc biểu tình phổ biến, René Préval được bầu làm tổng thống.
Ủy ban ổn định của Liên Hiệp Quốc ở Haiti (còn gọi là MINUSTAH) đã ở quốc gia này kể từ cuộc nổi loại năm 2004 của Haiti.
Vùng phía bắc gồm khối núi phía bắc (Massif du Nord) và đồng bằng phía bắc (Plaine du Nord). Khối núi phía bắc là phần kéo dài của dãy núi trung tâm từ cộng hòa Dominicana. Nó bắt đầu ở biên giới phía đông của Haiti, phía bắc của sông Guayamouc, và kéo dài đến phía tây bắc xuyên qua bán đảo phía bắc. Các vùng đất thấp của Plaine du Nord nằm kéo dài theo ranh giới phía bắc với cộng hòa Dominicana, giữa Massif du Nord và Bắc Đại Tây Dương. Vùng trung tâm gồm hai đồng bằng và hai dãy núi. Cao nguyên trung tâm kéo dài dọc theo cả hai phía của sông Guayamouc, phía nam của Massif du Nord. Nó chạy từ đông nam đến tây bắc. Về phía tây nam của Cao nguyên trung tâm là Montagnes Noires, hầu hết phần phía tây của địa hình này nhập chung với Massif du Nord. Điểm cực tây của nó là mũi Carcasse.
Trận động đất: Vào năm 2009, ở Haiti đã có một trận động đất kinh hoàng gây thiệt hại nặng nề cho người dân nơi đây.
Theo phần lớn cách đánh giá kinh tế, Haiti là nước nghèo nhất ở châu Mỹ. Nước này một GDP danh nghĩa 7,018 tỷ USD trong năm 2009, với GDP bình quân đầu người 790 USD, mức khoảng 2 $ / người / ngày .
Khoảng 66% của lao động Haiti làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm chủ yếu là nông nghiệp tự túc quy mô nhỏ, nhưng hoạt động này chỉ chiếm 30% GDP. Các quốc gia đã trải qua quá trình ít tạo việc làm chính thức trong thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế không chính thức đang tăng. Xoài và cà phê là hai trong số các mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Haiti. 1% số người giàu nhất Haiti có gần một nửa tài sản của đất nước. Haiti đã luôn được xếp hạng trong số các quốc gia tham nhũng nhiều nhất trên thế giới về Chỉ số nhận thức tham nhũng.Kể từ ngày "Papa Doc" Duvalier, chính phủ Haiti đã nổi tiếng về tham nhũng. Haiti độc tài "Baby Doc" Duvalier, Michelle vợ ông, và ba người khác được cho là đã lấy 504 triệu USD từ ngân quỹ công cộng Haiti giữa năm 1971 và 1986
- Île Chevreau (Île Bonhomme)
- Île Frégate
- Île Toc Vers
- Île Tortue
- Gros Îlets (Îlots Syndare)
- Anse des Cayes
- Grand Fond
- Grand Cul-de-Sac
- Petit Cul-de-Sac
- Quartier de Colombier
- Quartier de la Grande Saline
- Quartier de la Petite Saline
- Quartier de Public
- Quartier de Toiny
- Quartier des Flamands et Merlette
- Quartier du Corossol
- Quartier du Marigot
- Quartier du Roy
- Quartier de Vitet
- Quartier de Devé
- Quartier de Lurin
- Quartier de Gouverneur
- Quartier Lorient (oldest settlement)
- Quartier Saint-Jean
No comments:
Post a Comment