Tuesday, September 27, 2011

Babylone

Lưỡng Hà là vùng thung lũng phì nhiêu nằm giữa 2 sông Tigris và Euphrates. Người Hy Lạp cổ đại gọi là Mesopotamia . Từ thưở xa xưa nó đã nổi tiếng là vùng đất phì nhiêu , thuận lợi cho nền sản xuất nông nghiệp trồng nho , ôliu đại mạch và nhiều loại hoa quả khác .
BIên giới phía bắc là dãy núi Armenia , phía tây là sa mạc Syria , phía đông giáp Ba Tư , phía nam là vịnh Pecxich
Sông Tigris và
Euphrates hàng năm tưới mát cho dải đất mênh mông này , đem lại nguồn nước và phù sa vô tận , tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng trọt , chăn nuôi , đánh cá .

Vùng Lưỡng Hà có khí hậu nóng ẩm , thực vật phong phú đa dạng . Đó là 1 thuận lợi để cho cư dân nhiều nơi hội tụ về đây . Tuy vậy , sự phức tạp về dân cư cũng làm cho Lưỡng Hà khó thống nhất lãnh thổ .
Do vị trí nằm giữa biển Địa Trung Hải và Trung Á , lại có 2 con sông là đường giao thông quan trọng nên cư dân ở đây còn làm nhiều nghề thủ công và tham gia buôn bán . Sự phát triển kinh tế thương nghiệp là 1 nét bổ sung quan trọng vào nền kinh tế Lưỡng Hà .
Chính tại đây , người Sumer , từ thiên niên kỉ IV tr. CN đã di cư tới và sáng lập ra nền văn mihn cổ đại đầu tiên ở lưư vực Lưỡng Hà . Sau đó , người Semites đến đầu thiên niên kỉ thứ III tr.CN mới từ vùng đồng cỏ ào ạt vào khu vực Lưỡng Hà . Từ nhũng bộ lạc chăn nuôi , họ dần dần chuyển thành những bộ lạc nông nghiệp và đồng hóa với người Sumer . Ngoài ra còn rất nhiều bộ lạc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến . Quá trình xâm nhập ấy làm cho thành phần cư dân của Lưỡng Hà khá phức tạp . Trải qua hàng nghìn năm , qua quá trình lao động , họ đã hòa nhập thành 1 cộng đồng dân cư đông đúc và xây dựng 1 quốc gia mạnh nhất ở Tây Á .
NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA NỀN VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI
1.Chữ viết :
2. Văn học :

Văn học
Sumer , Akkad được coi là cơ sở của văn học Babylonia và Assyria sau này .. Các thể loại chính là văn học truyền miệng , văn học dân gian , thơ ca và nhất là thể loại anh hùng ca . Nội dung thường gắn liền với tín ngưỡng và phản ánh đời sống thường ngày của người lao động . Điển hình nhất là 2 tập trường ca : thi phẩm Enuma Elit và anh hùng ca Gilgamesh .
Mầm mống của chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm . Người Sumer là người đầu tiên sáng tạo ra chữ viết ở khu vực này, vào khoảng đấu thế kỉ III tr. CN . Chữ viết của người Sumer theo kiểu chữ tượng hình . Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ - về sau là những nét vạch hợp lại thành ý . Họ dùng 1 thanh gỗ nhỏ hay sậy , vót nhọn 1 đầu , ấn lên phiến đất mềm tạo thành 1 đầu nhọn , đáy bằng , trở ngược thanh gỗ lên vạch 1 đường thẳng ,trông như mũi tên hay chiếc đinh . Một số chiếc ñing này tập hợp lại thành từ .

Mỗi tấm đất sét là 1 trang sách , đó hcii1nh là chữ tượng hình của người Ai cập được đơn giản hóa , chỉ ghi lại những nét đặc trưng , những thứ chữ đó có hình tiết như những góc nhọn , nên thường đưôïc gọi là chữ hình góc hay hình đinh ( Cuneiforme ) ( do đó co quyển sách chỉ 50 trang mà nặng đến 50 kg !!!!) :-&

Rất nhiều tộc người Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết này để ghi lại tình hình sinh hoạt kinh tế , xã hội cũng như diễn biến chính trị thời đó . Vì vậy áo thể coi chữ viết do người
Sumer phát minh ra là thứ chữ mẹ đẻ của nhiều chữ viết khác của người Akkad , Babylonia , Hittites , Assyria , Ba Tư . Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 1 thư viện lớn trong cung vua Assurbanipal ở thành phố Ninéveh , trong đó kưö trữ tới 2200 cuốn sách . Đó là những trang sách bằng đất sét được ghi bằng loại chữ tiết hình của người Sumer . Đó là nguồn sử liệu rất có giá trị .
Bô luật Hamurabi của nên văn minh Lưỡng hà là Bộ luật thành văn cổ xưa nhất ( Bộ luật gồm 282 điều , được khắc trên đá hoa cươmg đem từ Ai Cập về).
http://www.lebjournal.com/newz/wp-content/800px-iraqi_girl_smiles.jpg3. Tôn giáo - tín ngưỡng
Trong thời kì đầu , người Lưỡng Hà theo đa thần giáo . Họ tôn sùng những lực lượng tự nhiên , họ coi đó như là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình . Người Uruk thờ thần Anu , Ediru thờ thần Eauna , thần Lin... Ngoài các thần chủ , người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều thần khác . Họ thờ những vị thần có liên quan đến trồng trọt , chăn nuôi và những hiện tượng thiên nhiên gắn liền với cuộc sống con người : thần Samat ( thần Mặt Trời ) , thần Enlin ( thần Đất ) , thần Istaro ( thần Ái tình ) ... Người ta tin rằng thần Mẹ ( Inana ) còn là thần bảo hộ nông nghiệp , thần của sinh nở , thần biển ( Ea ) còn dạy cho người ta biết nghề thủ công , nghệ thuật , khoa học ... Thần Nước ( Tammuz ) được coi như vị thần dạy bảo cư dân trồng trọt , làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái , bảo vệ mùa màng ...
Người ta xây dựng nhiều đền miếu thờ thần , các tăng lữ tiến hành nhiều nghi lễ phức tạp . Việc xây dựng đền miếu đã trở thành gánh nặng với quần chúng nhân dân . Ngoài ra , tập đoàn tăng lữ còn nô dịch họ về mặt tinh thần và bóc lột về kinh tế . Tập đoàn tăng lữ của Babylonia rất cồng kềnh , có đến hơn 30 đẳng cấp

Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao trong toàn Lưỡng Hà của Hammurabi , thần Mardouk đã trở thành vị thần tối cao torng toàn quốc ; bản thân nhà vua cũng được thần thánh hóa , thay mặt vị thần Mardouk cai trị muôn dân.
http://www.cultural-china.com/chinaWH/upload/sczldkp5.jpg4 . Nghệ thuật :

Cũng giống như nền văn minh Ai Cập cổ , những thành tựu lớn nhất của các nền văn minh Lưỡng Hà cổ nằm trong lĩnh vực kiến trúc . Nổi bật nhất trong số này là thành Babylonia và khu Vườn treo của thành này được xây dựng trong thời kì trị vì của Nabuchodonosor - quốc vương Tân Babylonia , sau này được coi là 1 trong 7 kì quan của thế giới cổ đại . Sử gia Herodot có nói đến thành
Babylonia .

Việc khai quật cho thấy thành Babylonia có chu vi 16 km , tường thành bằng gạch cao 30 m , dày 8,5 m , có dấu tích 7 cửa và các tháp canh . Thành phố được trang trí tỉ mỉ bằng phù điêu , tượng với các cánh cửa thành bằng đồng vững chắc . Tổng thể kiến trúc của
Babylonia kết hợp hài hòa với cảnh qua thiên nhiên làm tăng thêm vẻ thơ mộng . Trong thành phố này một kì quan của thế giới đã được xây dựng : Vườn treo Babylonia . Vườn treo được xây dựng kề bên cung điện của vua Nabuchodonosor . Tương truyền khu vườn treo Babylonia - khu vườn thượng uyển độc đáo , được Nabuchodonosor xây dựng để chiều ý vương hậu sủng ái của mình vốn là công chúa xứ Medes - xứ sở của núi rừng , cây , cảnh . Toàn bộ vườn treo là một khuôn viên hình vuông , cấu trúc kiểu dốc bậc có tầng hiên nọ đặt trên hiên kia , toàn bộ công trìng cao khoảng 77 m , được chia thành 4 tầng , nối mỗi tầng là 1 cầu thang to rộng . Mổi tầng được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống - kiến trúc vòm cuốn bằng gạch trên những nền cột đá cao , có trang trí . Người ta dùng những tảng đầu to phẳng xây khít để tạo nên mặt bằng của thành . Kế đó người ta trải một lớp cói mỏng , nhựa đường , tiếp đó xây nên 1 lớp với 2 hàng gạch được ghép lại với nhau chặt chẽ bằng bột thạch anh , trên lớp gạch ấy là những tấm kim loại và trên cùng , người ta đổ đất để trồng cây . Để tưới cho cây , trong vườn có hệ thống ống dẫn nước . Một guồng nước từ sông Euphrates được dẫn lên bể chứa mỗi tầng , và hàng trăm nô lệ hàng ngày vác gầu ra múc nước ở các bể chứa để tưới cho cây cỏ . Vườn treo 4 mùa cây cối xanh tươi . đứng trên vườn treo ấy có thể bao quát toàn cảnh thành Babylonia lộng lẫy .

Đền tháp Ementelauki cũng là 1 loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng Hà . Tháp cao 90 m , từ xa trông ngọn tháp 7 tầng như một cái thang khổng lồ vươn thẳng lên trời . Tầng dưới cùng là 1 khối vuông cạnh 90 m , cao 30 m , gồm nhiều phòng và được quét 1 lớp sơn màu đen . Tầng hai hẹp dần theo thế hình tháp sơn màu đỏ . Tầng ba màu trắng , tầng bốn , tầng năm , sáu màu đỏ và tầng bảy màu xanh , cò những viền sáng chói . Tầng này có mái che và trang trí hình những chiếc sửng to khảm vàng cao vút ở 4 góc , tầng 7 chính là 1 ngôi miếu nhỏ trong đó có tượng thần Mardouk bằng vàng . Cung điện của vua Nabuchodonosor dài tới 50 m , rộng 30 m , tường xây bằng gạch đá có trang trí chạm khắc sặc sỡ và cung điện của vua Nabuchodonosor cũng là những công trình kiến trúc độc đáo của người Lưỡng Hà .

5.Toán học:

Thành tựu toán học đầu tiên của cư dân Lưỡng Hà cần nói đến là phép đếm độc đáo của họ.Từ thời Sumer,cư dân Lưỡng Hà lấy số 5 làm cơ sở của phép đếm.Việc đó bắt nguồn từ cách đếm số ngón tay của bàn tay.Muốn đếm số >5 thì gọi là 5+1,5+2.Về sau người ta lại lấy 60 làm cơ sở.Có lẽ vì 60=5.12,có thể 5 là 5 ngón tay còn 12 là 12 tháng. Đồng thời phép đếm thạp tiến vị (lấy 10 làm cơ sở ) cũng đã được sử dụng. Cách đếm của cư dân Lưỡng Hà cổ đại còn giữ lại đến ngày nay trong cách tính độ (1 vòng tròn co 360 độ ,1 độ có 60',1' có 60s) và cách tính thời gian.

Về số học,người Lưỡng Hà cổ đại đã biết làm 4 phép tính, họ còn biết lập các bảng cộng trừ nhân chia để giúp các nhân viên hành chính tính toán được nhanh.Họ còn biết phân số ,lũy thừa,căn bậc 2 và căn bậc 3;đồng thời còn biết lập bảng căn số.Họ cũng đã biết giải phương trình có 3 ẩn .
Về hình hóc,xuất phát từ yêu cầu đo đạc ruộng đất,người Lưỡng Hà cổ đại đã biết tính diện tích các hình chữ nhật,tam giác, hình thang ,hình tròn,nhưng khi tính diện tích & chu vi hình tròn họ chỉ mới biết số pi=3 (người Ai cập đã biết số pi=3,16).lHoj cũng đã biết tính thể tích hình chóp cụp.Ngoài ra,trước Pitago rất lâu, họ đã biết quan hệ giữa 3 cạnh của 1 tam giác vuông.

Ngày nay đã phát hiện được 1 số tác phảm toán học chép trên 44 tấm đất sét.Có thể coi đây là 1 bảng tổng hợp các kiến thức toán học của cư dân Lưỡng Hà cổ đại.

6.Thiên văn học:

Người Lưỡng Hà cổ đại cũng đạt được những thành tựu quan trọng.Các tăng lữ thường ngồi trên tháp cao để quan sát thiên văn.Trong 1 năm, bầu trời Lưỡng Hà thường trong sáng được 8 tháng đã giúp các nhà thiên văn với mắt thường cũng có thể quan sát được.

Qua 1 thời gian dài tích lũy kinh nghiệm,người Lưỡng Hà cho rằng vũ trụ có 7 hành tinh là mặt trời,mặt trăng và 5 hành tinh khác.Họ cũng đã xác định được đường hoàng đạo và chia hoàng đạo làm 12 cung,mỗi cung có 1 chòm sao tương ứng.Họ còn biết được chu kì của 1 số hành tinh,ví dụ:mặt trăng cứ hơn 18 năm lại quay về vị trí đối diện với mặt trời ;sao kim cứ 8 năm lại quay về vị trí cũ; sao Thủy:46 năm.sao Thổ:59 năm,sao Hỏa:79 năm:sao Mộc:83 năm. Do vậy họ đã tính được thời gian giũa 2 lần nhật thực,nguyệt thực.Ngoài ra,trong tài liệu để lại còn ghi chép về sao chổi,sao băng,thời gian và địa điểm của động đất và bão,

Dựa vào sự quan sát thiên văn,từ thời Sumer ,người Lưỡng Hà đã đặt ra Âm lịch,Âm lichjcuar người Sumer chia 1 năm 12 thánh,trong đó có 6 tháng đủ và 6 tháng thiếu.Tháng đủ có 30 ngày,tháng thiếu có 29 ngày,như vậy 1 năm có 354 ngày,so với năm mặt trời còn thiếu 11 ngày.Để khắc phục nhược điểm đó,họ đã biết thêm tháng nhuận.Thời Hammurabi,tháng nhuận do vua quy định,về sau mới có chu kì cố định.Đến thời Tân Babilon,cứ 8 năm thì nhuận 3 lần,sau đổi thành 27 năm nhuận 10 lần.

Cũng vào thời Tân Babilon,mỗi tháng được chia thành 4 tuần,mỗi tuần có 7 ngày,tương ứng với 7 hành tinh và mỗi ngày có 1 vị thân làm chủ.Cách dùng tên mặt trời mặt trăng và các hành tinh khác để gọi tên các ngày trong tuần vẫn được dùng ở phương Tây cho đến ngày nay.

Ngày của người Lưỡng Hà bắt đàu từ lúc mặt trời lặn.Mỗi ngày chia làm 12 giờ,mỗi giờ có 30'.Như vậy mỗi phút của ngườ Lưỡng Hà bằng 4 ' ngày nay.

Lịch của người Babilon cổ đại tuy là âm lịch nhưng đã tương đối chính xác.
7. Y học:

Về y học , người Lưỡng Hà cũng đã đạt được thành tựu to lớn . Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 40 tấm bảng bằng đất ghi chép đầy đủ cách chữa trị các loại bệnh khác nhau về tiêu hóa , hô hấp , thần kinh , đau mắt . Hình thành nhiều ngành như nội khoa , ngoại khoa , giải phẫu . Tuy vậy , do trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát triển cộng với quan niệm mê tín dị đoan hãy còn phổ biến trong y học . Bên cạnh những cách chữa trị rất khoa học , họ còn chữa trị bằng ma thuật , bùa chú và dùng những thứ như lưỡi chuột , mắt gà , đuôi chó ... đặc biệt là ko được chữa bệnh vào các ngày xấu . Họ đề cao vị thần linh bảo hộ y học Ninghitzita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y vẫn coi là biểu tượng .
Văn minh Lưỡng Hà ra đời rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, có ảnh hưởng to lớn đối với văn minh khu vực và trên toàn thế giới .

Iraq là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại với rất nhiều địa điểm khảo cổ và di tích lịch sử quan trọng. Nhưng chiến tranh đã phá huỷ và gây hư hại nghiêm trọng cho nhiều di tích, một trong số đó là khu di tích Babylon cổ nổi tiếng thế giới.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj3QzjxPkUejlN5os5KN9F6l-5fm6qfS24vNTStLRCsSorZr7mr5yC0RbndsV45n6WKeJdbYXRlxjGOp0WQufH2VgtzHYmpPDO4Z2Old-u7qnjG3p4ujZ80sxro4vtNWfqS084pxbjNHC4/s320/babylon_brick.jpgLịch sử ngành vật liệu xây dựng cho rằng quê hương của gạch nung là vùng bình nguyên Lưỡng hà rộng lớn. Ở Lưỡng Hà thiếu gỗ và đá, nên người ta phải làm nhà bằng đất sét phơi nắng. Việc sản xuất gạch ở đây rất thuận tiện vì nắng quanh năm. Những toà nhà xây bằng gạch không nung này, sau mỗi lần có lụt ngập đã bị sụp đổ nhanh chóng, để lại từng đống bùn nhão.

Vào thế kỷ thứ IV và thứ V Tr.CN, người Babylon đã nghĩ rằng nếu đem nung thì gạch sẽ rắn chắn hơn. Gạch nung ta đời ở Lưỡng Hà cách ngày nay độ 2.580 năm.

http://chestofbooks.com/reference/American-Cyclopaedia-1/images/A-Babylonian-Brick.jpgSự ra đời gạch nung đã làm xuất hiện hàng loạt cung điện nguy nga và thành trì quân sự kiên cố. Chính thành cổ Babylon là thành trì đầu tiên được xây dựng gạch nung đó. Vua Nabuchodonosor, vua nước Babylon từ năm 601 đến 538 tr.CN., với niềm tự hào bất diệt đã ra lệnh khắc vào bia đá những dòng chữ sau đây về thành babylon: “Ta đã cho xây quanh Babylon bức thành trì vững chắc. ta đã tạo một con hào, mà hai bên của nó được lát bằng gạch nung hắn ín. Trên bờ hào xây một bức thành như hình dãy núi, có nhiều cửa rộng, cửa bằng gỗ tùng nẹp đồng ngăn không cho quâ thù tàn bạo không vượt qua được thành Babylon, ta đã cho một dòng nước như sóng chảy qua thành phố. Nước cũng gấm rên siết ngoài biển cả. ta đã cho đắp cao thành và hai bên sườn hào xây bằng gạch nung để chống với sóng khỏi vỡ. Các ngôi tháp cao ta cũng đã xây một cách đẹp đẽ bằng gạch nung và như vậy ta đã làm cho thành Babylon vững chắc và hùng mạnh.”

http://www.videobabylon.ca/images/stories/tips-images/babylon_relief.jpgĐây là bức tranh khái quát thành Babylon được xây dựng bằng gạch nung sớm nhất trong lịch sử kiến trúc quân sự của loài người. Nhắc đến Iraq, mọi người đều nghĩ ngay đến chiếc nôi của một trong những nền văn minh sớm nhất của nhân loại. Là một đất nước đẹp xinh, Iraq nổi tiếng với những kiến trúc độc đáo của các đền đài nguy nga tráng lệ, Iraq còn được biết đến bởi các kỳ quan trên thế giới như thành Babylon cổ kính và vườn treo do vua Nabuchodonosor ở thế kỷ VI trước công nguyên, cho xây dựng để hoàng hậu A-mi-tít đỡ nhớ nhà khi ngắm nhìn cảnh vật tươi mát xứ Mê-đét, quê hương nàng được thu nhỏ trong “vườn treo” Iraq cũng được người ta biết đến bởi đã sinh ra thiên truyện cổ “Ngàn lẻ một đêm” do nàng Sê-hê-ra-dat thông minh tài trí kể cho vua nghe suốt 1.001 đêm.

Mỗi thành phố của Iraq đều gợi lên một quá khứ thần thoại như baghdad quê hương của chàng thủy thủ Sinbad đã bảy lần đi thám hiểm thế giới, như thành Babylon mà nhà tiên tri Jermie ta như “ một cái cốc bằng vàng đựng thứ rượu làm say mê lòng người trên khắp trái đất. Nơi đây còn được coi là vùng đất thánh, là nơi mà theo truyền thuyết xưa thì nàng Eve đã hai quả táo tội lỗi cho chàng Ađam. Ngày nay, chỉ trong các viện bảo tàng và các bức tượng để lại cùng những câu chuyện cổ tích gợi cho ta nhớ tới tất cả, chúng ta có thể xem bức tượng cao lớn cảu chị nô lệ Mooc-gan thông minh trong câu chuyện “Alibaba và bốn mươi tên cướp” đang rót dầu vào những chiếc thùng lớn có kẻ cướp trốn bên trong.

Ta có thể xem bức tương đá “Sư tử ssè người” là biểu tương oanh liệt một thời của thành Babylon. người dân Iraq tự hào về đất nước cổ kính của mính, biết bao công trình xây dựng mới nhưng vẫn thể hiện được các đường nét kiến trúc dân tộc độc đáo. Cũng có thể nói đến Iraq mà không thăm thành cổ Babylon thì coi như chưa thăm Iraq ”.

Thành cổ Babylon nằm trong tỉnh Babylon sát bờ sông Euphrates, có gần một ngàn ngôi đền, bên dưới thuyền buôn bán tấp nập. Chỉ riêng những bức tường kiên cố bao quanh Babylon đã dài tới 83km. trải qua nhiều cuộc tranh chấp của các triều đại Babylon chỉ còn lại những dấu vết của các nhà hát, phố hội, tượng sư tử, ngựa rồng có bốn chân vẫn nổi rõ trên bước tường hàng gạch men nung của đường phố “diễu hành”, tháp Babylon với đến thờ Dy-gơ-nát nổi tiếng cùng những bức tường thành mới được phục chế.

Thành Babylon nổi tiếng nhất vào triều đại vua Nabuchodonosor (604-562 trước công nguyên). Babylon chia làm ba khu chính: khu thành phía ngoài, khu trung tâm, và khu thành phía Tây. Những công trình chính ở Babylon là cung điện mùa hè, nơi vua Nabuchodonosor cho tạo dựng ở phía bắc thành, khu hoàng gia là khu nằm gần cổng thành Ishtar, khu phố hội chạy suốt từ phía Bắc xuống phía Nam khoảng 2,5km nằm giữa thành phố cổ và công trình Dịch-gu-rat, một trong những công trình lớn nhất của Babylon. Với những dấu tích để lại của thành Babylon những hiện vật, bút tích của các triều đại đã trị vì, Babylon còn lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng. Sự giàu có của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của tất cả các cá nhân, công dân trong quốc gia đó. Babylon nổi tiếng một thời cũng gắn liền với những con người biết tự tìm đường đi riêng để làm giàu chính đáng.
Họ là những người đánh xe ngựa, nghệ sĩ chơi đàn lia hay ông thợ làm bánh mì... Song trong số hàng trăm con người biết tự lập để vượt qua hoàn cảnh sống ấy, Arkad vẫn nổi lên như một điển hình. Ông được mọi người gắn cho cái biệt hiệu Người giàu nhất thành Babylon.
Ngay lúc mới trưởng thành, Arkad đã suy nghĩ về những người giàu có. Ông luôn tự hỏi "Họ làm gì để giàu có? Sự giàu có tự đến hay mình phải đi tìm nó?...". Càng nghiên cứu Arkad càng nhận thấy, trong cuộc sống có rất nhiều người tiêu hoang phí tất cả tài sản của mình, cuối cùng ôm hận và nuối tiếc số tài sản đã mất. Không ít người lại luôn sống trong tâm trạng lo sợ tiêu hết số tiền dành dụm, bởi họ không có khả năng kiếm ra tiền. Vì thế, họ thường dè sẻn việc chi tiêu và trở nên túng thiếu trên chính đống tiền mình đang có... Chưa kể, những người giàu còn bị ám ảnh bởi trộm cướp và càng thu mình hơn trong cái lốt nghèo khó... "Sống như vậy chẳng khác gì những người nghèo khó", Arkad.
Tuy nhiên, trong quá trình quan sát, ông cũng nhận thấy một số người ngày càng có nhiều tiền mặc dù họ tiêu pha khá hào phóng. Vậy họ làm cách nào để để giữ được sự giàu có, sung túc mà vẫn được mọi người kính trọng. Xuất thân trong gia đình nghèo khó và đông anh em, không có của cải thừa kế, cũng không hy vọng cưới được một người vợ có của hồi môn, do vậy, muốn thành công mỗi người cần có thời gian và học hỏi thêm kinh nghiệm sống. "Về mặt thời gian, mọi người đều có như nhau nhưng, có người để nó trôi qua lãng phí. Trong khi cùng với số lượng thời gian đó, có người lại tập trung làm việc để trở nên giàu có", Arkad nói.
Arkad không chỉ được mệnh danh là người giàu nhất ở thành Babylon, mà tính tình phóng khoáng của ông cũng được mọi người ngưỡng mộ. Đối với những người thân và ngay cả nô lệ trong nhà, Arkad vẫn thường hào phóng ban tặng rất nhiều tiền bạc, nên họ sống khá sung túc và thoải mái. Mặc dù vậy, mỗi năm của cải của ông vẫn không ngừng gia tăng, khiến Arkad ngày càng giàu có hơn.
Arkad quan niệm, sự giàu có sẽ mang lại hạnh phúc, sự kính trọng và cuộc sống ấm no. "Nếu giàu có nhiều tiền sẽ mua được nhà cửa, những đồ vật sang trọng, tiện nghi. Ta cũng có thể đi đến nhiều nơi và được ăn nhiều món ngon, mua được châu báu hay các vật trang sức quý hiếm, hoặc ta có thể xây nhiều đền đài tráng lệ cho các vị thần… Sức mạnh của sự giàu có là ta có thể làm được tất cả những điều mà ta mong muốn", ông nói.
Khi nhận thức được những điều này, ông quyết định phải đạt được tất cả mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống. "Tôi không thể an phận với một cuộc sống nghèo khổ, chỉ biết háo hức nhìn những người khác hưởng thụ cuộc sống. Tôi cũng không thể tự bằng lòng, cho phép mình ăn mặc xoàng xĩnh và ăn những món chỉ cốt sống qua ngày. Trái lại, tôi muốn mình trở thành một khách mời danh dự trong bàn tiệc của những gia đình giàu có ở Babylon", Arkad cho biết thêm.
Theo ông, ý chí mạnh mẽ là yếu tố không thể thiếu đối với một con người muốn đạt được thành công. "Ý chí mạnh mẽ có thể giúp ta nâng bổng một vật nặng mà ngay cả con lạc đà cũng không thể mang nổi ư? Theo tôi, sức mạnh ý chí không gì khác hơn là theo đuổi đến cùng mục tiêu công việc của mình. Mà muốn vậy thì ngay khi đặt ra cho mình một nhiệm vụ, tôi phải xem mình có khả năng thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ đó hay không".
"Chẳng hạn khi tôi đề ra cho mình kế hoạch là phải đến ba thành phố khác nhau để tìm mối bán hàng trong một năm, thì tôi nhất định phải làm đúng như vậy. Nếu tôi chỉ tìm được khách hàng ở hai nơi thì tôi phải cố gắng sao cho nơi thứ ba cũng được như thế, chứ không thể tự nhủ rằng để đến sang năm mình sẽ bù vào. Tôi cũng sẽ không cho phép mình thay thế số khách hàng ở thành phố thứ ba bằng việc mở rộng thêm nhiều khách hàng ở hai thành phố đầu tiên. Không! Không thể nói một đường mà làm một nẻo được. Khi tôi đã đặt ra cho mình một mục tiêu nào đó, thì tôi nhất quyết phải hoàn thành nó. Cũng do vậy, tôi rất thận trọng khi đề ra những mục tiêu cho mình nhưng một khi đã có mục tiêu thì tôi nhất quyết phải hoàn thành".
Cuốn sách "Người giàu có nhất thành Babylon" của tác giả George S.Clason do công ty sách First News phát hành tiết lộ 7 phương pháp của Arkad để chữa trị một túi tiền trống rỗng.
Phương thức chữa trị thứ nhất - Tĩch luỹ theo tỷ lệ 1/10. Theo Arkad, nghề nghiệp và công việc chính là cách giúp chúng ta kiếm ra tiền, đồng thời mỗi một cách kiếm ra tiền chính là phương thức tạo ra dòng chảy của vàng. Do vậy, mỗi người làm việc đều có thể chuyển vàng vào trong túi của mình và dòng chảy đó lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào khả năng làm việc của người ấy. Nếu cứ mỗi buổi sáng, bạn bỏ vào trong giỏ mười quả trứng, đến buổi chiều chỉ lấy ra chín quả. Sau thời gian cái giỏ sẽ đựng đầy trứng.
"Cứ mỗi lần bạn bỏ vào túi của mình mười đồng thì chỉ nên lấy ra chín đồng để tiêu xài. Qua một thời gian, cái túi của các bạn cũng sẽ giống như giỏ trứng vậy. Nó sẽ chứa đầy những đồng tiền vàng. Đó là cách chữa trị hiệu quả nhất cho một túi tiền xẹp lép và cũng là cách đơn giản nhất để bạn trở nên giàu có", ông nói.
"Nhưng các bạn cần lưu ý rằng, mỗi khi túi của mình rủng rỉnh được một ít tiền, thì những ham muốn mua sắm, tiêu pha của các bạn sẽ trỗi dậy. Trong trường hợp này, bạn hãy cân nhắc thiệt hơn trước khi mua bất cứ một món hàng nào. Bạn sẽ làm được điều đó bằng những câu hỏi: “Mong muốn lớn nhất trong cuộc đời của mình là gì? Những món đồ trang sức, những bộ áo quần đẹp đẽ… có lấp đầy những mong muốn lâu dài của mình không? Phải chăng chỉ có cách sở hữu nhiều vàng bạc, đất đai và những cuộc đầu tư mang lại lợi tức lâu dài mới đảm bảo cuộc sống sung túc sau này?”. Chắc hẳn các bạn đã nhận ra đâu là những tài sản thực sự đem lại sự giàu có cho mình.
Bỏ vào trong túi mười đồng, và chỉ lấy ra chín đồng để chi tiêu” - Đây chính là phương thức chữa trị đầu tiên mà tôi đã khám phá ra và áp dụng cho túi tiền xẹp lép của mình.
Phương thức chữa trị thứ hai - Kiểm soát những khoản chi tiêu. Theo Arkad, nghề nghiệp khác nhau thì số tiền thu nhập cũng khác nhau. Có người hàng tháng kiếm được số tiền lớn gấp đôi, gấp ba thu nhập của người khác. Nhưng tại sao cuối cùng túi tiền của mọi người vẫn xẹp lép như nhau? Vậy các bạn có bao giờ thắc mắc về vấn đề chúng ta thường gọi là “những chi tiêu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày” không?
"Các bạn đừng nên nhầm lẫn giữa những khoản chi tiêu cần thiết trong cuộc sống với những khoản chi tiêu bởi những sở thích của cá nhân. Thật ra, bản thân các bạn và các thành viên khác trong gia đình các bạn vẫn thường muốn mua những thứ mình thích, chứ không phải là những thứ cần thiết trong cuộc sống. Và những khoản chi tiêu này có thể vượt quá khả năng chi trả của các bạn".
"Tôi có thể chắc chắn rằng, các bạn hầu như không thể đáp ứng được tất cả những ham muốn của bản thân mình. Với tài sản của tôi, các bạn nghĩ tôi sẽ mua được tất cả mọi thứ mình muốn sao? Đó là một suy nghĩ sai lầm. Tôi vẫn có một số hạn chế mà tiền bạc không thể giúp được, chẳng hạn như thời gian, sức lực, tuổi trẻ, thậm chí một số món ăn, thú vui mà tôi rất thích, giờ đây tôi cũng không thể hưởng thụ được nữa. Theo tôi hiểu thì những ham muốn của con người là rất vô tận, và chúng ta chỉ có thể đáp ứng được một số ham muốn cho bản thân mình mà thôi".
"Theo kinh nghiệm của tôi, các bạn nên liệt kê những món hàng định mua lên tấm đất sét, sau đó hãy chọn ra một vài thứ thiết yếu dành cho cuộc sống và phù hợp với số tiền chín phần mười của bạn. Còn những món hàng theo sở thích, bạn hãy mạnh dạn gạch bỏ và xem chúng như hàng ngàn thứ khác mà bạn không thể đáp ứng cho bản thân".
Kế hoạch hoá những khoản chi tiêu ngay từ bây giờ sẽ giúp các bạn đáp ứng được những nhu cầu cần thiết, hưởng thụ những niềm vui trong cuộc sống, đáp ứng những ham muốn chính đáng và bảo đảm một cuộc sống no đủ trong tương lai” - Đây chính là phương thức chữa trị thứ hai cho một túi tiền lép xẹp.
Phương thức chữa trị thứ ba - cách làm cho vàng sinh lợi. Arkad khuyên, muốn giữ túi tiền luôn rủng rỉnh, mỗi người cần nghiêm chỉnh thực hiện việc để dành một phần mười số tiền kiếm ra được. Tiếp đến, phải kiểm soát những khoản chi tiêu của mình để bảo đảm rằng, tiền được bỏ vào nhiều hơn khi lấy ra. Hôm nay, các bạn sẽ xem xét đến phương thức làm cho vàng sinh lợi. Nếu cứ để yên trong túi thì vàng không thể sinh lợi được. Vậy làm thế nào để cho vàng sinh lợi?
"Lần đầu tư đầu tiên của tôi bị thất bại, tôi đã mất hết tiền bạc dành dụm trong một năm. Trong lần đầu tư thứ hai, tôi may mắn được chia lợi nhuận từ việc cho Aggar vay số tiền của mình. Đây là lần đầu tiên tôi biết cách làm thế nào để vàng sinh lợi. Để làm khiên, mỗi năm ông Aggar đều phải mua đồng từ những người phương xa mang đến bán. Do không đủ tiền để trả cho họ ngay một lúc, Aggar đành phải đi vay. Tôi rất an tâm khi cho ông ấy vay tiền, vì Aggar là một người đứng đắn và rất có uy tín, đã vay thì luôn trả sòng phẳng cả vốn lẫn lãi".
"Những lần tiền tiếp, tôi đều cho ông Aggar vay luôn số tiền gốc và lãi. Do vậy, không chỉ số tiền vốn sinh lợi, mà ngay cả số tiền lãi cũng đã thu về cho tôi một khoản không nhỏ. Và thế là số tiền quay về túi của tôi ngày một tăng lên rất nhiều".
"Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng việc giàu có của một người không chỉ căn cứ vào những đồng tiền nằm trong túi của anh ta, mà điều cần lưu ý hơn chính là số tiền thu nhập hàng năm của người đó. Bắt đầu từ một số vốn nhỏ, tôi đã mở rộng việc cho vay và cho nhiều người vay. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc số tiền tôi cho vay không ngừng phát triển lên đến hàng trăm nguồn vốn khác nhau, giống như dòng vàng không ngừng tuôn chảy vào túi tiền của tôi vậy. Vì thế, hàng năm tôi có một khoản lợi tức rất lớn, lớn đến mức chẳng bao lâu sau tôi được gọi là người giàu có nhất tại Babylon".
"Thế đấy, từ mỗi một đồng tiền kiếm được dù rất nhỏ, tôi đã biến nó thành một đám nô lệ bằng vàng làm việc cho tôi. Và bởi vì chúng làm việc cho tôi, nên con của chúng, cháu của chúng cũng làm việc cho tôi… Chúng ta có thể nói, một đồng tiền đã thực sự là một hạt mầm phát triển thành cây giàu có và cho ra hàng vạn quả".
Mỗi một đồng bạc ví như một tên nô lệ làm việc chăm chỉ cho bạn. Sau đó con, cháu và chắt của chúng cũng làm việc cho bạn, khiến tiền bạc của bạn không ngừng gia tăng, tài sản của bạn ngày càng lớn mạnh” - Đó là bài thuốc thứ ba.
Phương thức chữa bệnh thứ tư - giữ gìn tài sản. Theo ông, khi đã sở hữu được tiền, mỗi người phải biết cách giữ gìn cẩn thận, nếu không nó sẽ nhanh chóng vuột mất do những ham muốn nhất thời của bạn. Trước hết, phải học cách bảo vệ những khoản tiền nhỏ, sau đó mới có thể giữ được những khoản tiền lớn.
Theo kinh nghiệm của tôi, trước khi bắt tay vào một công việc nào đó, tốt nhất các bạn phải tìm hiểu cẩn thận về công việc ấy và luôn nhớ rằng, mỗi một quyết định đều đòi hỏi sự an toàn cho số vốn của bạn. Đừng để những ham muốn nhất thời trước mắt mê hoặc, hay để tâm trạng muốn làm giàu một cách nhanh chóng che mờ lý trí của bạn, vì điều này đem lại tỷ lệ rủi ro rất cao.
"Trước khi cho bất cứ ai vay mượn tài sản của mình, bạn phải chắc chắn rằng người đó có khả năng hoàn trả lại. Bạn phải lấy sự uy tín, khả năng thu nhập và công việc của người đó để đảm bảo. Hoặc khi quyết định bỏ vốn đầu tư, bạn phải lường trước những hiểm nguy có thể xảy ra và cách giải quyết như thế nào cho thoả đáng", ông nói.
Hãy bảo vệ và phát triển tài sản của bạn bằng cách đầu tư vào những nơi an toàn, đáng tin cậy, với lãi suất cao nhất có thể được. Bạn nên tham vấn ý kiến của những người giàu kinh nghiệm và tin tưởng vào lời khuyên đó, sao cho vàng có thể sinh lợi nhiều nhất. Hãy để những lời khuyên của họ bảo vệ kho tàng của bạn, tránh nguy cơ bị mất vốn hay không thu được lợi nhuận do đầu tư sai chỗ. Đây chính là phương thức chữa trị thứ tư có tầm quan trọng rất lớn trong việc làm giàu. Đối với việc đầu tư kinh doanh, phương thức này giúp bạn gìn giữ và phát triển tiền bạc thay cho nguy cơ bị mất trắng.
Phương thức chữa bệnh thứ năm - quyết tâm sở hữu một ngôi nhà . Theo Arkad, nếu dành 9/10 số tiền kiếm được cho những nhu cầu trong cuộc sống và dành một phần còn lại để tiết kiệm thì đó là cách đầu tư khôn ngoan nhất nhằm đảm bảo một nguồn thu nhập ổn định trong tương lai.
"Theo tôi nghĩ, những người cho vay tiền thường sẵn lòng giúp đỡ những ai muốn có một ngôi nhà và đất đai riêng của mình. Các bạn có thể vay tiền hoặc sử dụng số tiền tích góp để xây nhà. Khi đó, cả gia đình bạn được sống yên vui, hạnh phúc trong ngôi nhà của chính mình. Các bà vợ có thể trồng trọt thêm cây trái, rau cải để cải thiện những bữa ăn, con cái của bạn sẽ được vui chơi ở những nơi sạch sẽ, an toàn. Bấy giờ, bạn hoàn toàn yên tâm làm việc để trả nợ, thời gian có thể hai năm, bốn năm hay mười năm chẳng hạn. Công việc này cũng giống như bạn đang trả tiền thuê nhà hàng tháng vậy. Nhưng từ đây trở đi, cuộc sống của bạn đã sang một trang mới tốt đẹp hơn, bởi vì bạn đang sở hữu một tài sản có giá trị và có đầy đủ mọi quyền hạn của mình đối với căn nhà.
Khi có nhà rồi, một mặt nào đó bạn có thể giảm được một số khoản chi tiêu lặt vặt khác, khiến số tiền bạn làm ra được dư dả hơn và có thể đáp ứng các yêu cầu khác, góp phần nâng cao mức sống. Ý nghĩa này chính là cách chữa trị thứ năm: “Hãy quyết tâm sở hữu một ngôi nhà, vì như thế bạn mới có thể tích luỹ được tiền bạc và có điều kiện tốt hơn để thực hiện những cuộc đầu tư mang lại lợi nhuận trong tương lai”.
Phương thức chữa trị thứ sáu - đảm bảo nguồn thu nhập lâu dài. Theo Arkad, trách nhiệm của mỗi người là phải biết chuẩn bị một khoản tài sản cần thiết khi bạn về già. Điều này không chỉ nhằm nuôi sống bản thân khi bạn an hưởng tuổi già, mà còn chu cấp cho các thành viên trong gia đình khi bạn không còn khả năng làm việc được”. Đây là bài học tiếp theo, nhằm đảm bảo nguồn thu nhập lâu dài khi thời gian và sức lực không cho phép bạn tiếp tục làm việc.
Người nào hiểu được các quy luật làm giàu và đã sở hữu một số tài sản thì nên suy nghĩ đến điều này. Các bạn phải lên kế hoạch đầu tư hay thực hiện các công việc có thể bảo đảm lâu dài cho tương lai của bạn.
Một cách khác là mua nhà cửa và đất đai. Bởi vì, những thứ này có thể tồn tại lâu dài và sau này, nếu cần, bạn có thể bán hay cho thuê để thu lợi. Đây là một cách tốt nếu bạn biết chọn những căn nhà, những mảnh đất có giá trị trong tương lai.
Hoặc còn một cách khác nữa mà các bạn dễ dàng thực hiện được, đó là cho vay những khoản tiền nhỏ. Theo thời gian, nó sẽ phát sinh lợi nhuận. Số tiền tăng lên tỷ lệ thuận với thời gian - bạn cho vay càng lâu thì sau này số tiền thu về càng lớn. Tuỳ theo nhu cầu trong tương lai và khả năng có được ở hiện tại, bạn nên dành ra một khoản tiền nhỏ cho kế hoạch này ngay từ bây giờ. Cách này có thêm một ưu điểm là với khả năng tính toán của mình, bạn có thể biết trước được là 10 năm, 20 năm… sau, số tiền bạn sẽ nhận được là bao nhiêu.
"Đây là phương thức chữa trị thứ sáu cho một túi tiền rỗng, mà theo tôi nghĩ các bạn nên bắt tay thực hiện ngay bây giờ. Hãy chuẩn bị cuộc sống trong tương lai bằng cách hàng tháng cho vay những khoản tiền nhỏ. Số tiền này theo thời gian sẽ gia tăng rất nhiều, đảm bảo sau này bạn sẽ có một số tiền cần thiết để nuôi sống bản thân và gia đình khi mình không còn khả năng lao động nữa”, ông nói.
Phương thức chữa bệnh cuối cùng - tăng cường khả năng kiếm tiền. "Chúng ta thường mong ước được giàu có, nhưng chúng ta không biết rằng, đang trong tình trạng nghèo khổ mà muốn được giàu có ngay thì chỉ là điều không tưởng. Nhưng nếu bạn mong ước có năm đồng tiền vàng, thì đó chính là mong ước có mục đích rõ ràng, cụ thể và nằm trong khả năng của bạn. Điều này chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy bạn phải thực hiện cho bằng được. Và sau đó thì không có gì ngăn cản được bạn - với những cách thức tương tự như cách đã làm để có năm đồng tiền vàng đầu tiên - tiếp tục có thêm mười đồng vàng… hai mươi đồng tiền vàng… một nghìn đồng tiền vàng… Thế là hiển nhiên bạn đã trở thành một người giàu có", ông khuyên.
Dù làm bất cứ việc gì, các bạn cũng cần phải luôn luôn tìm cách trau dồi, nâng cao các kỹ năng nghề nghiệp của mình. Nếu là một thợ thủ công, bạn phải học hỏi những phương pháp và cách sử dụng các công cụ mới để tay nghề ngày càng điêu luyện hơn. Nếu bạn làm việc trong ngành pháp luật hay bệnh viện, thì nên tham khảo hoặc trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp để nâng cao kiến thức. Hoặc nếu là thương gia, bạn phải thường xuyên đi đến nhiều nơi để tìm mua những hàng hoá tốt nhất và đem về bán lại với giá rẻ hơn...
Bức tượng Sư tử thành Babylon nổi tiếng đã nằm dưới lớp đất bụi bặm, bao quanh bởi hàng rào dây thép gai hơn 6 năm nay kể từ khi Mỹ đưa quân vào Iraq năm 2003.
Sau khi bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tháng 7.2009 khu di tích Babylon nổi tiếng thế giới đã đón chào một phái đoàn của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các nhà báo Iraq tới tham quan. Hadi Gatie Mossa, một nhà khảo cổ Iraq đã giới thiệu với khách tham quan về các nhà hát và cung điện của Vua Nebuchadnezzar II với 200 phòng và các tiền sảnh lớn cùng rất nhiều cây cầu, khu chợ, đền thờ, các bức tường và toà tháp.
Thành Babylon là thủ phủ của quốc gia cổ Babylonia. Ngày nay, những tàn tích của thành phố này vẫn có thể tìm thấy tại gần Hilla, nằm cách Thủ đô Baghdad của Iraq 100 km về phía nam. Thành phố này đã chính thức được công nhận là một trong những cái nôi đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Nhưng mọi thứ còn sót lại của thành phố cổ này giờ chỉ là một đống những toà nhà xây bằng gạch bùn đổ nát và các mảnh vụn tại đồng bằng Mesopotamia màu mỡ nằm giữa 2 con sông Euphrates và Tigris tại Iraq.
Mặc dù đã được tái xây dựng nhưng các nguồn sử sách đều cho biết, ban đầu Babylon là một thành phố nhỏ xuất hiện từ đầu thiên niên kỉ 3 trước CN (thời kì sơ khai của các triều đại).
Thành phố này là nơi có khu vườn treo Babylon nổi tiếng, 1 trong 7 kì quan của thế giới cổ đại. Thế nhưng, thành phố 4.000 năm tuổi này đã nhanh chóng trở thành “Trại Quân sự Alpha” sau khi Mỹ đưa quân sang Iraq năm 2003.
Chuyến tham quan của phái đoàn nhằm mục đích xem xét khả năng WTO có thể giúp đỡ để đưa thành phố cổ đại này trở lại vị trí là một trong những địa điểm lịch sử quan trọng của thế giới như trước kia hay không.
Phái đoàn WTO và một số nhân viên truyền thông Iraq được phép tham gia chuyến đi đã tới tham quan những địa điểm quen thuộc trong khu di tích thành Babylon như cổng Ishtar cổ và khu Đại lộ nằm sát cung điện của Vua Nebuchadnezzar II (605 - 562 trước CN).
Đầu tháng 7, các chuyên gia của UNESCO cho biết, thành Babylon lịch sử của Iraq đã bị hư hại nghiêm trọng khi lực lượng quân sự nước ngoài tại Iraq lái xe hạng nặng qua các con đường linh thiêng, san bằng các đỉnh đồi và đào hầm xuyên qua một trong những địa điểm khảo cổ quan trọng nhất thế giới.
“Chúng tôi đã xác nhận những hư hại tại khu di tích này do quân lính nước ngoài gây ra và gửi báo cáo lên UNESCO,” Mariam Al-Omran, Trưởng ban Cổ vật tỉnh Babel cho biết.
Theo một thông báo của Đại sứ quán Mỹ, giới chức Mỹ đã đóng góp 700.000 USD để cứu khu di tích Babylon. Nhưng để phục hồi một khu di tích lịch sử quan trọng như thành Babylon thì số tiền này còn quá ít.
Bà Al-Omran cho rằng, khu di tích này cần được phục hồi nhanh chóng ngay khi có thể. Theo bà, thông báo giúp đỡ của Đại sứ quán Mỹ tuy “có ích nhưng vẫn chưa đủ”.
Larry Morgan, một quan chức thuộc phái đoàn WTO cho biết, WTO sẽ nỗ lực giúp đỡ để đưa khu di tích Babylon trở lại là điểm đến thu hút du khách quốc tế như một trong những di sản quan trọng nhất của nhân loại.
http://www.biblepicturegallery.com/free/Pics/Abraham3.gifABRAHAM: ÔNG TỔ CỦA CÁC ĐẠO CHÚA
Các đạo thờ Chúa gồm đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham. Abraham là người Do Thái, sinh trưởng tại thành phố Ur thuộc đế quốc Babylon, (hiện nay thuộc phía nam Iraq, gần giáp Kuwait) vào thế kỷ 20 trước công nguyên.
Theo các nhà khảo cổ thì, hiện tại vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia) là vùng đồng bằng được cấu tạo bởi hai con sông lớn Tigris và Euphrate, giống người Sumerians đã lập nên một nền văn minh quan trọng của thế giới cổ. Họ là những người đầu tiên xây cất những thành phố lớn, thời cổ gọi là những quốc gia đô thị (city-states) như UR, ERECH, KISH, BABYLON vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Tại những thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra chữ viết, bánh xe, kỹ thuật luyện kim, vườn treo, những tháp Babel (trong kinh thánh Do Thái) những điều luật thành văn, thơ văn và rất nhiều huyền thoại. Trong số những huyền thoại của Sumerians có chuyện vườn Địa Đàng của đạo Do Thái sau này (Garden of Eden).
Năm 2300 trước Công Nguyên, giống dân Semitic-Akkadians tức giống Do Thái-Ả Rập dưới sự lãnh đạo của vua Sargon đã chiếm toàn vùng Lưỡng Hà Châu. Hai nền văn hóa Semitic - Akkadian và Sumerians hòa đồng và phát triển trong 300 năm. Tới năm 2000 trước Công Nguyên, giống dân Armonites chinh phục các quốc gia đô thị trong vùng Lưỡng Hà Châu và lập nên đế quốc Babylon. Họ chọn đô thị Babylon làm thủ đô cho cả đế quốc. Babylon hiện nay là vùng sa mạc, cách Baghdad thủ đô Iraq khoảng 80 dặm về phía nam. Những người sống trong đế quốc Babylon tin tưởng thủ đô của họ là nơi linh thiêng, là cái cổng của thiên đàng. Babylon được xây dựng như hình ảnh của nước trời (an image of heaven). Mỗi một ngôi đền, mỗi một ngọn tháp hay một khu vườn treo (hanging gardens) là một bản sao của các lâu đài trên thiên đàng (a replica of celestial palace). Tại các đền thờ, các tu sĩ làm lễ và đọc sách Thánh Kinh mà họ gọi là Enuma Elish. Thánh kinh thường được viết dưới dạng thơ có nội dung ca tụng các vị thần đã chiến thắng sự hỗn mang trong vũ trụ (the victory of the gods over chaos). Trong số các vị thần đó có thần El mà tượng của "ngài" là một con bò đực mạ vàng (the gilded bull). Babylon là tiếng ghép lại từ hai chữ Bab và Ili, có nghĩa là Cái Cổng của Trời (Gate of God). "Tư tưởng cốt yếu của người Babylon là: không có vật gì tự nhiên mà có. Trước khi có thần thánh và con người, một vật tự hữu thiêng liêng đã có từ trước vô cùng" (There was no creation out of nothing. Before either the gods or human being existed, a substance which was itself devine had esixted from all eternity - A History of God p. 7). Đó là tư tưởng sơ khởi về một Thiên Chúa cho các đạo thuộc hệ thống Độc Thần Giáo sau này. Những quan niệm của người Babylon về thiên đàng, về thánh kinh, về đất thánh (Holy place) và về thần quyền (sacred power) là những yếu tố quan trọng làm nền móng cho cả 3 đạo Do Thái, Kitô và đạo Hồi.
Đế quốc Babylon được thành lập cách đây khoảng 4000 năm, nhưng trước đó có những thành phố khác trong đế quốc như thành phố Ur đã được xây cất từ năm 5500 TCN. Ur là một trong những thành phố cổ nhất thế giới vì tính tới nay thành phố này đã có 7500 tuổi! Thành phố Ur và toàn vùng Babylon đã bị hủy diệt do một trận lụt lớn gây ra vì sự đổi dòng của con sông Euphrate vào cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, cả vùng này trở thành sa mạc vì thiếu nguồn nước. Các nhà khảo cổ gọi nền văn minh ở vùng này là "nền văn minh của dân Sumerian trước đế quốc Babylon" (the pre-Babylon Sumerian civilization). Chính tại thành phố Ur, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dấu vết về nhân vật Abraham (thực sự là những huyền thoại nói về Abraham) ông tổ chung của đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tại thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra bánh xe, chữ viết, một giờ có 60 phút, vòng tròn có 360 độ. Thành phố này cũng đã phát sinh ra các bạo chúa (tyrans) và các cuộc tàn sát đẫm máu về tôn giáo. Nhiều bạo chúa tại thành phố này đã tự xưng là thần thánh từ trời xuống cai trị muôn dân bằng thần quyền (to rule by divine right). Dân Sumerians biết luyện kim để đúc lưỡi cầy khiến cho những cánh đồng của họ thêm màu mỡ và biết dẫn thủy nhập điền để tạo nên một nền nông nghiệp phồn thịnh. Tuy nhiên, họ cũng dùng luyện kim để đúc giáo mác và mũi tên đồng khiến cho những ruộng lúa xanh tươi của họ trở thành những cánh đồng máu (killing fields).
Giữa thế kỷ 19, các nhà khảo cổ Âu Châu đổ xô đến vùng Babylon khai quật tìm cổ vật. Họ đã mang về các nước Âu Châu không biết bao nhiêu di vật của nền văn minh rất lâu đời này: Những con bò đực mạ vàng (the gilded bulls), những phiến đá ghi chép các huyền thoại và các luật thời cổ. Có nhiều huyền thoại của dân Sumerians sau này đã đi vào kinh thánh của Do Thái. Các cổ vật tìm thấy ở Babylon đã mở toang cánh cửa bí mật của các đạo thờ Chúa* bằng những hiện vật cụ thể và các tài liệu lịch sử thành văn (written history). Các cổ vật này cũng là những tài liệu vô cùng quí giá cho nhiều ngành nghiên cứu khoa học. Năm 1917, nhân dịp quân Anh đánh chiếm Iraq, một đoàn khảo cổ người Anh do nhà khoa học Leonard Wooley dẫn đầu, đã đến phía nam Iraq, gần giáp Kowait, khai quật thành phố Ur chìm dưới lớp cát sa mạc. Giữa thập niên 60, nhiều đoàn khảo cứu khoa học của Mỹ đến vùng Babylon và Ur khai quật 25.000 địa điểm (identified sites) đã tìm thấy rất nhiều di vật của nền văn hóa cổ này. Họ đã giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu thêm rất nhiều về nguồn gốc của các đạo thờ Chúa. Căn cứ vào các cổ vật và sử liệu khách quan, các nhà nghiên cứu đã xác định Babylon mới thực sự là nơi xuất phát đầu tiên của các đạo Thiên Chúa. Trước đó, mọi người đã lầm tưởng Jerusalem, thủ đô Do Thái, là thánh địa của các đạo này. Người Babylon quan niệm cuộc sống trên thế gian chỉ là tạm bợ, cuộc sống đời sau ở thiên đàng mới đích thực là hạnh phúc vĩnh cửu. Họ tin thế gian này sẽ bị tiêu hủy trong một lúc nào đó gọi là ngày tận thế. Sau ngày tận thế, nước trời sẽ được thiết lập ở thế gian. Hai ý niệm về thiên đàng và ngày tận thế luôn luôn quyện lại với nhau. Đó là những ý niệm xuyên suốt từ Babylon (Gate of God) qua Jerusalem và Vatican ngày nay.
Những tư tưởng đầu tiên của Abraham chưa hẳn là đã xác định có một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only One God) mà ông ta chỉ có ý định chọn một vị thần mạnh nhất trong các vị thần của dân Sumerians để tôn thờ mà thôi. Vị thần mà Abraham chọn là thần El, một con bò đực mạ vàng. Hiện nay tại bào tàng viện Baghdad có trưng bày tượng bò đực mạ vàng của dân Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (3000 TCN). Khoảng năm 2000 TCN, Abraham được tôn lên làm vị lãnh đạo các tộc trưởng Do Thái trong đế quốc Babylon (the leader of all patriachs of Jews). Abraham dẫn dân Do Thái rời khỏi đế quốc Babylon về miền Đất Hứa là vùng Canaan, hiện nay được gọi là West Bank (tả ngạn phía Tây sông Jordan). Tại đây, Abraham đã kết hợp với các bộ lạc Do Thái khác với ý định thành lập một quốc gia cho các dân tộc Do Thái. Ông có nhiều vợ. Dân tộc Do Thái rất tự hào tự xưng là con cháu của Abraham (the children of Abraham) nhưng thuộc dòng Isaac, con trai của Abraham và bà vợ cả của Abraham là Sarah.
Các dân tộc Hồi Giáo Ả Rập cũng tự xưng là con cháu của Abraham, nhưng thuộc dòng Ismael, con trai của Abraham và bà vợ bé tên là Hagar. Sau khi sinh Isaac (có nghĩa là Tiếng Cuời) bà vợ cả Sarah thường hay ghen tương với bà vợ bé nên đã đòi Abraham phải ruồng bỏ Hagar và Ismael. Abraham cầu xin Chúa cho Ismael thì được Chúa hứa sẽ cho Ismael trở thành tổ phụ của một đại quốc gia sau này. Sau đó, Abraham đưa bà Hagar và con trai Ismael đến thung lũng Mecca. Tại đây có con suối thiêng Zamzam, hai mẹ con của Ismael được Thiên Chúa đích thân chăm sóc. Abraham thường hay đến thăm Ismel và hai cha con cùng xây nên đền Kabah là ngôi đền thờ Thiên Chúa đầu tiên trên thế giới. Ismael trở thành tổ phụ của các dân tộc Ả Rập. ( A History of God. p.154).
Những người theo đạo Kitô gốc Âu Mỹ hay Á Châu không có liên hệ huyết thống gì với Abraham, nhưng vì đạo Kitô cũng như đạo Hồi đều thoát thai từ đạo Do Thái nên những người theo đạo Kitô cũng coi Abraham như một vị thánh tổ phụ (Father). Trong sách kinh Nhựt Khóa của Tổng-giáo-phận Sài Gòn (trang 143-146) có "Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Đặng Trở Lại Đạo Thánh" có đoạn như sau: "Lạy Chúa, thuở Chúa mới giáng sanh, Chúa đã kêu gọi ba vua phương Đông đến thờ lạy chúa. Chúa đã phán rằng: Ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước thiên đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một cõi Đông Phương đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy, chưa hề biết Đấng Chí Tôn. Xin Chúa hãy làm cho nó tìm đến cùng Chúa hầu ngày sau đặng nghỉ ngơi trên nước thiên đàng, chúc tụng không khen Chúa đời đời kiếp kiếp".
Đối với đạo Hồi, Abraham là tiên tri thứ nhất, Moses là tiên tri thứ hai, kế đến là nhiều tiên tri Do Thái khác rồi mới đến Jesus. Mahomét (Ma-hô-mét) là tiên tri cuối cùng và lớn hơn hết của Thiên Chúa (The last and greatest prophet of God). Người Hồi Giáo không coi Jesus hay Mahomét là Thiên Chúa Hiện Thân (God Incarnate) mà chỉ coi những vị này là những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Tuy nhiên họ tôn kính Mahomét là một vị đại thánh mà không một ai trên thế gian có thể sánh ngang với ngài về sự hiểu biết và quyền năng. Không một ai được Thiên Chúa mặc khải một cách hoàn hảo cho bằng Mahomét! (None is his equal either in knowledge or in authority. None has received or handed down so perfect a relevation).
Khác với Jesus, Mahomét không khoe khoang khoác lác mạo nhận là con Một (The Only Son Of God) hay con thứ củaThiên Chúa, không làm phép lạ để biểu diễn khả năng phù thủy bịp bợm, không lập ra các phép bí tích nhảm nhí và cũng không truyền chức cho ai độc quyền cai trị giáo hội và thế giới. Jesus dốt đặc cán mai nên không viết một chữ nào để lại cho hậu thế. Các lời Jesus nói đều do người khác gán cho. Mahomét là một thi sĩ đã viết kinh Coran trong 23 năm dưới dạng thi ca như David thuở xưa viết Psalm (Thánh Vịnh) ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng ông ta khôn khéo không nhận mình là tác giả mà chỉ nhận mình là anh thư ký ghi chép lại các lời của Thiên Chúa do thiên thần Gabriel (Ga-bơ-ri-en) đọc cho ông ta viết mà thôi.
Trong kinh Coran, có đoạn Mahomét viết về thiên thần Gabriel như sau: "Khi tôi đang trên đường lên núi thì bỗng nghe có tiếng nói từ trời xuống " Ôi Mahomet, con là vị tông đồ của Chúa, ta là Gabriel đây". Tôi ngẩng đầu lên để xem ai đang nói. Tôi thấy Gabriel là một người đàn ông với những bàn chân chắn ngang chân trời" (When I was midway on the mountain, I heard a voice from heaven saying : "Oh! Muhammad ! You are the Apostle of God and I am Gabriel". I raised my head toward heaven to see who was speaking and Gabriel in the form of a man with feet astride the horizon - A History of God p. 138) Trong niềm tin của đạo Hồi thì thiên thần Gabriel là Thánh Linh Thiên Chúa (The Spirit of God) mà Ki Tô Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần (The Holy Spirit). Đạo Hồi là Đạo Thiên Chúa đúng nghĩa vì họ tin Thiên Chúa là Đấng chỉ có Một Ngôi Duy Nhất (The God of Islam is Unity God). Trái lại Ki Tô Giáo là đa thần giáo trá hình vì Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là Thiên Chúa Ba Ngôi (The Christian God is Trinity God).
Về Abraham, trong Kinh Coran Mahomét viết như sau: "Thiên thần Gabriel nâng tôi lên cao trong không khí. Trước hết ngài đưa tôi đến viếng Jerusalem, sau đó ngài đưa tôi qua 6 tầng trời. Đến tầng trời thứ 7 tôi gặp Adam tổ phụ loài người, thánh Gioan Baotixita (giáo chủ Essenes kiêm thầy dạy giáo lý cho Jesus) Enoch, Aaron, Moises, Jesus và Abraham. Cuối cùng tôi được gặp Thiên Chúa (God / Allah) và nói chuyện trực tiếp với Ngài. Chúa phán "Ôi Mohamét! Ta đón tiếp con như một người bạn cũng như trước đây ta đã đón tiếp Abraham như một người bạn vậy. Ta nói chuyện với con mặt đối mặt cũng như trước đây ta nói chuyện mặt đối mặt với Moises vậy." (Oh Muhammad! I take you as a friend, just as I took Abraham as a friend. I am speaking to you, just as I spoke face to face with Moises).
Tiếng Ả Rập KORAN có nghĩa là sự kể chuyện (Recitation). Những người Hồi Giáo coi kinh KORAN là những lời cuối cùng của Thiên Chúa dành cho loài người (Koran is the final words of God to mankind), là cuốn sách MẸ của mọi cuốn sách (The Mother of Books). Cũng như các đạo thờ Chúa khác, người Hồi Giáo tin Kinh Thánh của họ là chân lý tuyệt đối. Các kinh thánh ngoài đạo của họ đều là đồ giả mạo cần phải hủy diệt bằng bạo lực. Cũng như các tòa án dị giáo của Công Giáo La Mã chủ trương giết hết, đốt hết, phá hết tất cả những gì khác với giáo lý Công Giáo vậy.
Độc Thần Giáo, tức các đạo thờ Chúa (Monotheist religions /Abrahamic religions) bành trướng thế lực tôn giáo bằng chiến tranh máu lửa. Số tín đồ tăng lên theo nhịp độ phát triển của các chủ nghĩa đế quốc và thực dân cũ mới. Trải qua nhiều thế kỷ, ngày nay tổng số tín đồ của Độc Thần Giáo đã lên tới 3 tỷ 200 triệu trên tổng dân số nhân loại là 5 tỷ 804 triệu (The World Almanach and Books of Facts 1998). Hai tôn giáo lớn nhất của hệ thống Độc Thần Giáo hiện nay là Công Giáo La Mã với gần 1 tỷ tín đồ, kế đến là giáo phái Hồi Giáo Sunny với 936 triệu tín đồ. Các con số tín đồ đông đảo không nói lên giá trị của các tôn giáo này vì họ là những khối người khổng lồ luôn luôn dốc phần lớn sinh lực của họ để tìm cách tiêu diệt lẫn nhau và phá hoại hòa bình thế giới. Năm 383, triều đại con cháu của Constantine đã đổi tên Kitô Giáo thành Công Giáo (Cattolica) có nghĩa là tôn giáo toàn cầu (universal church). Danh từ "Công Giáo" nói lên ý đồ nham hiểm thâm độc của Đế quốc La Mã nhắm tới sự nô lệ hóa toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo. Vì vậy nếu hiểu Công Giáo chỉ đơn giản là quốc giáo "state religion" hoặc đạo công cộng "public religion" là chưa đánh giá đúng mức tim đen của đế quốc. Những danh từ phiên âm như đạo Gia tô hay đạo Ca Tô Rô Ma đều làm chúng ta quên đi ý đồ nham hiểm của đạo Công Giáo Vatican.
Với thời gian, do sự mâu thuẫn trong việc giải thích Kinh Thánh và tranh chấp quyền lợi vật chất giữa các giới lãnh đạo chóp bu, đạo Công Giáo đã bị phân hóa thành nhiều ngành (lines) :
1. Công Giáo La Mã còn được gọi là Giáo hội Tây Phương (Roman Catholics / Western Church) hiện có 981 triệu tín đồ (the main line of Christianity)
2. Công Giáo Đông Phương (Eastern Church) là Chính Thống Giáo (Greek Catholics or Orthodox) chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã vào năm 876. Số tín đồ hiện nay khoảng 218 triệu, đa số tại nước Nga, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Âu (Bulgary, Serbia, Armenia)
3. Công Giáo Anh còn được gọi là Anh Giáo (British Catholics or Anglicanism) có khoảng 69 triệu tín đồ tại Anh, Úc, Tân Tây Lan, Canada và Mỹ. Chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã năm 1539.
4. Các giáo phái Tin Lành : Danh xưng chính thức của Tín Đồ Tin Lành là "Những Kẻ Chống Công Giáo La Mã" (Protestants). Đạo Tin Lành là "Đạo Chống Công Giáo La Mã" (Protestantism). Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới chẳng giống ai gọi họ là Tin Lành (Good News), nhưng thực tế chẳng có gì lành. Khoảng đầu thế kỷ 20, nhiều người Công Giáo Việt Nam gọi họ là những kẻ theo "Đạo Thệ Phản". Sau này không thấy ai xử dụng danh từ "Đạo Thệ Phản" nữa, có lẽ vì danh từ này mang tính kỳ thị tôn giáo ( ? + ! . . . ).
Công Giáo La Mã, Chính Thống Giáo và Anh Giáo có thể được gọi chung là Công Giáo (Catholicism) vì các lý do sau đây:
1. Giáo lý của 3 tôn giáo này rất tương đồng
2. Cả 3 tôn giáo đều thờ ảnh tượng Chúa và các thánh. Bước chân vào giáo đường của 3 tôn giáo này ta rất khó phân biệt. Khác hẳn với các giáo phái "Tin Lành" tuyệt đối không thờ ảnh tượng. Họ chỉ xử dụng cây thánh giá trơn (không có tượng Chúa) làm biểu tượng mà thôi.
3. Cả 3 đạo Công Giáo này đều thờ Bà Maria và tin bà còn đồng trinh (virgin) sau khi sinh Chúa Jesus. Người theo đạo Tinh Lành tin Chúa Jesus là Thiên Chúa hóa thân nhưng không tin bà Maria đồng trinh vì ngoài Chúa ra, bà Maria còn sinh 3 trai và 3 gái với ông Joseph. Người Hồi Giáo cũng tin bà Maria đồng trinh nhưng phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Jesus, họ chỉ coi Jesus là tiên tri đứng sau tiên tri Mahomét.
4. Ba đạo Công Giáo nói trên đều có giáo đô riêng. Công Giáo La Mã có giáo đô tại Vatican (một lãnh địa tự trị tách ra khỏi thủ đô La Mã của nước Ý). Giáo đô của Chính Thống Giáo đặt tại Constantinophe (nay là Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ). Giáo đô Anh Giáo đặt tại Canterburry Anh quốc. Các giáo phái Tin Lành không có giáo đô.
5. Các đạo Công Giáo có hàng giáo phẩm được truyền chức để làm lễ (mass) biến bánh và rượu thành máu và thịt của Chúa Jesus. Hàng giáo phẩm Công Giáo La Mã và Công Giáo Hy Lạp (Chính Thống Giáo) đều là nam giới. Riêng Công Giáo Anh có nữ linh mục, cũng làm lễ như nam linh mục và có chồng con. Con số nữ linh mục Anh Giáo tại Anh, Úc, Canada và Mỹ hiện nay lên tới khoảng 2000 người.
Tất cả các người theo đạo Kitô (Christians) không thuộc 3 giáo hội Công Giáo nói trên đều được gọi chung là Tin Lành (protestants). Số tín đồ Tin Lành hiện nay lên tới 686 triệu. Các mục sư không làm lễ, chỉ giảng thánh kinh mà thôi.
Trong những thế kỷ trước, người Việt Nam gọi đạo Công Giáo La Mã là Đạo Da-Tô hay Gia Tô. Da-Tô là tiếng chữ Hán phiên âm chữ Jesus. Đạo Da-Tô có nghĩa là đạo thờ Jesus. Trong Kinh Cảm Tạ Cầu Hồn viết bằng Hán tự mà các giáo dân Bùi Chu Phát Diệm và Thái Bình ngày nay vẫn còn đọc trong các đám giỗ, có câu: "Thần Chúa Da-Tô thục tội thi ân chỉ đại" nghĩa là "Lạy Chúa Jê-Su chuộc tội và ban ơn rất lớn".
III. ĐẠO HỒI
Đạo Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống Nhất Thần Giáo. Thiên Chúa của đạo Hồi là Thiên Chúa của đạo Do Thái và đạo Kitô. Người Hồi Giáo cũng giống như Do Thái Giáo, phủ nhận ngôi thứ hai tức Jesus và ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần của đạo Kitô nên Thiên Chúa của Hồi Giáo và Do Thái Giáo là Thiên Chúa Duy Nhất (Unity God). Đạo Hồi chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo lý của đạo Do Thái và đạo Kitô, do Mohammed sáng lập vào thế kỷ thứ 7. Đạo Hồi được truyền bá và phát triển phần lớn dựa vào bạo lực và chiến tranh. Đạo Công Giáo La Mã là một đế quốc tinh thần, luôn luôn bước song hành với các chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đạo Hồi và Công Giáo La Mã là hai kẻ thù lớn nhất của hòa bình thế giới. Cả hai đạo này đều là con đẻ của Do Thái nhưng đều đã quay ngược lại tiêu diệt Do Thái đến gần tuyệt chủng. Hai đạo này được ví như hai cái boomeranges của Do Thái vậy!
Số tín đồ đạo Hồi hiện nay là 1 tỷ 128 triệu, đứng thứ nhì sau đạo Kitô (1 tỷ 955 triệu). Công Giáo La Mã là giáo phái có đông tín đồ nhất của đạo Kitô, Nó là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc La Mã và cả chủ nghĩa thực dân cũ mới của Âu Châu. Ngày nay, các chủ nghĩa đế quốc và thực dân đã suy tàn, đạo Công Giáo tất nhiên phải gánh chịu những hệ lụy của các chủ nghĩa thực dân đế quốc mà suy tàn theo. Đó là một thực tế của tiến trình tiến hóa tất yếu của lịch sử.
Nói tóm lại, Thiên Chúa Giáo là một hệ thống gồm 3 tôn giáo chính yếu: Do Thái Giáo, Kitô Giáo* và Hồi Giáo. Cả 3 tôn giáo này đều bắt nguồn từ đạo Do Thái Nguyên Thủy (Pre-Mosaic Judaism) của các tổ phụ lập quốc Do thái là Abraham, Isaac và Jacob. Đạo Do Thái Nguyên Thủy thờ Thiên Chúa mang tên Elohim với hình tượng của ngài là con bò vàng. Đạo thờ bò đã tồn tại trong hơn 8 thế kỷ đầu của lịch sử nước Do Thái. Các đạo thờ Thiên Chúa hiện nay chỉ là hậu thân cỉa đạo Do Thái Nguyên Thủy. Nói dúng hơn, những đạo này chỉ là những biến dạng khác nhau của đạo thờ bò.
Vườn Treo Babylone: Vườn treo Babylon (cũng được gọi là Vườn treo Semiramis) và những bức tường của Babylon (Iraq hiện nay) từng được coi là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Chúng được cho là do vua Nebuchadnezzar II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN.
Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylonia về sự tồn tại của những chiếc vườn như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đã nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đã tồn tại ở Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đã được tìm ra. Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ gì đó tương tự như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết.
Toàn bộ hệ thống kiến trúc xung quanh Vườn Treo.
Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như trường hợp một sân thượng hay một ban công. Gọi là Vườn Treo vì vườn ở trên cao gồm 4 tầng xây dựng bằng đá thành một tháp hơi giống loại Zicgurát là tháp giật cấp rất phổ biến trong kiến trúc Lưỡng Hà. Tầng dưới cùng của vườn là một hình vuông kích thước 246m x 246m - nằm trên một hệ thống cột 25 x 25 chiếc. Tầng thứ hai là một hình vuông 21 x 21 cột, tầng ba 17 x 17 cột tầng trên cùng 13 x 13 cột với kích thước 123m x 123m. Trên mỗi bậc giật cấp là một vườn phẳng được xây dựng bằng các khối đá dài 5m rộng 1,2m đặt trên các tường dày. Trên các tấm đá này phủ một lớp lau sậy trộn nhựa đường, lớp đá lát hai lớp gạch nung, trên lớp này là một tấm chì để nước khỏi thấm xuống tầng dưới.
Nhà địa lý Hy Lạp Strabo, người đã miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đã viết: “Nó gồm những ban công xây hình vòm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột hình khối. (Nó) Có những chỗ lõm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”

Toàn bộ hệ thống kiến trúc xung quanh Vườn Treo.
Trên cùng là một lớp đất màu dày để trồng được cả những cây lớn. Việc tưới nước chăm sóc vườn cây này làm một vấn đề lớn mà ở đây đã giải quyết khá tốt. Theo các nhà khảo cổ thì nước đã được đưa từ sông lên bằng một hệ thống gầu xếp thành chuỗi quay liên tục lấy từ ba cái giếng, do một đội quân đông đảo hàng ngày làm việc tưới nước chăm sóc cây cối, hoa quả giữ cho Vườn Treo luôn xanh tốt. Ngày nay, Vườn Treo chỉ còn là một phế tích với những tường đá đổ nát, hàng năm đón du khách đến chiêm ngưỡng những phần còn lại của nền móng tầng cuối cùng của Vườn Treo, chiêm ngưỡng đống đá của tường đổ để hình dung ra ngôi vườn kỳ diệu với bà Hoàng hậu xinh đẹp của xứ sở nghìn lẻ một đêm cách đây gần 3000 năm.
Vua Hammourabi.
Các sử gia ngày xưa đã liệt Vườn Treo này là một trong 7 kỳ quan của Thế giới Cổ đại. Có nhiều giả thuyết về xuất xứ của Vườn Treo, nhưng có thể qui vào hai hướng: Hoàng hậu Xêmiramix là tác giả vủa tác phẩm này hay là ngôi vườn này được nhà Vua Nebuchadnezzar xây dựng để tặng Hoàng hậu Amyitis.
2500 năm trước Công nguyên ở vùng Lưỡng Hà, tức lưu vực hai con sông Tigre va Euphrate (thuộc nước Iraq ngày nay) xuất hiện thành Babylone. Vào khoảng thế kỷ XVIII trước Công nguyên, dưới triều đại Vua Hammourabi (1793-1750 trước Công nguyên), Babylone trở thành một địa danh nổi tiếng phồn vinh, sấm uất. Trong những triều đại tiếp theo, Babylone dần dần suy tàn. Mãi đến thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, dưới triều đại vua Nebuchadnezzar (604 - 561 trước Công nguyên), Babylone mới lại được hồi sinh và trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa, nghệ thuật phồn thịnh nhất thời Cổ đại. Nơi đây là điểm quy tụ của mọi con đường giao lưu buôn bán thuận lợi trên cả khu vực Trung Cận Đông rộng lớn. Sau khi xây dựng xong cung điện chính của mình, Nebuchadnezzar xây dựng Vườn Treo nổi tiếng ở phía Bắc Babylone.
Tương truyền rằng: Theo những miêu tả, các vườn treo được xây dựng nên để cho người vợ của Nebuchadnezzar là Amyitis khuây nỗi nhớ quê hương. Amyitis là con gái vua Uvaxshtra của Đế quốc Mada, đã cưới Nebuchadnezzar để tạo nên một liên minh giữa hai nước. Quê hương bà là một vùng đất xanh tươi với những núi non hùng vĩ, và bà coi vùng đất Lưỡng Hà (một vùng ở phía Tây Nam Châu Á) bằng phẳng bị mặt trời thiêu đốt là buồn chán. Nhà vua quyết định tái tạo lại quê hương hoàng hậu bằng cách xây nên một vùng núi non nhân tạo bằng những vườn treo trên mái nhà.
Giả thuyết thứ hai là khoảng 1000 năm sau triều đại Hammourabi, Hoàng hậu Xêmiramix chủ trương xây dựng Babylone thật lộng lẫy, nên đã mở rộng thành cũ, xây dựng cầu lớn qua sông Euphrate để nối liền hai khu vực thành phố qua lại trên sông. Trong công cuộc kiến thiết mở rộng Babylone, Xêmiranix đã xây dựng Vườn Treo nổi tiếng.

Những cuộc khai quật gần đây tại thành phố Babylon cổ ở Iraq đã phát hiện ra móng của cung điện. Những thứ khác gồm Toà nhà hình vòm với những bức tường dày và một giếng nước tưới gần cung điện phía nam. Một nhóm các nhà khảo cổ đã khảo sát khu vực đó của cung điện phía nam và tái hiện lại Toà nhà hình vòm như là những Vườn treo. Tuy nhiên, nhà sử học Hy Lạp Strabo đã nói rõ rằng vườn nằm gần sông Euphrates. Vì thế những người khác cho rằng vị trí này quá xa Euphrates để ủng hộ giả thuyết đó vì Toà nhà hình vòm cách xa đó tới vài trăm mét. Họ tái hiện lại của cung điện và vị trí Vườn treo nằm trải dài từ sông tới Cung điện. Trên hai bờ sông, gần đây người ta đã tìm thấy nhiều bức tường dày 25m có thể từng là những bậc để tạo nên các sân thượng, v.v... những bức tường như được miêu tả trong các văn bản Hy Lạp.
'M.Larrinaga's' Hanging Gardens of Babylon
Dù Vườn Treo Babylone có gắn với Xêmiramix hay Amyitis thì kiệt tác này cũng xuất phát từ một người phụ nữ. Đứng trên Vườn Treo, người ta có thể nhìn bao quát cả thành Babylone vì nó cao ngót 100 mét. Vườn Treo là một khoảng xanh tươi mát, là niềm hy vọng và điểm định hướng cho những đoàn lạc đà lữ hành trên sa mạc xa xôi nóng bỏng.
Iraq: Vườn treo Babylon đang bị xâm hại nghiêm trọng

Không chỉ các nhà khảo cổ học mà nhân loại tiến bộ trên thế giới đều hết sức lo lắng và bất bình trước thông tin báo chí đã nêu gần đây: Vườn treo Babylon ở Iraq, một trong 7 kỳ quan thế giới đã tồn tại hơn 5.000 năm nay có nguy cơ bị biến mất. Đúng vậy, vườn treo nổi tiếng này hiện đang dần trở thành đống hoang tàn vì sự tàn phá của những lính Mỹ tại Iraq.
Vườn treo Babylon, một kiệt tác tiêu biểu của nền văn minh Lưỡng Hà thời cổ đại và là một công trình kiến trúc tráng lệ độc nhất vô nhị. Vườn treo Babylon được xây dựng năm 3000 trước CN bên bờ nam sông Euphrates và cách thủ đô Baghdad, Iraq, 90km về phía Nam. Từ xa xưa, Babylon đã được mệnh danh là “Cửa Thần” rất linh thiêng. Trước khi cuộc chiến tranh Iraq nổ ra, mỗi năm có hàng chục vạn tín đồ, khách du lịch trên khắp thế giới đổ về đây cúng lễ cầu phúc và du lịch thưởng ngoạn kỳ quan tráng lệ bậc nhất thế giới.
Nhân loại có lẽ còn phải mất nhiều công sức giải mã mới có thể lý giải nổi câu hỏi, tại sao ở một vùng đất phần lớn là sa mạc, chỉ có dầu mỏ và ruồi vàng với những người nông dân lại có thể xây dựng được công trình kiến trúc tráng lệ và bền chắc tồn tại cùng thời gian suốt 5.000 năm qua? Babylon từng là thủ đô của Vương quốc Babylon cổ đại và là trung tâm thương mại sầm uất nhất vùng Tây Á, nơi “con đường tơ lụa” đi qua.
Tổng thể khu vườn treo Babylon là những tường thành hùng vĩ, cung điện nguy nga tráng lệ, đường sá, cầu cống... phản ánh trình độ thẩm mỹ, óc sáng tạo, đặc biệt kỹ thuật tính toán xây dựng rất cao của những người nông dân Lưỡng Hà cổ đại. Chính vì vậy, vườn treo Babylon được công nhận là một trong 7 kỳ quan của thế giới và là niềm tự hào không chỉ của nhân dân Iraq mà còn của cả nhân loại.
Babylon hiện đang bị xâm hại
Theo báo cáo của Johan Curtis, chuyên gia hàng đầu của Viện Bảo tàng quốc gia Anh thì liên quân do Mỹ cầm đầu tại Iraq đã ngang nhiên phớt lờ dư luận, tự phá bỏ cam kết “Công ước quốc tế Hague” về thừa nhận và có trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ di sản văn hóa nhân loại, liên tục có hành động xâm hại nghiêm trọng vườn treo Babylon tại Iraq. Cuối tháng 12/2004, J.Curtis đã dẫn đầu đoàn chuyên gia khảo cổ quốc tế đến Iraq thị sát, điều tra trực tiếp sự tổn thất mà liên quân đã gây ra đối với khu vườn treo Babylon.
Đoàn kiểm tra hết sức bất ngờ về những gì được chứng kiến. J.Curtis cho biết, cảnh quan môi trường khu vực đã bị xâm hại rất nghiêm trọng. Sự thực còn tồi tệ hơn những gì mà báo chí đã nêu.
Ngay từ khi bắt đầu cuộc chiến tấn công Iraq lần thứ hai vào tháng 4/2003, quân Mỹ đã lựa chọn khu vườn treo Babylon làm nơi đóng quân. Người dân Iraq bị cấm không được ra vào Babylon, họ chỉ còn biết đứng nhìn các tòa nhà cổ kính bị quân đội Mỹ biến thành lô cốt, boongke quân sự. Hiện nay, nhiều vật thể kiến trúc của vườn treo Babylon đã bị đổ nát, nứt vỡ, rêu phong và rất bẩn thỉu.
Mái thượng đền thờ Ninma nổi tiếng đã bị đổ sụp, nhiều bức tượng bị lỗ chỗ vết đạn, xe tăng Mỹ chà nát những viên gạch ngói có niên đại 2.600 tuổi còn in dấu ấn kiếm của các vương triều cổ đại. Khu sân khấu nhà hát ngoài trời Babylon vốn trang nghiêm hoành tráng nay trông loang lổ, hoen ố bởi vô vàn vết dầu mỡ từ các xe cơ giới quân sự Mỹ thải bừa ra.
Lính Mỹ còn tùy tiện đào công sự khắp mọi chỗ trong khu di tích, đất đá đào lên được nhồi vào bao tải chắn đạn, dựng la liệt trùm khắp xung quanh các tòa nhà cổ kính. Điều nghiêm trọng hơn là nhiều báu vật độc nhất vô nhị của khu vườn treo Babylon đã bị đánh cắp một cách bí mật. Nhiều vật khác thì bị lính Mỹ đập phá, làm mục tiêu ngắm bắn như trò tiêu khiển của họ.
Trước tình trạng đó, giới khảo cổ, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân Iraq đã lên tiếng phản đối, lên án hành động tàn phá kỳ quan thế giới vườn treo Babylon của lính Mỹ tại Iraq. Giới khảo cổ quốc tế cảnh báo, quân đội Mỹ không nên coi Công ước gìn giữ bảo vệ di tích lịch sử thế giới như một trò đùa. Việc quân Mỹ đồn trú ở khu vườn treo Babylon là một hành động tàn phá nghiêm trọng nền văn minh cổ đại của nhân loại.
Hành động này là không thể biện bạch và cần ngăn chặn vì rất có thể rồi đây, lính Mỹ còn biến Kim tự tháp Ai Cập thành “doanh trại” của mình. Mặc dù vậy, người Mỹ vẫn để ngoài tai những lời cảnh báo này, và theo chuyên gia J. Curtis thì quân Mỹ đang cố tình biến vườn treo Babylon thành một “căn cứ quân sự” vững chắc của họ ở Tây Á.http://www.ad2in1.com/Images/Various%20pics/babylon%20gardenB.jpg

No comments:

Post a Comment