Thursday, September 8, 2011

Hồ Động Đình

http://www.khoahoc.net/photo/dongtinghu-2.gifHồ Động Đình ở đâu?
Ở miền nam sông Dương Tử, hồ Động Đình họp thành bởi nhiều hồ lớn. Mỗi năm vào mùa lũ nước sông Dương Tử chảy vào hồ, làm tăng diện tích hồ từ 2.800 km² đến 20.000 km². Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, rộng 1 km nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến “Bát cảnh Tiêu Tương” của vùng Giang Nam.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjDRy6uCJ9L8CU3RfjkpOrODkoTo4KjQ2ExrqOM4_fcLHIG-OW77t_8AByiNyJBNWkrPiwx6Zdl9GvJeUCBfLrBERwwmJgvE6ZISMEPhTG8K5QXSdqyX0sSnvA6K5VVJWMTu6dnOtk0ip4/s1600/Lake_mapourika_sask.JPGHồ Động Đình (tài liệu từ Atlas)
Từ miền Hoa Bắc sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc nổi tiếng với nhiều lý thuyết gia, nhưng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền nam sông Dương Tử, nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn, hội họa, âm nhạc...
“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương...” của nhạc sĩ Thông Đạt, hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này. Chữ Tương, tiếng Hẹ (Hakka) phát âm là “siong”, tiếng Quảng Đông là “seong”, tiếng Quan thoại là “xiâng”.
Trong Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, cũng lấy cảnh sông nước hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...
http://namtong.org/images/docbaogiumban/docchoidobuon/trunghoaduky/duongtugiang8.jpgHồ Động Đình trong truyền thuyết Hồng Bàng, theo Đại Việt sử ký toàn thư:
“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.
Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải...”.
Nước Sở có từ bao giờ?
Khi truyền thuyết xuất hiện trong Lĩnh Nam chích quái thế kỷ XIV, tất cả những địa danh, nhân danh từ Đế Minh, Lộc Tục, Xích Quỷ... đến Hồ Tôn, Hồ Bắc, Hồ Nam, Động Đình Hồ... là tên thuần Hán. Tất cả nằm tại địa bàn nước Sở, tức khu vực Động Đình Hồ.
Vương đầu tiên của người Việt là Kinh Dương Vương, có thể hiểu đó là “vương của châu Kinh và châu Dương”?
Đất Kinh, mang tên loại cỏ Kinh mọc thành bụi cao, đa số dân thuộc chi Âu, đại diện là Âu Cơ, đọc theo phát âm Mường và Quảng Đông là Ngu Kơ, ưa sống miền núi rừng. Bây giờ, địa bàn của châu Kinh là tỉnh Hồ Bắc.
Đất Dương có dân thuộc chi Lạc, đại diện là Lạc Long Quân, ưa sống miền biển. Địa bàn châu Dương gồm các tỉnh ven biển: Giang Tây, An Huy, Chiết Giang và Giang Tô.
Cả hai đại chi Âu và Lạc, thuộc chủng Yueh/Việt. Mỗi đại chi lại có hàng trăm tiểu chi. Khoa nhân chủng học ngày nay gọi nhóm này là Austro -Asiatic = người châu Á phương Nam, khác với Mongoloid, người châu Á phương Bắc, chính là chủng Hoa Hạ.
Theo chính sử Trung Hoa, Châu Thành Vương (1042-1021 TCN) phong cho Hùng Dịch tước tử ở nước Sở, còn gọi là nước Kinh, để cai trị và ngăn chặn quấy phá của dân “man di” Yueh/Việt ở địa phương. Đây là lần đầu tiên người Trung Hoa thiết lập chế độ phong kiến (phong đất cho thuộc hạ, họ hàng). Đây cũng là lần đầu tiên người Hoa Bắc chính thức chinh phục miền đất phía nam sông Dương Tử.
Trong 800 năm, từ đầu thế kỷ XI TCN đến khi bị Tần Thủy Hoàng diệt năm 223 TCN, nhà họ Hùng đưa nước Sở từ một miền phên dậu thành một chư hầu hùng mạnh có lúc lấn cả thiên tử nhà Châu và suýt trở thành “thủ lãnh đại ca” của Xuân Thu Ngũ Bá.
Năm 740-689 TCN, khoảng đầu thời Xuân Thu, nhà Châu bắt đầu suy, nước Sở cường thịnh dù vẫn bị người Hoa Hạ chế giiễu “Vua Sở như con khỉ biết đội mũ”. Lãnh tụ của Sở là Hùng Thông tự ý xưng Vương, tức Sở Vũ Vương. Từ đó trở đi, tiếp theo hàng chục đời, lãnh tụ nước Sở bao giờ cũng có họ Hùng và tước Vương. Hùng Dịch, Hùng Thông, Hùng Sì, Hùng Cừ... chữ Hùng ? viết y hệt như trong “Hùng Vương” của Việt Nam.
Sau khi diệt các nước Việt nho nhỏ chung quanh, năm 333 TCN nước Sở thôn tính thêm hai nước Việt rất lớn cũng thuộc chi Lạc ở ven biển: nước Ngô Việt (Câu Tiễn) và U Việt (Phù Sai). Tuy rất văn minh, đã đúc thuyền đồng, trống đồng, luyện thép (như hai nhà luyện kiếm nổi tiếng là Mạc Tà và Can Tương), nhưng chỉ lo đánh đấm và trả thù nhau nên bị Sở diệt.
“Quốc tịch” dân Sở
Đại thần/thuộc hạ của Châu Thành Vương đều là người chủng Hoa Hạ. Hai người Sở nổi tiếng, thi sĩ Khuất Nguyên, tác giả Ly Tao và Hạng Võ, mà người Việt giới bình dân đều rành nhờ... tuồng cải lương Hồ Quảng Hạng Võ biệt Ngu Cơ - “Tấm thân lấp biển vá trời/ Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang”. Tây Sở Bá Vương Hạng Võ người chủng Hoa Hạ, Ngu Cơ chủng Việt, chi Âu.
Không riêng gì Sở, dân “man di” miệt nam Dương Tử đa số là Yueh/Việt. Nên khi hai nước Trịnh, nước Vệ có chiến tranh, quân dân hai bên leo lên mặt thành nói chuyện thả dàn, không cần thông dịch viên tòa án. Sử không thèm ghi xem bọn dân đen nói chuyện chi. Mời nhau ăn một miếng trầu, rủ rê xuống ruộng dâu [1] , đánh trống đồng hay hát bài “Việt nhân ca” [2].
Chi tiết trên chứng tỏ đánh nhau là chuyện của lãnh chúa Hoa Hạ, còn dân Việt tỉnh bơ ví dầu nói chuyện trời trăng. Điều này rất quan trọng nhưng độc giả lướt qua vù vù như cưỡi máy bay, yên chí mình đang đọc truyện về dân Tàu. In hệt hồi Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà, người Hoa thứ thiệt, đi “bình định” vùng Lĩnh Nam. Khi nhà Tần yếu, Triệu Đà xưng làm vua Nam Việt, nhưng dân vẫn cứ là giống Việt “man di”.
Tiếng nước Sở ngày nay đã bị Hoa hóa nhưng giọng nói của dân Hồ Bắc, Hồ Nam vẫn còn giữ thổ âm của tiếng Sở ngày xưa. Người Hoa gọi đó là giọng Hồ Quảng (nơi phát xuất... cải lương Hồ Quảng). Hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây gọi là tỉnh Việt. Tiếng Quảng Đông còn gọi là Việt ngữ. Kịch nghệ ở Quảng Đông và Hương Cảng gọi là Việt kịch. Thức ăn của Quảng Đông là Việt thái (tsai). Xin để ý: dân tộc Việt Nam là một thành phần trong khối Yueh/Việt. Nhưng không bao giờ là toàn khối chủng Yueh/Việt cả. Vì vậy những thành tích/khám phá có dính líu đến “người Việt” về phương diện nhân chủng/khảo cổ/văn hóa/... đào bới được ở khắp vùng châu Á không luôn luôn có nghĩa thuộc về người Việt Nam ở Việt Nam. Ngay cả nền văn hóa Hòa Bình thuộc thời đồ đá mới tuy tìm thấy ở tỉnh Hòa Bình, nhưng giới khoa học rất thận trọng, họ không coi nền văn hóa này là của người Việt Nam vì thời đó chưa có nước Việt Nam và người Việt Nam. Ai à chủ nhân thực sự của văn hóa Hòa Bình, vẫn là một câu hỏi.
Chiến tranh
Sử Tàu không ghi chép đời sống của dân bản địa. Bộ Đông Châu liệt quốc toàn tả lãnh tụ xưng hùng xưng bá. Chỉ biết từ đời Xuân Thu Chiến Quốc 722 TCN đến khi Sở bị Tần diệt năm 223 TCN là một thời kỳ hỗn loạn. Dân ở phía nam sông Dương Tử chịu cảnh binh đao, tàn sát, cướp bóc... không biết bao nhiêu mà kể. Chính biến, đảo chánh, giành ngôi, phế lập, âm mưu, cướp bóc, lãnh chúa... biên giới các “nước” thay đổi. Có nước bị giải thể. Hàng ngàn nước bị chia cắt, sát nhập lúc vào nước này, lúc vào nước kia.
Khi Tần Thủy Hoàng “gồm thâu lục quốc” (Hàn, Ngụy, Sở, Triệu, Tề, Yên) một cuộc chiến khủng khiếp kéo dài 9 năm biến dải đất mênh mông từ trung nguyên [3] xuống nam Dương tử thành một lò sát sinh khổng lồ.
Gia đình lãnh chúa bị tận diệt đã đành, dân chúng lớp bị giết hàng khối, lớp chạy tan tác trước sức đồng hóa của chủng Hoa Hạ, của chiến tranh, hạn hán, mất mùa... Miền đất chưa bị vó ngựa chủng Hoa rớ tới, chính là vùng mênh mông phía nam và tây nước Sở. Bây giờ là vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quế Châu, đồng bằng sông Hồng... Lúc đó chưa miền nào có tên như bây giờ. Muốn đi tới miền này phải vượt qua dãy Đại Ngũ Lĩnh hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, hoàn toàn không hợp với người Hoa Hạ chỉ quen chinh chiến và sống vùng sa mạc. Trong Đường về Trùng Khánh, dù đã là năm 1942, tác giả Hàn Tố Âm (Han Suyin) vẫn tả Quế Châu như một vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, chỉ có một số người miền núi sinh sống. Thật ra trong quá khứ ngàn năm trước, miền này đã đón nhận hoặc là miền chuyển tiếp rất nhiều đợt chạy loạn.
Bộ mặt của lịch sử Trung Hoa, không phải chỉ ngon lành nào Hồng lâu mộng, nào Tây du ký, tứ đại giai nhân, thi thánh thi bá... Bộ Đông Châu liệt quốc ghi lại 400 năm loạn lạc, cho thấy mạng dân đen (Hoa cũng như Việt) như bèo: Tề Hiếu Công chôn sống hơn 200 nội thị và cung nhân trong mồ của cha mình. Mồ của Tần Mục Công táng theo 177 người. Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái. Không hiếm những người tỉnh táo, lệnh doãn Tôn Thúc Ngao di chúc “Dân nước Sở ta khổ vì việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được an nghỉ”. Nếu chúa công nghe lời can gián, nước Sở chắc không bị Tần diệt và bộ mặt địa lý/chính trị của nước Trung Hoa có thể đã khác.
Chiến tranh/nạn đói thời An Lộc Sơn cũng được ghi lại trong 1.500 bài thơ của Đỗ Phủ, nổi tiếng thi hào mà không cần chạy theo chéo áo giai nhân [4]. An Lộc Sơn đánh vào Trường An, Đường Huyền Tông chạy trốn, Dương Quí Phi thắt cổ. Trong 8 năm, dân số nhà Đường, kiểm kê năm 754 từ 52,8 triệu người chỉ còn 16,9 triệu.
Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng cần tới 70.000 người xây cất, con số chôn sống không rõ. Nhà văn Hàn Tố Âm, dù gia đình khá giả ở Bắc Kinh (cha người Bỉ, mẹ người Hoa) cũng nhắc lại điều khủng khiếp ám ảnh bất cứ đứa trẻ Trung Hoa nào: chiến tranh và thiên tai “ba năm liền không có một giọt mưa”. Dân chết đủ kiểu. Kể cả chết đói. Vỏ cây cũng không còn. Ai còn đi được, đều cố đứng dậy hay lết bằng đầu gối.
Dân Sở thuộc chủng gì?
Dù Kinh Dương Vương là một người thật, hay chỉ là một biểu tượng trong truyền thuyết Hồng Bàng, cũng đều là một pha trộn hai giòng máu Âu và Lạc. [5] Đây là mật mã cốt lõi của truyền thuyết:
• Hai chi Âu - Lạc sống chung ở vùng Động Đình Hồ
• Cùng dắt díu nhau di tản và đoạn cuối
• Buồn hơn bất cứ chuyện tình nào: Âu - Lạc phân ly. Thế kỷ XIV, tác giả Lĩnh Nam chích quái ghi tất cả biến cố bi tráng trên vào mươi hàng đặt tên “Truyền thuyết Hồng Bàng”. Thời bây giờ, không chắc có cây bút nào có thể viết ngắn/nhiều ý nghĩa đến vậy. Độc giả có thể kiểm chứng bằng nghiên cứu hay đọc những nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử, thì thấy từng chi tiết của truyền thuyết vẫn còn in dấu trên tình trạng đa sắc tộc và sự hòa huyết, hỗn hợp ngôn ngữ của cư dân có mặt trên mảnh đất Việt Nam. Lịch sử dựng nước của các quốc gia châu Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nhật, Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam,... đều có những điểm giông giống nhau: hỗn loạn, chia cắt, đánh chiếm, tận diệt, lấn đất, di cư, hòa huyết...
Nước Xích Quỷ biến đi đâu?
Không biến đi đâu hết. Ở đâu còn nguyên đó. Đất cũ người cũ. Thêm người mới khoác áo văn hóa mới. Nhìn trên bản đồ, bờ cõi nước Xích Quỷ hầu như phân nửa bờ phía nam sông Dương Tử: bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) vĩ tuyến 11 Nam, phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 cây số vuông. Diện tích Việt Nam bây giờ là 331.688 cây số vuông.
Tại sao thình lình không gian của Lạc Long Quân tức Hùng Vương thứ nhất rộng lớn đến thế, đời Hùng Vương thứ 18 khi bị Thục Phán diệt, chỉ còn lại đồng bằng sông Hồng?
Di cư
Như trên đã nói, một cuộc di tản rất lớn xảy ra, kéo dài hàng mấy trăm năm, trước/sau khi nước Sở bị diệt vong. Đám chi Âu, chi Lạc chạy khỏi địa bàn nước Sở. Khi đi, mang theo tất cả những truyền thuyết tổ tiên đến địa bàn mới. Ngay như tên người Việt bây giờ vẫn tự gọi: người Kinh - để phân biệt với người Thượng - có thể tên châu Kinh đất cũ còn trong ký ức.
Có lẽ nên hiểu truyền thuyết Hồng Bàng là cổ sử của chủng Yueh/Việt, hơn là cổ sử riêng của Việt Nam. Biên cương rộng lớn của Xích Quỷ hé mở đôi điều, nếu hiểu theo quan sát và quan niệm của tác giả truyền thuyết Hồng Bàng về thời lưu cư ở Động Đình Hồ:
1. Chủng Việt, khác với chủng Hoa Hạ.
2. Hễ đồng chủng, là cùng một “nước”.
3. Có rất nhiều bộ tộc Việt sống xen kẽ trên cùng địa bàn Xích Quỷ.
4. Vì xen kẽ, nên mượn qua mượn lại truyền thuyết/cổ tích của nhau.
5. Người/tiếng Việt đi tới đâu, biên giới Xích Quỷ đi đến đó.
6. Người Trung Hoa bây giờ cũng là một pha trộn = Hoa Hạ + Việt, cả DNA và tiếng nói.
7. Lãnh tụ đầu tiên Lạc Long Quân hoàn toàn thuộc chủng Việt, mang hai giòng máu Âu và Lạc, không lai một chút Hoa Hạ nào hết.
Có “nước” Xích Quỷ không?
Không. Bởi vì:
• Xích Quỷ: chỉ là địa bàn lớn chứa chủng Việt, gồm hàng trăm (hay ngàn) bộ lạc/thị tộc, tình trạng “văn minh” tùy vùng.
• Nước Sở: nhỏ hơn, chứa các nhóm Âu - Lạc.
• Đồng bằng sông Hồng: nhỏ hơn nữa, là một trong những nơi dừng chân cuối cùng của của đám Âu/Lạc di tản. Nơi đó cũng đã có người ở từ trước.
Nước Thái Lan, nước Lào, chi Âu, tình cảnh rất giống Việt Nam. Thái chỉ mới thành lập quốc gia từ thế kỷ XIII. Lào lập nước trễ hơn Thái chừng nửa thế kỷ. Cả hai chạy ngược chạy xuôi tìm đất và choảng nhau với dân bản địa. Có những bộ tộc rất oai hùng, nhưng lại không thành lập nổi một quốc gia, ví dụ sắc tộc Karen, sắc tộc H’Mong và hàng ngàn bộ tộc hiện diện trên đất Trung Hoa, bị Hán hóa hoặc có danh nghĩa “khu tự trị”, nhưng mức độ độc lập luôn là câu hỏi.
“Con Rồng cháu Tiên”
Xin thú thật, là một học trò yêu môn lịch sử, nghe “con Rồng cháu Tiên, dân Việt mình... siêu hơn dân tộc khác” rất êm tai. Nhưng hôm nay ôn lại những trang sử, bàng hoàng nhận ra một bài học khác: nước Việt sinh ra trong ly loạn, những đoàn người đầu tiên đã cố gắng phi thường mới hội được nước Việt như ngày nay. Cảm xúc trước sự huyền bí của lịch sử là một cảm xúc đẹp. Tuy vậy, kiểu hãnh diện mơ màng “con Rồng cháu Tiên” nhưng không biết rằng nước Việt được tạo dựng trong điêu linh, có thể làm biến dạng suy tư của người Việt: làm đứt đoạn, xa rời hẳn với quá khứ. Nếu có đôi điều đặc biệt đáng hãnh diện, đó là trong số hậu duệ của chủng Việt, không có quốc gia nào nắm níu tên “Việt” ngoại trừ dân tộc Việt Nam và sau gần 3.000 năm thăng trầm, sức sống bền bỉ, chấp nhận hòa huyết, sáng tạo tiếng nói, dũng mãnh chống ngoại xâm, mềm dẻo giữ độc lập... mỗi ngày là mỗi cố gắng gượng dậy từ những tang thương dù không hề biết cuối con đường cay đắng hay vinh quang: đó mới là kho báu đích thực và bài học vô cùng quý giá tổ tiên để lại.
Đền Động Đình thờ Long Vương ở đảo Quân Sơn, trong hồ Động Đình tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay. Theo truyền thuyết Việt, Công chúa Thần Long hay Long Nữ, con Long Vương lấy Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân. Long Vương là ông ngoại của Lạc Long Quân.




Cổng tam quan có 9 con rồng (cửu long). Số 9 là số Chấn thế gian mang nghĩa nước-lửa, sấm mưa, mặt trời nước, nước dương chuyển động (biển, sông…), bản thể của Lạc Long Quân. Lưu ý mái cổng tam quan hình gợn sóng, mái cổng chính hình vòm (vòm vũ trụ, không gian, vòm trời), đầu cột có hình cầu tròn (nòng) mang âm tính thuộc ngành nòng, âm, nước, không gian, Thần Nông đối ngược với mái, các trụ đầu nhọn, có góc cạnh mang dương tính nọc, dương, lửa, mặt trời, Viêm Đế.




Lầu Lạc Dương bên hồ Động Đình (ảnh chụp tấm vé vào cửa thăm viếng Lầu Lạc Dương).
Bài viết về hồ Động Đình này gồm hai phần: một phần là Hồ Động Đình nhìn tổng quát và một phần là hồ Động Đình và truyền thuyết Việt.
Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt và ghi chú của anh Đỗ Ngọc Thành:
.Cám ơn anh Nhạn Nam Phi, Đỗ Ngọc Thành, một nhà khảo cứu chữ Hán và chữ Nôm cổ Bách Việt đã giúp chuyển các bài thơ chữ Hán qua Hán Việt và Việt ngữ cũng như đã góp ý.
望洞庭-Vọng Động Đình
刘禹锡-Lưu Vũ Tích
湖光秋月两相和,潭面无风镜未磨。
Hồ Quang thu nguyệt lưỡng tương Hòa, Đầm diện vô phong kính vị ma
遥望洞庭山水翠,白银盘里一青螺
Dao vọng Động Đình Sơn thủy thúy, Bạch ngân bàn lý nhất thanh loa
Ghi chú :
湖光: Hồ quang, quang là "phong quang, phong cảnh, cảnh quang, phong cảnh của hồ.
秋月: Thu Nguyệt: trăng mùa thu.
两相和: Lưỡng tương hòa, cả 2 (cảnh quang của hồ và cảnh trăng thu) cùng hòa chung với nhau...
潭面: Đàm diện: diện của đầm, tức là mặt nước đầm (Hán Việt: Đàm/ thuần Việt: Đầm => thật ra là...giống nhau).
无风: Vô phong : không gió.
镜未磨: Kính vị ma: Kính chưa bị mài (mặt kính chưa bị "mài" trầy, mờ...).
遥望: Dao vọng: ...xa "diệu" vợi mà "vọng"/ nhìn.../ tiếng Quảng Đông và Triều Châu còn đọc "dieo/" như diệu.
洞庭: Động Đình: (sẻ giải thích rõ gốc chữ ở phần Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).
山水翠: Sơn thủy thúy, "thúy" là con chim xanh (đẹp) ngày xưa gọi là Thanh Vủ Tước: 青羽雀 (Tước bên tiếng Bắc kinh đọc rất giống âm "sẻ" là "chsé" cũng là "Nôm có trước"), một thứ chim bói cá có mầu xanh biếc gọi là ‘thủy thúy’,
sau nầy thúy dùng với nghĩa là đẹp (của màu xanh: rừng xanh, núi xanh, nước trong xanh, ngọc đẹp sáng lung linh ánh trong, xanh.., cái đẹp trong xanh là "Thúy"!
白银: Bạch ngân: bạc có màu trắng...khác với vàng, nước dao động bởi dòng chảy hay gợn gió sóng thường phản chiếu ánh sáng lóng lánh như bạc...
盘里: Bồn lý/Bàn Lý ...Trong một cái Bồn (nước), ý so sánh hồ nước như một cái thau nước lớn...
一青螺: Nhất thanh Loa; 1 ốc xanh...
Truyền thuyết, huyền thoại.

Đảo có không biết bao nhiêu là truyền thuyết, huyền thoại. Nổi bật nhất là những truyền thuyết liên hệ với Long Vương:

. Đền Động Đình.

Đền Động Đình (ảnh của tác giả).

Truyền thuyết nói rằng có một vị long vương sống dưới đáy hồ. Đền hồ Động Đình thờ Long Vương vị vua hồ Động Đình này (xem phần viết Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).

.Giếng Liễu Nghị (Liu Yi).

Giếng Liễu Nghị là đường xuống thủy phủ của Long Vương.

Giếng Liễu Nghị nguyên gốc gọi là giếng Cam vì gần đó có cây cam được xây cất đầu tiên vào thời nhà Tùy. Truyền thuyết kể rằng một sĩ tử ở Hồ Nam tên là Liu Mingying trên đường về thủ đô đi thi gặp nàng con gái Long Vương. Nàng bị một người giầu có tên là Jin Baiwan hành hạ bắt đi chăn cừu. Liu giúp nàng. Nàng chỉ cho Liêu dùng giếng Cây Cam xuống gặp Long Vương và đưa thư của nàng cho Long Vương. Long Vương cứu con gái và nhận chết chìm Jin Baiwan. Về sau Liu lấy con gái Long Vương. Câu chuyện về sau được Li Zhaowei viết thành truyền thuyết và phổ biến rộng dãi trong dân gian, trở thành một trong sáu câu chuyên dân gian nổi tiếng của Trung Hoa. Tới thời nhà Tống, giếng được đổi tên là Giếng Liễu Nghị. Ngày nay được xem là một di sản văn hóa.

Những truyền thuyết khác liên hệ với các vị thần ở đảo Quân Sơn và hồ Động Đình như:

Đền Tương Phi (Xiangfei)

Đền Tưởng Niệm Tương Phi (Xiangfei) ngày xưa gọi là Đền Tương Sơn. Đền được xây cất đầu tiên vào thời Chiến Quốc để thờ vị thần ở Quân Sơn và sông Tương. Theo truyền thuyết kể lại thì vua Thuấn (Shun,) đi tuần thú và bị bệnh chết ở đây, rồi hai nàng ái phi là Nga Hoàng 娥皇 và Nữ Anh 女英 đi tìm và đến ngày hẹn "hội ngộ" tại đây mà không gặp rồi mòn mỏi chờ ngã bệnh mà chết theo chồng và được chôn cất nơi này. Sau nầy Khuất Nguyên 屈原 làm thơ gọi là Tương Quân (Xiangjun 湘君) và Tương Phu Nhân (Xiang Furen, 湘夫人). Tương Quân lại được cho là "thần sông" của Sông Tương, Tương Phi 湘妃 là chỉ chung hai nàng ái phi của Vua Thuấn.

Vì vậy nên từ đời nhà Đường đền được đổi tên là Đền Tưởng Niệm Tương Phi. Đền được trùng tu lại vào đời vua Jia Qing triều nhà Thanh.

.Mộ Hai Bà Vương Phi.

Do đó ở đây cũng có mộ của hai bà Vương Phi.

.Vườn tre đốm (mottled bamboo) giọt nước mắt.

Tre Tương Phi có đốm hình giọt nước mắt (ảnh của tác giả).

Tại đây có một loại tre đốm đặc biệt. Theo người hướng dẫn viên loại tre này có nguồn gốc ở đây. Tương truyền rằng sau khi nghe vua Thuấn chết hai bà vương phi ôm thân tre khóc thương thảm thiết. Nước mắt của hai bà nhỏ xuống thân tre biến thành đốm hình giọt nước mắt. Vì thế tre này còn được gọi là Tương Phi trúc hay Tương trúc.

Nhìn cây tre đốm mà sững sờ, trong bộ sưu tập tre của tôi cũng có loại tre đốm loại này. Thật ra tre đốm này là một chủng của họ tre Phyllostachys viridis.

Tre đốm trong bộ sưu tập tre của tác giả (ảnh của tác giả).

Tôi trồng loại tre đốm này bằng càch hãm không cho chậy tạo thành bụi và có lẽ

tại khí hậu California nên tre không to lắm và đốm có mầu nhạt hơn. Bây giờ tôi

mới biết thêm tên loại tre này là Tương Phi trúc hay Tương trúc và có ở hồ Động

Đình, nơi nguồn cội của Đại Tộc Việt. Có trong tay một giống tre thật quí hiếm

mà giờ mới biết! Quả đúng là đi một ngày đàng, học được một sàng khôn.

Giai Thoại Địa Phương

Những giai thoại địa phương như:

.Tiếng Chuông Bay Đến Từ Trời.

Tiếng Chuông Bay Tới Từ Trời (The Bell That Flew From Afar) cũng còn gọi là Chuông Báo Động Bay Tới Từ Trời, vắn tắt hơn Chuông Trời là một di vật của cuộc nổi dậy của nông dân vào Triều Đại Nam Tống. Zhong Xiang và Yang Yao cầm đầu các nông dân nổi dậy ở vùng hồ Động Đình gồm cả đảo Quân Sơn. Nhân dân tại Quân Sơn giúp quân nổi dậy bằng cách tự đúc một cái chuông nặng hai tấn. Họ bí mật treo lên cây dùng để báo động. Quân nổi dậy tưởng rằng trời đã dóng tiếng chuông báo động cho họ biết mỗi khi có quân đội của chính phủ tiến đánh.

Chuông bị phá hủy trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa và được đúc lại năm 1979.

.Cây thiêng

Ở đây có một cây được cho là cây thiêng. Thân cây chỉ còn lại phần vỏ cây. Cành cây mọc ra từ vỏ cây này. Cây chết đi sống lại nhiều lần. Dân gian nhận thấy mỗi lần cây chết đi là có một đại họa sắp xẩy ra cho Trung Hoa, ví dụ như cây đã chết vào thời Cách Mạng Văn Hóa và ngày nay lại đâm nhánh mọc lại.

Phong cảnh, công viên

Như đã nói cảnh quan nơi đây thật là thần tiên. Có rất nhiều công viên, hồ nước

như hồ Ái Ân...

Lễ hội:

Lễ hội quan trọng nhất là Lễ Đua Thuyền Rồng trong tết Đoan Ngọ (Duanwu Jie). Ngày nay cho rằng Lễ Hội Đua Thuyền Rồng trong tết Đoan Ngọ liên hệ với nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (Qu Yuan), một người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Về sau ông bị thất sủng vì đám nịnh thần và bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đầy ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông sáng tác bài thơ Ly Tao Sở Từ, diễn tả tâm sự buồn vì đất nước suy vong với họa mất nước. Sau đó ông gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Dân địa phương tìm cách cứu vớt ông. Họ dùng chèo khuấy nước xua đuổi cá, làm bánh ú (zhongzi) đem thả xuống hồ để cho cá ăn để khỏi ăn thịt Khuất Nguyên. Kể từ đó, mỗi năm cứ đến ngày mồng năm tháng năm, nhân dân vùng hồ Động Đình tổ chức lễ Đoan Ngọ, Duanwu (Đoan biến âm của Duan- có dua- liên hệ với đũa, dual-,duo-, Phạn ngữ dva- là đôi, hai và wu là ngũ, năm. Ngọ biến âm với ngũ, năm. Duanwu, đoan ngọ là đôi năm, song ngũ, mồng 5 tháng 5). Tại Việt Nam tết Đoan Ngọ chúng ta ăn bánh ú tro (bánh tro gói theo hình bánh ú), cổ tay đeo chỉ ngũ sắc, giết sâu bọ, ăn cơm rượu nếp, đi lên rừng lên núi hái thuốc...

Như thế Lễ Hội Đua Thuyết Rồng ở hồ Động Đình vào ngày mồng 5 tháng 5, lễ Đoan Ngọ thật ra chỉ là một sự phối hợp mà thôi. Thật sự Lễ Đua Thuyền Rồng đã có trước thời Khuất Nguyên và liên hệ với Long Vương, vua Động Đình Hồ (xem phần Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).

.Đặc Sản

Đặc sản nổi tiếng nhất của đảo Quân Sơn là trà kim bạc (ngân châm trà). Đọt trà dài đầu nhọn như mũi kim. Lúc mới đổ nước sôi pha trà, trà nổi lên mặt đứng thẳng chỉ thiên. Khi ngấm rồi từ từ lắng xuống đáy nhưng vẫn giữ thằng đứng.

Trà ngân châm Quân Sơn (ảnh của tác giả).

Trà này là một sở thích của vua Càn Long đời nhà Thanh vì thế trở thành trà ngự dùng tiến vua.

Đảo có những nương trà xanh tươi lượn sóng trên các ngọn đồi. Mùa này trà đang ra hoa. Phần lớn hoa có mầu trắng nhụy vàng nhưng thỉnh thoảng cũng thấy hoa mầu hồng. Hoa giống trà hoa nữ (camelia).

Toàn cảnh một phần hồ phải nhìn từ Lầu Lạc Dương (YueYang) ở thị trấn Lạc Dương (岳阳). Lạc Dương hay Nhạc Dương cùng với Ích Dương (益阳), Thường Đức (常德) là ba thị trấn lớn bên hồ Động Đình. Lầu Lạc Dương đã vang bóng, đã lừng danh một thời.

Bữa ăn trưa chúng tôi dùng các đặc sản cá rau từ hồ Động Đình. Ở đây có loại cá đầu to nổi tiếng ngon. Thức ăn Hồ Nam cay xé miệng, vã mồ hôi trán, nóng bỏng như phún xuất thạch mới phun ra từ núi lửa, cay hơn cả chục lần các món ăn Thái và Mễ. Sau bữa ăn trưa chúng tôi lên đường đến Lạc Dương.

Thị trấn Nhạc Dương (YueYang) nằm ở phía đông bắc tỉnh Hồ Nam với hồ Động Đình ở phía tây và sông Dương Tử ở phía bắc, cách Trường Sa 150 km. Thị trấn Nhạc Dương nằm ngay bờ hồ. Ngày nay thị trấn Nhạc Dương còn cổng Zhanyue, thành xưa và con phố cổ Bianhe.

Từ ngàn xưa nơi đây đã là chỗ đến viếng và vãn cảnh hồ. Vì thế nhiều triều đại Trung Hoa đã xây dựng những đền đài ngắm cảnh hồ, làm thơ, uống rượu, gỉải trí, tu dưỡng… Thị trấn Nhạc Dương nổi tiếng với Lầu Nhạc Dương (岳阳楼 Yuèyánglóu).
Lầu Nhạc Dương là một tháp lầu nổi tiếng suốt bốn triều đại của Trung Hoa gọi là Tứ Đại Danh Tháp Trung Quốc.
Vào thời Tam Quốc, tướng Lỗ Túc (Lusu) nhà Đông Ngô đã dùng Lầu Nhạc Dương làm nơi duyệt binh. Năm Kiến An thứ 20 (215) Tôn Quyền và Lưu Bị trang giành đất Kinh Châu. Tướng Lỗ Túc dẫn quân đóng tại vùng chiến lược Ba Khâu tại hồ Động Đình luyện tập thủy quân, xây thành Ba Khâu. Bên hồ Động Đình ông cho xây một lầu tháp để duyệt thủy quân gọi là Duyệt Quân lâu. Thời nhà Tần và Nam-Bắc Triều, Duyệt Quân lâu đổi tên là Ba lăng thành lâu. Đến thời nhà Đường, Ba lăng thành lâu được xây lại gọi là Nhạc Dương lầu (vi.wikipedia).
Lầu này có lối kiến trúc kiểu nhà Đường. Lầu bị phá hủy nhiều lần nhưng được xây dựng lại bởi các triều đại về sau. Lầu Nhạc Dương là một kho tàng về kiến trúc ghi lại các kiểu kiến trúc qua nhiều triều đại của Trung Hoa. Qua các tranh cổ các kiến trúc này được lưu trữ lại. Một công viên tại đây trưng bầy những mô hình Lầu Nhạc Dương bằng đồng thau qua năm triều đại (Five Dynasty Bronze Towers). Những mô hình lầu đồng thau này được coi là lớn vào bậc nhất Trung Hoa,
Lầu Nhạc Dương đời Đường (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời Tống (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà Nguyên (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà Minh (ảnh của tác giả).
Lầu Nhạc Dương thời nhà Thanh (ảnh của tác giả).
Tôi ghi lại đây hình ảnh những mô hình các Lầu Lạc Dương của 5 triều đại Trung Hoa này để cho thấy các lầu này đều xây theo vũ trụ quan có hình Tam Thế của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo. Lưu ý vào đời Đường lầu chỉ có hai tầng, ‘tầng’ nền trên mặt hồ nước coi như là Hạ Thế, cõi dưới, cõi nước, cõi âm hãy còn giữ theo chính thống. Trong khi vào các đời sau lầu đã xây với ba tầng trên mặt đất nên tầng dưới cùng coi như là hạ thế ở trên mặt đất không còn chính thống ở dưới nước nữa.
Hình trang trí trên nóc nhà của lầu vào đời Đừơng, đời Tống có hình con cá (có lẽ là loài cá anh vũ, một loại cá chép là loài cá có thể hóa long, đã thể điệu hóa, thần thoại hóa chút ít). Thoạt khởi thủy, con người dùng các loài vật có trong thiên nhiên làm vật tổ nên rắn nước, cá (chép) biểu tượng cho nước, cõi nước, hạ thế. Về sau theo dòng văn minh, con người thần thoại hóa, linh vật hóa các vật tổ, vật thờ thiên nhiên thành các linh vật. Rắn, cá chép hóa rồng vì thế mà tới đời nhà Thanh, hình tượng ở đầu mái lầu đã có hình rồng.
Tuy nhiên để ý con rồng ở đây thân và đuôi có móc sóng cuộn, đầu còn mang hình ảnh đầu cá, sừng rất nhỏ mang âm tính cho thấy rồng này là rồng nước. Điểm này ăn khớp với khuôn mặt âm, nước của Long Vương, vua hồ Động Đình.
Sự biến hóa từ cá đời Đường sang rồng đời Thanh cho thấy nền văn hóa rồng là nền văn hóa đã muộn so với nền văn hóa rắn nước, cá chép. Những nền văn hóa dựa vào các linh vật như văn hóa Trung Hoa dựa vào Long Li Qui Phượng là những nền văn hóa muộn.
Ở đây cũng cho thấy nền văn hóa cá nguyên thủy của dân bản địa tức của Bách Việt có thể đã bị Trung Hoa hóa thành văn hóa rồng.
Nền văn hóa Tiên Rồng của chúng ta là nền văn hóa muộn sau này so với nên văn hóa Chim Rắn của cổ Việt thấy trên trống đồng của đại tộc Đông Sơn. Chúng ta nên trở về lấy nền văn hóa Chim-Rắn làm gốc, còn dùng hai từ Tiên Rồng chỉ là một cách nói hoa mỹ cho đẹp mà thôi, nếu không muốn nói là đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Các nhà làm văn hóa Việt Nam hiện nay nên tránh dùng các hình linh vật Long Ly Qui Phượng trang trí cho các kiến trúc thờ phượng Việt như đình chùa miếu, đài tưởng niệm. Nên dùng các vật tổ của chúng ta là Rắn Nước, Thuồng Luồng, Nghê, Rùa Ba Ba, chim Cắt. Nên tránh dùng các hình này vì thứ nhất là nó diễn tả một nền văn hóa muộn không phải là của cổ Việt, thứ hai nó lầm lẫn với văn hóa Trung Hoa, nói tới Long Ly Qui Phượng là thế giới nghĩ ngay và cho đó là của văn hóa Trung Hoa, chúng ta khó lòng mà cãi lại là chúng có nguồn gốc của chúng ta (dù cho đó có là sự thật của chúng ta đi nữa). Nếu bắt buộc phải dùng hình rồng biểu tượng cho Lạc Long Quân thì nên dùng rồng thuộc ngành Rồng Nước có thân rắn uốn khúc hình sóng nước như rồng thời nhà Lý hay rồng có đuôi hình cuộn sóng như thấy ở trên. Lạc Long Quân của chúng ta thuộc dòng Rồng Nước, cháu ngoại của Long Vương ở đây. Rồng Thăng Long là rồng bay lên trời phải dùng hình rồng nước nhưng có bờm gió mang tính cường điệu.
Cũng nên biết hồ Động Đình là nơi ẩn dật của các đạo sĩ theo Đạo giáo, là đất của Đạo giáo nên văn hóa ở đây ảnh hưởng nhiều về thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo (hình đĩa thái cực được cho là của Đạo giáo). Vì thế các lầu ở các đời sau cũng thấy có các kiến trúc của hình quả bầu ở trên nóc (trong kiến trúc, quả bầu nhìn dưới dạng nhất thể có một khuôn mặt là đĩa thái cực). Ta đã biết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, khởi đầu từ bầu hư vô, bầu vũ trụ, bầu tạo hóa, bầu tạo sinh, được diễn tả trong kiến trúc bằng hình quả bầu. Khi thấy một kiến trúc tín ngưỡng, thờ phượng nào trên nóc có hình quả bầu thì biết ngay kiến trúc đó theo hay bị ảnh hưởng bởi Vũ Trụ giáo (xem bài viết Vũ Trụ giáo). Nhưng trái bầu ở đây đã thể điệu hóa không còn giữ hình trái bầu âm dương cho thấy Vũ Trụ giáo ở văn hóa Trung Hoa đã biến dạng hay tam sao thất bản không còn giữ được chính thống.
Những điểm biến thái này cho thấy văn hóa Trung Hoa có thể đã vay mượn Vũ Trụ giáo từ bên ngoài, ở các nền văn hóa địa phương mà họ thôn tính, họ đã bị đống hóa, nói rõ ra là bị Bách Việt hóa nên không giữ được thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh một cách chính thống.
Như đã nói Hồ Động Đình là chỗ thần tiên mà bất cứ một văn nhân thi sĩ Trung Hoa nào cũng mơ ước được đặt chân tới viếng thăm. Lầu Nhạc Dương là lầu thơ phú, văn chương. Ngày nay ở đây có một hành lang những bia đá khắc thơ. Những bia đá ghi lại các bài thơ của các lãnh tụ Trung Hoa làm tại đây, tiếp đến là những bài thơ cổ nổi tiếng của các thí bá, thi hào, thi thánh, thi tiên của Trung Hoa như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lưu Vũ Tích, Bạch Cư Dị… rồi tới của các nhà thơ hiện dại vả cuối cùng khắc ghi các điều nói vể Lầu Nhạc Dương.
Tiêu biểu chỉ xin nêu ra đây một ví dụ. Đó là bài thơ tuyệt tác Đăng Nhạc Dương lâu của thi thánh Đỗ Phủ:
Một phần bài thơ Đăng Nhạc Dương Lầu của Đỗ Phủ (ảnh của tác giả).

Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt, Việt ngữ và ghi chú của anh Nhạn Nam Phi Đỗ Ngọc Thành:

《登岳阳楼》杜甫 Đăng Nhạc Dương Lầu Đỗ Phủ
昔闻洞庭水,今上岳阳楼。 Tích Văn Động Đình Thủy, Kim thượng Nhạc Dương Lầu.
吴楚东南坼,乾坤日夜浮。 Ngô sở đông nam tách, Càn khôn nhật dạ phù.
亲朋无一字,老病有孤舟。 Thân bằng vô nhất tự, Lảo bệnh hữu cô châu.
戎马关山北,凭轩涕泗流。 Nhung Mã quan sơn bắc, Bằng hiên thế tứ lưu.
Lên Lầu Nhạc Dương : 登岳阳楼 ( Đỗ Phủ-杜甫)
昔 闻洞庭水,今上岳阳楼。Xưa nghe Động Đình Thủy, nay lên Lầu Nhạc Dương.
吴楚东南坼,乾坤日夜浮。Ngô Sở Đông Nam tách, Càn khôn đêm ngày trôi.
亲朋无一字,老病有孤舟。thân hữu không một chữ, già bệnh chỉ xuồng côi
戎马关山北,凭轩涕泗流。 Nhung Mã quan san Bắc, Bên hiên giọt lụy rơi.
Ghi chú:

Bài thơ theo thể “ngũ ngôn tuyệt cú”, các chữ Lâu-楼, Phù-浮, Châu-舟, Lưu-流 là vần Chân.
- 昔闻: Tích văn: Xưa nghe
- 洞庭水: Động Đình Thủy: Nước của Động Đình, ý nói “Động Đình Hồ”.
- 今上: Kim Thượng : nay Lên
- 岳阳楼: Nhạc Dương Lầu.
- 吴楚 : Ngô Sở. nước Ngô và nước Sở.
- 东南坼 : Đông Nam Sách: Đông Nam Tách (Tách ra, chia, chẽ…).
- 乾坤 : Càn khôn: trời đất.
- 日夜浮 : Nhật dạ Phù: Ngày đêm trôi, ( Thời gian trôi…)
- 亲朋 :Thân Bằng : Thân quyến và bằng hữu, người thân và bạn bè.
- 无一字 : Vô Nhất Tự : Không một chữ, (không có tin tức khi xa nhau/ Biệt vô âm tín).
- 老病 : Lảo Bệnh: già bệnh.
- 有孤舟 : Hữu Cô Châu: có (chỉ) một thuyền cô đơn.
- 戎马 : Nhung Mã : Ngựa Nhung : Loại ngựa cao to và khõe được nhập vào trung nguyên từ phía tây-âu của người Nhung-戎, thường là dùng cho chiến trận, chiến binh và quan, quân.
- 关山北 : Quan San Bắc : Cữa Khẩu quan bắc miền núi.
- 凭轩 : Bằng hiên : bên hiên, bên dưới mái hiên.
- 涕泗流 : Thế Tứ Lưu : Chảy nước mắt, nước mũi khi khóc, lệ, lụy rơi….
  • Bài thơ nầy tả cảnh và tâm sự khi lên lầu Nhạc Dương, Đỗ Phủ là quan Văn của đời nhà Đường, nhầm lúc loạn An-Lộc-San, chiến tranh ly loạn, ngắm nhìn đầm nước Động Đình mêng mông mà cảm khái cho thân phận người sống trong thời loạn, không tin tức của bạn bè, ngựa đi quan Bắc hay thuyền đi Động Đình…chỉ cô đơn như chiếc xuồng đơn côi giữa dòng nước cuộc đời; Sở và Ngô là hai nước Đông với Tây ngày xưa cùng chung biên giới và Động Đình Hồ rất lớn, lớn đến nỗi tách chia Ngô và Sở ra làm hai một cách rõ ràng!
  • Hiện nay, có hai phiên bản “Đăng Nhạc Dương Lầu” của Đỗ Phủ được lưu truyền online. Có một bản với câu “Ngô Sở Đông Nam *Tố-” là Sai ! Phải là “Ngô Sở Đông Nam *sách-坼” ; “sách” là theo cách đọc của từ Hán Việt, “Sách-坼” chính là “tách”, Tách, chia, chẻ đôi…trong bài này nghĩa là nước Hồ Động Đình tách hai nước Ngô và Sở ra hai bên rõ ràng. Bài nầy có chữ Nôm là “凭轩-Bên hiên” mà từ Hán Việt đọc là “凭轩-Bàng hiên”.
Bài thơ này đã đuợc Mao Trạch Đông viết lại dưới dạng chữ thảo và được khắc lại trên một bia đá ở đây:
Bài thơ của Đỗ Phủ đã đuợc Mao Trạch Đông viết lại dưới dạng chữ thảo (ảnh của tác giả).
Theo người hướng dẫn viên thì Mao Trạch Đông đã sửa hai chữ “lão bệnh” trong bài thơ này. Có giả thuyết cho rằng lúc viết lại bài thơ này Mao Trạch Đông đã già, đã yếu, đã lẫn rồi nên viết sai như thế. Có giả thuyết lại cho rằng ông cố tình “thay đổi” hai chữ “lão bệnh” ngụ ý cần phải “thay đổi” vì hối tiếc về những điều mình đã làm, thấy cảnh xã hội Trung Hoa trước mắt mình lúc đó chìm ngập trong bạo loạn, trong tang thương khốn cùng mà mình giờ “lão bệnh”, “cô đơn như chiếc xuồng đơn côi giữa dòng nước cuộc đời” . Chữ Hán của tác giả ăn đong, lại còn viết theo chữ thảo thì chỉ thấy bài thơ trông như là một bức tranh cỏ non xinh đẹp với “ngọn cỏ gió đùa” (Hồ Biểu Chánh). Chữ Anh của người hướng dẫn viên cũng chỉ “đong ăn” (nói theo ngữ pháp Trung Hoa), không diễn tả hết được ý trong đầu. Về nhà đành cầu cứu anh Đỗ Ngọc Thành. Theo anh thì bài thơ viết “thảo của Mao Trạch Đông không có thay đổi gì! hai chữ “lảo bệnh” chỉ viết tắt và dính liền nhau, không thay đổi”. Như thế thì quả thật Mao Trạch Đông vốn là một nhà giáo đã từng làm hiệu trưởng một trường sư phạm thì khó mà viết sai (ngoại trừ đã già lẫn). Ông đã chỉ chọn hai chữ “lão bệnh” duy nhất trong bài thơ mà viết tắt là cố ý để gởi gấm một tâm sự gì lúc đã “lão bệnh” (viết lại một bài thơ tuyệt tác của một thánh thi, có thể bài thơ này hợp với tâm trạng mình lúc đó mà lại viết tắt một cách thiếu tôn kính thì phải là một việc làm có đầy chủ ý).
Nhạc Dương Lầu sau này vang danh lừng lẫy thêm nhờ hai ông Đằng Tử Kinh (Teng Zijing) và Phạm Trọng Yêm (Fan Zhongyan). Đằng Tử Kinh bị vu cáo tham nhũng nên bị “đầy” ra làm tri phủ Nhạc châu. Ông cho trùng tu lại lầu Nhạc Dương. Sau đó mời Phạm Trọng Yêm viết bài Nhạc Dương lâu ký. Bài viết này đã giúp Lầu Nhạc Dương nổi tiếng như cồn khắp Trung Hoa. Trong bài viết của Phạm Trọng Yêm có câu “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế ở đây có đền thờ hai vị này.
Lầu Nhạc Dương mới ngày nay được xây cất lại năm 2007.
Lầu Nhạc Dương hiện nay.
Trong lầu là một bảo tàng viện lưu trữ các áng thơ văn cổ của các thi nhân, văn sĩ, học giả viết tại Lầu Nhạc Dương, viết về hồ Động Đình, về Lầu Nhạc Dương và những giai thoại, lịch sử về Lầu Nhạc Dương. Không biết bao nhiêu là thơ văn câu đối. Có một đôi câu đối ngắn nhất của Lý Bạch mà diễn tả hết được cảnh hồ Động Đình:
Thủy thiên nhất sắc (Nước trời một mầu), Phong nguyệt vô biên (Gió trăng không bờ).
Đứng trên hiên tầng cao nhất của Lầu Nhạc Dương nhìn ra thấy hồ mêmh mông, huyền ảo mặc dù đã xế trưa nắng đã lên nhưng vẫn còn mịt mù màn khói sương thu. Xa xa đảo Quân Sơn lờ mờ tô đậm nét hiện dần dần lên với độ nắng lên cao. Đúng như hai câu thơ của Lý Bạch đã diễn tả nói ở trên.
Hồ Động Đình nhìn từ Lầu Nhạc Dương mịt mù trong khói sương thu. Đảo Quân Sơn theo màu nắng vẽ mỗi lúc một thấy hiện rõ đậm nét thêm (ảnh của tác giả).
Lầu có phòng ngắm cảnh hồ, phòng uống rượu, uống trà, phòng ngâm thơ, làm thơ, phòng giải trí….
Bên cạnh lầu là quán đình ghi tên Anh ngữ là Three Drunkards Pavillion (Đình Ba Người Say). Lầu này được xây vào nằm thứ 48 (1776) đời Càn Long nhà Thanh dựa theo truyền thuyết tiên ông Lữ Đồng Tân hay Lã Đồng Tân, một trong Tám Vị Tiên đã say sưa tại Lầu Nhạc Dương ba lần. Trong đình tôi chỉ thấy tranh vẽ một vị tiên đang say rượu, không thấy hình ba vị tiên say.
Thi Tửu Thần Tiên Lã Đồng Tân đang say (ảnh của tác giả).
Có lẽ là dịch sai chăng? Nhiều khi Anh ngữ dùng dịch chữ Hán ở Trung Hoa rất… loạn. Nhìn tên chữ Hán đình có tên là Tam Túy Lầu (三醉亭) có nghĩa là Lầu Ba (lần) Say. Họ đã dịch Tam Túy là Three Drunkadrds, Ba Người Say.
Kểm chứng lại với anh Đỗ Ngọc Thành thì tiên ông 呂洞賓, Lữ Đồng Tân, phiên âm Anh ngữ là Lu Dong Bin (đọc là Luỷa Túng Pín) (trong khi tên ông tiên này thấy khắc trên bảng đá là Ly Dongbin). Lã Đồng Tân được phong là “Thi Tửu Thần Tiên”.
Trong tranh có bài thơ. Bài thơ không có đề tựa, anh Đỗ Ngọc Thành đặt tên là Tiên Bay và chuyển qua Hán Việt, Việt ngữ và giải thích như sau:
朝 游北越暮蒼梧,Triêu Du Bắc Việt Mộ Thương NGô, / Sáng Du Bắc Việt Chiều Thương Ngô,
袖里青蛇膽氣粗;Tụ Lí thanh Xà đảm khí thô; / Rắn xanh trong tay áo mệt khô;
三醉岳陽人不識,Tam Túy Nhạc Dương nhân bất thức, / Ba say Nhạc Dương ai mà biết,
朗吟飛過洞庭湖。Lãng Ngâm phi quá Động Đình Hồ. / Lãng Ngâm bay qua Động Đình Hồ.
(bài thơ được phiên dịch “Nôm” cố sao cho sát nghĩa mà vẫn gói gọn trong câu 7 chữ, nên không đúng luật “Đối” và bằng trắc của thể thất ngôn tứ tuyệt).
Bài thơ này có một chứng tích của cổ sử Đại Tộc Việt.”. Vùng Động Đình Hồ ở giữa Hồ Bắc và Hồ Nam của nước Sở. Câu thơ “sáng du Bắc Việt chiều Thương Ngô” (朝游北越暮蒼梧, Triêu Du Bắc Việt Mộ Thương Ngô, Thương Ngô-蒼梧 là một tên gọi khác của nước Sở, đó là “địa danh” ở phía Nam của Bắc Việt) cho thấy rõ ràng “Sở” là “Việt (xem hồ Động Đình Và Truyền Thuyết Việt).
Đình ngày nay được xây lại vào năm 1867. Rõ ràng là có tiên hiện ra ở hồ Động Đình. Đất hồ Động Đình là đất của Đạo giáo, của thần tiên. Dĩ nhiên đình này là nơi say sưa của các tiên ông phái Lưu Linh.
Ngoài ra còn có Tiên Mai đình, đền Tưởng Nhớ Phạm Trọng Yêm và Đằng Tử Kính (như đã nói)…
Một vài điểm khác biệt thấy ở đây cũng cần nói tới. Những thú biểu ở đây được diễn tả khác những nơi khác. Ngoài tứ linh Long Ly Qui Phượng còn thấy những thú biểu không thấy ở những nơi khác và được diễn tả một cách rất thi vị hơn:
.Lân cho con bú.
Lân cho con bú (ảnh của tác giả).
.Hươu chổng mông nhìn trời.
Hươu là thú chủ (host) của linh thú nghê hay kì (trong cặp kì lân), linh vật biểu tượng của Kì Dương Vương ngành nọc, dương, Lửa Viêm Đế, Đế Minh.
Thú biểu hươu (ảnh của tác giả).
Ở đây còn thấy thêm các thú biểu ít thấy ở nơi khác như:
.Thỏ
Thỏ chổng mông ngắm trời mây (ảnh của tác giả).
Thỏ biểu tượng cho mặt trăng, một khuôn mặt của Lạc Long Quân, ngành nòng âm nước Thần Nông, Long Vương.
.Voi
Tượng voi có mặt nhiều ở đây mà ít thấy ở những nơi khác.
Tượng voi trước đền Dương Phi (ảnh của tác giả).
Voi ngồi ngắm cảnh hồ trông buồn rười rượi
(ảnh của tác giả).
Điểm này cho thấy ngày xưa ở đây có voi. Thật vậy, một phần đất của Hồ Nam thời nhà Tần thuộc về Tượng Quận.
Vãn cảnh xong, chúng tôi trở lại Lầu Nhạc Dương, tìm một góc lầu cao ngồi uống Ngân Châm trà ngắm hồ để hồn mình lâng lâng trôi theo dòng truyền thuyết, theo dòng huyền thoại của Đại Tộc Việt. Phải tới đây. Ngồi đây để thấy những dầu vết của truyền thuyết và cổ sử Đại Tộc Việt hãy còn bao nhiêu là chứng tích hiện hữu ở nơi này. Bách Việt giờ đang trên bờ tận tuyệt. Nghĩ về quê hương Việt Nam, một tộc Việt duy nhất còn tồn tại, giờ cũng đang lâm nguy, có nguy cơ bị diệt vong mà lòng thấy tan nát…
Hồn thơ trổi dậy dạt dào, lâu lắm rồi không làm thơ. Nhưng chiều nay, bên hồ Động Đình, cội nguồn của Đại Tộc Việt, tôi lại thấy say say trong men thơ.
Ghi vội mấy vần thơ, để rồi trên đường về sẽ chuốt lại:
Chiều nay mang đầy hồn huyền thoại,
Ta xuôi dòng rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Hồ Động Đình. Động Đình hồ.
Diễm ảo thu sắc,
Vẽ tranh hồ huyễn hoặc.
Khói sương thu thủy mạc huyền mơ.
Ven bờ,
Rừng chổi cờ lau sậy,
Theo gió thu phe phẩy quét sương mờ.
Mặt hồ ẩn hiện,
Mênh mông. Mênh mông. Mênh mông.
Bao la như biển vũ trụ.
Núi Động Đình, mây phủ.
Mây gối mây bềnh bồng.
Như Núi Trụ Trời chống đỡ hư không.
Nước, đất, trời dựng cảnh thiên thai,
Nước, đất, trời dựng cảnh bồng lai.
Văng vẳng nghe bên tai,
Trong gió thu,
Gió Động Đình mẹ ru con ngủ,
Ru hời, à à ơi,
Ngày xửa ngày xưa, thời vừa sáng thế,
Kì Dương Vương, Vua Người Mặt Trời Xích Quỉ,
Xuống thủy cung,
Kết duyên cùng Thần Long,
Con gái Vua Rồng Động Đình Quân.
Sinh ra Sùng Lãm, vương hiệu Lạc Long Quân.
Linh khí âm dương hòa hợp,
Rồng Lạc Long và Chim Âu Cơ thành vợ thành chồng.
Cha Nước Biển, Mẹ Lửa Non,
Hôn phối âm dương thành bầu Trứng Vũ Trụ, càn khôn.
Đẻ ra bọc Trứng Thế Gian,
Sinh ra trăm Lang ngành mặt trời,
Nòi Mẹ chim, năm mươi người lên núi,
Dòng Cha rắn, năm mươi người xuống biển ngàn khơi.
Dựng nên triều Hùng Vương,
Dòng vua thái dương rạng ngời.
Tổ tiên Người Mặt Trời Bách Việt.
Biên cương nước Văn Lang.
Phía Bắc tới hồ Động Đình,
Tới tận dòng Trường Giang,
Phia Tây giáp Tứ Xuyên Ba Thục,
Phía Đông giáp Nam Hải,
Phía Nam xuống mãi tận Hồ Tôn Chiêm Thành.
Ôi Bách Việt một thời hùng anh!
Chiều nay mang đầy hồn huyền thoại,
Ta xuôi dòng rêu phong truyền thuyết,
Về thăm Động Đình hồ,
Nơi cội nguồn tộc Việt.
Mà thấy tả tơi trong lòng,
Mà thấy nước mắt hoen tròng,
Bách Việt giờ đang tận tuyệt.
Việt Nam giờ, nguy cơ diệt vong.
Việt Nam ơi! Hỡi Việt Nam ơi!
Hỡi dòng giống Việt Mặt Trời,
Dòng giống hào hùng oanh liệt,
Hãy bảo tồn truyền thống Việt,
Hãy vùng lên giữ vững giang sơn,
Đời đời bất diệt,
Cùng mặt trời,
Muôn năm còn mãi rạng ngời.
Biết chắc rằng bài thơ này không thể nào được khắc để lưu lại tại đây, tôi thả những câu thơ làm tại đây xuống hồ Động Đình.

Nguyễn Xuân Quang

No comments:

Post a Comment